Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Công tác giám sát của các ủy ban kiểm tra huyện uỷ ở tỉnh đồng tháp giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.07 KB, 122 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ
phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Đảng lãnh đạo không chỉ đề
ra đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị,… mà lãnh đạo của Đảng còn
phải giám sát, theo dõi việc thực hiện chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng được chấp hành và tổ chức thực hiện như thế nào. Đây vừa là vấn đề có
tính nguyên tắc, vừa là chức năng lãnh đạo của Đảng.
Trong những năm qua, công tác giám sát của Đảng đã có chuyển biến
rõ rệt, đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và cơng tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, cơng
tác giám sát vẫn cịn những hạn chế, khuyết điểm như: Nhận thức của một số
cấp uỷ, tổ chức đảng về vị trí, vai trị, tác dụng cơng tác giám sát của Đảng
chưa đầy đủ nên có lúc thiếu quan tâm đúng mức, từ đó chất lượng và hiệu
quả công tác giám sát chưa cao; nhiều khuyết điểm, vi phạm của đảng viên và
tổ chức đảng chậm được phát hiện và khắc phục; chưa coi trọng giám sát để
phịng ngừa, phát huy nhân tố tích cực, nhằm đáp ứng yêu cầu công tác xây
dựng Đảng hiện nay. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và sự suy
thối về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên.
Để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trên, Nghị quyết số 14NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khố X về tăng cường cơng tác
kiểm tra, giám sát của Đảng đã đề ra những chủ trương, giải pháp trọng tâm
cần phải tập trung kiểm tra, giám sát.
Tỉnh Đồng Tháp là một tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, là tỉnh có
địa bàn khá rộng, dân cư đơng, trong điều kiện kinh tế thị trường, rất dễ
xảy ra các hiện tượng cán bộ, đảng viên tiêu cực, thoái hoá, biến chất trên


2


các lĩnh vực quản lý đất đai, xây dựng kết cấu hạ tầng, thu chi ngân sách,
quản lý xã hội, những suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, lề lối,
phong cách làm việc,...Công tác giám sát của các cấp uỷ, tổ chức đảng
trong Đảng bộ tỉnh nói chung và công tác giám sát của các uỷ ban kiểm tra
huyện uỷ nói riêng nếu khơng coi trọng, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín và
sức mạnh của Đảng, của các cấp uỷ, tổ chức đảng, khơng thể hồn thành
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Để xây dựng Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp, mà trước hết là các đảng bộ
huyện vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, lãnh đạo thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng đảng bộ huyện, một vấn đề rất
quan trọng đặt ra phải giải quyết là phải tăng cường công tác giám sát của các
uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở tỉnh Đồng Tháp.
Là một kiểm tra viên của cơ quan Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ Đồng Tháp,
có thời gian nhất định trực tiếp tham gia các hoạt động kiểm tra, giám sát, lại
được học tập, nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về khoa học xây dựng
Đảng, trong đó có cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng, tôi luôn trăn trở và
xác định trách nhiệm của mình trong cơng việc này.
Việc nghiên cứu tìm giải pháp tăng cường cơng tác giám sát của các uỷ
ban kiểm tra huyện uỷ ở tỉnh Đồng Tháp đang thực sự là vấn đề cần thiết và
rất cấp bách.
Vì vậy, tơi chọn và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ: “Công tác giám sát
của các ủy ban kiểm tra huyện uỷ ở tỉnh Đồng Tháp giai đoạn hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, vấn đề nâng cao chất lượng, tăng cường cơng
tác kiểm tra, giám sát nói chung, giám sát các tổ chức đảng, giám sát cán bộ,
đảng viên cấp uỷ quản lý nói riêng đã được các cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các
cấp và nhiều nhà nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn quan tâm. Những
quan điểm, chủ trương lớn và biện pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác



3
giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp được thể hiện khá rõ trong các Văn kiện
Đại hội Đảng, đặc biệt là Văn kiện Đại hội lần thứ X, XI của Đảng. Điều lệ
Đảng từ khoá X đến nay đã bổ sung nhiệm vụ giám sát của Đảng, trong đó có
nhiệm vụ giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp. Đây là vấn đề cấp thiết và
mới, cần nghiên cứu rõ ràng và đầy đủ hơn.
Vấn đề công tác giám sát của Đảng những năm gần đây đã được các cơ
quan chức năng, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn nghiên cứu
dưới các góc độ khác nhau. Các cơng trình nghiên cứu này đã được xuất bản
thành sách, hoặc đăng tải trên các báo, tạp chí… trong nước, đã nêu lên những
cơ sở khoa học nền tảng về lý luận và thực tiễn có giá trị cao. Có thể điểm qua
các cơng trình dưới đây:
* Các đề tài nghiên cứu khoa học:
- Đề tài khoa học cấp nhà nước giai đoạn 2000 - 2005: “Đổi mới công
tác kỷ luật trong Đảng nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai
đoạn cách mạng mới”, mã số KX.03.07, do GS, TS Nguyễn Thị Doan, làm
Chủ nhiệm, đã nghiệm thu năm 2005 và in thành sách.
- Đề tài khoa học cấp bộ "Công tác giám sát trong Đảng giai đoạn hiện
nay" của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2007
do Tiến sỹ Đặng Đình Phú làm Chủ nhiệm, đã nghiệm thu và in thành sách.
Đề tài nêu lên những vấn đề lý luận và thực tiễn. Đề ra
phương hướng, giải pháp chủ yếu để tăng cường công tác giám
sát trong Đảng giai đoạn hiện nay.
* Các sách:
- Uỷ ban Kiểm tra Trung ương: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với
cơng tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng, Hà Nội, 2004.
- Uỷ ban Kiểm tra Trung ương: Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành
kỷ luật trong Đảng, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2007.
- Lê Văn Giảng (Chủ biên) (2008) Một số giải pháp nhằm nâng cao



4
chất lượng giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Nội dung chủ yếu của cuốn sách là tác giả tập trung trình bày cơ sở lý
luận công tác giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp. Từ đó nêu lên tình hình
thực hiện giám sát trong thời gian qua (2001-2005) và đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp.
- Cao Văn Thống (2009): Tăng cường kiểm tra, giám sát phục vụ
nhiệm vụ chính trị và cơng tác xây dựng Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đây là cuốn sách tập hợp các bài viết của tác giả đã được đăng tải trên các tạp
chí khoa học về lý luận và thực tiễn của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật
của Đảng.
- Phạm Thị Hải Chuyền (Chủ biên) (2010): Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơng tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Thông qua cuốn sách, tác giả trình bày có tính hệ thống một số vấn
đề của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của
Đảng; từ đó tác giả nêu lên tình hình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong thời gian qua. Trên cơ sở đó,
tác giả đề ra yêu cầu và một số giải pháp nhằm tiếp tục vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong
giai đoạn hiện nay.
* Các bài viết đăng trên các tạp chí:
- GS, TS Nguyễn Thị Doan: Nâng cao vai trị, vị trí của cơng tác kiểm
tra và vị thế của UBKT các cấp, Tạp chí Kiểm tra, số 8, năm 2003.
- Nguyễn Văn Chi: Công tác kiểm tra của Đảng qua 20 năm đổi mới,
Tạp chí Cộng sản, số 23, tháng 12 năm 2005.
- Nguyễn Thị Doan: Tăng cường cơng tác giám sát trong Đảng, Tạp
chí Cộng sản, số 11/2004.
- Nguyễn Thị Doan: Gắn chặt công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ đối
với tiến trình cổ phẩn hố doanh nghiệp nhà nước, Tạp chí Cộng sản, số 3/2006.



5
- Hà Quốc Trị: Về thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát trong Đảng,
Tạp chí Kiểm tra, số 3/2006.
- Nguyễn Phi Long: Quản lý, giám sát cán bộ - nhiệm vụ cần được chú
trọng thực hiện từ cơ sở, Tạp chí Kiểm tra, số 3/2007.
- Vũ Ngọc Lân: Kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của nhân
dân, Tạp chí Kiểm tra, số 3/2007.
- Trương Tấn Sang: Tăng cường cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng
góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, Tạp chí Kiểm tra, số 4/2007.
- Nguyễn Thị Doan: Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phục vụ
bầu cử đại biểu Quốc hội khố XII, Tạp chí Kiểm tra số 4/2007.
- Thu Hà: Trao đổi về nguyên tắc giám sát trong Đảng, Tạp chí Kiểm
tra, số 4/2007.
- Trần Thị Hiền: Những vấn đề rút ra từ việc thực hiện nhiệm vụ giám
sát ở Quảng Ngãi, Tạp chí Kiểm tra, số 5/2007.
* Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ:
- Lê Minh Sơn: Công tác giám sát của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ tỉnh
Bình Định giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2007.
- “Chất lượng cơng tác kiểm tra của các đảng uỷ xã, thị trấn ở huyện
Long Thành, tỉnh Đồng Nai hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, năm 2005,
Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Lài, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
- “Chất lượng cơng tác kiểm tra của uỷ ban kiểm tra các quận, huyện
uỷ ở Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, năm 2004, Luận văn thạc
sĩ của Phạm Huy Giáp, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- "Chất lượng cơng tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra các
huyện uỷ, thị uỷ ở tỉnh Kon Tum giai đoạn hiện nay" của Lê Thị Ngân, năm

2007, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã làm rõ


6
những phạm trù, khái niệm, những vấn đề lý luận liên quan đến công tác kiểm
tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra huyện, thị uỷ ở tỉnh Kon Tum; đưa ra quan
điểm và tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban
kiểm tra huyện uỷ, thị uỷ của tỉnh; tác giả đi sâu khảo sát, đánh giá thực trạng
công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra các huyện, thị uỷ từ năm 2001 2006. Trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế, kinh nghiệm và
những vấn đề đặt ra cần giải quyết; đề xuất mục tiêu, phương hướng và các giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban
kiểm tra huyện, thị uỷ ở tỉnh Kon Tum trong giai đoạn hiện nay.
- "Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra các
huyện, thị uỷ ở tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay" của Nguyễn Khắc
Bát, năm 2007, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh. Tác giả làm rõ khái niệm, quan niệm và những vấn đề lý luận chủ yếu
liên quan đến chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra
huyện, thị uỷ thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng
công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra huyện, thị ở tỉnh Vĩnh Phúc,
đồng thời chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và kinh nghiệm. Trên cơ
sở đó, tác giả đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra huyện, thị uỷ
của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010.
- Trần Quang Đảng (2008): “Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát
của uỷ ban kiểm tra huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong
giai đoạn hiện nay”. Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã làm rõ thêm các khái niệm, cơ
sở lý luận của công tác kiểm tra, giám sát và chất lượng công tác kiểm tra,
giám sát của uỷ ban kiểm tra huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá
trong giai đoạn hiện nay. Đi sâu khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng
công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra huyện, thị, thành uỷ ở Đảng



7
bộ tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2001 - 2007; chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm,
nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm; từ đó, đề xuất phương hướng, giải
pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra
huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hố đến năm 2015.
Những cơng trình khoa học nêu trên đã luận giải những quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt
Nam về vị trí, vai trị, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát. Có một
số đề tài khoa học có nội dung phong phú, phản ánh các mặt của công tác
giám sát mang tính hệ thống, hàm chứa những kiến thức cơ bản, tính lý luận
và tính tổng kết thực tiễn sâu sắc, liên quan chặt chẽ, định hướng cho việc
thực hiện đề tài mà luận văn đề cập.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có tác giả hoặc cơng trình nào nghiên cứu
về công tác giám sát của các uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở tỉnh Đồng Tháp giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Đánh giá đúng thực trạng công tác giám sát của các uỷ ban kiểm tra
huyện uỷ ở tỉnh Đồng Tháp (chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và những
kinh nghiệm). Làm cơ sở luận văn đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác giám sát của uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở tỉnh Đồng Tháp.
3.2. Nhiệm vụ
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng.
- Nghiên cứu, đề xuất phương hướng, giải pháp tăng cường công tác
giám sát của các uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020
và những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Công tác giám sát của các uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở tỉnh Đồng Tháp
giai đoạn 2006 đến nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu


8
Khảo sát thực tế các uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở tỉnh Đồng Tháp từ
2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn, phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1.Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận của luận văn là dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về xây dựng Đảng và công tác giám sát của Đảng.
- Thực trạng công tác giám sát của các uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở tỉnh
Đồng Tháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp lơgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp,
phương pháp tổng kết thực tiễn, khảo sát, thống kê, phương pháp chuyên gia,
phỏng vấn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Đưa ra quan niệm về công tác giám sát của các uỷ ban kiểm tra huyện
uỷ ở tỉnh Đồng Tháp.
- Những kinh nghiệm về sự chỉ đạo, hướng dẫn và thực hiện nhiệm vụ
giám sát của các uỷ ban kiểm tra ở tỉnh Đồng Tháp từ năm 2006 đến năm 2012.
- Những giải pháp tăng cường công tác giám sát của các uỷ ban kiểm
tra huyện uỷ ở tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho các uỷ ban kiểm tra huyện uỷ trong quá trình chỉ đạo, hướng dẫn và

thực hiện nhiệm vụ giám sát trong giai đoạn hiện nay. Kết quả nghiên cứu của
luận văn cịn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng
dạy và học tập ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và
Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp.
8. Kết cấu của luận văn


9
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
CÔNG TÁC GIÁM SÁT CỦA CÁC UỶ BAN KIỂM TRA HUYỆN UỶ Ở
TỈNH ĐỒNG THÁP - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CHUNG

1.1.1. Khái qt tình hình, đặc điểm của các huyện tỉnh Đồng Tháp
1.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Đồng Tháp là một tỉnh ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long trù
phú, cách Thành phố Hồ Chí Minh 165 km về phía Tây Nam, tỉnh Đồng Tháp
có diện tích tự nhiên 3.374 km2, được chia thành 12 đơn vị hành chính gồm 9
huyện (Cao Lãnh, Tháp Mười, Thanh Bình, Tam Nơng, Tân Hồng, Hồng
Ngự, Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vị), 1 thị xã cổ (Sa Đéc) vốn là trung tâm
kinh tế, văn hố có tiếng trong vùng và 1 thành phố (Cao Lãnh - tỉnh lỵ), 1 thị
xã trẻ (Hồng Ngự) đang vươn mình đi lên cùng cả nước trong tiến trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố …Tính đến cuối năm 2010, tồn tỉnh có số dân
1.667.706 người, trong đó có 3.612 người dân tộc thiểu số, chủ yếu là người
Hoa; có đường biên giáp nước bạn Campuchia dài hơn 48 km và 7 cửa khẩu,
trong đó có 2 cửa khẩu Quốc tế Thường Phước và Dinh Bà. Đồng Tháp đang
tập trung đầu tư khai thác, lợi thế kinh tế biên giới để góp phần phát triển
thương mại, dịch vụ đưa nền kinh tế của tỉnh.

Điều kiện tự nhiên, địa lý thuận lợi, Đồng Tháp có 2 nhánh sơng Cửu
Long (sơng Tiền và sơng Hậu) hiền hồ chảy qua, hàng năm bồi đắp phù sa
cho vùng đất này 4 mùa cây xanh, trái ngọt và hệ thống giao thông thuỷ thông
suốt. 2 bến cảng Cao Lãnh và Sa Đéc nằm bên bờ sơng Tiền giúp vận chuyển
hàng hố thuận tiện với biển Đông và nước bạn Campuchia.
Đồng Tháp cũng là tỉnh có nhiều quốc lộ đi qua địa bàn. Quốc lộ 30,


10
quốc lộ 80, quốc lộ 54 hiện hữu cùng với đường Hồ Chí Minh qua trung tâm
tỉnh lỵ vượt sơng Tiền nối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tạo lợi thế
về giao thông bộ nối với Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ và các
tỉnh trong khu vực.
Đồng Tháp có nền nơng nghiệp phát triển, là vựa lúa lớn thứ 3 của cả
nước, là tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế và chỉ số năng lực cạnh tranh cao.
Đồng Tháp đang thực hiện đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Điều kiện tự nhiên của các huyện
Các huyện ở tỉnh Đồng Tháp chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và nuôi
trồng thuỷ sản, với diện tích tự nhiên khoảng 308. 500 ha, dân số 1.340.844
người; nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với những đặc trưng cơ bản,
nắng nhiều (2.710 giờ/năm) nhiệt độ cao đều trong năm, trung bình từ 27,3 0C
-32,80C, biên độ nhiệt chênh lệch ngày và đêm tương đối lớn, rất thuận lợi
cho thâm canh tăng vụ, tăng năng suất và nâng cao chất lượng nơng sản,
lượng mưa bình quân hàng năm thấp (1.332 mm chỉ bằng 70% lượng mưa
năm của Thành phố Hồ Chí Minh) và chia làm hai mùa rõ rệt:
Mùa mưa: Từ tháng 5 đến tháng 11, chiếm trên 90% lượng mưa cả
năm, đặc biệt các tháng mưa lớn trùng với các tháng mùa lũ đã xảy ra tình trạng
nước lũ dâng cao ở sơng rạch và ngập úng trong đồng ruộng do mưa lớn tại chỗ.
Riêng khu vực nằm trong những ngày mưa lớn thường kèm theo lốc xốy.

Mùa khơ: Từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau chỉ chiếm dưới 10% lượng
mưa của năm.
Chế độ thuỷ văn trên sông rạch thuộc địa bàn huyện chịu sự tác động
của 3 yếu tố là: chế độ thuỷ triều biển Đơng; chế độ dịng chảy của sơng Tiền;
chế độ mưa tại chỗ. Có thể chia thành 2 mùa là mùa lũ và mùa kiệt:
Mùa lũ: Bắt đầu từ tháng 7 đến tháng 11, lũ từ sông Mê Kông đổ về
cộng với mực nước dâng cao do triều cường làm cho sự chênh lệch mực nước


11
thấp nên khả năng thoát nước lũ kém. Thời gian lũ lớn đối với huyện thường
duy trì trong 3 tháng (8,9,10).
Mùa kiệt: Bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 5 năm sau, mực nước đỉnh
triều hầu như thấp hơn các cao trình đồng ruộng nên phải sử dụng bơm tưới
để tưới bổ sung nước cho cây trồng.
1.1.1.2. Tình hình chính trị
Từ khi các chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên trong tỉnh được thành lập
(11-1929) đến ngày giải phóng hồn tồn (30-4-1975), Đảng bộ tỉnh Đồng
Tháp đã vượt qua mn vàn gian khổ hy sinh, trực tiếp lãnh đạo nhân dân
trong tỉnh lập nhiều chiến công oanh liệt, giành thắng lợi to lớn, góp phần làm
vẻ vang các chặng đường lịch sử của Đảng và dân tộc.
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nhưng Đồng Tháp và cả miền Nam
chưa được giải phóng. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Đồng Tháp lại tiến hành cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cực kỳ cam go, ác liệt kéo dài 21 năm. Đảng bộ
kiên trì bám trụ trong dân, lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi Mỹ- Diệm phải thi
hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, chống “tố cộng, diệt cộng”; đòi dân sinh dân chủ, củng
cố, xây dựng cơ sở, xây dựng căn cứ, xây dựng duy trì lực lượng võ trang;…
Trong cuộc Tổng cơng kích, Tổng khởi nghĩa năm 1975, quân dân tỉnh
Đồng Tháp đã nhanh chóng giải phóng quê hương, rồi cùng với tỉnh An
Giang, Long Châu Tiền và lực lượng chủ lực của Khu 8 kiên quyết, khôn

khéo tấn công vào sào huyệt cuối cùng của bọn tàn quân Mỹ- nguỵ rút về tử
thủ ở Tây An, Chợ Mới, buộc chúng phải đầu hàng, góp phần xứng đáng vào
thắng lợi cuối cùng, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Suốt chặng đường 30 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, Đảng bộ,
quân và dân Đồng Tháp luôn trung thành với Đảng với Tổ quốc và Bác Hồ,
cùng với cả miền Nam tin tưởng chấp nhận “đi trước về sau” thực hiện bằng
được lý tưởng giành độc lập tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong cuộc
chiến đấu đầy cam go thử thách ấy, Đồng Tháp đã có 17.263 liệt sĩ, (riêng


12
trong kháng chiến chống Mỹ có 13.189 liệt sĩ), 7.295 thương binh, hàng chục
ngàn đồng bào yêu nước bị địch giết hại, đánh đập bắt bớ, tù đày đến tàn phế.
Cơng lao và những đóng góp to lớn của Đảng bộ, quân và dân tỉnh
Đồng Tháp đã được Tổ quốc ghi công, được Nhà nước tặng thưởng Huân
chương Sao vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước; 554 Bà mẹ Việt
Nam anh hùng; 35 đơn vị địa phương và 34 cán bộ chiến sĩ đã tuyên dương
danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Nhiều cán bộ, chiến sĩ
được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, 1.143
Huân chương chiến công, 3.017 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc, 3.509 Huân
chương giải phóng, 2.201 Huân chương chiến sĩ vẻ vang. Nhiều cán bộ, chiến
sĩ và nhân dân đã tặng thưởng Huân chương, Huy chương kháng chiến các
hạng và hàng chục ngàn bằng khen, giấy khen, 2.510 gia đình được cơng nhận
là gia đình có công với cách mạng.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ là thắng lợi vẻ vang trọn vẹn
nhất của nhân dân Việt Nam, của nhân dân Đồng Tháp. Trong suốt 30 năm
kháng chiến chống lại hai tên đế quốc đầu sỏ có tiềm lực kinh tế, quốc phịng
hùng mạnh nhất, Đảng bộ và quân dân Đồng Tháp đã phải vượt qua mn vàn
khó khăn gian khổ, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, đem
hết “tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải” để chiến đấu giành độc lập

tự do, thực hiện mục tiêu lý tưởng: Thống nhất Tổ quốc, cùng cả nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ ở Đồng Tháp là nhờ có
đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn và sự lãnh đạo tài tình của
Đảng, sự giúp đỡ, chi viện của phong trào cách mạng miền Nam, của hậu
phương miền Bắc, của các nước xã hội chủ nghĩa, sự đồng tình của nhân dân
Campuchia láng giềng và nhân dân u chuộng hồ bình thế giới. Song
nguyên nhân trực tiếp là do tinh thần bất khuất, ý chí chiến đấu giành độc lập,
thống nhất Tổ quốc, truyền thống cách mạng kiên cường của Đảng bộ và nhân


13
dân Đồng Tháp, của lực lượng vũ trang tỉnh nhà ln tuyệt đối trung thành với
Đảng, với dân, có cách đánh sáng tạo, phù hợp với chiến trường đồng nước.
Từ ngày Chi bộ Đảng đầu tiên được thành lập đến ngày toàn thắng 304-1975, Đảng bộ Đồng Tháp đã trải qua 45 năm chiến đấu và trưởng thành.
Với 15 năm hoạt động bí mật, Đảng bộ đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi
dân sinh, dân chủ, lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi trong
Cách mạng Tháng Tám 1945. Tiếp đó, Đảng bộ lãnh đạo quân và dân trong
tỉnh “kháng chiến, kiến quốc” suốt 30 năm. Thực tiễn phong phú của đấu
tranh cách mạng đã giúp cho Đảng bộ rút ra được nhiều kinh nghiệm về công
tác xây dựng Đảng, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng.
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ổn
định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội,…luôn được các cấp uỷ đảng trong
tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Công tác xây dựng Đảng bộ, kiện toàn và
nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trong thời gian qua được
tăng cường, công tác triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị của Trung ương, của tỉnh có đổi mới. Các cấp uỷ, tổ chức đảng
và cán bộ, đảng viên xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, từ đó, tích cực
học tập, rèn luyện giữ gìn phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực, tinh thần trách

nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân.
Các tổ chức đảng đã thể hiện vai trò hạt nhân trong lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Kịp thời bổ sung, sửa
đổi quy định về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các loại
hình tổ chức cơ sở đảng, đánh giá chất lượng tổ chức của cơ sở, đảng viên
ngày càng thực chất; tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh hàng năm
tăng dần, bình qn đạt 85,25%/năm. Cơng tác kết nạp đảng viên tiến bộ vượt
bậc, tỷ lệ đảng viên đạt 2,79% so với dân số.
Phương thức lãnh đạo của cấp uỷ đảng ngày càng đổi mới, phát huy vai


14
trò lãnh đạo của cấp uỷ, năng lực quản ý, điều hành của chính quyền, tính chủ
động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị- xã hội, tạo
điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia xây dựng Đảng và giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước.
Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng và thực hiện tiết kiệm,
chống lãng phí, trên cơ sở thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “ Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thường xuyên kiểm tra, giám sát,
xử lý các vi phạm đúng pháp luật và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc,
các đồn thể chính trị - xã hội và nhân dân.
Tuy nhiên, năng lực chỉ đạo, điều hành có mặt hạn chế, nhất là huy
động các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm
tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch có lúc chưa chặt chẽ
giữa ngành và địa phương. Chất lượng một số qui hoạch chưa cao và cơng tác
qui hoạch có lúc chưa chặt chẽ, thiếu linh hoạt chưa kịp thời điều chỉnh cho
phù hợp với tình hình thực tiễn, nhất là ni trồng thuỷ sản. Cơng tác tham
mưu xây dựng kế hoạch và công tác quản lý nhà nước của một số ngành chưa
đáp ứng yêu cầu. Chất lượng hoạt động của cơ quan tư pháp có mặt hạn chế.
Ý thức pháp luật của một bộ phận nhân dân còn thấp. Một số cấp uỷ đảng

chưa thực hiện tốt cơng tác tự phê bình và phê bình, củng cố, kiện tồn tổ
chức cơ sở đảng, nâng cao năng lực đảng viên. Công tác sắp xếp, điều động,
bố trí cán bộ cịn bị động, chưa tạo ra bước ngoặt có tính đột phá.
1.1.1.3. Điều kiện kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 14,12% năm. Tổng giá trị sản
lượng nội tỉnh ước đạt 14,362 tỷ đồng. GDP bình quân ước đạt 773
USD/người/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng khu vực I đạt
41% khu vực II đạt 27% và khu vực III đạt 32% cơ cấu lao động chuyển dịch
tương ứng (khu vực I chiếm 59,8%, khu vực II chiếm 18,2% và khu vực III
chiếm 22%). Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 2,716 tỷ đồng.
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển, cơng nghiệp hố, hiện đại hoá


15
nông nghiệp đạt được những kết quả bước đầu, tạo ra nhiều mơ hình sản xuất
hiệu quả.
Giá trị tăng thêm nghành nông - lâm - thuỷ sản đạt 5.887 tỷ đồng, tăng
bình qn 6,5%/năm. Cơ cấu cây trồng, vật ni đa dạng hơn, phù hợp đặc
điểm sinh thái của tỉnh và nhu cầu thị trường. Ứng dụng tiến bộ khoa học kỷ thuật vào sản xuất được đẩy mạnh; cơ cấu hoá khâu làm đất đạt 100%,
bơm điện đạt 57% và thu hoạch đạt khoảng 50%. Triển khai kịp thời các
chính sách hỗ trợ của Nhà nước đến với nơng dân, thí điểm thành cơng một số
mơ hình liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ nông sản. Sản lượng lúa hàng năm
đạt trên 2,6 triệu tấn, trong đó lúa chất lượng cao chiếm 70% diện tích gieo
trồng. Chăn ni gia súc, gia cầm được khôi phục và phát triển, sản lượng
thuỷ sản nuôi đạt 323 ngàn tấn. Hoa màu và cây cơng nghiệp ngắn ngày bình
qn 30 ngàn tấn/năm; duy trì được một số vùng chuyên canh ăn trái, hoa
kiểng qui mô lớn.
- Công nghiệp - xây dựng phát triển mạnh, cơng nghiệp chế biến thể
hiện được vai trị mũi nhọn trong phát triển kinh tế, tăng 28%/năm.
Đầu tư xây dựng cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Giá trị tăng

thêm ngànhh xây dựng đạt 564 tỷ đồng, tăng gần 24%/năm. Phân cấp mạnh
về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là trên lĩnh vực giao thông, giáo dục,
y tế; tỷ lệ giải ngân vốn hàng năm tăng dần. Thu hút một số doanh nghiệp đầu
tư phát triển giao thông và đô thị.
- Hoạt động thương mại - dịch vụ tiếp tục phát triển, 18.06%/năm, các
loại hình dịch vụ ngày càng đa dạng.
Hạ tầng thương mại - dịch vụ từng bước đáp ứng nhu cầu lưu chuyển,
mua bán hàng hoá. Hệ thống chợ, trung tâm thương mại, siêu thị được tiếp tục
đầu tư ở thành phố Cao Lãnh, thị xã Sa Đéc. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh,
ước đạt 596 triệu USD, trong đó xuất khẩu thuỷ sản chiếm gần 54%, tăng
21,6%/năm; kim ngạch nhập khẩu ước đạt 445 triệu USD, tỷ lệ tăng hàng năm


16
đạt 11,95%. Cửa khẩu quốc tế Thường Phước, Dinh Bà và các cặp cửa khẩu
chính được năng cấp, góp phần thu hút đấu tư và thúc đẩy kinh tế biên giới.
Dịch vụ vận tải ngày càng phát triển, bước đầu xã hội hố dịch vụ vận
tải cơng cộng, xây dựng và khai thác cảng đường thuỷ. Dịch vụ tài chính ngân hàng tiếp tục phát triển mạnh, đáp ứng yêu cầu luân chuyển vốn. Mạng
lưới bưu chính và dịch vụ viễn thông phát triển nhanh, tỷ lệ nhân số sử dụng
internet đạt 49%.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư.
Tỉnh đã tập trung đầu tư các cơng trình giao thơng, thuỷ lợi, thương
mại, dịch vụ, du lịch, giáo dục, dạy nghề, y tế, cung cấp điện, nước sạch, viễn
thông, hạ tầng các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu. Triển khai
thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án xây dựng nơng thơn, góp phần
phát triển kinh tế, thay đổi rõ nét bộ mặt nơng thơn, nâng cao dân trí, tạo thêm
nhiều việc làm cho lao động nơng thơn. Hồn thành giai đoạn 1 chương trình
xây dựng cụm, tuyến dân cư và đang tiếp tục chuyển khai giai đoạn 2, chủ
yếu là ổn định chỗ ở cho nhân dân di dời từ vùng sạt lở.
Mạng lưới đô thị tiếp tục phát triển, tỷ lệ đơ thị hố đạt 28,3%. Cơng

tác đầu tư chỉnh trang và xây dựng hạ tầng đô thị được quan tâm. Thành phố
Cao Lãnh đã được công nhận là đô thị loại III, thành lập thị xã Hồng Ngự,
tiếp tục đầu tư theo tiêu chí đơ thị loại III đối với thị xã Sa Đéc, đô thị loại IV
đối với thị xã Hồng Ngự, thị trấn Mỹ An và thị trấn Lấp Vò.
- Nguồn vốn cho đầu tư phát triển trên địa bàn hàng năm điều tăng.
Tổng vốn đầu tư phát triển đạt 27,262 tỷ đồng, chiếm 27,7% GDP của
tỉnh, tăng bình qn 15,8%/năm, trong đó, ngành nông - lâm - thuỷ sản chiếm
16,4% ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 37%, ngành thương mại - dịch
vụ chiếm 46,6%. Triển khai có hiệu quả gói kích cầu của Chính phủ, giúp các
doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh.
Tuy lĩnh vực kinh tế đạt nhiều thành tựu quan trọng nhưng vẫn còn một
số hạn chế như:


17
Tăng trưởng kinh tế tuy đạt tốc độ khá cao nhưng chưa đạt mục tiêu đề
ra. Chất lượng tăng trưởng chưa cao, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động cịn chậm so với kế hoạch.
Quy mơ kinh tế tập thể còn nhỏ, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Hạ tầng
kinh tế - xã hội nông thôn chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới.
Hiện đại hố nơng nghiệp cịn chậm, sản phẩm cơng nghiệp chưa đa dạng,
chưa khai thác tốt tiềm năng du lịch.
Tiến độ lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và các quy
hoạch phát triển chậm; tầm nhìn một số quy hoạch, đề án còn hạn chế, quản lý
quy hoạch chưa chặt chẽ. Huy động vốn đầu tư tồn xã hội cịn thấp, hạ tầng
giao thơng chưa đáp ứng u cầu.
1.1.1.4. Tình hình dân cư, dân tộc, tơn giáo
Là một tỉnh đồng bằng, có nhiều sơng, rạch, do tập quán của người dân
nên tình hình dân cư tập trung ở ven hai bên bờ sông, rạch, sự phân bố dân cư
không đồng đều giữa nông thôn và thành thị, sự phân hố giàu, nghèo giữa

nơng thơn và thành thị ngày càng xa.
Dân tộc, tơn giáo trong tỉnh nói chung và các huyện nói riêng phần lớn đa
số là dân tộc kinh chiếm 99,3% dân số, còn lại 0,7% là dân tộc Hoa và Khơme;
tơn giáo gồm có: Hồ Hảo, Phật Giáo, Cao Đài, Công Giáo và Tinh Lành.
1.1.1.5. Tình hình quốc phịng, an ninh
Tỉnh Đồng Tháp có đường biên giới giáp với nước bạn Campuchia, tập
trung ở huyện Tân Hồng, Hồng Ngự và thị xã Hồng Ngự.
Trong thời kỳ đổi mới, mối quan hệ biện chứng giữa hai lĩnh vực kinh
tế - xã hội với quốc phòng - an ninh đã được nhìn nhận khá tồn diện và sâu
sắc. Mục tiêu của tỉnh là sự kết hợp ấy là khai thác, sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực tổng hợp, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc nhằm đảm bảo kinh tế - xã hội phát triển nhanh, bền vững và
xây dựng, tăng cường quốc phòng - an ninh được giữ vững. Vì vậy, tăng
cường quốc phịng - an ninh đã trở thành một trong những mục tiêu của chiến


18
lược phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại kinh tế - xã hội phát triển sẽ đảm
bảo quốc phòng - an ninh được củng cố vững chắc.
Đại hội đại biểu lần thứ IX Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp xác định: “Tập
trung phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trọng tâm là giao thông, tạo
nền tảng cho kinh tế phát triển nhanh, toàn diện và bền vững… Bảo đảm
quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội”.
Các cấp uỷ đảng, chính quyền, đồn thể trong thời gian qua ln quán
triệt quan điểm và những chủ trương, biện pháp xây dựng nền an ninh nhân
dân và thế trận an ninh nhân dân trên cơ sở gắn với nền quốc phòng tồn dân,
thơng qua phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; phịng chống có
hiệu quả âm mưu "Diễn biến hồ bình - bạo loạn lật đổ" của các thế lực thù
địch, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an tồn xã hội; chủ động tấn cơng
kẻ địch và các loại tội phạm, không để xảy ra đột biến bất ngờ, tạo điều kiện

thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Sự lãnh đạo của
các cấp uỷ đảng và vai trị quản lý, điều hành của chính quyền có hiệu quả;
tinh thần tích cực tự giác của tồn Đảng bộ, toàn quân và mọi tầng lớp nhân
dân trong Tỉnh đối với cơng tác quốc phịng - an ninh. Chủ động nắm tình
hình an ninh trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, kịp thời phát hiện và xử lý các yếu
tố xấu mới nảy sinh, không để ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh; công tác phịng, chống các loại tội phạm cơng nghệ cao được tăng
cường; kịp thời phát hiện, ngăn chặn hoạt động kích động, tập hợp cơng nhân
đình cơng, lãn cơng, tạo mơi trường ổn định để phục vụ hội nhập kinh tế quốc
tế của Tỉnh.
Đã chủ động kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh và quốc
phòng - an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội. Xây dựng và phát triển các dự án, chương trình, các khu
kinh tế trọng điểm của tỉnh như: khu công nghiệp Sa Đéc, khu công nghiệp
Trần Quốc Toản, tuyến công nghiệp kênh xáng Lấp Vò - Sa Đéc và Quốc lộ


19
54 - sông Hậu, phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới
theo hướng công nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp phải cân đối cả phục
vụ dân sinh và quốc phòng - an ninh. Thực hiện tốt các đề án kinh tế - quốc
phòng trong tồn Tỉnh, lồng ghép chương trình xố đói, giảm nghèo, quân dân
y kết hợp với phong trào “Toàn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hố ở
khu dân cư"; giải quyết kịp thời, có hiệu quả mọi vấn đề phức tạp từ cơ sở;
tận dụng lợi thế địa hình, phát triển trồng rừng, cải tạo địa hình xây dựng thế
trận phòng thủ, nhất là các cụm, tuyến dân cư vùng biên giới; đẩy mạnh xây
dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội tạo thế liên hồn trong cơng tác
phịng thủ.
Phát triển thế mạnh của khu vực kinh tế cửa khẩu, có chính sách, bảo
đảm mơi trường đầu tư, lưu thơng hàng hố thơng thống, tạo điều kiện thuận

lợi để thu hút các thành phần kinh tế trên địa bàn Tỉnh phát triển. Gắn quốc
phòng - an ninh với xây dựng phát triển khu kinh tế cửa khẩu Thường Phước,
Dinh Bà và các chợ đường biên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi, mua
bán hàng hố, giao lưu văn hố, thơng tin giữa dân cư hai bên biên giới, góp
phần tích cực ổn định tình hình trật tự an ninh biên giới ngày càng tốt hơn.
Chủ động phối hợp với các sở, ban, ngành tỉnh và địa phương vùng dự án
triển khai thực hiện các chương trình lồng ghép để chuyển dịch cơ cấu kinh
tế; làm tốt công tác di dân vào cụm, tuyến dân cư; tổ chức triển khai có hiệu
quả mục tiêu, nhiệm vụ dự án đề ra, góp phần xây dựng vùng dự án mạnh về kinh
tế, vững về quốc phòng - an ninh.
Phát triển kinh tế làm tăng thêm nguồn lực quốc phòng - an ninh và
quốc phòng - an ninh được củng cố vững chắc sẽ tạo thuận lợi cho phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Xây dựng quốc phòng - an ninh vững mạnh trên cơ
sở nền kinh tế của tỉnh phát triển nhanh và bền vững; ngược lại, phát triển
kinh tế - xã hội nhanh và bền vững thì phải trên cơ sở quốc phòng - an ninh
vững chắc. Các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh luôn nêu


20
cao tinh thần cảnh giác cách mạng, thống nhất ý chí và hành động, ra sức phát
triển kinh tế, giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, củng cố
mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, xây dựng thế trận chiến
tranh nhân dân, an ninh nhân dân và thế trận biên phòng, xây dựng các lực
lượng vũ trang vững mạnh, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, giữ vững
ổn định chính trị, sẵn sàng ứng phó mọi tình huống, tạo tiền đề vững chắc cho
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Làm tốt cơng tác quốc phịng, an ninh là làm tốt nhiệm vụ bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã
hội tỉnh nhà phát triển nhanh và bền vững.
1.1.1.6. Các đặc điểm chủ yếu của các huyện ở tỉnh Đồng Tháp

Nhờ tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp kết hợp áp dụng các
tiến bộ khoa học vào sản xuất mà Đồng Tháp đã đưa sản lượng lúa cả năm
vượt qua con số 2,6 triệu tấn khơng chỉ góp phần ổn định an ninh lương thực
mà cịn đóng góp lớn vào chỉ tiêu xuất khẩu gạo của cả nước. Ngồi cây lúa,
Đồng Tháp cịn có trên 38.000 ha diện tích hoa màu và cây cơng nghiệp ngắn
ngày. Nông dân trồng nhiều nhất là đậu nành 20.000 ha, sản lượng 120.000
tấn, rau đậu các loại trên 11.400 ha, sản lượng khoảng 80.000 tấn. Nhiều vùng
hoa màu ven sông Tiền, sông Hậu đang được xây dựng thành vùng chuyên
canh, cung cấp nông sản phục vụ nhu cầu chế biến xuất khẩu.
Nghề trồng nấm rơm cũng khá phát triển ở nhiều vùng nông thôn Đồng
Tháp với hơn 250 ha, sản lượng khoảng 2.400 tấn/năm, cung cấp nguồn
nguyên liệu cho các nhà máy chế biến trong vùng.
Sen vốn là loài cây đặc trưng của vùng Đồng Tháp Mười, nay cũng
được đầu tư trồng tập trung để lấy hạt xuất khẩu. Đến nay, Đồng Tháp đã có
sản lượng hạt sen xuất khẩu trên 1.000 tấn/năm.
Đồng Tháp còn nổi tiếng với nghề trồng hoa kiểng với 300 ha cung cấp
hàng trăm loại hoa và kiểng quý trong nước và xuất khẩu. Làng hoa kiểng Sa
Đéc đang được đầu tư phát triển khơng chỉ để nâng cao chất lượng các lồi


21
hoa mà trong tương lai khơng xa nơi đây cịn là một địa điểm du lịch sinh thái
hấp dẫn đối với khách tham quan trong và ngoài nước.
Trái cây Đồng Tháp cũng nức tiếng trong vùng với xoài Cao Lãnh, qt
hồng Lai Vung, nhãn Châu Thành, bưởi Phong Hồ (có trái quanh năm),...
những loại cây đang mang lại giá trị kinh tế cao cho nhà vườn. Trong tổng số
30.000 ha diện tích cây ăn trái cho sản lượng hơn 150.000 tấn/năm, trong tồn
tỉnh hiện đã có khơng ít những vườn cây kiểu mẫu được sản xuất theo hướng
chuyên canh, sản phẩm đạt chất lượng và độ đồng đều cao để tiến tới xây
dựng thương hiệu, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.

Với địa hình sơng nước, thuỷ sản được coi là thế mạnh thứ 2 sau cây
lúa. Nghề nuôi thuỷ sản phát triển rộng khắp trên địa bàn, trong đó chủ lực là
cá tra, cá ba sa, tôm càng xanh. Diện tích mặt nước ni trồng thuỷ sản đạt
trên 6.000 ha, nông dân tập trung nuôi tôm trên ruộng lúa, nuôi cá bãi bồi ven
sông Tiền, sông Hậu. Đây là một tiềm năng lớn để phát triển thành vùng nuôi
trồng thuỷ sản trọng điểm. Hàng năm cung cấp cho chế biến xuất khẩu trên
245.000 tấn cá và hàng ngàn tấn tôm càng xanh, với kim ngạch xuất khẩu mỗi
năm đạt hàng trăm triệu USD.
Trên bước đường cơng nghiệp hố cùng cả nước, Đồng Tháp đang tập
trung xây dựng hạ tầng và mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đồng
Tháp đã quy hoạch tổng thể 6 khu công nghiệp, trong đó có 3 khu cơng
nghiệp (Trần Quốc Toản, Sa Đéc, Sông Hậu) tập trung với quy mô lớn đảm
bảo về hạ tầng thuận tiện về giao thông cả đường bộ và đường thuỷ, đã thu
hút 58 dự án đầu tư, trong đó có 32 dự án xây dựng hồn thành, đi vào sản
xuất, 17 dự án đang triển khai xây dựng, 9 dự án chuẩn bị đầu tư với tổng vốn
đầu tư hơn 21 triệu USD và hơn 3.300 tỷ đồng; thực hiện quy hoạch 34 cụm
công nghiệp với tổng diện tích hơn 2.000 ha, trong đó có 19 cụm đã được lập
quy hoạch chi tiết với diện tích gần 1.000 ha.
Hiện có 44 dự án đăng ký đầu tư trong các cụm cơng nghiệp, trong đó
có 8 dự án đã đi vào hoạt động, 15 dự án đang xây dựng và 21 dự án chuẩn bị


22
đầu tư. Ngồi ra, cịn có 10 dự án đăng ký đầu tư ngồi cụm cơng nghiệp, với
diện tích xây dựng 23 ha, tổng vốn đăng ký hơn 800 tỷ đồng.
Ngồi các dự án trong khu cơng nghiệp, Đồng Tháp cịn có các nhà
máy chế biến thuỷ sản cơng suất 20.000 tấn/năm, sản xuất bánh phồng tôm
5.500 tấn/năm, xay xát lau bóng gạo 1,7 triệu tấn/năm, sản phẩm may mặc 7
triệu sản phẩm/năm.
1.1.2. Khái quát về các đảng bộ huyện

1.1.2.1. Tình hình các tổ chức đảng của đảng bộ huyện
Các đảng bộ huyện có 45 cơ quan tham mưu, giúp việc, 476 tổ chức cơ
sở đảng trực thuộc và có 559 chi bộ khóm, ấp. Từ năm 2006 đến nay đã tiến
hành giám sát 927 lượt, nội dung giám sát chủ yếu tập trung vào việc chấp
hành nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của cấp uỷ cấp trên và
cấp mình; quy chế làm việc của cấp uỷ; chính sách pháp luật của Nhà nước;
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; nguyên tắc tập trung
dân chủ; công tác cán bộ; việc lãnh đạo thực hiện cơng tác phịng, chống tham
nhũng, lãng phí; giám sát đảng viên về việc chấp hành Điều lệ Đảng; thực hiện
chức trách, nhiệm vụ được giao; giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống; việc
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; giữ mối liên hệ với
cấp uỷ nơi cư trú. Qua giám sát chỉ ra những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục,
chưa phát hiện tổ chức đảng, đảng viên nào có dấu hiệu vi phạm để tiến hành
kiểm tra dấu hiệu vi phạm.
1.1.2.2. Tình hình các cấp uỷ đảng các huyện
Đảng bộ Tỉnh Đồng Tháp có 12 đảng bộ huyện, thị, thành uỷ, tổng số
cấp uỷ viên 522 đồng chí, trong đó nữ 77 đồng chí. Riêng cấp uỷ huyện có
392 cấp uỷ viên, 54 nữ, các cấp uỷ được cơ cấu đều ở các khối như: Đảng;
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đồn thể; lực lượng vũ trang; xã, thị trấn;…
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: trung cấp chiếm 10,72%; cao đẳng, đại học
chiếm 84,67%; thạc sĩ, tiến sĩ chiếm 4,59%. Trình độ lý luận chính trị: trung


23
cấp chiếm 13,60%; cao cấp, cử nhân 86, 39%. Trong những năm qua, các cấp
uỷ đã phân công nhiệm vụ giám sát cho cấp uỷ viên, từ đó, cơng tác giám sát
từng bước đi vào nền nếp; tuy nhiên, do phải thực hiện nhiệm vụ chuyên môn
của cơ quan, đơn vị nên cấp uỷ viên đi cơ sở để tiếp cận thơng tin, nắm tình
hình hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở địa bàn được phân công giám
sát cịn ít hoặc đơi khi tổ chức đảng được phân công giám sát không mời dự

các cuộc họp của cấp uỷ, do đó, việc phát hiện những hạn chế, khuyết điểm
để báo cáo, đề xuất với cấp uỷ chỉ đạo chấn chỉnh, cũng như phát hiện dấu
hiệu vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên thiếu kịp thời, thiếu chính xác.
1.1.2.3. Tình hình đảng viên của các đảng bộ huyện
Các đảng bộ huyện có 27.491 đảng viên, bình quân chiếm 1,86% so với
dân số các huyện. Trong những năm qua các cấp uỷ, tổ chức đảng trong các
đảng bộ huyện đã tiến hành giám sát 1.529 đảng viên, trong đó, cấp uỷ huyện
là 91, cấp cơ sở 583; đảng viên được giám sát ở từng lĩnh vực như: khối đảng
388, nhà nước 522, đoàn thể 130, lực lượng vũ trang 244, sản xuất kinh doanh
- dịch vụ 10, các lĩnh vực khác 285; nội dung giám sát chấp hành nguyên tắc
tập trung dân chủ, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận của cấp uỷ
cấp trên và cấp mình, chính sách, pháp luật của Nhà nước, việc thực hiện tiêu
chuẩn đảng viên, cấp uỷ viên, thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao, giữ
gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, giữ gìn mối liên hệ với cấp uỷ nơi cư trú,
thực hiện những điều cán bộ, đảng viên và công chức không được làm, thực
hiện chế độ kê khai và công khai tài sản của cán bộ, đảng viên theo quy định,
việc chấp hành quy chế làm việc của cấp uỷ (đối với cấp uỷ viên cùng cấp),
tài chính đảng,…Qua giám sát số phát hiện đảng viên có dấu hiệu vi phạm là
39 và chuyển sang kiểm tra dấu hiệu vi phạm là 33 [Phụ lục 5].
1.1.2.4. Các đặc điểm nổi bật
Công tác kiểm tra, giám sát của các cấp uỷ, tổ chức đảng của các đảng
bộ huyện trong thời gian qua ngày càng được chú trọng và đi vào chiều sâu.


24
Hầu hết các cấp uỷ, tổ chức đảng đã tích cực, chủ động xây dựng kế hoạch và
tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thuộc chức năng, nhiệm vụ được
giao cơ bản đạt yêu cầu, nội dung theo chương trình hàng năm đã đề ra. Cơng
tác giám sát tuy còn mới mẻ nhưng các cấp uỷ, tổ chức đảng có cố gắng tập
trung thực hiện. Qua đó, đã kịp thời phát huy ưu điểm, phát hiện và chấn chỉnh,

uốn nắn những hạn chế, khuyết điểm của cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng
viên, góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo, điều hành của các cấp, các ngành trong
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị; kỷ cương, kỷ luật trong
Đảng được tăng cường, lòng tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố.
1.2. UỶ BAN KIỂM TRA VÀ CÔNG TÁC GIÁM SÁT CỦA CÁC UỶ BAN
KIỂM TRA HUYỆN UỶ Ở TỈNH ĐỒNG THÁP

1.2.1. Vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của các uỷ
ban kiểm tra
1.2.1.1. Vị trí, vai trị
Trong lịch sử thế giới, chế độ giám sát đã có từ đời Tần Thuỷ Hồng
(năm 221 tr.CN). Từ đó đến nay, nó vẫn tồn tại, phát triển cùng với các nhà
nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thời kỳ C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, các ông chưa sử dụng khái niệm
giám sát mà thường dùng khái niệm kiểm kê, kiểm tra, kiểm soát. Tuy nhiên khi
nói đến kiểm kê, kiểm tra, kiểm sốt là đã bao hàm cả nội dung giám sát.
Trong các tác phẩm của mình, do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, C.Mác
chưa đề cập đến công tác giám sát của một đảng cầm quyền, nhưng trong đó
đã thể hiện rõ quan điểm về kiểm tra, giám sát trong quản lý kinh tế - xã hội.
Theo C.Mác, để đạt được mục tiêu, kế hoạch đã đề ra thì phải tiến hành kiểm
tra, giám sát. Kiểm tra, giám sát là phương thức hành động quan trọng để thực
hiện mục tiêu, kế hoạch đã được xác định.
Việc kiểm kê, kiểm tra, kiểm soát là một trong những vấn đề được
Lênin rất quan tâm. Trước khi Cách mạng Tháng Mười năm 1917 nổ ra và


25
trong những năm đầu của Nhà nước Xô - viết, Người đã có rất nhiều bài viết, bài
phát biểu trong các hội nghị và có những bức thư gửi cho các đồng chí lãnh đạo
Đảng và chính quyền được đề cập đến vấn đề kiểm kê, kiểm tra, kiểm soát; việc

xây dựng, cải tổ bộ máy làm công tác kiểm kê, kiểm tra, kiểm soát; việc tổ chức
và phương pháp thực hiện kiểm kê, kiểm tra, kiểm sốt. Lênin ln coi cơng tác
kiểm kê, kiểm tra, kiểm sốt là một công cụ hữu hiệu, đồng thời là một trong
những nội dung lãnh đạo quan trọng đối với các tổ chức đảng, các cơ quan nhà
nước. Lênin khẳng định: Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị đã đề ra thì
những người cộng sản phải nắm chắc công cụ kiểm kê, kiểm tra, kiểm soát được
coi là: “những nhiệm vụ đã trở thành tự nhiên đối với những người xã hội chủ
nghĩa sau khi đã giành được chính quyền” [45, tr.298].
Cách mạng tháng Mười năm 1917 vừa mới thành công, giai cấp cơng
nhân Nga đã giành được chính quyền và thực hiện “việc tước đoạt kẻ đi tước
đoạt”. Trọng tâm của cuộc đấu tranh lúc bấy giờ đã chuyển sang lĩnh vực quản lý
đất nước, mà nội dung chủ yếu là quản lý kinh tế, trong đó bao hàm hai nhiệm
vụ rất quan trọng là: Tổ chức kiểm kê, kiểm soát việc sản xuất, phân phối sản
phẩm và nâng cao năng suất, chất lượng lao động. Lênin viết: “Trọng tâm của
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản đang chuyển sang cơng tác tổ chức việc
kiểm kê, kiểm sốt” [45, tr.221]. Và vì vậy, "kiểm kê và kiểm sốt phải được đặt
thành vấn đề nổi bật trong toàn bộ việc quản lý nhà nước” [45, tr.166].
Bằng kinh nghiệm thực tế lãnh đạo Đảng Bơnsêvích Nga và chính
quyền Xơ viết trong những năm đầu tiên, Lênin đã rút ra tính tất yếu của
Đảng và Nhà nước phải nắm chắc công tác kiểm kê, kiểm tra, kiểm sốt.
Lênin nói: nếu bng lỏng kiểm kê, kiểm tra, kiểm sốt thì những người vơ
sản sẽ lại trở thành người nô lệ. Lênin viết:
… nếu Nhà nước khơng tiến hành kiểm kê và kiểm sốt tồn diện
đối với việc sản xuất và phân phối các sản phẩm, thì chính quyền
của những người lao động, nền tự do của họ sẽ khơng thể nào duy
trì được và nhất định họ sẽ phải sống trở lại dưới ách của chủ nghĩa


×