Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Công tác giáo dục, rèn luyện y đức cho đội ngũ thầy thuốc của đảng bộ học viện quân y giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.04 KB, 94 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Y đức là phẩm chất tốt đẹp, cao quý của những người hành nghề y,
được thể hiện qua thái độ, tinh thần trách nhiệm, hết lịng thương u, chăm
sóc người bệnh, coi sự đau đớn của người bệnh như của mình. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng ln nhắc nhở, giáo dục y đức cho cán bộ, nhân viên
ngành Y. Lời nhắc nhở của Bác "Lương y phải như từ mẫu" đã trở thành
phương châm, khẩu hiệu hành động của ngành Y tế. Trong thư gửi Hội nghị
cán bộ Y tế toàn quốc năm 1953, Bác căn dặn "Phải thương yêu người bệnh
như anh em ruột thịt, phải tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân. Cần luôn luôn
học tập, nghiên cứu để tiến bộ". Tại Hội nghị cán bộ Y tế năm 1955, Bác lại
gửi thư nhắc nhở "...phải thật thà đồn kết...thương u người bệnh, người
bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cơ, các chú. Chính phủ phó thác cho
các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khỏe cho đồng bào. Đó là
một nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu chăm sóc
người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau
đớn", "Lương y phải như từ mẫu".
Học viện Quân y (HVQY) là một trung tâm lớn đào tạo cán bộ quân,
dân y, nghiên cứu y học quân sự, điều trị của quân đội và cả nước. Hơn 60
năm xây dựng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Quân ủy Trung
ương và Bộ Quốc Phòng, Học viện đã đào tạo được hàng chục vạn cán bộ
quân, dân y từ sơ cấp đến sau đại học, nghiên cứu hàng ngàn đề tài khoa học
về y học quân sự và sáng kiến cải tiến kỹ thuật; thu dung điều trị cho hàng
triệu thương, bệnh binh và người bệnh, ứng dụng thành công nhiều kỹ thuật
tiên tiến đầu tiên ở Việt Nam như ghép Tim, ghép Gan, ghép Thận trên người;
đội ngũ thầy thuốc của Học viện có phẩm chất chính trị vững vàng; có y đức
chuẩn mực; có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp đảm nhiệm được chức trách,
nhiệm vụ được giao.



2
Hiện nay, Đảng và nhà nước chủ trương tích cực chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, phát huy mọi nguồn lực xã hội để phát triển đất nước; bên
cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được sau 25 năm đổi mới thì những ảnh
hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường cũng từng bước ảnh hưởng không
nhỏ đến đời sống xã hội, ngành y tế cũng chịu ảnh hưởng nặng nề.
Trong thời gian qua, Đảng bộ Học viện Quân y đã luôn quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác giáo dục, rèn luyện y đức cho cán bộ, học
viên, nhân viên y tế và thầy thuốc trong toàn Học viện. Đặc biệt, Đảng ủy Học
viện đã có nghị quyết lãnh đạo chuyên đề về xây dựng y đức và chống tiêu cực
trong hai bệnh viện... đồng thời tăng thời lượng giáo dục đạo đức cách mạng nói
chung và đạo đức nghề nghiệp nói riêng đối với học viên của Học viện, do đó đã
phần nào tạo được môi trường y đức lành mạnh trong đơn vị.
Tuy nhiên, bên cạnh các mặt tích cực đó, do sự tác động phức tạp của
tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ, với sự tác động của
q trình tồn cầu hóa nền kinh tế, mặt trái của cơ chế thị trường, các Bệnh
viện nhất là Bệnh viện tuyến trung ương tình trạng quá tải ngày càng trầm
trọng; cùng với đó là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đã làm
gia tăng những thách thức đối với giá trị đạo đức và văn hóa truyền thống của
dân tộc, các nấc thang giá trị có sự thay đổi sâu sắc, việc phân biệt đúng - sai,
tốt - xấu trong nhiều trường hợp trở nên hết sức phức tạp. Những yếu tố tiêu
cực đó đã làm cho một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên nói chung và đội
ngũ cán bộ thầy thuốc của Học viện Quân y nói riêng có biểu hiện suy thối
về đạo đức, lối sống. Điều đó được thể hiện ở lối sống cơ hội, thực dụng,
thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ người bệnh; một số còn biểu
hiện tiêu cực trong khám chữa bệnh, thiếu lương tâm của người thầy thuốc...
Những biểu hiện suy thoái y đức này nếu chậm được khắc phục sẽ khơng chỉ
làm xói mịn truyền thống tốt đẹp của Quân đội, của Học viện, làm phai mờ
hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ" trong nhân dân, gây bức xúc trong dư luận xã hội.



3
Những biểu hiện tiêu cực nêu trên có nguyên nhân từ những hạn chế
trong công tác giáo dục, rèn luyện y đức của Đảng bộ Học viện Quân y đối
với đội ngũ Thầy thuốc của Học viện. Để giữ vững và phát huy truyền thống
đạo đức cách mạng, y đức cao cả của người cán bộ, nhân viên ngành y tế; để
xây dựng mơi trường chính trị tư tưởng, y đức, lối sống trong sạch, vững
vàng, làm cơ sở xây dựng Học viện Quân y trở thành một Học viện chính quy,
mẫu mực, một trong những trung tâm khoa học kỹ thuật về y học và thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ giáo dục - đào tạo đội ngũ bác sĩ trẻ, nguồn cán bộ kế cận
cho Quân đội và ngành y tế Việt Nam thì việc tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng bộ Học viện Quân y đối với công tác giáo dục, rèn luyện y đức cho đội
ngũ thầy thuốc của Học viện là một trong những vấn đề mang tính cấp thiết
hiện nay. Vì vậy, em chọn đề tài "Công tác giáo dục, rèn luyện y đức cho đội
ngũ thầy thuốc của Đảng bộ Học viện Quân y giai đoạn hiện nay" làm đề
tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên thế giới, vấn đề đạo đức y học (y đức) được nhiều quốc gia quan tâm.
Các tổ chức y tế của quốc tế và mỗi quốc gia lần lượt phê chuẩn và công bố các
quy định về đạo đức trong thực hành y học và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Đối với lĩnh vực nghiên cứu y học, văn kiện quốc tế đầu tiên quy định
về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học là Điều lệ Nuremberg. Điều lệ này
được ban hành năm 1947 sau vụ xét xử các bác sỹ Đức quốc xã. Điều lệ này
đưa ra 10 nguyên tắc cho các nghiên cứu được tiến hành thử nghiệm trên con
người. Từ Điều lệ này đến Tuyên ngôn Helsinki 1964, rồi đến các Hướng dẫn
của CIOMS năm 1982 và năm 2002, các quy định và hướng dẫn thực hiện
đạo đức trong nghiên cứu được điều chỉnh và hoàn thiện dần. Những văn bản
này nêu rõ nguyên tắc cụ thể khi tiến hành nghiên cứu một thử nghiệm trên
con người, hướng dẫn chi tiết những việc cần làm trước, trong và sau khi thử
nghiệm nhằm đảm bảo lợi ích cho các đối tượng nghiên cứu.



4
Đối với đạo đức y học trong thực hành lâm sàng, văn kiện đầu tiên
công bố các quy định cho người hành nghề y là Tuyên ngôn Giơnevơ được
ban hành năm 1948 và bổ sung vào năm 1994. Tháng 10 năm 1949, Hội Y học
thế giới đã ban hành Điều lệ quốc tế về đạo đức y học. Điều lệ này được sửa đổi
lần cuối vào năm 1983. Năm 2001, Hội đồng Y đa khoa thế giới đã đưa ra quy
định về các Nhiệm vụ của người bác sỹ đã đăng ký hành nghề với Hội đồng Y
đa khoa. Năm 2005, Hội Y học thế giới công bố Quyền của bệnh nhân.
Từ năm 1990, đạo đức y học đã trở thành một bộ mơn trong chương
trình giảng dạy của các trường Đại học Y ở Mỹ, Canada. Năm 1993, các
trường Đại học Y ở Anh cũng đào tạo đạo đức y học cho sinh viên y khoa.
Trường Đại học Sydney (Úc) cũng tăng cường thời lượng giảng dạy đạo đức
y học cho sinh viên y khoa, từ chỗ chỉ dạy cho sinh viên năm thứ ba, giờ bộ
môn này được dạy cho sinh viên y khoa từ năm thứ nhất đến năm thứ tư. Các
nước khác trong khu vực (Singapore, Indonesia) và trên thế giới cũng đã bắt
đầu giảng dạy bộ môn đạo đức y học cho sinh viên y khoa.
Vấn đề xây dựng y đức trong ngành y tế ở Việt Nam đã được Đảng và
Nhà nước ta sớm quan tâm. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn
“lương y như từ mẫu”. Trong vòng 20 năm, từ 1947 đến 1967, người đã 25
lần gửi thư cho ngành y tế, thương binh - xã hội, căn dặn về công tác chuyên
môn và Người đặc biệt lưu ý với đội ngũ cán bộ y tế về vấn đề y đức. Năm
1989, Quốc hội đã ban hành “luật bảo vệ sức khỏe nhân dân”, Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ tư khóa VII đã ban hành Nghị quyết về cơng
tác chăm sóc sức khỏe nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Năm 1996, Bộ Y tế đã ban hành “12 điều y đức”. “Quy
định về y đức”. Tiếp sau đó, Bộ Y tế đã ban hành hàng loạt các văn bản liên
quan đến vấn đề y đức như: “Quy định về y đức và tiêu chuẩn phấn đấu”
(1999), “Quản lý bệnh viện” (2001), “Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội

đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học” (2002)... Đây chính là những tài


5
liệu, những căn cứ quan trọng để các bệnh viện, các cơ sở y tế triển khai việc
xây dựng y đức.
Ở Việt Nam, đạo đức y học cũng là một trong 281 chủ đề dành cho
chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa. Tuy nhiên, việc dạy những nội dung gì,
thời lượng và phương pháp giảng dạy ra sao, tài liệu như thế nào thì phụ
thuộc vào từng trường.
Trong thời gian vừa qua, đã có một số cơng trình liên quan đến lĩnh vực
nghiên cứu của đề tài. Các nghiên cứu này tiếp cận vấn đề dưới nhiều góc độ
khác nhau như: y tế cộng đồng, hành chính cơng, đạo đức học do các tổ chức,
cá nhân thực hiện dưới hình thức các nghiên cứu khảo sát chuyên sâu, luận
văn, luận án, đề tài khoa học.
Trực tiếp bàn về vấn đề đạo đức y học (y đức) có các cơng trình
- GS.TS.Đỗ Nguyên Phương, Phát triển sự nghiệp y tế ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay, Nxb Y học, Hà Nội, 1996.
- GS.TS.Đỗ Nguyên Phương, Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát
triển ở Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội, 1998.
- Phan Việt Dũng - TS Trần Văn Thụy, Quán triệt quan điểm về y đức
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong ngành y tế Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý
luận chính trị, số 3-2003.
- Thành Duy, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996.
- TS.Nguyễn Thị Thanh Hà, Giao tiếp của bác sĩ quân y với người
bệnh, Nxb QĐND, Hà Nội, 2004.
- ThS.Phạm Gia Hạnh, "Đảng bộ kiểm toán nhà nước lãnh đạo nâng
cao đạo đức nghề nghiệp cho kiểm toán viên trong giai đoạn hiện nay". Luận
văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, Hà Nội, 2010.
- Bộ Y tế, Kiến thức - Thái độ - Kỹ năng cần đạt khi tốt nghiệp bác sĩ

đa khoa, Nxb Y học, Hà Nội, 2006.
- Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình
đạo đức học, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006.


6
- Trường Đại học Y Hà Nội, Đại cương đạo đức y học, Hà Nội, 2010.
- Học viện Quân y, Một số vấn đề cơ bản về y đức quân sự, Nxb
QĐND, Hà Nội 2002.
- Tổng cục Chính trị, Nâng cao y đức cách mạng của cán bộ, nhân viên
trong các Viện quân y hiện nay, Nxb QĐND, Hà Nội, 2002.
Các cơng trình này đã bàn về khái niệm y đức, các nguyên lý của đạo
đức y học...
Bên cạnh đó là những bài báo, những bài viết, các cơng trình nghiên
cứu, trực tiếp hoặc gián tiếp bàn về những khía cạnh khác nhau của vấn đề
đạo đức y học, như: Bàn về y đức, Bộ Y tế, Tài liệu nội bộ, 2/1998, Đánh giá
sự hài lịng của gia đình người bệnh tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng của Vũ
Quốc Tuấn và cộng sự (2004), Kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học Điều dưỡng
toàn quốc lần thứ III, trang 1994 - 1997, Khảo sát sự hài lòng của người bệnh
tại khu điều trị nội trú bệnh viện đa khoa khu vực Đồng Nai, Nguyễn Thị
Ngọc và cộng sự (2004), Kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học Điều dưỡng toàn
quốc lần thứ III, trang 179 - 184... Đáng chú ý là Luận án Tiến sĩ Y học của
Lê Thị Bình “Đánh giá thực trạng năng lực chăm sóc người bệnh của điều
dưỡng viên bệnh viện và đề xuất giải pháp can thiệp” bảo vệ tại Viện Vệ sinh
dịch tễ Trung ương (2008). Mặc dù tiêu đề cơng trình khơng có thuật ngữ đạo
đức y học nhưng thực chất cơng trình này đề cập đến vấn đề y đức, vì nội
dung chủ yếu của nó là đánh giá việc thực hành giao tiếp và thực hành chuyên
môn của đội ngũ điều dưỡng viên trung học đang làm việc tại các bệnh viện.
Tuy nhiên, đối tượng thực hành y đức trong cơng trình này mới chỉ giới hạn
trong một phạm vi nhất định: điều dưỡng viên - những nhân viên y tế làm việc

dưới sự chỉ đạo của bác sĩ.
Những công trình, đề tài trên ở các góc độ tiếp cận khác nhau đã làm
phong phú lý luận và thực tiễn về vai trò của giáo dục đạo đức cách mạng nói
chung và y đức nói riêng; đề cập những khía cạnh nhất định về sự lãnh đạo


7
của các tổ chức Đảng đối với công tác giáo dục, rèn luyện y đức đối với đội
ngũ thầy thuốc trong và ngồi qn đội. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào đi
sâu nghiên cứu chun sâu, tồn diện, có hệ thống về "Công tác giáo dục,
rèn luyện y đức cho đội ngũ thầy thuốc của Đảng bộ Học viện Quân y giai
đoạn hiện nay".
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác giáo dục,
rèn luyện y đức cho đội ngũ thầy thuốc của Đảng bộ HVQY, Luận văn đề xuất
các giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện y đức cho đội
ngũ thầy thuốc ở Đảng bộ HVQY giai đoạn hiện nay.
3.2.Nhiệm vụ
- Làm rõ đặc điểm của đội ngũ thầy thuốc và yêu cầu giáo dục, rèn
luyện y đức cho đội ngũ thầy thuốc ở Học viện Quân y.
- Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức tiến hành công tác giáo dục,
rèn luyện y đức cho đội ngũ thầy thuốc của Đảng bộ Học viện Quân y.
- Đánh giá đúng thực trạng công tác giáo dục, rèn luyện y đức cho đội
ngũ thầy thuốc của Đảng bộ Học viện Quân y giai đoạn hiện nay, xác định rõ
ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu tăng cường công tác giáo
dục, rèn luyện y đức cho đội ngũ thầy thuốc của Đảng bộ Học viện Quân y
giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác giáo dục, rèn luyện y
đức cho đội ngũ thầy thuốc của Đảng bộ HVQY giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu là hoạt động giáo dục, rèn luyện y đức của Đảng
bộ Học viện Quân y đối với đội ngũ thầy thuốc của Bệnh viện 103, Viện bỏng
Lê Hữu Trác. Các giải pháp được đề xuất đến năm 2020.


8
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn: là quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về y đức
và công tác giáo dục, rèn luyện y đức.
Cơ sở thực tiễn của luận văn: là công tác giáo dục, rèn luyện y đức của
Đảng bộ Học viện Quân y hiện nay; những số liệu thu thập qua khảo sát thực
tế 2 Bệnh viện thuộc Học viện Quân y trong những năm gần đây.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác- Lênin, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp, lịch sử, lơ gích, tổng kết thực tiễn
và phương pháp chuyên gia để làm sáng tỏ vấn đề .
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa
học giúp cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp và cơ quan chức năng nghiên cứu vận
dụng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ HVQY đối với công tác giáo dục,
rèn luyện y đức cho đội ngũ thầy thuốc.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, tổ chức giáo
dục, rèn luyện y đức cho các Bệnh viện trong và ngoài Quân đội
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.



9
Chương 1
CÔNG TÁC GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN Y ĐỨC CHO ĐỘI NGŨ THẦY
THUỐC CỦA ĐẢNG BỘ HỌC VIỆN QUÂN Y - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HỌC VIỆN QUÂN Y, ĐẢNG BỘ HỌC VIỆN QUÂN Y
VÀ ĐỘI NGŨ THẦY THUỐC CỦA HỌC VIỆN QUÂN Y

1.1.1. Khái quát về Học viện Quân y
Ra đời trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đến nay
Học viện Quân y đã có lịch sử hơn 64 năm xây dựng và trưởng thành. Được
thành lập ngày 10/3/1949, tại thơn Tuần Lũng, xã Hồng Hoa, huyện Tam
Dương, tỉnh Vĩnh Phúc, tiền thân là Trường Quân y sỹ Việt Nam, qua quá
trình phát triển, Trường Quân y sỹ Việt Nam chuyển lên thành Trường Sỹ
quan Quân y (7/1957), Viện Nghiên cứu Y học Quân sự (3/1962) rồi phát triển
lên thành Trường Đại học Quân y (8/1966). Ngày 16 tháng 12 năm 1981, căn cứ
vào yêu cầu nhiệm vụ mới của sự nghiệp đào tạo cán bộ quân y và sự trưởng
thành của nhà trường, Bộ Quốc phòng quyết định chuyển Trường Đại học Quân
y thành Học viện Quân y nằm trong hệ thống các học viện, nhà trường trong
Quân đội trực thuộc Bộ Quốc phòng. Trải qua hơn 64 năm xây dựng và trưởng
thành, Học viện đã trở thành một trong những trung tâm đào tạo, nghiên cứu
khoa học, điều trị lớn hàng đầu của Quân đội và của cả nước.
Học viện Quân y là đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng, dưới sự điều
hành của Ban Giám đốc, Học viện có hệ thống cơ quan gồm 11 phịng, ban
chức năng phụ trách các mặt cơng tác bao gồm: phịng Chính trị, Văn phịng,
phịng Hậu cần, phịng Đào tạo Đại học, phòng Trang bị Vật tư - Kỹ thuật,
phòng Khoa học cơng nghệ - Mơi trường, phịng Thơng tin khoa học quân sự,
phòng Đào tạo sau đại học, phòng Khảo thí, Ban Tài chính và Ban Quản lý dự

án xây dựng cơ bản.


10
Học viện có 05 đơn vị quản lý học viên trực thuộc bao gồm: Hệ Sau đại
học, Hệ Đại học, Hệ Quốc tế, Hệ quản lý học viên dân sự và Trường Trung
cấp Quân y I. Dưới cấp hệ là các tiểu đoàn, đại đội quản lý học viên theo phân
cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Học viện có hai bệnh viện thực hành, đó là Bệnh viện 103 và Viện
Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác, với đầy đủ các bộ môn, khoa chuyên ngành, một
số chuyên ngành tuyến cuối của Quân đội và của ngành y tế Việt Nam, phục
vụ công tác đào tạo, điều trị, nghiên cứu khoa học, chỉ đạo tuyến và hợp tác
quốc tế.
Học viện có 07 trung tâm đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công
nghệ; 07 Bộ môn Y học cơ sở; 04 bộ môn Y học quân sự; 36 bộ môn, khoa Y
học lâm sàng; 10 Bộ môn, Khoa: Khoa học cơ bản, Khoa học xã hội & nhân
văn, Ngoại ngữ và Thể dục thể thao.
Học viện có đội ngũ cán bộ, giảng viên, giáo viên, nhân viên đông đảo,
phát triển cả về số lượng và chất lượng, có trình độ chun mơn giỏi, có phẩm
chất đạo đức cách mạng vững vàng. Hiện nay Học viện có 09 Giáo sư, 61 phó
Giáo sư, 117 Tiến sỹ, 207 Thạc sỹ, 02 Nhà giáo Nhân dân, 06 Nhà giáo Ưu tú,
10 Thầy thuốc Nhân dân, 65 Thầy thuốc Ưu tú đang công tác, nhiều giáo sư,
phó giáo sư, tiến sỹ là chuyên gia đầu ngành và chun viên kỹ thuật có uy tín
trong quân đội và ngành Y tế Việt Nam.
Học viện có những nhiệm vụ cơ bản là: Đào tạo cán bộ, nhân viên y tế
của quân đội, của ngành Y tế Việt Nam và cho quân đội hai nước bạn Lào và
Cam-pu-chia; nghiên cứu, ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ y học,
nhất là y học quân sự; cấp cứu, điều trị cứu chữa thương binh, bệnh binh và
nhân dân trong cả nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chăm sóc, sức khỏe cho
bộ đội và nhân dân.

Đối tượng đào tạo của Học viện Quân y rất đa dạng, từ bậc sơ cấp đến
bậc sau đại học, bao gồm:


11
- Đào tạo sơ cấp, trung cấp: Y sĩ đa khoa, y tá điều dưỡng trung học,
dược sĩ trung cấp, dược sĩ sơ cấp, y tá cho các đối tượng quân và dân y.
- Đào tạo cao đẳng: cao đẳng xét nghiệm; cao đẳng điều dưỡng;
- Đào tạo đại học: Bác sĩ quân y, Dược sĩ quân y; Bác sĩ dân y, Dược sĩ
dân y; Bác sĩ cử tuyển Tây Nguyên, Tây Bắc; Bác sĩ chuyên tu quân y hệ 4
năm; Bác sĩ dân y tuyến cơ sở; Kỹ sư điện tử y - sinh; Sỹ quan dự bị Y-Dược.
- Đào tạo sau đại học:
+ Theo hướng hàn lâm: Thạc sĩ, Tiến sĩ.
+ Theo hướng thực hành: Bác sĩ chuyên khoa I, Bác sĩ chuyên khoa II,
Bác sỹ nội trú, bổ túc nghiệp vụ cho bác sỹ tuyến trước.
Hơn 64 năm qua, Học viện Quân y đã đào tạo được hàng chục vạn bác
sỹ, dược sỹ và nhân viên kỹ thuật. Đến nay, Học viện đã đào tạo được 637
tiến sỹ, trên 1500 thạc sỹ, hơn 9 nghìn bác sĩ chuyên khoa cấp I và cấp II; đã
tiến hành hàng nghìn đề tài nghiên cứu khoa học, có hàng trăm đề tài cấp bộ
và cấp nhà nước. Một số kỹ thuật tiến tiến đã được nghiên cứu, ứng dụng và
phát triển thành công như: kỹ thuật nuôi cấy tinh tử, hỗ trợ sinh sản, ghép
tạng, ghép gan, ghép tim trên người từ người cho chết não...; cụm cơng trình
ghép tạng được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh. Bệnh viện 103 và Viện Bỏng
Quốc gia đã cấp cứu, điều trị cho hàng triệu thương bệnh binh và người bệnh;
ứng dụng thành công nhiều kỹ thuật hiện đại trong cấp cứu và điều trị, xây
dựng bệnh viện ngày càng chính qui mẫu mực.
Học viện luôn chủ động phát huy những tiềm lực sẵn có, coi trọng hợp
tác, liên thơng trong đào tạo, nghiên cứu, phát triển khoa học cơng nghệ trong
và ngồi nước. Học viện đã từng bước khẳng định được uy tín và thương hiệu
của một trung tâm đào tạo cán bộ quân, dân y, nghiên cứu, ứng dụng khoa học

và công nghệ, cấp cứu, điều trị bệnh nhân của Quân đội và nhân dân.
Với những nỗ lực và thành tích đạt được, Học viện Quân y đã vinh dự
được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều huân huy chương, đặc biệt là


12
Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao vàng và hai lần được tặng
danh hiệu “Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” vào các năm 2005
và 2010.
1.1.2. Đảng bộ Học viện Quân y
Về tổ chức: Đảng bộ Học viện Quân y là Đảng bộ trực thuộc Quân ủy
ủy Trung ương, hệ thống tổ chức Đảng gắn với hệ thống biên chế tổ chức của
đơn vị. Bao gồm 01 Đảng bộ cấp trên trực tiếp cơ sở; 01 Đảng bộ cơ sở ba
cấp; 10 Đảng bộ cở sở hai cấp và 32 chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy Học
viện. Đảng uỷ Học viện gồm có 15 uỷ viên, trong đó thường vụ đảng uỷ có 5
đồng chí. Đồng chí Chính uỷ Học viện làm Bí thư Đảng uỷ và đồng chí Giám
đốc Học viện làm Phó Bí thư.
Về đảng viên: Là đơn vị đào tạo, vì vậy số lượng đảng viên thường
xuyên có sự biến động theo kế hoạch tuyển sinh. Số lượng đảng viên tham gia
sinh hoạt trong Đảng bộ giao động trong khoảng từ 3800 đến 4100 đồng chí,
trong đó đảng viên là cán bộ, nhân viên công tác tại Học viện gần 2000 đồng
chí. Tuyệt đại bộ phận đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm
chất đạo đức và năng lực cơng tác tốt, phát huy tốt vai trị tiền phong gương
mẫu, cả về nhận thức và hành động, luôn ln đồn kết, nhất trí cao, tích cực
tự giác, chủ động, sáng tạo khắc phục khó khăn vươn lên hồn thành nhiệm
vụ được giao. Đánh giá phân tích chất lượng đảng viên và tổ chức đảng hàng
năm trung bình có hơn 94% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ và
hơn 93% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh. Đồng thời làm tốt
công tác giáo dục, bồi dưỡng đảng viên và quần chúng ưu tú, kết nạp vào
Đảng Cộng sản Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ
Quốc phòng, trong hơn 64 năm qua, Đảng bộ Học viện đã lãnh đạo, chỉ đạo
đơn vị vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, tự lực tự cường, hồn thành
thắng lợi nhiệm vụ chính trị đào tạo, nghiên cứu khoa học, điều trị và xây


13
dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh,
góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Truyền thống, thành tích vẻ vang của
Đảng bộ Học viện Quân y hơn 64 năm qua là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh
lớn lao của các thế hệ cán bộ, đảng viên và quần chúng nối tiếp trong sự
nghiệp đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học, điều trị và xây dựng Học viện
chính quy, mẫu mực và từng bước hiện đại. Giữ vững và phát huy truyền
thống 2 lần "Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân".
* Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Đảng bộ Học viện Quân y
Với tư cách là Đảng bộ cấp trên trực tiếp cơ sở, đặt dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Đảng bộ Học viện
Qn y có chức năng lãnh đạo tồn diện mọi hoạt động của Học viện trong
các nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, cấp cứu, điều trị thương bệnh
binh và nhân dân; lãnh đạo công tác xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh
(TSVM) và xây dựng Học viện vững mạnh toàn diện (VMTD).
Đảng bộ Học viện Qn y có nhiệm vụ lãnh đạo tồn diện nhiệm vụ
chính trị của đơn vị theo hướng
cách mạng, chính qui, từng bước hiện đại, trở thành Trường trọng
điểm quốc gia; là một trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, điều
trị có uy tín trong nước và khu vực, Phát huy nội lực, tranh thủ sự
giúp đỡ của cấp trên, mở rộng quan hệ hợp tác trong nước và quốc
tế, tạo sự chuyển biến vững chắc về chất lượng, hiệu quả giáo dục,
đào tạo, nghiên cứu khoa học và điều trị, xây dựng Đảng bộ trong

sạch vững mạnh, xây dựng Thầy thuốc vững mạnh toàn diện, hoàn
thành thắng lợi mọi nhiệm vụ [14, tr.35].
Lãnh đạo công tác giáo dục- đào tạo: Bám sát nhiệm vụ Nhà nước và
Quân đội giao cho, Đảng bộ Học viện luôn quán triệt sâu sắc nhiệm vụ giáo
dục đào tạo là trung tâm, phát huy mọi tiềm lực, động viên mọi lực lượng


14
trong đơn vị không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện đối
với từng đối tượng học viên theo mục tiêu yêu cầu đào tạo, đảm bảo có trình
độ, năng lực chun mơn cao; có mặt bằng kiến thức chung trong nước, phấn
đấu ngang bằng với khu vực và thế giới; có phẩm chất chính trị vững vàng,
đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội trong thời kỳ mới và yêu cầu chăm sóc,
bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho bộ đội và nhân dân; phục vụ thắng lợi cho
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,HĐH) đất nước.
Lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa học - công nghệ - môi trường:
Bám sát nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của Quân đội, chăm lo bảo
đảm sức khỏe bộ đội; lãnh đạo hoạt động khoa học công nghệ của Học viện
không ngừng đổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế quản lý khoa học, nghiên
cứu đa dạng, toàn diện và đi vào chiều sâu chất lượng. Tham gia tích cực vào
chiến lược phát triển y tế, góp phần phát triển kinh tế xã hội, kết hợp hai nền y
học, phát triển y học cổ truyền dân tộc; kết hợp chặt chẽ việc nghiên cứu, phát
triển khoa học công nghệ với nâng cao chất lượng đào tạo, điều trị, nâng cao
trình độ đội ngũ cán bộ giảng viên. Đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa học xã
hội nhân văn, khoa học quân sự, thể thao quốc phòng, các hoạt động của
phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, phong trào nghiên cứu khoa
học công nghệ của cán bộ và thầy thuốc, sinh viên, các hoạt động giao lưu,
hợp tác nghiên cứu, chuyển giao cơng nghệ với các cơ sở khoa học trong và
ngồi nước theo sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng.
Lãnh đạo nhiệm vụ điều trị, xây dựng hai bệnh viện thực hành và Trung

tâm đào tạo nghiên cứu công nghệ phôi: Bám sát sự chỉ đạo của Bộ Quốc
phòng, Bộ Y tế, Cục Quân y "tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hai bệnh
viện và Trung tâm đào tạo nghiên cứu cơng nghệ phơi giữ vững vị trí là cơ sở
điều trị có chất lượng cao của Quân đội và cả nước, là bệnh viện dạy học mẫu
mực của một trung tâm đào tạo cán bộ bậc đại học, sau đại học; trung tâm
nghiên cứu về y - dược học lâm sàng. Lấy nhiệm vụ chính trị là trung tâm,


15
xây dựng Đảng bộ, cấp ủy, chi bộ, đội ngũ cán bộ chủ trì vững mạnh là them
chốt; tiếp tục xây dựng hai bệnh viện chính quy, mẫu mực, thị phạm, có trình
độ chun mơn kỹ thuật cao, ngang tầm với các bệnh viện lớn trong nước và
khu vực. Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo các phòng khám bệnh, các khoa cận lâm
sàng, lâm sàng hoạt động khoa học, tạo thuận lợi cho bệnh nhân. Thu dung đủ
các mặt bệnh phục vụ cho huấn luyện, thi tốt nghiệp và nghiên cứu khoa học.
Xây dựng đội ngũ giảng viên, thầy thuốc, nhân viên y tế có trình độ chun
giỏi, tinh thần thái độ phục vụ tốt, là tấm gương sáng về "y đức" cho học viên
noi theo. Tiếp tục triển khai có hiệu quả nghị quyết về "Phát triển chun mơn
kỹ thuật", nghị quyết về "Chống nhiễm khuẩn bệnh viện". Chỉ đạo ứng dụng
có hiệu quả cơng nghệ thơng tin trong công tác quản lý bệnh viện; áp dụng
thành công các kỹ thuật tiên tiến, công nghệ hiện đại trong chẩn đoán và điều
trị" [14, tr.40-41]
Lãnh đạo xây dựng Học viện Qn y vững mạnh tồn diện về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, xây dựng đơn vị chính qui mẫu mực, làm tốt cơng tác
chính sách, cơng tác vận động quần chúng (Thanh niên, Phụ nữ, Cơng đồn),
cơng tác hậu cần, tài chính và các mặt hoạt động nghiệp vụ khác trong đơn vị.
Lãnh đạo xây dựng Đảng bộ Học viện trong sạch vững mạnh: Tiếp
tục quán triệt sâu sắc cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây
dựng Đảng bộ Học viện trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và
tổ chức. Nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của các cấp

ủy, các tổ chức đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có chất lượng
cao, thật sự tiêu biểu về lập trường tư tưởng, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, gương mẫu về đạo đức lối sống, có năng lực trí tuệ và năng lực tổ
chức thực tiễn. Chấp hành đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách. Mở rộng dân chủ trong đảng, phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn Đảng bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách
mạng mới.


16
1.1.3. Đội ngũ thầy thuốc ở Học viện Quân y
Đội ngũ thầy thuốc của Học viện Quân y là những quân nhân làm công
tác khám chữa bệnh, sản xuất dược phẩm, nghiên cứu y - dược, phòng chống
dịch bệnh, làm công tác đào tạo tại cơ sở thực hành của Học viện Quân y.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu đội ngũ thầy thuốc của
Học viện Quân y đang công tác tại hai bệnh viện thực hành của Học viện là
Bệnh viện 103 và Viện bỏng Quốc gia Lê Hữu Trách gồm các bác sĩ y khoa,
dược sĩ, y sĩ, y tá, điều dưỡng viên, kĩ thuật viên y dược, hộ sinh có trình độ
chun mơn từ sơ cấp đến sau đại học làm việc tại các khoa lâm sàng, cận
lâm sàng của hai bệnh viện.
* Thầy thuốc là Bác sĩ, Dược sĩ đại học của Học viện Quân y được đào
tạo cơ bản và chuyên sâu tại các trường Đại học và Học viện chuyên ngành y,
dược trong và ngồi nước. Được bố trí là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt
Nam, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; có bản lĩnh chính trị vững vàng,
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân nhân, với Đảng Cộng sản Việt
Nam và nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có tinh thần cảnh giác
cách mạng cao, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh, hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao. Có phẩm chất đạo đức cách mạng; cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư;
gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và luật
pháp của nhà nước; phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật qn đội; tơn trọng

và đồn kết với nhân dân, với đồng đội. Có trình độ chính trị, khoa học; có
năng lực chun mơn, kỹ thuật, có khả năng tiếp thu và vận dụng những thành
tựu y dược học vào thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, điều trị và nghiên cứu
khoa học; có kinh nghiệm nghề nghiệp. Số lượng Bác sĩ, Dược sĩ đại học
chiếm khoảng 30 - 32% tổng số thầy thuốc của Bệnh viện. 100% có trình độ
đại học trở lên trong đó số thầy thuốc là Bác sỹ, Dược sĩ có trình độ sau đại
học chiếm trên 80%, riêng Tiến sỹ chiếm 35% số lượng Bác sĩ, Dược sĩ.
Nhiệm vụ của các bác sỹ, dược sỹ đại học là nghiên cứu, ứng dụng các thành


17
tựu y - dược học vào chẩn đoán và điều trị cho người bệnh. Là người trực tiếp
khám bệnh, chẩn đoán, chỉ định điều trị cho người bệnh...
* Thầy thuốc là y sĩ, y tá, dược sĩ trung học, dược tá, điều dưỡng viên,
kỹ thuật viên, hộ sinh được đào tạo tại các trường Đại học, Cao đẳng và trung
học chuyên nghiệp ngành y, dược trong cả nước. Phần đông trong số này
được đào tạo tại Học viện Quân y. Được bố trí là Qn nhân chun nghiệp,
cơng nhân viên quốc phịng; có trình độ chun mơn đáp ứng được với yêu
cầu của từng chức danh đảm nhiệm. Số lượng chiếm từ 68 - 70% tổng số thầy
thuốc của Bệnh viện. 90% thầy thuốc là y sĩ, y tá, dược sĩ trung học, dược tá,
điều dưỡng viên, kỹ thuật viên, hộ sinh đứng trong hàng ngũ của Đảng. Trình
độ đào tạo từ sơ cấp đến đại học trong đó 70% là trình độ trung học chuyên
nghiệp. Nhiệm vụ chủ yếu của họ là thực hiện y lệnh của bác sỹ, dược sỹ
trong nghiên cứu, điều trị và chăm sóc cho người bệnh.
1.2. CÔNG TÁC GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN Y ĐỨC CHO ĐỘI NGŨ THẦY
THUỐC HỌC VIỆN QUÂN Y –QUAN NIỆM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC

1.2.1. Đạo đức, đạo đức nghề nghiệp và y đức
1.2.1.1 Đạo đức đạo đức nghề nghiệp
Đạo đức: Theo Đại từ điển Tiếng việt "Đạo đức là phép tắc về quan hệ

giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội" [21, tr.595]. Như
vậy, đạo đức là phạm trù thuộc hình thái ý thức xã hội, là những quan điểm,
quan niệm, chuẩn mực, nguyên tắc sống…có chức năng điều chỉnh hành vi
của con người để mọi người tự nguyện tuân theo nhằm bình ổn trật tự xã hội,
duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội và của mỗi cá nhân. Đạo đức không
chỉ là lương tâm, danh dự, trách nhiệm chung chung mà nó ln tồn tại gắn
liền với hoạt động xã hội, gắn với nghề nghiệp của mỗi người, phản ánh tình
đặc thù và do yêu cầu của nghề nghiệp địi hỏi.
Nghề nghiệp là cách nói chung về cơng việc chuyên môn của một lĩnh
vực lao động xã hội xác định. Nghề với nghĩa là ngành nghề, là công việc
chuyên môn của một ngành lao động xã hội. Một người chọn một công việc


18
chuyên môn để kiếm sống và cống hiến xã hội là người đó đã chọn một nghề.
Q trình lao động họ phát huy vốn kiến thức được đào tạo, phát huy kinh
nghiệm đã tích luỹ để đạt hiệu quả lao động nghề nghiệp cao. Mức độ cao hay
thấp của hiệu quả lao động nghề nghiệp là tay nghề. Vì vậy, tay nghề cịn có
nghĩa là trình độ điêu luyện của người có nghề, phản ánh mức độ tinh thơng,
khả năng sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp.
Việc chọn nghề của một cá nhân được thực hiện theo sở thích, năng lực
riêng của người đó hoặc do sự phân cơng lao động xã hội. Có thể nghề của
một cá nhân là sự gặp nhau của sở thích, năng lực cá nhân với sự phân cơng
lao động xã hội. Khi đó, cá nhân gắn bó với nghề, lao động với niềm say mê,
hứng thú cao, mang lại nhiều lợi ích cho cá nhân và có thể có cống hiến to lớn
cho xã hội. Nghề được hình thành từ phân cơng lao động xã hội; được đào tạo
ban đầu khi cá nhân chưa ý thức rõ yêu cầu của nghề, họ phải có q trình
thích ứng. Phần đơng người lao động phải thích ứng với u cầu nghề nghiệp
của mình. Sự thích ứng nhanh hay chậm là do thái độ và sự nỗ lực ý chí quyết
định, nhiều hay ít có ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động nghề nghiệp.

Nghiệp là nói tắt của sự nghiệp, là những công việc to lớn mang lại
lợi ích chung, lâu dài của cộng đồng xã hội (nghiệp nhà nơng; nghiệp
thương trường…). Khi nói đến hoạt động xã hội của cá nhân, nghiệp cịn có
nghĩa là sự gắn bó tự nhiên, bền chắc của cá nhân đối với công việc đang
thực hiện. Vậy, nghề nghiệp là nói khái quát về nghề, về sự gắn bó mật
thiết, lâu dài của một người với một nghề nào đó. Nghề nghiệp là công việc
chuyên làm để kiếm sống và cống hiến xã hội đã đạt đến trình độ thành thạo,
tinh thơng nhất định.
Sự tiến bộ xã hội địi hỏi mỗi người hành nghề ở bất kì lĩnh vực lao động
xã hội nào cũng phải tuân theo những chuẩn mực, những giá trị đạo đức của
nghề nghiệp đó. Cá nhân phải căn cứ vào các nguyên tắc, các giá trị và chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp đang tồn tại để hình thành ý thức đạo đức nghề nghiệp


19
cho mình với mục đích là làm cho kết quả lao động nghề nghiệp của mình có giá
trị cao; quan hệ xã hội của mình được thực hiện; nhân cách của mình được thừa
nhận và tơn vinh. Khi cá nhân có hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp thì cộng
đồng người cùng nghề nghiệp sẽ có những phản ứng, thậm chí có những tác
động để loại trừ ảnh hưởng tới uy tín cộng đồng thơng qua các mối quan hệ xã
hội - nghề nghiệp. Như vậy, đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc, chuẩn mực
phản ánh mối quan hệ giữa con người với công việc, con người với con người;
giữa cá nhân với cộng đồng nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi của họ trong lĩnh
vực cụ thể đáp ứng tính chất, đặc điểm nghề nghiệp đặt ra. Theo đó, ngành y
cũng có đạo đức riêng của mình đó là y đức. Xét về bản chất, y đức là sự thể
hiện cụ thể đạo đức tiến bộ xã hội ở những người làm việc trong ngành y.
1.2.1.2. Y đức
Y đức là đạo đức nghề nghiệp trong ngành y, là toàn bộ những giá trị,
những chuẩn mực đạo đức đóng vai trị cốt lõi trong hệ thống phẩm chất tốt
đẹp của người làm công tác y tế. Biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp đó

là tinh thần trách nhiệm cao, u nghề nghiệp, gắn bó với nghề nghiệp,
ln khao khát có cống hiến cho nghề nghiệp. Trong cơng tác ln tận tuỵ,
hết lịng u thương, chăm sóc người bệnh. Đây là sự cụ thể hoá các
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội; đạo đức nghề nghiệp nói
chung vào lĩnh vực y tế, được quy định cho những người làm cơng tác
chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho tồn xã hội dựa trên đặc điểm, tính chất, vai
trò của nghề y đối với xã hội. Căn cứ vào những chuẩn mực, những giá trị
y đức, người cán bộ y tế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ sẽ nảy sinh địi
hỏi phải thật thà, có tinh thần đồn kết, lịng nhân ái cao thượng, ln khắc
phục mọi khó khăn để hồn thành nhiệm vụ. Trong rèn luyện phấn đấu luôn
thể hiện tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ, không ngừng vươn lên; trong
khoa học phải trung thực, dũng cảm tồn tâm, tồn ý vì một nền y học Việt
Nam hiện đại, dân tộc, đại chúng.


20
Hiện nay ở nước ta quan niệm về y đức có sự phát triển. Các nhà khoa
học đã đưa vào nội hàm của khái niệm y đức những dấu hiệu mới. Tuy nhiên,
do góc độ tiếp cận khác nhau nên quan niệm về y đức cũng cịn có những
điểm khác biệt nhất định. Từ góc độ ứng xử có quan niệm: "Y đức trước hết là
lối ứng xử của người thầy thuốc trong mối quan hệ xã hội muôn màu mn vẻ
của cuộc sống và trong mọi hồn cảnh, thể hiện trên các mặt trách nhiệm, thái
độ và tấm lòng" [5, tr.25]. Từ góc độ hành vi có quan niệm: "Y đức là những
tiêu chuẩn, quy tắc của đời sống xã hội nhằm điều chỉnh hành vi xử sự và
quan hệ của thầy thuốc với bệnh nhân cũng như đối với đồng nghiệp, nó xác
định bổn phận, lương tâm, danh dự và hạnh phúc của người thầy thuốc" [40,
tr.251]. Từ góc độ giá trị đạo đức có quan niệm: "Y đức là hệ thống những
tiêu chuẩn, nguyên tắc đạo đức được xã hội thừa nhận, nhằm đảm bảo cho
người hành nghề y phục vụ sức khỏe nhân dân được tốt nhất" [48, tr.59].
Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể khái quát: Y đức là những

quy tắc, chuẩn mực phản ánh mối quan hệ giữa con người với công việc, con
người với con người, giữa cá nhân với cộng đồng nhằm điều chỉnh nhận
thức, thái độ hành vi và các quan hệ xã hội của thầy thuốc theo đặc thù của
tính chất, đặc điểm nghề y đặt ra trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Có thể khái quát nội dung y đức thành ba bộ phận cơ bản: ý thức y đức;
quan hệ y đức và hành vi y đức.
* Ý thức y đức:
Ý thức y đức là một trong ba bộ phận cơ bản hợp thành y đức là hệ
thống các quan niệm, nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực, lý tưởng và tình cảm
đạo đức chỉ đạo hoạt động của người thầy thuốc trong hoạt động nghề nghiệp.
Trong ý thức y đức, hệ thống quan điểm về tính nhân đạo, lịng nhân ái
khơng đơn thuần là lịng tốt, không chỉ là ý nghĩ tốt đẹp về người khác của
thầy thuốc mà còn là sự thấu hiểu nỗi lo lắng, sợ hãi của người bệnh; cảm
nhận đầy đủ những đau đớn người bệnh đang gánh chịu bằng thái độ sẵn sàng


21
sẻ chia. Người thầy thuốc cần hiểu rằng, những mệt nhọc, vất vả của mình
đến đâu cũng khơng nặng nề bằng những cơn đau, sự bất lực của người bệnh
đối với bệnh tật họ đang gánh chịu. Vì vậy, mỗi thành công của người thầy
thuốc trong y thuật không chỉ là niềm vui thắng lợi của mình mà cịn là hạnh
phúc to lớn, có khi giá trị như được sinh ra lần thứ hai của bệnh nhân. Ý thức
y đức thể hiện rõ nhất tư tưởng: Người hạnh phúc nhất là người đem lại hạnh
phúc cho nhiều người nhất. Đây là quan niệm đạo đức đặc trưng trong nghề y,
đòi hỏi cán bộ ngành y phải hiểu đầy đủ; cảm nhận sâu sắc trở thành niềm tin,
thành giá trị khuôn mẫu cuộc sống cho mọi suy nghĩ và hành động của mình.
Ý thức y đức có nội dung phong phú, biểu hiện đa dạng bao gồm: quan
niệm y đức; nguyên tắc y đức; quy tắc y đức; chuẩn mực y đức và lý tưởng y đức.
* Quan hệ y đức:
Quan hệ y đức là tập hợp những mối quan hệ thơng qua đó người thầy

thuốc thể hiện tư tưởng, thái độ, hành vi cụ thể của mình. Quan hệ y đức rất
phong phú và đa dạng. Nhưng khái quát, quan hệ y đức có 3 loại quan hệ chủ
yếu là:
- Quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân.
- Quan hệ của thầy thuốc với các đồng nghiệp.
- Quan hệ của thầy thuốc với người thầy dạy mình.
Trong các mối quan hệ đó, mối quan hệ giữa thầy thuốc với bệnh nhân
là mối quan hệ cơ bản, phản ánh đặc trưng của y đức.
Đối tượng hoạt động nghề nghiệp của người thầy thuốc có tính phức
tạp. Trước hết, đó là bệnh tật đang gây đau đớn, đang đe doạ tính mạng, sức
khoẻ của con người. Đứng trước đối tượng này, người thầy thuốc ln đặt
mục đích phải khuất phục bệnh tật đó, giải phóng cho bệnh nhân. Các kiến
thức, kinh nghiệm của người thầy thuốc được huy động một cách tích cực
nhằm phát hiện đúng bệnh; xác định rõ nguồn gốc để đề xuất phác đồ điều trị
có hiệu quả cao. Chính căn bệnh của bệnh nhân đã lơi cuốn cao độ sự quan


22
tâm của người thầy thuốc, là thử thách người thầy thuốc phải vượt qua để làm
trịn chức phận của mình.
Bệnh tật bao giờ cũng tồn tại trong bệnh nhân, gây ra những đau đớn về
thể xác và tinh thần; đe doạ nguy hiểm tới tính mạng, gây thiệt hại về tiền của
cho bệnh nhân. Để tác động vào bệnh tật, cứu giúp người bệnh, thầy thuốc
phải thông qua bệnh nhân, phải tạo ra mối quan hệ hợp tác với bệnh nhân.
Thầy thuốc phải làm cho bệnh nhân thực sự tin tưởng vào khả năng to lớn của y
học, tin tưởng vào trình độ y thuật của thầy thuốc, làm cho họ thực sự yên tâm,
sẵn sàng hợp tác với thầy thuốc để chiến thắng bệnh tật. Có như vậy các quyết
định y thuật của thầy thuốc mới được bệnh nhân thực hiện; các yêu cầu của thầy
thuốc mới được bệnh nhân đáp ứng. Thơng qua đó, thầy thuốc có điều kiện
nghiên cứu bệnh tật trên cơ thể bệnh nhân, phát hiện ra những dấu hiệu lâm

sàng, phân tích những nguy cơ căn bệnh có thể gây ra cho người bệnh. Kết quả
nghiên cứu tìm hiểu đó sẽ giúp thầy thuốc hiểu rõ bản chất, đặc điểm của căn
bệnh đang đe doạ người bệnh, từ đó có biện pháp điều trị thích hợp.
Q trình điều trị căn bệnh theo phác đồ đã xác định, một lần nữa thầy
thuốc lại phải hợp tác với bệnh nhân. Lúc này bệnh nhân và thầy thuốc sẽ
cùng chiến tuyến, hợp lực với nhau tấn công vào bệnh tật. Cơ thể người bệnh
phải tiếp nhận các tác động y thuật như uống thuốc, tiêm thuốc, các cuộc phẫu
thuật … Đó là con đường mà thầy thuốc đưa vũ khí của mình tấn cơng loại
trừ bệnh tật. Cùng với thuốc và tác động y thuật, quá trình chữa bệnh cần thiết
phải khai thác khả năng đề kháng, ý chí tự chiến thắng bệnh tật của người
bệnh, tạo ra nội lực phối hợp với thầy thuốc và tác động y thuật, từng bước
đẩy lùi bệnh tật, tiến tới khỏi bệnh hoàn toàn.
Như vậy, quan hệ giữa bệnh nhân và thầy thuốc là quan hệ hợp tác cùng
chiến tuyến đối mặt với bệnh tật. Người bệnh tìm tới thầy thuốc vì họ có
bệnh, trong khi đó, thầy thuốc lại hướng vào tìm ra bệnh trong người bệnh.
Đây là quan hệ của 3 nhân tố với 2 chủ thể. Khi quan hệ này được thiết lập


23
nhanh chóng; thực hiện các ràng buộc chặt chẽ; phối hợp thống nhất thì
nhiệm vụ khám chữa bệnh được thuận lợi, khả năng khỏi bệnh cao.
Để tăng khả năng phát hiện và tấn công đẩy lùi bệnh tật trong mối quan
hệ với bệnh nhân, người thầy thuốc nảy sinh nhu cầu liên kết, hợp tác với các
đồng nghiệp nhằm tạo ra sức mạnh tập thể vượt trội trong cuộc chiến quyết
dành phần thắng. Những kiến thức, kinh nghiệm được các thế hệ người bệnh
đi trước truyền dạy được người thầy thuốc huy động để cùng vào cuộc. Điều
đó có nghĩa là, các mối quan hệ của người thầy thuốc với đồng nghiệp, với
các thế hệ người thầy dạy nghề cho mình được khai thác, phát huy phục vụ
giải quyết mối quan hệ giữa người thầy thuốc với bệnh nhân. Các mối quan
hệ đó đan xen vào nhau, phối hợp với nhau phản ánh mối quan hệ y đức.

Người thầy thuốc trong mối quan hệ tích cực đó thực sự hết lòng với bệnh
nhân, đau cùng nỗi đau của bệnh nhân khi bệnh tật đang hoành hành; vui cùng
niềm vui chiến thắng của bệnh nhân khi họ khỏi bệnh.
* Hành vi y đức:
Hành vi y đức là một trong ba bộ phận quan trọng hợp thành y đức.
Đây là những thao tác, cử chỉ, hành động cùng với các biểu lộ trên nét mặt,
lời nói, dáng vẻ bên ngồi… được thầy thuốc sử dụng trong các mối quan hệ
y đức. Đây là sự thể hiện ra bên ngoài của tư tưởng, thái độ y đức của người
thầy thuốc. Nội dung của hành vi y đức thể hiện ở các thao tác y thuật trong
khám, chữa bệnh phải nhẹ nhàng, thận trọng, tỉ mỉ, khoa học không gây đau
đớn cho người bệnh. Thông qua cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt… thầy
thuốc thể hiện thái độ ân cần, chu đáo, cảm thơng sâu sắc của mình, gây niềm
tin tưởng của bệnh nhân.
Hành vi y đức không đồng nhất với hành vi y thuật mà là tính chất
của hành vi y thuật, hồ quyện với hành vi y thuật. Người ta có thể quan
sát, đánh giá được hành vi y đức thông qua thái độ của người thầy thuốc
khi giao tiếp với bệnh nhân, khi tiến hành các hoạt động khám chữa bệnh.


24
Những hành vi y đức đúng đắn phải dựa trên cơ sở ý thức y đức cao đẹp;
quan hệ y đức trong sáng.
Ba bộ phận của y đức có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó ý
thức y đức là nguồn gốc bên trong, giữ vai trò chi phối tồn bộ nội dung và
tính chất của quan hệ y đức và hành vi y đức. Ý thức y đức tạo nên nội dung,
định hướng cho các quan hệ y đức, đồng thời điều khiển, kiểm soát các hành
vi y đức cho phù hợp với những nguyên tắc, chuẩn mực y đức đã hình thành
của người thầy thuốc. Do đó, ý thức y đức giữ vai trị chủ đạo trong đời sống
đạo đức của người thầy thuốc. Trong khi đó, quan hệ y đức vừa chịu sự chi
phối của ý thức y đức, vừa thể hiện bản lĩnh chính trị tinh thần, trình độ kiến

thức, kinh nghiệm xã hội và mức độ lĩnh hội, thấm nhuần các giá trị đạo đức
xã hội. Hành vi y đức đóng vai trị thực hiện các mối quan hệ y đức, thể hiện
cụ thể của y đức trong những tình huống quan hệ y đức xác định.
Tóm lại, y đức là đạo đức nghề nghiệp trong ngành Y, là toàn bộ những
giá trị, những chuẩn mực đạo đức đóng vai trị cốt lõi trong hệ thống phẩm
chất tốt đẹp của người làm công tác y tế. Biểu hiện của những phẩm chất cao
đẹp đó là tinh thần trách nhiệm cao, yêu nghề nghiệp, gắn bó với nghề nghiệp,
ln khao khát có cống hiến cho nghề nghiệp. Trong cơng tác ln tận tuỵ,
hết lịng yêu thương, chăm sóc người bệnh. Đây là sự cụ thể hoá các nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội; đạo đức nghề nghiệp nói chung vào
lĩnh vực y tế, được quy định cho những người làm công tác chăm sóc, bảo vệ
sức khoẻ cho tồn xã hội dựa trên đặc điểm, tính chất, vai trị của nghề y đối
với xã hội. Căn cứ vào những chuẩn mực, những giá trị y đức, người cán bộ y
tế trong q trình thực hiện nhiệm vụ sẽ nảy sinh địi hỏi phải thật thà, có tinh
thần đồn kết, lịng nhân ái cao thượng, ln khắc phục mọi khó khăn để hồn
thành nhiệm vụ. Trong rèn luyện phấn đấu ln thể hiện tinh thần ham học
hỏi, cầu tiến bộ, không ngừng vươn lên; trong khoa học phải trung thực, dũng
cảm toàn tâm, tồn ý vì một nền y học Việt Nam hiện đại, dân tộc, đại chúng.


25
* Y đức của người thầy thuốc trong quân đội: Y đức của người thầy
thuốc trong quân đội là tổng hòa các phẩm chất đạo đức của
người thầy thuốc và phẩm chất đạo đức của người quân nhân
cách mạng, đảm bảo cho họ hoàn thành tốt các nhiệm vụ của
người thầy thuốc trong hoạt động quân sự
Y đức của người thầy thuốc trong quân đội ta có sự thống nhất giữa cái
phổ biến (các phẩm chất đạo đức xã hội - đạo đức cách mạng), với cái đặc thù
(các phẩm chất đạo đức của người quân nhân cách mạng) và cái đơn nhất (các
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp - y đức).

Người thầy thuốc trong quân dội ta vừa mang phẩm chất của người
thầy thuốc nói chung vừa phải có những phẩm chất đạo đức của người quân
nhân cách mạng. Đặc điểm nổi bật trong hoạt động nghề nghiệp của người
thầy thuốc trong quân đội là: "đối tượng phục vụ của họ là thương binh, bệnh
binh và người bệnh. Bệnh tật của con người không phải thuần túy là sự biến
đổi về sức khỏe, sinh lý của cơ thể mà còn bao gồm cả những biến đổi về sức
khỏe tâm lý, tinh thần" [44, tr.12]. Xuất phát từ đặc điểm bao trùm đó nó
trực tiếp đặt ra yêu cầu khách quan về đạo đức của họ. Do vậy, người thầy
thuốc trong qn đội khơng chỉ có những tiêu chuẩn đạo đức cách mạng, đạo
đức qn nhân nói chung, mà cịn phải có những phẩm chts đạo đức nghề
nghiệp nói riêng đó là:
Thứ nhất, hết lịng hết sức cứu chữa, phục vụ thương binh và người bệnh.
Thứ hai, tinh thần đoàn kết hợp tác chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau giữa những
người đồng nghiệp để cùng hoàn thành nhiệm vụ và tiến bộ khơng ngừng.
Thứ ba, tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ tồn
diện, nhất là trình độ chun mơn nghề nghiệp.
Thứ tư, y đức cách mạng của người thầy thuốc trong quân đội còn biểu
hiện ở thái độ, hành vi đối với chính bản thân mình. Họ phải nghiêm khắc với
bản thân, kỷ luật nghiêm minh, sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở những nơi khó


×