Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số tỉnh lào cai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.88 KB, 105 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác cán bộ là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động của Đảng, là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Vị trí của cơng tác cán bộ gắn liền với vai
trị đội ngũ cán bộ. Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định
sự thành công hay thất bại của cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ: "Trong lịch sử,
chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào
tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu
tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [32, tr.473]. Chủ
tịch Hồ Chí Minh coi "Cán bộ là gốc của mọi công việc" [34, tr.269], "công
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" [34, tr.273].
Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất,
có năng lực đáp ứng được sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng. Mức chính xác
của đường lối, chính sách và thành cơng của việc thực hiện đường lối, chính
sách ấy đều tùy thuộc cuối cùng ở chất lượng của công tác cán bộ. Vì thế,
cơng tác cán bộ bao giờ cũng giữ vị trí trung tâm, chiến lược trong q trình
xây dựng và phát triển của Đảng. Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố; đổi mới tư duy, cách làm,
khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ” [27, tr.261].
Đổi mới công tác cán bộ là một vấn đề mang tính cấp thiết, bởi cách mạng
nước ta đã chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, trong bối cảnh tình hình
thế giới có nhiều biến động, đất nước vừa có thời cơ, vừa có thách thức. Do vậy,
để đáp ứng nghiệm vụ trong giai đoạn mới, công tác cán bộ cần đổi mới để tạo
ra một đội ngũ cán bộ có đủ điều kiện thực hiện tốt những yêu cầu mới đặt ra.
Đối với Lào Cai, là một tỉnh vùng cao, biên giới, có trên 64% dân số là
người dân tộc thiểu số với 25 thành phần dân tộc khác nhau. Trong những


2


năm qua, nhất là sau hơn 22 năm tái lập tỉnh (01/10/1991 - 01/10/2013), tình
hình kinh tế - xã hội của tỉnh có nhiều chuyển biến và đạt được nhiều thành
tựu quan trọng: GDP bình quân năm tăng trên 13%; đời sống của nhân dân
các dân tộc được cải thiện; quốc phòng, an ninh được giữ vững; quan hệ đối
ngoại được mở rộng… Đạt được kết quả đó, có đóng góp quan trọng của đội
ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số.
Thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30-11-2004 của Bộ Chính
trị và hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, Tỉnh ủy Lào Cai đã ban hành
đề án phát triển nguồn nhân lực, trong đó có chuyên đề về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ người dân tộc thiểu số. Trên cơ sở đó, những năm qua đội ngũ cán bộ
nói chung và cán bộ xã người dân tộc thiểu số của tỉnh Lào Cai nói riêng có
bước trưởng thành, hầu hết đều nhiệt tình, chịu khó học tập nâng cao trình độ
chun mơn, nghiệp vụ, năng lực quản lý, điều hành, có phẩm chất đạo đức
tốt, phấn đấu, phát huy tốt chức trách, nhiệm vụ của mình. Cơng tác xây dựng
đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ xã người dân tộc thiểu số đạt được thành
tựu quan trọng, góp phần vào cơng tác xây dựng đảng, bộ máy chính quyền,
các đồn thể quần chúng và phát triển kinh tế -xã hội, an ninh - quốc phòng
của các xã trong tồn tỉnh. Tuy nhiên, cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ xã
người dân tộc thiểu số còn nhiều bất cập, trình độ chun mơn, nghiệp vụ,
năng lực cơng tác cịn hạn chế, cơng tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cịn
gặp nhiều khó khăn.
Xuất phát từ tình hình trên, tác giả chọn đề tài “Xây dựng đội ngũ cán
bộ xã người dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai hiện nay” làm đề tài Luận văn
Thạc sĩ Chính trị học, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ xã nói riêng là vấn đề quan
trọng và có tính thời sự, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, đã có nhiều
nhà khoa học, nhà quản lý và nhiều cơ quan ban, ngành quan tâm nghiên cứu



3
và tổng kết thực tiễn. Đến nay đã có nhiều đề tài, nhiều cơng trình nghiên cứu,
bài viết có liên quan đến vấn đề này, trong đó có các cơng trình, bài viết tiêu
biểu như:
* Đề tài khoa học:
- Học viện Nguyễn Quốc (1992), Mẫu hình và con đường hình
thành người cán bộ lãnh đạo chính trị chủ chốt cấp cơ sở.
- TS Nguyễn Văn Tích (1993) (Chủ nhiệm), nhánh đề tài khoa học cấp
Nhà nước, mã số KT-XH 05-11-06, Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở xã, phường, thị trấn.
- TS Nguyễn Văn Sáu (1999) (Chủ nhiệm), Đề tài Khoa học cấp bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Về những yêu cầu của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp huyện ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
* Luận án, luận văn:
Đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về chủ đề
này, như:
- Hồ Bá Thâm (1994), Luận án Tiến sĩ Triết học, Nâng cao năng lực tư
duy của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay.
- Nguyễn Mậu Dựng (1996), Luận án Tiến sĩ, Xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay.
- Phạm Công Khâm (2000), Luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử, Xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng đồng bằng sơng Cửu Long hiện
nay
- Nguyễn Văn Phích (2000), Luận văn Thạc sĩ, Xây dựng đội ngũ bí thư
đảng uỷ xã ở Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay.
- Trần Trung Trực (2005), Luận văn Thạc sĩ, Xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay.
- PhanThị Thúy Vân (2005), Luận văn Thạc sĩ, Xây dựng đội ngũ cán



4
bộ chủ chốt cấp phường ở thành phố Cần Thơ hiện nay.
- Hà Thị Bích Thủy (2006), Luận văn Thạc sĩ, Xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp phường, quận Thanh Xuân, thành phố
HàNội giai đoạn hiện nay.
* Sách chuyên khảo:
- PGS,TS Nguyễn Phú Trọng và PGS,TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ
biên) (2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội.
PGS, TS Trần Xuân Sầm (chủ biên) (1998), Xác định cơ cấu và tiêu
chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới, Nxb
CTQG, Hà Nội.
Các cơng trình này đã đi sâu phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
về mẫu hình người cán bộ lãnh đạo, những yêu cầu mới và những giải pháp
mang tính tổng quát nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong
đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước.
* Bài viết trên các báo và tạp chí:
- Lê Đức Bình, Vấn đề cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn, Báo Nhân
Dân, số tháng 7-2002, tr.3.
Trong bài báo, tác giả khẳng định cán bộ cơ sở là hạt nhân, là lực lượng
nòng cốt của hệ thống chính trị ở cơ sở. Tuy nhiên, do nhận thức chưa đầy đủ
vị trí, vai trị của cán bộ cơ sở, nên công tác xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở
còn nhiều bất cập; các cấp ủy đảng, chính quyền chưa quan tâm đúng mức
đến cơng tác cán bộ ở cơ sở; chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở chưa
thoả đáng. Từ đó, có một thực tế đáng chú ý: người có trình độ, năng lực
khơng chịu ở lại và về cơng tác ở cơ sở. Nguồn cán bộ cơ sở mỏng, hụt hẫng,
trong khi đúng ra cơ sở phải là nơi tạo nguồn, nơi rèn luyện cán bộ cho cấp
trên. Tác giả nêu lên một số yêu cầu đổi mới về quy hoạch, kế hoạch công tác



5
cán bộ; cải tiến chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở; sắp xếp lại, kiện toàn
hệ thống trường lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở. Ngồi ra, tác giả cịn
phân tích một số ngun nhân dẫn đến những yếu kém ở cơ sở như vấn đề
mất đoàn kết nội bộ do chủ nghĩa cá nhân, do mâu thuẫn giữa các thế hệ cán
bộ. Từ đó tác giả cho rằng, cần giáo dục cán bộ về đạo đức cách mạng, về
phong cách lãnh đạo, kiến thức, năng lực thực tiễn; cán bộ phải biết gắn bó
với nhân dân, đặc biệt là cán bộ cơ sở, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
giai đoạn mới.
- Phan Diễn, Một số vấn đề quan trọng về công tác tổ chức và cán bộ
của Đảng hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 31-2002, tr.3-9.
Tác giả tổng kết những đánh giá của Trung ương về việc thực hiện
các nghị quyết Trung ương khố VII, khóa VIII và Kết luận của Hội nghị
Trung ương 6 khố IX về cơng tác tổ chức - cán bộ. Tác giả đề nghị các cấp,
các ngành tiếp tục quán triệt sâu sắc, cụ thể hoá và thực hiện có hiệu quả các
nghị quyết trong thời gian tới. Mặt khác, tác giả nêu phân tích khá chi tiết
những mặt làm được và những mặt yếu kém, hạn chế của các nội dung công
tác tổ chức; công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý; công tác luân
chuyển cán bộ; vấn đề xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Từ đó, đưa ra một số giải
pháp nhằm thực hiện tốt hơn công tác tổ chức cán bộ trong thời gian tới.
- Hoài Nhân, Nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở: những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 12-2002, tr.39,52.
Tác giả nêu lên số liệu thống kê của tỉnh Bình Dương về trình độ mọi
mặt của đội ngũ cán bộ cơ sở, chỉ ra những bất cập cần khắc phục và những
trăn trở, băn khoăn của đội ngũ cán bộ cơ sở trước những thực trạng đáng báo
động về tình hình hoạt động và chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở. Từ đó, tác giả
đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở như: chính sách ưu
đãi thu hút nhân tài, kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng, các hình thức đào tạo, cải
tạo tổ chức Đoàn thanh niên để tạo nguồn cán bộ trẻ nhằm xây dựng hệ thống



6
chính trị ngày càng vững mạnh.
- Hà Đăng, Xử lý đúng các mối quan hệ trong công tác cán bộ, Tạp chí
Cộng sản, số 3-2002, tr.21-24.
Đây là tham luận tại Hội thảo khoa học "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp tỉnh, huyện" do Tạp chí Cộng sản phối hợp với Tỉnh ủy Hải
Dương tổ chức tháng 01-2002.
Tác giả nêu lên một số mối quan hệ và sự cần thiết phải xử lý đúng các
mối quan hệ đó trong cơng tác cán bộ: giữa đức và tài, giữa tiêu chuẩn và cơ cấu,
giữa năng lực thực tế và bằng cấp. Tác giả kết luận: xử lý đúng các mối quan hệ
ấy thì cơng tác cán bộ mới trơi chảy. Đó khơng chỉ là chuyện của Trung ương,
mà cũng là chuyện của tỉnh, chuyện của công tác cán bộ nói chung.
- Lê Đức Bình, Vài suy nghĩ về dân chủ hóa cơng tác cán bộ, Báo Nhân
Dân, số ngày 02-9-2002, tr.3.
Trong bài báo, tác giả trình bày vai trị của việc mở rộng dân chủ nhằm
phát huy trí tuệ của tập thể trong công tác cán bộ, khắc phục tình trạng bố trí
cán bộ theo cơ cấu, áp đặt chủ quan.
- Hồng Chí Bảo, Quan điểm và giải pháp để củng cố và tăng cường
hệ thống chính trị ở cơ sở, Tạp chí Dân vận, số 1+2-2002, tr.16-18.
Tác giả trình bày hai phần lớn: quan điểm chỉ đạo nhằm củng cố, tăng
cường hệ thống chính trị ở cơ sở; những giải pháp cấp bách tập trung chủ yếu
vào lĩnh vực chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn). Tác giả coi đây là lĩnh
vực có nhiều tình huống phức tạp hơn cả và là khâu đột phá.
- Phan Quốc Hưng, Đảng bộ Bạc Liêu với công tác tổ chức - cán bộ,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 09-2002, tr.9-10, 26.
Đây là bài viết về công tác tổ chức - cán bộ của tỉnh Bạc Liêu, đánh giá
những thuận lợi, khó khăn cũng như những mặt làm được và chưa được của
công tác cán bộ ở tỉnh. Tác giả nhấn mạnh những trọng tâm công tác cán bộ

mà Tỉnh uỷ đã tiến hành trong thời gian trước đó làm tiền đề cho việc thực
hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ tỉnh, các nghị quyết của
Trung ương về cơng tác tổ chức - cán bộ, góp phần xây dựng Đảng bộ Bạc


7
Liêu ngày càng vững mạnh.
Tóm lại, đã có nhiều cơng trình, bài viết nêu trên đều đề cập đến nội
dung xây dựng đội ngũ cán bộ trên nhiều khía cạnh, tuy nhiên chưa có cơng
trình, bài viết nào đề cấp một cách cụ thể, có hệ thống đến vấn đề xây dựng
đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận, thực trạng về xây dựng đội
ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai, qua đó luận văn đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ xã người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ xã người dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ xã người
dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai; làm rõ những ưu điểm, thành tựu và những hạn
chế; chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng và rút ra kinh nghiệm.
- Phân tích những yếu tố tác động, mục tiêu, phương hướng và đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ xã người dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu xây dựng đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu
số tỉnh Lào Cai hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu xây dựng đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu
số tỉnh Lào Cai, bao gồm các chức danh: Bí thư, phó bí thư; chủ tịch, phó chủ
tịch UBND; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND; bí thư đồn thanh niên; hội trưởng
phụ nữ; chủ tịch mặt trận; chủ tịch hội nông dân; chủ tịch hội cựu chiến binh. Thời


8
gian khảo sát đánh giá từ năm 2005 đến nay, phương hướng và giải pháp của luận
văn được áp dụng trong tình hình hiện nay và định hướng đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trường của Đảng và
Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, đồng thời từ
nghị quyết, quan điểm của Đảng bộ và thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ xã người dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai giai đoạn 2005 đến nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cở sở phương pháp luận biện chứng của
chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
Lơgic-lịch sử, phân tích, tổng hợp, điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh, tổng
kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Về lý luận: Cung cấp thêm các luận cứ khoa học nhằm nâng cao hiệu quả
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai.
- Về thực tiễn: Thông qua đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội ngũ cán
bộ xã người dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng ở

tỉnh Lào Cai trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã người dân tộc thiểu
số, đồng thời làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy ở Trường Chính
trị tỉnh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện ở tỉnh Lào Cai.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,


9
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


10
Chương 1
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ XÃ NGƯỜI DÂN TỘC
THIỂU SỐ TỈNH LÀO CAI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. KHÁI QUÁT CÁC XÃ VÀ VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM CÁN BỘ XÃ NGƯỜI
DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH LÀO CAI

1.1.1. Khái quát các xã và tình hình kinh tế-xã hội tỉnh Lào Cai
- Vị trí địa lý và lịch sử:
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới nằm phía Tây Bắc Việt Nam cách Hà
Nội 296 km theo đường sắt và 345 km theo đường bộ.
Tỉnh Lào Cai được tái lập tháng 10-1991 trên cơ sở tách ra từ tỉnh
Hoàng Liên Sơn. Từ ngày 01-01-2004 (sau khi tách huyện Than Uyên sang
tỉnh Lai Châu) diện tích tự nhiên: 6.383,88 km 2 (chiếm 2,44% diện tích cả
nước, là tỉnh có diện tích lớn thứ 19/64 tỉnh, thành phố cả nước). Phía Đơng
giáp tỉnh Hà Giang; phía Tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu; phía Nam giáp
tỉnh Yên Bái, phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với 203 km đường
biên giới.
Cách ngày nay hơn vạn năm, con người đã có mặt tại địa bàn Lào Cai.

Thời Hùng Vương dựng nước, vùng đất Lào Cai thuộc bộ Tân Hưng, là một
trong 15 bộ của Nhà nước Văn Lang - là một trung tâm kinh tế chính trị lớn ở
thượng nguồn sơng Hồng. Đến đời Đinh, Lý, Trần, Lê có biết bao biến động
về địa danh... Đến đời nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất của
châu Thuỷ Vỹ, châu Văn Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một phần
nhỏ thuộc châu Lục Yên thuộc phủ Quy Hoá. Đến thời điểm này địa danh Lào
Cai chưa được hình thành.
Vùng đất thị xã Lào Cai ngày nay xưa kia là một khu chợ, dần dần
người ta mở mang thêm một phố chợ. Vì thế phố chợ đầu tiên này theo tiếng
địa phương được gọi là Lão Nhai (tức Phố Cũ). Sau này người ta mở thêm


11
một phố chợ khác gọi là Tân Nhai (Phố Mới ngày nay). Theo cố giáo sư
Đào Duy Anh, từ Lão Nhai được biến âm thành Lao Cai và được gọi một
thời gian khá dài. Khi làm bản đồ, người Pháp viết Lao Cai thành Lào Kay.
Danh từ Lào Kay đã dược người Pháp sử dụng trong các văn bản và con
dấu. Nhưng trong giao tiếp và dân gian người ta vẫn gọi là Lao Cai. Sau
ngày tỉnh Lao Cai được giải phóng (tháng 11-1950), đã thống nhất gọi là
Lào Cai cho đến ngày nay.
Sau khi đánh chiếm Lào Cai (tháng 3 -1886) và khi hồn thành cơng
cuộc bình định qn sự, thực dân Pháp cai quản địa hạt Lào Cai theo chế độ
quân sự. Ngày 7-01-1899, đạo quan binh IV được thành lập bao gồm Tiểu
quân khu Yên Bái và Tiểu quân khu Lào Cai. Lào Cai là đạo lỵ, thủ phủ của
đạo quan binh IV. Để dễ bề kiểm sốt và tiến hành khai thác bóc lột, thực dân
Pháp đã chia lại khu vực hành chính và thay đổi chế độ cai trị. Ngày 12-71907, tồn quyền Đơng Dương ra nghị định bãi bỏ đạo quan binh IV Lào Cai,
chuyển từ chế độ quân quản sang chế độ cai trị dân sự, thành lập tỉnh Lào Cai.
Từ đây địa danh tỉnh Lào Cai được xác định trên bản đồ Việt Nam. Trải qua
những biến động thăng trầm của lịch sử, địa lý Lào Cai cũng có nhiều thay
đổi. Về địa đanh hành chính,qua nhiều lần tách nhập:

Ngày 12-7-1907, thành lập tỉnh dân sự Lào Cai, phần đất của châu
Thuỷ Vỹ bên hữu ngạn sông Hồng sáp nhập vào Chiêu Tấn, vẫn lấy tên là
châu Thuỷ Vỹ. Từ đó địa danh Chiêu Tấn khơng cịn. Phần đất của châu Thuỷ
Vỹ bên tả ngạn sông Hồng được tách ra lập thành châu Bảo Thắng. Tỉnh Lào
Cai gồm hai châu Thuỷ Vỹ, Bảo Thắng và các đại lý Mường Khương, Phong
Thổ, Bát Xát, Bắc Hà (Pa Kha) và thị xã Lào Cai, trong đó có 855 làng bản.
Sau khi Lào Cai được giải phóng lần thứ nhất, tỉnh được chia thành
8 huyện: Bắc Hà, Mường Khương, Bản Lầu, Bảo Thắng, Sa Pa, Bát Xát,
Phong Thổ và thị xã Lào Cai. Ngày 7-5-1955, khu tự trị Thái Mèo được thành
lập, huyện Phong Thổ của tỉnh Lào Cai chuyển sang khu tự trị Thái Mèo, sau


12
này thuộc tỉnh Lai Châu. Ngày 27-3-1975, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa V
đã nghị quyết hợp nhất ba tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh mới lấy
tên là Hoàng Liên Sơn. Ngày 17-4-1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định
hợp nhất thị xã Lào Cai và Cam Đường thành thị xã Lào Cai trực thuộc tỉnh
Hoàng Liên Sơn. Ngày 12-8-1991 kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII ra Nghị
quyết chia tỉnh Hồng Liên Sơn thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Ngày 0110-1991 tỉnh Lào Cai được tái lập, trên cơ sở vùng đất Lào Cai (cũ) và bổ
sung thêm ba huyện: Bảo Yên, Văn Bàn (thuộc Yên Bái cũ), Than Uyên
(thuộc Nghĩa Lộ cũ) bao gồm 8 huyện, hai thị xã. Ngày 9-6-1992, Hội đồng
Bộ trưởng quyết định tách thị xã Lào Cai thành hai thị xã Lào Cai và Cam
Đường. Ngày 30-12-2000, huyện Bắc Hà được tách thành hai huyện Si Ma
Cai và Bắc Hà. Ngày 31-01-2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định
sáp nhập thị xã Lào Cai và thị xã Cam Đường thành thị xã tỉnh lỵ Lào Cai.
Ngày 01-01-2004, huyện Than Uyên được tách ra thuộc tỉnh Lai Châu (mới).
Ngày 30-11-2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số
195/2004/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai.
Về đơn vị hành chính, tồn tỉnh có 01 đơn vị thành phố và 08 đơn vị
huyện trực thuộc tỉnh với 164 đơn vị cấp xã, trong đó có 12 phường, 09 thị

trấn và 143 xã (138 xã vùng sâu, vùng xa, biên giới). Tỉnh Lào Cai được chia
làm ba khu vực:
Khu vực I: Là các xã có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội thuận lợi,
chủ yếu là các xã ở vùng thấp, gần trung tâm huyện, thành phố, giao thông và
các dịch vụ xã hội phát triển.
Khu vực II: Là các xã có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khó khăn,
phần lớn các xã này nằm ở vùng sâu, vùng xa, giao thơng đi lại cịn tương đối
khó khăn; các dịch vụ xã hội cơ bản đã được đáp ứng tương đối tốt.
Khu vực III: Là Các xã có điệu kiện phát triển kính tế - xã hội đặc biệt
khó khăn, phần lớn các xã này nằm ở vùng sâu, vùng biên giới, xa các trung


13
tâm huyện, thành phố; địa hình bị chia cắt mạnh; giao thơng đi lại cịn rất
nhiều khó khăn; các dịch vụ xã hội cịn hạn chế.
- Tình hình kinh tế - xã hội:
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
Lào Cai, sự chỉ đạo, điều hành năng động, sáng tạo của chính quyền các cấp
cùng với sự đoàn kết thống nhất cao trong toàn Đảng bộ, sự đồng thuận và nỗ
lực phấn đấu của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, các chỉ tiêu Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, nhiệm lỳ 2006 - 2010 đề ra đều hoàn thành,
nhiều chỉ tiêu vượt mục tiêu đã đề ra ở mức cao. Kinh tế duy trì tốc độ tăng
trưởng cao với mức bình qn 5 năm đạt 13% và có bước phát triển vượt bậc
so với giai đoạn trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong GDP giảm dần từ 35,4% ở đầu nhiệm kỳ
xuống cịn 27,9% vào năm 2010; tỷ trọng cơng nghiệp - xây dựng tăng dần từ
26,5% lên 34,2%. Sản xuất lương thực liên tục được mùa. Tiềm năng, lợi thế
về cửa khẩu, công nghiệp, dịch vụ, du lịch được khai thác hiệu quả, đã và
đang tạo đà phát triển mạnh mẽ cho Lào Cai. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
được tăng cường đầu tư xây dựng, diện mạo đô thị, nông thôn và vùng cao

ngày càng đổi mới, đã góp phần tích cực thúc đẩy phát triển sản xuất, ổn định
đời sống của nhân dân các dân tộc trên địa bàn. Thu ngân sách nhà nước trên
địa bàn tăng mạnh với mức bình quân 5 năm tăng 20,5%.
Giáo dục - đào tạo có bước phát triển vượt bậc ở tất cả các cấp học và
ngành nghề đào tạo. Tồn tỉnh có 161 trường mẫu giáo, 229 trường tiểu học,
186 trường trung học cơ sở, 22 trường trung học phổ thông, 02 trường đào
tạo công nhân kỹ thuật, 01 trường trung học kinh tế kỹ thuật, 01 trường trung
cấp văn hoá, nghệ thuật và du lịch, 01 trường trung học y tế, 01 trường cao
đẳng sư phạm. Đội ngũ cán bộ, công chức được các cấp được quan tâm đào
tạo, bồi dưỡng. Bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc được giữ gìn, bảo
tồn và phát huy.


14
Cơng tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được đảm bảo. 100% số xã,
phường, thị trấn có trạm xá và cán bộ y tế; có 4 bệnh viện tuyến tỉnh, 8 bệnh
viện tuyến huyện và 36 phòng khám đa khoa khu vực với tổng số 2.180
giường điều trị.
Khoa học kỹ thuật từng bước gắn với sản xuất và đời sống. An sinh xã
hội được bảo đảm; cơng tác xóa đói, giảm nghèo thu được nhiều kết quả, tỷ lệ
hộ nghèo giảm nhanh, bình quân hằng năm giảm 5%; đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt.
Quốc phòng - an ninh được tăng cường và giữ vững, xây dựng khu vực
phòng thủ tỉnh, huyện vững mạnh, đã triển khai tốt và hoàn thành kế hoạch
phân giới cắm mốc làm tiền đề cho việc quản lý và bảo vệ chủ quyền biên
giới quốc gia. Phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội được chú trọng, trật tự
an toàn xã hội được bảo đảm, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội. Tinh thần cảnh giác đấu tranh làm thất bại chiến lược "diễn biến hịa
bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch luôn được đề cao. Quan hệ đối
ngoại, hợp tác giữa tỉnh Lào Cai với một số nước và tổ chức quốc tế, đặc biệt
là quan hệ với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) được đẩy mạnh trên nhiều lĩnh

vực và đi vào chiều sâu.
Cơng tác xây dựng Đảng có sự chuyển biến tích cực trên cả ba mặt:
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Phương pháp công tác và phương thức lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp uỷ được đổi mới. Năng lực chỉ đạo, điều hành và quản lý
của chính quyền các cấp có nhiều tiến bộ, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên.
Cải cách thủ tục hành chính bước đầu có chuyển biến tích cực. Hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể quần chúng tiếp túc được đổi mới
về nội dung và phương thức, bảo đảm thiết thực và hiệu quả hơn. Nội bộ cấp
uỷ đoàn kết, thống nhất, sự đồng thuận trong Đảng, trong nhân dân ngày càng
tăng. Sức mạnh khối đoàn kết các dân tộc trong tỉnh được phát huy, tạo thành
sức mạnh tổng hợp làm nên thành công của nhiệm kỳ 2005-2010.


15
- Dân cư, dân tộc:
Dân cư: Tổng dân số toàn tỉnh: 593.600 người (số liệu năm 2007),
trong đó: Số người trong độ tuổi lao động là 314.520 người, chiếm khoảng
53%; mật độ dân số bình qn: 93 người/km2.
Dân tộc: Có 25 nhóm ngành dân tộc cùng chung sống hồ thuận, trong
đó dân tộc thiểu số chiếm 64,09% dân số tồn tỉnh. Dân tộc Kinh chiếm
35,9%, dân tộc Hmông chiếm 22,21%, tiếp đến là dân tộc Tày 15,84%, Dao
14,05%, Giáy 4,7%, Nùng 4,4%, còn lại là các dân tộc đặc biệt ít người Phù
Lá, Sán Chay, Hà Nhì, La Chí,...
1.1.2. Vai trò, đặc điểm cán bộ xã người dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai
1.1.2.1. Vai trò cán bộ xã người dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai
Đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số là lực lượng giữ vai trò nòng cốt
trong lãnh đạo, điều hành hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã; vừa thể
hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, đảm bảo thực hiện quyền lực nhà nước vừa
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Đội ngũ này là biểu hiện sinh
động và cụ thể nhất cho cơ chế hoạt động, vận hành của hệ thống chính trị cấp

xã. Do vậy, đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số có vai trị rất quan trọng.
Vai trị quan trọng của đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số trước hết
là xuất phát từ vị trí và vai trị của cán bộ. Cán bộ, theo nghĩa cơ bản nhất là
người lãnh đạo, dẫn dắt quần chúng, tổ chức điều hành công việc, là hạt nhân
của một tổ chức, là nịng cốt của một phong trào. Vì thế, ở bất kỳ thời kỳ cách
mạng nào, ở bất kỳ lĩnh vực nào, địa phương nào, cán bộ cũng đóng vai trị
quyết định.
C.Mác và Ph.Ăngghen là người đầu tiên đưa ra quan điểm khoa học về
vai trò của cán bộ, theo hai ơng, muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những
con người sử dụng lực lượng thực tiễn. Vì tư tưởng dù có vĩ đại đến đâu cũng
chỉ có thể đưa người ta vượt qua khỏi phạm vi tư tưởng của trật tự thế giới cũ,
về căn bản tư tưởng không thể thực hiện được cái gì hết. Con người sử dụng


16
lực lượng thực tiễn ở đây chính là người cán bộ, người lãnh đạo quần chúng,
là nhân tố tích cực để thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển theo con
đường tự giác.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng của chủ nghĩa C.Mác, V.I.Lênin
ln đánh giá cao vai trị của người cán bộ. Ông cũng cho rằng: giai cấp vơ
sản thực hiện vai trị lãnh đạo của mình thơng qua các chính đảng vơ sản, cịn
các chính đảng vơ sản thực hiện sự lãnh đạo của mình trước hết thơng qua các
cán bộ lãnh đạo, của những nhóm - ít nhiều có tính chất ổn định, gồm những
người có uy tín nhất, có ảnh hưởng nhất và người ta gọi đó là các lãnh tụ. Vai
trị quan trọng của đội ngũ cán bộ trước hết là đảm bảo tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối chính trị của đảng. Tùy theo cương vị của mình, cán bộ là
người xây dựng đường lối, lựa chọn phương pháp và chỉ đạo quá trình vận
động cách mạng, hướng tới mục tiêu đã đặt ra. Trong điều kiện đảng cầm
quyền, V.I.Lênin xem việc nghiên cứu con người, tìm ra những cán bộ bản
lĩnh, đóng vai trị là người tổ chức các q trình thực tiễn một cách có hiệu

quả là vấn đề “then chốt” nhất, có vậy Đảng của giai cấp cơng nhân mới có
thể tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế
- xã hội nhằm xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội.
Nói về vai trị của cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng nó phải được
thể hiện trong các mối quan hệ chủ yếu giữa cán bộ với đường lối chính sách,
cán bộ với tổ chức bộ máy, cán bộ với công việc và cán bộ với quần chúng.
Về mối quan hệ với đường lối chính sách, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: “Cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ, Đồn thể thi hành
trong nhân dân”; do đó, “nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể
thực hiện được” [34, tr.54].
Với tổ chức bộ máy, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm “Cán bộ là dây
chuyền của bộ máy”. Đời sống kinh tế - xã hội và toàn bộ sự nghiệp cách
mạng là một cỗ máy khổng lồ. Trong cỗ máy đó, cán bộ là dây chuyền. Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan niệm “dây chuyền” với ý nghĩa cán bộ và đội ngũ cán


17
bộ là mắc xích liên kết các bộ phận của bộ máy, là hệ thống chuyển tải năng
lượng đến từng bộ phận của bộ máy. Do vậy, “Nếu dây chuyền khơng tốt, dù
chạy thì tồn bộ máy cũng tê liệt” [34, tr.54].
Đối với quần chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [34, tr.269].
Như vậy, theo Người cán bộ khơng những chỉ là người có vai trị giác ngộ và
hướng dẫn, lãnh đạo quần chúng mà còn là “chiếc cầu nối” giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân, là “cơng bộc” của nhân dân. Vì vậy, nếu cán bộ dở thì
đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ không thể thực hiện được.
Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim
chỉ nam của hành động, Đảng ta luôn xem vấn đề cán bộ có tầm quan trọng

đối với sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Cán bộ không những là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của
dân tộc mà còn là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Đặc biệt, là
đối với cán bộ ở cấp chiến lược và cấp cơ sở, những người trực tiếp tham gia
hoạch định đường lối và trực tiếp tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.
Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII,
cho rằng: “Có đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực xây dựng đường lối
chính trị đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó là vấn đề cốt tử
của lãnh đạo, là sinh mệnh của Đảng cầm quyền” [16, tr.27].
Do vậy, dù ở thời kỳ nào, ở cấp nào, địa phương nào thì đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cũng có vai trị rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng.
Vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ xã còn xuất phát từ vị trí và vai trị
trọng của cấp xã. Xã là đơn vị hành chính cuối cùng và nhỏ nhất, có vị trí rất
quan trọng trong hệ thống chính quyền bốn cấp của nước ta. Nó cịn được
xem là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, nơi cuộc sống xã hội diễn ra hàng ngày.
Xã là nơi có đầy đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị. Nơi trực tiếp tổ chức


18
thực hiện, biến mọi chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội thành hiện thực trong cuộc sống và là
nơi kiểm nghiệm tính đúng sai, sự thành cơng hay thất bại của các chủ trương,
chính sách đó. Nói về vai trò quan trọng của cấp xã, Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết: “Cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm
được việc thì mọi cơng việc đều xong xi hết” [34, tr.371].
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn ở địa phương, đội ngũ cán bộ xã người dân
tộc thiểu số ở Lào Cai có vai trị rất quan trọng, thể hiện trên những mặt sau:
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số giữ vai trò quyết định
trong việc triển khai, tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước ở địa phương; góp phần quan trọng trong việc

thắt chặt mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng với nhân dân.
Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
muốn đi vào đời sống xã hội đều phải triển khai xuống cơ sở cho quần chúng
nhân dân thông hiểu và thực hiện. Để làm được điều đó, ngồi những cán bộ
cấp trên thì cần phải có một lực lượng ở cơ sở có khả năng nắm rõ chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước làm nịng cốt, có nhiệm vụ
làm “cầu nối” giữa Đảng, nhà nước với quần chúng nhân dân. Lực lượng
nịng cốt đó khơng ai khác mà chính là đội ngũ cán bộ ở xã. Họ là người gần
dân nhất, thường xuyên trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, họ là “tai mắt” của
đảng bộ và chính quyền trong việc lãnh đạo nhân dân phát triển các mặt trong
đời sống xã hội, là “cầu nối” quan trọng nối liền sự lãnh đạo của Đảng với
nhân dân.
Khác với cán bộ cấp tỉnh, huyện, cán bộ xã người dân tộc thiểu số vừa là
người triển khai các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
nói chung, của địa phương nói riêng cho quần chúng nhân dân hiểu rõ; vừa là
người có trách nhiệm chính trong việc cụ thể hóa những chủ trương đường lối
đó thành những chương trình hành động, kế hoạch thực hiện sao cho phù hợp
với tình hình thực tế của địa phương, những chương trình, kế hoạch đó khơng


19
những phải đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương mình mà phải gắn với
yêu cầu phát triển chung của tỉnh. Đồng thời cán bộ xã người dân tộc thiểu số
còn là người trực tiếp lãnh đạo điều hành việc tổ chức thực hiện những
chương trình kế hoạch đó đạt hiệu quả cao. Mặt khác, họ cũng chính là người
phản ánh những tâm tư, ý kiến của người dân tộc thiểu số cho Đảng, cho Nhà
nước; giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm tính đúng đắn của các chủ
trương, đường lối, chính sách đã ban hành để kịp thời điều chỉnh cho sát với
thực tiễn. Thông qua đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số mà ý Đảng lòng dân được thống nhất, làm cho Đảng và Nhà nước có cơ sở ăn sâu, bám rễ
trong quần chúng nhân dân, tạo nên mối liên hệ “máu thịt” và trực tiếp củng

cố niềm tin của nhân dân nói chung, người dân tộc thiểu số nói riêng đối với
Đảng và chế độ.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số có vai trị quan trọng
trong việc giữ vững sự ổn định và phát triển chung của địa phương.
Cấp xã không chỉ là điểm “dừng chân” của mọi công tác Đảng, Nhà
nước và các ngành khác trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phịng, trật tự, an tồn xã hội,… đó cịn là nơi phản ảnh trực tiếp tâm tư,
tình cảm, nguyện vọng của nhân dân lên cấp trên; là nơi thường xun xuất
hiện những nhân tố, mơ hình, sáng kiến mới; những kinh nghiệm, cách làm
hay trong sản xuất, trong xây dựng đời sống văn hóa, xã hội. Do đó, muốn
thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế nhiều thành phần, chú trọng phát
triển sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ; thực
hiện đạt và vượt các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội; đảm bảo ổn định và cải thiện
đời sống nhân dân; bảo vệ môi trường sinh thái; xây dựng nếp sống văn hóa;
giữ gìn an ninh, trật tự, an tồn xã hội trên địa bàn, ngăn chặn có hiệu quả và
hạn chế thấp nhất các tệ nạn xã hội thì địi hỏi phải có đội ngũ cán bộ xã có đủ
đức, đủ tài mới có thể đáp ứng được những yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Điều đó
gắn liền với vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ xã.


20
Thực tế hiện nay, các chủ trương, nghị quyết, chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước khi được triển khai ở xã nào mà đội ngũ cán bộ có phẩm
chất đạo đức tốt, có trình độ chun mơn nghiệp vụ nhất định, năng động
sáng tạo, thì những chủ trương, nghị quyết, chính sách đó sẽ được tổ chức
thực hiện nhanh chóng và phát huy hiệu quả cao trong đời sống xã hội. Ngược
lại, ở một số xã có đội ngũ cán bộ có trình độ chun mơn khơng đồng đều,
năng lực tổ chức thực tiễn kém, thì ở địa phương đó các chủ trương, nghị
quyết, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước thường được triển khai và
tổ chức thực hiện qua loa, không đến nơi, đến chốn, thậm chí có lúc cịn vi

phạm dẫn đến gây hậu quả nghiêm trọng.
Từ đó cho thấy, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước có đến
được với dân hay khơng, tâm tư nguyện vọng của dân có được Đảng xem xét
giải quyết kịp thời, kinh tế - xã hội có phát triển, an ninh trật tự có được giữ
vững hay không,… phần lớn đều do đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt phường
xã. Đội ngũ cán bộ xã có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức cách mạng sẽ là
điều kiện quan trọng đảm bảo cho việc ổn định an ninh trật tự, thúc đẩy kinh
tế - xã hội ở xã phát triển.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số giữ vai trò quan trọng
trong việc xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị và phong trào cách
mạng của quần chúng ở xã vững mạnh.
Đội ngũ cán xã người dân tộc thiểu số là những trụ cột, là trung tâm đoàn
kết, tổ chức, sắp xếp, tập hợp lực lượng, là linh hồn của các tổ chức trong hệ
thống tổ chức bộ máy ở xã vùng dân tộc thiểu số. Có vai quyết định đến năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ cơ sở, đến năng lực và hiệu quả
quản lý của chính quyền và hoạt động của các đồn thể quần chúng của địa
phương. Các tổ chức này có hồn thành nhiệm vụ hay khơng, trước hết tùy
thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ. Cán bộ xã người dân tộc thiểu số “tốt”
sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy tổ chức hoạt động có hiệu quả. Ngược lại


21
cán bộ người dân tộc thiểu số “kém” sẽ kìm hãm hoạt động của tổ chức đó.
Đồng thời làm ảnh hưởng chung đến cả hệ thống chính trị.
Đối với phong trào quần chúng, đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số
vừa là người khởi xướng chủ trương, thúc đẩy phong trào vừa là người tổ
chức thực hiện phong trào đó ở địa phương. Họ khơng những là người dẫn
dắt, định hướng và duy trì các phong trào mà cịn tổng kết rút kinh nghiệm,
nhân các điển hình tiên tiến trong lao động sản xuất, xây dựng văn hóa và
nhiều phong trào khác ở các xã vùng dân tộc thiểu số. Thực tế cũng cho thấy,

ở những xã có phong trào quần chúng mạnh là do đội ngũ cán bộ có năng lực,
tâm huyết với phong trào.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai là
những người đại biểu và đại diện cho ý chí, quyền lợi chính đáng của đồng
bào các dân tộc thiểu số ở địa phương.
Hơn ai hết, đội ngũ cán bộ xã là người dân tộc thiểu số có lợi thế là có
cùng tiếng nói, phong tục tập quán, chính là những người sinh ra và lớn lên
trên quê hương Lào Cai. Bởi họ là những người con của đồng bào dân tộc nên
nắm được những tâm tư tình cảm, lối sống, ý chí, nguyện vọng và tập tục của
đồng bào dân tộc thiểu số. Hơn nữa đội ngũ cán bộ này do chính đồng bào
dân tộc thiểu số lựa chọn những người có uy tín, năng lực giới thiệu bầu ra để
đại diện cho ý chí và bảo vệ quyền lợi chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu
số. Vì vậy, đội ngũ cán bộ xã là người dân tộc thiểu số có vai trị quan trọng
trong những xã có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Thứ năm, đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số trong sạch, vững
mạnh sẽ là một trong những nguồn quan trọng cung cấp cán bộ cho Đảng,
chính quyền và các đồn thể chính trị - xã hội ở các xã vùng dân tộc thiểu số.
Họ là những người được rèn luyện trong môi trường thực tiễn ở cơ sở, có
kiến thức thực tế và bề dày kinh nghiệm, năng động, nhanh nhạy trong xử lý
công việc, gần gũi nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ ở cơ sở


22
khơng những là cái khâu liên hệ, mà cịn là cái kho dồi dào cho Đảng lấy
thêm lực lượng mới. Nếu đội ngũ này phát triển và củng cố thì Đảng sẽ phát
triển và củng cố; bằng không Đảng sẽ khô héo. Người nhấn mạnh: “Bất kỳ
người lãnh đạo nào nếu không học tập nổi những việc thiết thực, những người
thiết thực và những bộ phận thiết thực của cấp dưới, để rút kinh nghiệm thì
nhất định khơng biết chỉ đạo chung cho tất cả các bộ phận” [34, tr.289]. Thực
tế cho thấy, đa số cán bộ đã từng trải qua chức danh cán bộ ở cơ sở, khi bổ

nhiệm, bầu cử giữ chức lãnh đạo ở cấp cao hơn thì thường thể hiện được bản
lĩnh, sự nhạy bén, sáng tạo trong giải quyết cơng việc và có chiều hướng phát
triển tốt. Trong khi đó, một số cán bộ đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo mà chưa
kinh qua rèn luyện ở cơ sở thì thường chậm thích nghi và gặp nhiều khó khăn
khi thực hiện nhiệm vụ.
Vì vậy, đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số có vai trò đặc biệt quan
trọng, là một trong những nhân tố có ý nghĩa chiến lược, quyết định đến sự
thành bại trong việc tổ chức thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế, văn hóa, xã hội đối với vùng
đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai.
1.1.2.2. Đặc điểm cán bộ xã người dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai
- Đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai chịu ảnh
hưởng và tác động lớn của các thiết chế xã hội truyền thống của các dân tộc
thiểu số sống trên địa bàn.
Đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai là những con
người được sinh ra, lớn lên và trưởng thành trên vùng đất đặc thù của đất nước.
Họ không những mang trong mình những nét chung của con người Việt Nam
truyền thống và hiện đại, mà cuộc sống cộng đồng dân tộc và cộng đồng dân cư
tại nơi họ sinh sống đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách của
họ. Trong lịch sử mỗi dân tộc, đều có hình thức tổ chức xã hội riêng, những
phong tục tập quán, nếp nghĩ, cách làm... đều in đậm những bản sắc riêng biệt.


23
Đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai hoạt động trên
địa bàn lãnh thổ rộng lớn và trong môi trường xã hội phong phú, đa dạng,
phức tạp. Họ phải xử lý hàng loạt mối quan hệ xã hội: giữa những người đồng
tộc và khác tộc; những phong tục, tập quán, tâm lý, thói quen... giống nhau và
khác nhau. Điều đó địi hỏi họ khơng chỉ nắm vững chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mà cịn phải có sự hiểu biết sâu

sắc về dân tộc mình và các dân tộc anh em trên cùng địa bàn; họ cần có khơng
chỉ lý trí, quyết tâm cao mà cịn phải có tình cảm sâu sắc, lịng kiên nhẫn và
sự nhạy cảm.
- Đội ngũ cán bộ xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai có lối sống
thẳng thắn, chân thật, mộc mạc, giản dị, trọng danh dự; có lịng yêu nước
nồng nàn, tinh thần tự lực tự cường và có niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo
của Đảng.
- Các chức danh cán bộ xã hiện nay hầu hết thông qua bầu cử và là cấp
cuối cùng, gắn chặt với người dân. Họ trực tiếp tiếp xúc, giải quyết các công
việc hằng ngày với dân không chỉ với tư cách vừa là người lãnh đạo, quản lý
vừa là người đại diện cho nhân dân, do nhân dân “ủy thác” trách nhiệm… mà
cịn có quan hệ thân tộc, xóm giềng lâu đời, chứa đựng cả những tập quán tốt,
lẫn những thói quen lạc hậu. Vì vậy, trong cơng tác cán bộ, bên cạnh những
điều kiện thuận lợi cũng dễ phát sinh những thứ bệnh nguy hiểm mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã cảnh báo. Mặt khác, trong quan hệ gần gũi ở địa phương,
mọi người rất hiểu về nhau, nhân dân hiểu rõ về cán bộ, cho nên việc phát huy
vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, phê bình, kiểm tra, giám sát
đội ngũ cán bộ là rất thuận lợi.
- Đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số đa số là người được trưởng
thành trong q trình tham gia cơng tác ở địa phương. Được rèn luyện, thử
thách qua thực tiễn, có tính năng động, sáng tạo, nhiệt tình, có tư duy đổi
mới. Họ có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn, gắn bó và am


24
hiểu tình hình thực tế của địa phương. Tuy nhiên, về mặt trình độ chun
mơn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế
của đội ngũ cán bộ xã người dân tộc thiểu số khơng đồng đều; nhìn chung
ít có điều kiện học tập thuận lợi để nâng cao trình độ mọi mặt, nên họ
thường gặp nhiều khó khăn trong cơng tác và cuộc sống đời thường. Số cán

bộ được đào tạo chủ yếu là học tại chức, vừa học vừa làm, được tuyển dụng
làm trước rồi đào tạo sau.
- Đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ cán bộ xã người dân tộc
thiểu số mặt dù được nâng lên so với trước đây, nhưng nhìn chung vẫn cịn
nhiều khó khăn. Là những người công tác ở cấp cơ sở trong nền hành chính
bốn cấp ở nước ta, nhưng đội ngũ cán bộ xã vẫn chưa được xem là công chức
nhà nước. Vì vậy, về mặt chế độ, chính sách đãi ngộ còn thiếu đồng bộ và
nhiều bất cập, chưa tương xứng, chưa thể sống nổi bằng thu nhập từ lương.
Mặt khác, họ vừa là người lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cơ sở
vừa là người trực tiếp tham gia lao động, sản xuất,… để có thêm thu nhập ở
gia đình (có khi là lao động chính trong hộ gia đình), cho nên ít nhiều ảnh
hưởng đến chất lượng quản lý, lãnh đạo cũng như tính “chuyên nghiệp” của
đội ngũ này.
- Tư tưởng tự ty và ảnh hưởng của tâm lý, tập quán cũ, lạc hậu còn rơi
rớt lại một số vùng núi cao, vùng sâu đã kìm hãm tính năng động trong suy
nghĩ; một bộ phận cán bộ xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai thuộc
vùng sâu, vùng xa còn bàng quan, thờ ơ trước cuộc sống.
- Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và tỉnh Lào Cai còn nhiều mặt chưa bù đắp được những nhu cầu phong phú và
đa dạng trong cuộc sống đời thường của đội ngũ cán bộ xã là người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Lào Cai; nhưng với tình cảm cách mạng gắn bó máu thịt với sự
phát triển đi lên của cộng đồng các dân tộc, họ hăng hái, nhiệt tình thực hiện
tốt nhiệm vụ được giao.


25
1.2. TIÊU CHÍ, NỘI DUNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ XÃ NGƯỜI
DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH LÀO CAI

1.2.1. Quan niệm về cán bộ và cán bộ xã người dân tộc thiểu số

- Cán bộ:
Theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là tất cả những người
thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đồn thể, qn đội. Trong
quan niệm hành chính, cán bộ coi như những người có mức lương từ cán sự
trở lên, để phân biệt với nhân viên có mức lương thấp hơn cán sự.
Trong Từ điển tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa là: Người làm công
tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, đảng và đồn thể. Người
làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người
khơng có chức vụ.
Cho đến nay, từ cán bộ đã được dùng nhiều nghĩa khác nhau:
Trong tổ chức Đảng và đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa: Là
những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cấp cơ sở đến Trung
ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt đảng viên không giữ cương vị lãnh đạo,
đoàn viên, hội viên; những người làm cơng tác chun trách có hưởng lương
trong các tổ chức đảng và đoàn thể.
Trong quân đội là những chỉ huy từ tiểu đội trở lên (cán bộ tiểu đội, cán
bộ trung đoàn,...) là sĩ quan từ cấp úy trở lên.
Trong hệ thống Nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản là trùng với từ
công chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước thuộc ngành
hành chính, tư pháp, kinh tế, văn hoá - xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng được
hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó
phịng, ban, vụ, cục, v.v…).
Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có
khác nhau, nhưng về cơ bản, từ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó, là nịng
cốt, là lãnh đạo, quản lý.


×