1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ có vai trị, vị trí đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng. Sau hơn 27 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng
ta luôn thực hiện đúng nguyên tắc thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản
lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người
đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về cơng tác cán bộ. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, đội ngũ cán bộ được tăng thêm về số lượng và chất lượng; trình
độ kiến thức các mặt được nâng lên. Nhiều cán bộ đã được rèn luyện, thử
thách, trưởng thành qua thực tiễn cơng tác, có phẩm chất, năng lực tốt, từng
bước thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ phải
đổi mới mạnh mẽ các khâu công tác cán bộ. Một trong những khâu quan trọng
có ý nghĩa đột phá trong cơng tác cán bộ được Đảng ta đặc biệt quan tâm là bổ
nhiệm cán bộ. Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng
ta ra Nghị quyết “Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”, trong đó xác định:
Thực hiện chế độ bổ nhiệm có thời hạn. Hết thời hạn giữ chức
vụ, cấp có thẩm quyền căn cứ vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ của
cán bộ và các yêu cầu cơng tác để xem xét quyết định có tiếp tục bổ
nhiệm cán bộ giữ chức vụ đó nữa hay khơng; Trong thời hạn đảm
nhiệm chức vụ, người nào vì việc cơng, lý do sức khoẻ, hồn cảnh cá
nhân được từ chức, miễn chức; người khơng hồn thành nhiệm vụ, có
sai phạm, uy tín giảm sút thì tuỳ theo mức độ mà bị miễn chức, hoặc
cách chức kịp thời; cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị có trách nhiệm
2
cùng với tập thể lãnh đạo đào tạo, bồi dưỡng người kế nhiệm; Việc bổ
nhiệm và miễn nhiệm cán bộ phải thực hiện đúng pháp luật của Nhà
nước và Điều lệ của Đảng, đồn thể [1, tr.12].
Để cụ thể hố nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết Trung ương ba
khóa VIII về nội dung bổ nhiệm cán bộ, ngày 03/5/1999, Bộ Chính trị khóa
IX đã ban hành Quy chế Bổ nhiệm cán bộ kèm theo Quyết định số 51QĐ/TW. Đây là một chủ trương rất quan trọng nhằm đưa công tác bổ nhiệm
cán bộ thống nhất theo một quy trình chặt chẽ, đảm bảo dân chủ, khách quan
và cơng tâm trên cơ sở giữ vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo cán bộ
và quản lý đội ngũ cán bộ.
Để thực hiện tốt hơn công tác bổ nhiệm cán bộ, ngày 04/7/2007, Bộ
Chính trị (khố X) đã ban hành Quy chế Bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ
ứng cử kèm theo Quyết định số 68-QĐ/TW thay thế Quy chế bổ nhiệm cán bộ
kèm theo Quyết định số 51-QĐ/TW, ngày 03/5/1999 của Bộ Chính trị khóa IX.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác bổ nhiệm
cán bộ lãnh đạo, quản lý đồng thời để triển khai thực hiện tốt Nghị quyết
Trung ương ba khóa VIII "Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"; Quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu
cán bộ ứng cử ban hành kèm theo Quyết định số 68-QĐ/TW, ngày 04/7/2007
của Bộ Chính trị (khố X); Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW, ngày 26/9/2007
của Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn thực hiện Quy định về phân cấp
quản lý cán bộ, Quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử, Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh đã ban hành Quy định về việc bổ nhiệm và
bổ nhiệm lại cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý kèm theo
Quyết định số 1261-QĐ/TU, ngày 10/11/2008, thực hiện quy định này đã tạo
ra sự thống nhất về yêu cầu, nội dung, quy trình và nâng cao chất lượng
cơng tác bổ nhiệm cán bộ trong tồn Tỉnh.
Từ khi có Quy định về việc bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ thuộc diện
3
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý, công tác bổ nhiệm cán bộ nói chung và cán bộ
diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý nói riêng đã đạt được nhiều
kết quả và thành tựu quan trọng
Công tác đề bạt, điều động, bổ nhiệm cán bộ được thực hiện
đúng quy định. Quy trình đề bạt, bổ nhiệm cán bộ được đổi mới
theo hướng mở rộng dân chủ, công khai. Thực hiện cán bộ trình bày
đề án cơng tác khi bổ nhiệm, bổ nhiệm lại; nhiều địa phương có cán
bộ được luân chuyển, điều động, bổ nhiệm mới hoạt động có
chuyển biến tích cực [11, tr.43].
Từ năm 2007 đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh đã giới thiệu bầu cử, bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại gần 250 đồng chí cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
quản lý. Về cơ bản số cán bộ được bổ nhiệm đều hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.
Tuy nhiên, việc bổ nhiệm cán bộ nói chung và bổ nhiệm cán bộ diện
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh quản lý nói riêng trong thời gian qua
còn nhiều mặt hạn chế, bất cập như:
Việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ ở một số địa phương,
ngành cịn lúng túng trong thực hiện quy trình, nguồn bổ nhiệm
thiếu vững chắc, có lúc cịn hẫng hụt, chắp vá; công tác quy hoạch,
bổ sung quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm
cán bộ một số nơi chưa được kết hợp chặt chẽ [11, tr.52].
Ở bình diện chung, quá trình thực hiện bổ nhiệm cán bộ theo Quy chế
bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử ban hành kèm theo Quyết định
số 68-QĐ/TW, ngày 04/7/2007 của Bộ Chính trị (khố X) và Hướng dẫn số
09-HD/BTCTW, ngày 26/9/2007 của Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn
thực hiện Quy định về phân cấp quản lý cán bộ, Quy chế bổ nhiệm cán bộ và
giới thiệu cán bộ ứng cử đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải được tiếp tục
nghiên cứu, làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Nhằm góp phần thực hiện tốt việc bổ nhiệm cán bộ, đồng thời xuất
4
phát từ những yêu cầu thực tiễn của địa phương, tôi chọn đề tài "Công tác bổ
nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh quản lý giai đoạn
hiện nay" làm đề tài luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cơng tác cán bộ nói chung và bổ nhiệm cán bộ nói riêng là vấn đề
rất quan trọng được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đã có một
số đề tài, cơng trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến công tác cán bộ và
bổ nhiệm cán bộ như:
* Sách, đề tài khoa học:
- Sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” của PGS, TS Nguyễn Phú Trọng
và PGS, TS Trần Xuân Sầm (Chủ biên). Nxb Chính trị quốc gia, H.2001; các
tác giả của cơng trình nghiên cứu này nghiên cứu lịch sử phát triển của các khái
niệm về cán bộ, công chức, viên chức; góp phần lý giải, hệ thống hóa các căn
cứ khoa học của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức nói
chung. Từ đó đưa ra những kiến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm củng
cố, phát triển đội ngũ này cả về chất lượng, số lượng và cơ cấu.
- Sách “Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của các tác giả do PGS, TS
Trần Đình Hoan (Chủ biên). Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2009.
Theo các tác giả, trong cơng tác cán bộ hiện nay, có thể xác định: đánh giá cán
bộ là khâu tiền đề, quy hoạch cán bộ là khâu nền tảng, luân chuyển cán bộ là
khâu đột phá và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vừa là yêu cầu trước mắt vừa là
nhiệm vụ lâu dài. Để đánh giá đúng cán bộ, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền
phải thật sự “có tầm, có tâm”. Một trong những giải pháp cơ bản nâng cao chất
lượng đánh giá cán bộ chính là nâng cao chất lượng của các chủ thể đánh giá.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số KX.05-11: “Xác định cơ cấu và
tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới” do
5
PGS, TS Trần Xuân Sầm làm chủ nhiệm (1994). Tác giả đã trình bày các luận
cứ khoa học của việc xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt
trong hệ thống chính trị, phân tích thực trạng hoạt động của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt. Xác định cơ cấu, tiêu chuẩn cơ bản đối với cán bộ lãnh đạo
chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới hiện nay. Đề ra phương hướng, giải
pháp lớn nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính
trị theo cơ cấu, tiêu chuẩn đổi mới trong những năm tới.
* Các đề tài luận văn có liên quan
- Nguyễn Ngọc Lâm (2006), Quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt diện Trung ương quản lý ở các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc nước ta
hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Văn Năng (2007), Luân chuyển cán bộ diện Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Bắc Giang quản lý giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học
chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Thân Minh Quế (2007), Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt diện Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Lan Phương (2009), Công tác bồi dưỡng cán bộ diện Ban
Thường vụ tỉnh, thành ủy quản lý ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay, Luận văn
Thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đàm Xuân Tùng (2008), Bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ
Thành ủy Vũng Tàu quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa
học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đào Thanh Lưỡng (2011), Lựa chọn cán bộ diện Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Quảng Ninh quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa
học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
* Các bài đăng trên tạp chí
6
- Bài "Phát huy dân chủ công khai - Một biện pháp quan trọng trong
công tác cán bộ" của tác giả Cao Ngọc Hải đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng
(2006). Tác giả đề cập vấn đề cán bộ bao giờ cũng giữ vị trí đặc biệt quan
trọng. Khi Đảng có đường lối chính trị đúng thì cơng tác tổ chức nói chung,
cơng tác cán bộ nói riêng là nhân tố chủ yếu quyết định sự thắng lợi của cách
mạng. Để làm tốt công tác cán bộ, phải tiến hành nhiều nội dung, biện pháp
đồng bộ, chặt chẽ, trong đó phát huy dân chủ, công khai là biện pháp rất quan
trọng mà cấp ủy và cán bộ chủ trì các cấp phải thường xuyên coi trọng.
- Bài "Tiếp tục đổi mới cơng tác tổ chức cán bộ" của đồng chí Nguyễn
Đức Hạt - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tổ
chức Trung ương đăng trên Tạp chí Cộng sản số 130, năm 2007. Tác giả đã đánh
giá những kết quả đạt được và những tồn tại hạn chế của công tác tổ chức cán bộ
thời gian qua. Để khắc phục những tồn tại yếu kém, theo tác giả thời gian tới cần
phải tiếp tục đổi mới tất cả các khâu trong công tác tổ chức, cán bộ.
- Bài “Về thí điểm bổ nhiệm, đề bạt cán bộ sau khi cán bộ trình bày đề
án”, của TS. Nguyễn Minh Tuấn đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7 2007. Theo tác giả, việc thí điểm bổ nhiệm, đề bạt cán bộ sau khi cán bộ trình
bày đề án để tuyển chọn, đề bạt cán bộ sẽ góp phần khắc phục tình trạng tiêu
cực trong đánh giá, bố trí cán bộ - vốn là vấn đề hết sức nhạy cảm. Đây sẽ là
cơ hội “cạnh tranh lành mạnh” để nhiều cán bộ có chí hướng vươn lên, có
điều kiện để thể hiện tài năng, phẩm chất đạo đức của mình. Đó cịn là động
lực thúc đẩy ý thức tự học tập, tự hoàn thiện nhân cách, là bước tiến dân chủ
hóa trong cơng tác cán bộ.
- Bài "Cần một cơ chế tuyển chọn, đề bạt cán bộ" của tác giả Phạm
Thơng đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, ngày 02 tháng 4 năm 2012.
Theo tác giả, việc đầu tiên và cần thiết là có một cơ chế tuyển chọn, đề bạt cán bộ
khoa học, dân chủ, cơng bằng. Cơ chế đó sẽ loại trừ được những tiêu cực, tuỳ tiện,
7
thiên lệch trong tuyển chọn, sử dụng cán bộ. Đó cũng là điểm xuất phát ngăn chặn
tư tưởng cơ hội, thói nịnh bợ, bằng giả, trình độ giả để thăng quan, tiến chức và
cũng sẽ góp phần hạn chế có hiệu quả những hiện tượng tiêu cực khác.
- Bài "Khắc phục những thiếu sót trong cơng tác bổ nhiệm cán bộ"
của tác giả Nguyễn Trần Hồng đăng trên Tạp chí Nhân dân điện tử, ngày 16
tháng 4 năm 2012. Tác giả đã đề cập những hạn chế, thiếu sót trong công tác
bổ nhiệm cán bộ, đồng thời đề ra giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn công tác
bổ nhiệm cán bộ trong thời gian tới.
Những đề tài, bài viết trên đã đề cập, nghiên cứu về cán bộ, công tác
cán bộ hết sức phong phú, sâu sắc và đã có những đóng góp nhất định về lý
luận và thực tiễn. Một số cơng trình nghiên cứu bàn về việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ ở cấp vĩ mô (sách của tác giả Nguyễn Phú Trọng - Trần
Xuân Sầm). Bên cạnh đó có nhiều luận văn, bài viết được tiếp cận ở các giác
độ khác như từ các khâu trong công tác cán bộ như: đánh giá cán bộ, quy
hoạch cán bộ, luân chuyển cán bộ, đề bạt, sử dụng cán bộ, bồi dưỡng và lựa
chọn cán bộ. Nghiên cứu cùng một địa bàn tỉnh Quảng Ninh, cùng là đối
tượng cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý nhưng luận văn Thạc sĩ
của Đào Thanh Lưỡng lại đề cập đến vấn đề lựa chọn cán bộ. Đặc biệt, đã có
luận văn của tác giả Đàm Xuân Tùng đề cập trực tiếp đến việc bổ nhiệm cán
bộ diện Ban Thường vụ thành ủy quản lý rất sát gần với đối tượng nghiên cứu
luận văn nhưng lại ở địa phương khác là thành phố Vũng Tàu. Nhìn chung,
đây là những cơng trình khoa học giá trị giúp tác giả kế thừa có chọn lọc
những vấn đề lý luận liên quan để hồn thiện luận văn. Tuy nhiên, chưa có
cơng trình nào nghiên cứu chun sâu, có hệ thống về vấn đề bổ nhiệm cán bộ
diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý giai đoạn hiện nay. Do đó,
tác giả chọn đề tài “Cơng tác bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
Quảng Ninh quản lý giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu nhằm góp
phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
8
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác bổ
nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý, luận văn đề
xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt công tác bổ
nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác bổ nhiệm cán
bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh quản lý.
- Đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Quảng Ninh quản lý đã được bổ nhiệm và thực trạng công tác bổ nhiệm
cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh quản lý, nêu nguyên nhân
của thực trạng và những kinh nghiệm từ thực tiễn.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thực
hiện tốt công tác bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng
Ninh quản lý đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác bổ nhiệm cán bộ diện
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý từ năm 2007 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
* Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ, công
tác cán bộ, đặc biệt là công tác bổ nhiệm cán bộ; đồng thời luận văn kế thừa có chọn
lọc kết quả nghiên cứu về lý luận của các cơng trình khoa học có liên quan.
9
* Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng đội ngũ cán bộ diện Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh quản lý và thực trạng việc bổ nhiệm cán bộ
diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh quản lý từ năm 2007 đến nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng
thời kết hợp các phương pháp liên ngành và chuyên ngành như logic - lịch sử,
phân tích - tổng hợp, điều tra, khảo sát, thống kê, đặc biệt chú trọng phương
pháp tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Những đóng góp về khoa học
- Góp phần làm rõ quan niệm về bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng công tác bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường
vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh quản lý từ năm 2007 đến nay, rút ra những kinh nghiệm
bước đầu và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt công tác bổ
nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh quản lý đến năm 2020.
6.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho các cấp ủy đảng ở tỉnh Quảng Ninh trong q trình thực hiện cơng
tác bổ nhiệm cán bộ.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy ở Trường
Chính trị Nguyễn Văn Cừ tỉnh Quảng Ninh và Trung tâm Bồi dưỡng chính trị
các huyện, thị, thành phố trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.
10
Chương 1
BỔ NHIỆM CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
QUẢNG NINH QUẢN LÝ - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH QUẢNG NINH, BAN THƯỜNG VỤ
TỈNH ỦY QUẢNG NINH VÀ CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH
ỦY QUẢNG NINH QUẢN LÝ
1.1.1. Khái quát về tỉnh Quảng Ninh và Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh
1.1.1.1. Khái quát về tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh là tỉnh trực thuộc Trung ương được thành lập theo Nghị
quyết kỳ họp thứ 7, ngày 30 tháng 10 năm 1963 của Quốc hội nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa trên cơ sở hợp nhất tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng.
Quảng Ninh có 14 đơn vị hành chính, có 04 thành phố gồm: Hạ Long, ng
Bí, Cẩm Phả, Móng Cái; thị xã Quảng Yên và 09 huyện: Ba Chẽ, Bình Liêu,
Hải Hà, Đầm Hà, Tiên n, Vân Ðồn, Hồnh Bồ, Ðơng Triều, Cơ Tơ.
- Đặc điểm tự nhiên - xã hội:
Ðịa hình tỉnh Quảng Ninh được chia ra thành các vùng đồi núi, trung
du, đồng bằng và biển đảo, có dáng một hình chữ nhật lệch nằm chếch theo
hướng Đông Bắc - Tây Nam. Phía Tây tựa lưng vào núi, rừng. Phía Đơng
nghiêng xuống nửa phần đầu vịnh Bắc Bộ với bờ biển khúc khuỷu, nhiều cửa
sơng và bãi triều, bên ngồi là 2.077 hịn đảo lớn nhỏ, trong đó 1.030 đảo có
tên, cịn 1.047 đảo nhỏ chưa có tên, với tổng diện tích tự nhiên là 620 km².
Địa giới Quảng Ninh trải rộng từ 106º26’ đến 108º31’ kinh độ Đông và
từ 20º40’ đến 22º40’ vĩ độ Bắc. Bề ngang từ Đông sang Tây, khoảng dài nhất là
195km; bề dọc từ Bắc xuống Nam, khoảng dài nhất là 102km. Điểm cực Bắc
liên tiếp những núi cao ở phía Tây Bắc bản Trình Tường, thơn Mỏ Tng, xã
11
Hồnh Mơ, huyện Bình Liêu. Cực Nam ở mũi phía Nam đảo Hạ Mai thuộc xã
Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn. Cực Tây là sơng Vàng Chua ở phía Tây xã Bình
Dương và xã Nguyễn Huệ, huyện Đơng Triều. Điểm cực Đơng trên đất liền là
Mũi Gót ở Đơng Bắc phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái.
Là một tỉnh miền núi dun hải, Quảng Ninh có 80% diện tích đất đai
là đồi núi. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) với đường biên giới dài
132,8 km và tỉnh Lạng Sơn; Phía Tây giáp các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, phía
Nam giáp Hải Phịng; Phía Đơng Nam giáp biển Ðơng với 250 km bờ biển.
Quảng Ninh có dân số khoảng hơn 1.200.0000 người (số liệu thống
kê đến ngày 30/9/2011) với 21 thành phần dân tộc, song chỉ có 6 dân tộc có
số dân trên một nghìn người là: Kinh, Dao, Tày, Sán Dìu, Sán Chỉ, Hoa,
tiếp đến là hai dân tộc có trên 100 người là Nùng và Mường, mười bốn dân
tộc cịn lại có số dân dưới 100 người. Trong các dân tộc đông người, người
Kinh chiếm 89% tổng số dân.
- Đặc điểm kinh tế:
Quảng Ninh là một trong những vị trí chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước từ trước đến nay, Quảng Ninh luôn được xác định và xứng
đáng là một điểm của vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ, trong khu vực hợp tác
"hai hành lang, một vành đai” kinh tế Việt - Trung. Quảng Ninh là một bộ
phận, nhịp cầu quan trọng của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
và cũng là cửa ngõ quan trọng của hành lang kinh tế trọng điểm vùng Đông
Bắc Tổ quốc. Trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do này và sự hợp tác
khu vực liên vùng Vịnh Bắc Bộ, Quảng Ninh có thế mạnh và tiềm năng to lớn
để phát triển các ngành kinh tế biển, có nhiều vị trí thuận lợi cho việc phát
triển hệ thống cảng biển nước sâu tiếp nhận được tàu có trọng tải lớn. Cùng
với đó là hệ thống các cảng thủy nội địa, hệ thống đường bộ, đường sắt thuận
lợi đáp ứng cho việc giao lưu hàng hóa với các tỉnh trong vùng.
Quảng Ninh là một trong 4 ngư trường lớn nhất cả nước. Dọc chiều
dài 250 km bờ biển Quảng Ninh có trên 40.000 ha bãi biển, 20.000 ha eo vịnh
12
và hàng chục nghìn ha vũng nơng ven bờ là môi trường thuận lợi để phát triển
nuôi và chế biến hải sản xuất khẩu. Ngoài điều kiện thuận lợi về tài nguyên
biển, Quảng Ninh có tiềm năng về đất canh tác nơng nghiệp và đất rừng. Tỉnh
khuyến khích các dự án trồng cây tạo vùng nguyên liệu (chè, dứa, nhãn, vải,
… và các loại cây công nghiệp, cây ăn quả khác).
Quảng Ninh cịn có nhu cầu lớn về các sản phẩm cơ khí phục vụ
ngành than, ngành kinh tế cảng biển, vận tải biển, máy móc, thiết bị cơ khí
phục vụ các ngành kinh tế khác như nông, lâm, ngư nghiệp, máy xây dựng, đồ
cơ khí gia dụng… có thể phát triển công nghiệp khai thác, chế biến than và sử
dụng nguyên liệu than với sự ra đời của hàng loạt cơ sở công nghiệp lớn, các
nhà máy xi măng, nhiệt điện, phân bón, hố chất, gạch chịu lửa…
Quảng Ninh có tài nguyên du lịch đặc sắc vào loại nhất của cả nước,
có nhiều bãi biển đẹp, có cảnh quan nổi tiếng của vịnh Hạ Long, Bái Tử Long
cùng các hải đảo đã được tổ chức UNESCO công nhận là “Di sản văn hoá thế
giới”, năm 2012 được tổ chức New Open World xếp là một trong 7 kỳ quan
thiên nhiên mới của thế giới, số khách du lịch đến Quảng Ninh tăng nhanh,
ước đạt 6 triệu lượt, trong đó khách nước ngồi trên 2 triệu lượt.
Quảng Ninh có khu Di tích lịch sử và Danh thắng Yên Tử, là kinh đô
của Phật giáo Việt Nam, mỗi năm thu hút khoảng trên 3 triệu lượt du khách
đến tham quan, vãng cảnh.
Trong những năm qua tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ninh
đều đạt mức cao và ổn định. Tăng trưởng GDP bình quân đạt 12,7%/năm; thu
ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2012 đạt 29.182 tỷ đồng, xếp thứ 5/63
tỉnh, thành về tổng thu ngân sách và đứng thứ 6/63 tỉnh, thành về thu nội địa
trên toàn quốc; cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, cụ thể:
nơng - lâm - ngư nghiệp chiếm tỷ trọng 5,6%; công nghiệp - xây dựng chiếm
53,3%; dịch vụ chiếm 41,1%. Quốc phòng, an ninh giữ vững, trật tự an toàn
xã hội ổn định; đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội được đảm bảo; mơi trường
13
được cải thiện, đảm bảo duy trì và phát triển kinh tế bền vững.
- Đặc điểm an ninh, quốc phòng:
Quảng Ninh trấn ải nơi địa đầu Đông Bắc của Tổ quốc, nơi có vị trí rất
quan trọng về kinh tế, chính trị và quốc phịng, an ninh, là một trong 25 tỉnh,
thành phố có biên giới, tuy nhiên lại là tỉnh duy nhất có đường biên giới trên bộ
và trên biển với Trung Quốc, với đường biên giới trên bộ dài 118,8 km và đường
phân định Vịnh Bắc Bộ trên biển dài trên 191 km. Mặc khác, Quảng Ninh là một
trong 28 tỉnh, thành có biển, với đường bờ biển dài 250 km, trong đó có 40.000
ha bãi triều và trên 20.000 hécta eo vịnh, có 2/12 huyện đảo của cả nước. Tỉnh
có 2.077 hịn đảo và diện tích các đảo chiếm 11,5% diện tích đất tự nhiên, giữ vị
trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng an ninh khu vực Đơng Bắc Tổ quốc.
Quảng Ninh là một tỉnh có tính chất phức tạp về tình hình biên giới,
dân tộc, tơn giáo và địa hình. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng
được cấp uỷ và chính quyền ln quan tâm là giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội. Các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về nội dung này
(Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị khố VIII về an ninh quốc gia; Nghị quyết
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 khoá IX của Đảng về chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới) ln được triển khai thực hiện
nghiêm túc. Chính vì vậy tình hình an ninh chính trị trong tỉnh được giữ vững,
trật tự an toàn xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, phong trào quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ quốc được duy trì và phát triển. Các cấp uỷ đảng thường
xuyên giáo dục nâng cao ý thức cảnh giáo cho cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân về âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực
thù địch. Đặc biệt coi trọng địa bàn chiến lược tại các vùng giáp biên như
Móng Cái, Bình Liêu, Hải Hà và huyện đảo Vân Đồn, Cô Tô.
1.1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm, vai trò của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Quảng Ninh
Ban Thường vụ Tỉnh ủy thay mặt Tỉnh ủy lãnh đạo và chỉ đạo mọi mặt
14
công tác của Đảng bộ giữa hai kỳ hội nghị Tỉnh ủy.
Thường trực Tỉnh ủy tuy không phải là một cấp, nhưng Thường trực
Tỉnh ủy được Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy
chỉ đạo, kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy, của Ban Thường vụ
và của cấp ủy cấp trên, giải quyết và điều hành công việc hàng ngày của Đảng
bộ, quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Ban Thường vụ.
Giúp việc cho Tỉnh ủy gồm có các cơ quan tham mưu: Văn phịng
Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy, Ban Dân vận Tỉnh ủy. Ngồi ra cịn có 02 đơn vị sự nghiệp là Trường
Chính trị Nguyễn Văn Cừ và Báo Quảng Ninh.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh gồm 15 đồng chí. Thường trực
Tỉnh ủy gồm 04 đồng chí: 01 đồng chí Bí thư, 03 đồng chí Phó Bí thư (Phó Bí
thư Thường trực; Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và Phó Bí thư
Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh).
Cơ cấu các thành viên khác trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy hiện nay
gồm: Trưởng Ban Tổ chức; Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra; Trưởng Ban Dân
vận; Trưởng Ban Tuyên giáo; 02 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; Giám
đốc công an tỉnh; Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh; Bí thư Đảng ủy
Than Quảng Ninh; Bí thư Thành ủy Hạ Long; Bí thư Thành ủy Móng Cái.
Nhiệm vụ cụ thể của Ban Thường vụ Tỉnh ủy là:
- Chuẩn bị nội dung và triệu tập các hội nghị Tỉnh ủy, báo cáo tình
hình và kết quả cơng việc đã làm trước Tỉnh ủy.
- Cụ thể hóa việc chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương;
thay mặt Tỉnh ủy lãnh đạo và kiểm tra tồn diện cơng tác của các tổ chức đảng, cơ
quan nhà nước, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở địa phương; chỉ đạo,
kiểm tra việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Tỉnh ủy.
Ngoài những vấn đề do hội nghị Tỉnh ủy quyết định, Ban Thường vụ
được thay mặt Tỉnh ủy quyết định những vấn đề cấp thiết thuộc thẩm quyền
của Tỉnh ủy và báo cáo lại trong phiên họp định kỳ gần nhất của Tỉnh ủy, hoặc
15
theo yêu cầu của Tỉnh ủy.
- Xây dựng và thực hiện quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, nhận xét,
đánh giá và các chính sách đối với cán bộ của tỉnh.
- Quyết định việc phân công, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, miễn nhiệm,
xếp lương, khen thưởng, kỷ luật, quy hoạch cán bộ đối với cán bộ giữ các chức danh:
+ Trưởng, phó các ban đảng; Chánh, Phó chánh Văn phịng Tỉnh ủy;
Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy; Giám đốc, Phó Giám
đốc Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ; Tổng biên tập, Phó Tổng biên tập Báo
Quảng Ninh; Bí thư, Phó Bí thư, Ủy viên Ban Thường vụ các đảng bộ trực
thuộc; Trưởng, phó Đồn đại biểu Quốc hội tỉnh, Ủy viên Thường trực,
trưởng, phó các ban Hội đồng nhân dân tỉnh; Chánh, Phó Chánh Văn phịng
Ủy ban nhân dân tỉnh; Chánh, Phó Chánh Văn phịng Đồn Đại biểu Quốc hội
và Hội đồng nhân dân tỉnh.
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân các
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc; Chủ tịch, Phó Chủ tịch: Hội Nơng dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội
Cựu chiến binh, Liên đoàn Lao động tỉnh; Bí thư, Phó Bí thư Tỉnh đồn;
Trưởng, phó các sở, ban, ngành và tương đương thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh;
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân các địa phương thuộc tỉnh; Giám đốc
các bệnh viện hạng hai trở lên; hiệu trưởng các trường cao đẳng thuộc tỉnh.
- Tham gia với Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng các cơ quan Trung ương
về cán bộ lãnh đạo của các ngành công tác tại địa phương.
- Phê duyệt phương án quy hoạch cán bộ chủ chốt của các sở, ban,
ngành, mặt trận và các đoàn thể tỉnh, các đảng bộ trực thuộc tỉnh.
- Quyết định việc đề nghị nhà nước xét phong tặng danh hiệu Anh
hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang, tặng thưởng Huân chương Lao
động hạng nhất trở lên đối với tập thể, hạng hai trở lên đối với cá nhân. Xét,
quyết định tặng cờ cho những tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch
16
vững mạnh tiêu biểu 5 năm liền.
- Quyết định phân cơng cơng tác đối với đồng chí Ủy viên Ban
Thường vụ, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; chỉ định ủy viên ban
thường vụ, bí thư, phó bí thư ban chấp hành đảng bộ trực thuộc tỉnh. Quyết
định tặng Huy hiệu Đảng cho đảng viên theo quy định. Xem xét, cho ý kiến
về kết nạp lại người vào Đảng theo quy định.
- Căn cứ hướng dẫn của Trung ương và điều kiện cụ thể của tỉnh, quyết
định hoặc thông báo ý kiến chỉ đạo việc chia tách, sáp nhập, thành lập mới, giải
thể các ban của Tỉnh ủy, các tổ chức đảng trực thuộc, các sở, ban, ngành và cơ
quan tương đương thuộc tỉnh, các doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản lý.
Quyết định việc thành lập, chia tách, sáp nhập, giải thể đảng đoàn, ban cán sự
đảng ở các cơ quan nhà nước, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể cấp tỉnh.
- Thay mặt Tỉnh ủy báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương
Đảng về tình hình của Đảng bộ; thơng báo tình hình đảng bộ cho các huyện
ủy, thị ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc và khi cần thông báo đến đảng ủy, chi
ủy, chi bộ; nêu vấn đề cần thiết cho cấp dưới thảo luận để góp ý kiến về sự
lãnh đạo của Tỉnh ủy.
- Sơ kết và tổng kết rút kinh nghiệm những vấn đề quan trọng về lý
luận và thực tiễn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh; đề nghị với Trung
ương những vấn đề cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi về chủ trương.
1.1.2. Cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh quản lý quan niệm, đặc điểm, vai trò
1.1.2.1. Quan niệm về cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng
Ninh quản lý
Quan niệm về cán bộ đã xuất hiện ở nước ta khoảng mấy chục năm
gần đây. Tuỳ cách tiếp cận theo phạm vi, đối tượng nghiên cứu mà có những ý
kiến khác nhau.
Điều 4, Chương 1, Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 đã xác định:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ
17
nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở
Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước [47, tr.01].
Theo Từ điển Tiếng Việt (2006) của Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản
Đà Nẵng thì cán bộ là: “1. Người làm cơng tác có nghiệp vụ chun mơn
trong cơ quan nhà nước. Cán bộ nhà nước. Cán bộ khoa học. Cán bộ chính
trị. 2. Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người thường, khơng có chức vụ” [53, tr.109].
Theo Từ điển Tiếng Việt (2008) của Trung tâm Từ điển học, Nhà xuất
bản Đà Nẵng thì cán bộ là: “Người làm việc trong cơ quan đồn thể, đảm
nhiệm một cơng tác lãnh đạo hoặc công tác quản lý, công tác nghiệp vụ
chuyên môn nhất định” [52, tr.142].
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “Cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ rõ
để đặt chính sách cho đúng” [36, tr.269].
Dù cách hiểu, cách dùng trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có
khác nhau, nhưng về cơ bản cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó là bộ khung,
là nịng cốt, là chỉ huy. Như vậy có thể quan niệm một cách chung nhất, cán
bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trị và cương vị nịng cốt
trong một tổ chức có tác dụng ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và có
quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự
phát triển của tổ chức đó.
Tùy mục đích nghiên cứu, cán bộ có thể được phân loại theo những
tiêu chí khác nhau. Trong phạm vi luận văn này, cần phân biệt cán bộ lãnh đạo
18
và cán bộ quản lý.
Cán bộ lãnh đạo dùng để chỉ người đứng đầu của một tổ chức, một
phong trào, là người làm thức tỉnh hành vi của người khác.
Cán bộ quản lý cũng là người đứng đầu một tổ chức, nhưng nhấn
mạnh việc điều hành hoạt động của tổ chức, việc sử dụng công cụ, phương
tiện để điều khiển một loại hoạt động nào đó.
Cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý có những điểm giống nhau: Cán
bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý đều phải nhận thức khách thể và tác động
đến khách thể. Chủ thể ra quyết định điều khiển khách thể, trên cơ sở
những đặc điểm, thuộc tính, những quy luật của khách thể nhằm thực hiện
mục đích nhất định. Cả cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý đều phải tiến
hành quá trình điều khiển. Người cán bộ lãnh đạo cũng phải thực hiện một
số chức năng quản lý và ngược lại người cán bộ quản lý cũng phải thực
hiện một số chức năng lãnh đạo. Về phương diện đó, cán bộ lãnh đạo và
cán bộ quản lý có nhiều điểm giống nhau.
Tuy nhiên, cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý cũng có những điểm
khác nhau, khơng được đồng nhất cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý: Quá
trình lãnh đạo chủ yếu là quá trình định hướng hoạt động của khách thể, cịn
q trình quản lý lại chủ yếu là q trình tổ chức, sắp xếp, bố trí để thực hiện
định hướng của lãnh đạo. Quá trình lãnh đạo là quá trình làm thức tỉnh hành
vi của con người và định hướng hoạt động cho con người và xã hội là chủ
yếu. Trong lãnh đạo, con người vừa là khách thể, vừa là chủ thể của mọi tác
động. Nhưng đối tượng tác động của quản lý vừa có thể là con người, vừa có
thể là cơng cụ. Trong quản lý, người cán bộ tác động mang tính điều khiển,
vận hành thơng qua những thiết chế có tính pháp lệnh được quy định trước.
Cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý là
những cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh và cấp huyện thuộc diện phân cấp của Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh.
Để tăng cường tính chủ động cho các địa phương, ngày 04/7/2007, Bộ
19
Chính trị đã ban hành Quy định về phân cấp quản lý cán bộ kèm theo Quyết
định số 67-QĐ/TW. Căn cứ quy định này, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng
Ninh đã ban hành Quy chế quản lý tổ chức và cán bộ kèm theo Quyết định số
1260-QĐ/TU, ngày 10/11/2008, theo đó cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý bao gồm:
- Trưởng, phó các Ban xây dựng Đảng; Chánh, Phó chánh Văn phịng
Tỉnh ủy; Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy; Giám đốc,
Phó Giám đốc Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ; Tổng biên tập, Phó Tổng
biên tập Báo Quảng Ninh; Bí thư, Phó Bí thư, Ủy viên Ban Thường vụ các
đảng bộ trực thuộc;
- Trưởng, phó Đồn đại biểu Quốc hội, Ủy viên Thường trực, trưởng,
phó các ban Hội đồng nhân dân tỉnh; Chánh, Phó Chánh Văn phịng Ủy ban
nhân dân tỉnh; Chánh, Phó Chánh Văn phịng Đồn Đại biểu Quốc hội và Hội
đồng nhân dân tỉnh;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban mặt trận Tổ quốc; Chủ tịch, Phó Chủ
tịch: Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Liên đồn
Lao động tỉnh; Bí thư, Phó Bí thư Tỉnh đồn;
- Trưởng, phó các sở, ban, ngành và tương đương thuộc Ủy ban
nhân dân tỉnh;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân; Chủ
tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Giám đốc các bệnh viện hạng hai trở lên; hiệu trưởng các trường cao
đẳng thuộc tỉnh.
1.1.2.2. Đặc điểm và vai trò của đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Quảng Ninh quản lý
Các Mác và Ph.Ăngghen chưa có điều kiện nghiên cứu nhiều về cán
bộ song các ông đã thấy được vai trò to lớn của cán bộ và khẳng định: “Muốn
thực hiện tốt những tư tưởng thì cần có những con người vận dụng một lực
20
lượng thực tiễn” [32, tr.154].
Lênin đã kế thừa của C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng những người
cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo có vai trị to lớn trong mọi phong trào cách
mạng: “Khơng có phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc được nếu
khơng có một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những người
lãnh đạo” [25, tr.158].
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định cán
bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh
của Đảng, của đất nước và của chế độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi: “Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc” và “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hoặc kém” [35, tr.269; 240].
Trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta, cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp tỉnh, thành phố có ví trí, vai trị quan trọng trong việc tổ chức thực
hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương và là nguồn bổ sung cán bộ cho Trung
ương, là lực lượng nòng cốt trong đội ngũ cán bộ và là nhân tố quan trọng
nhất trong bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị ở địa phương.
* Đặc điểm của đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng
Ninh quản lý
Một là, đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản
lý được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, nơi đây nhiều người ở các nơi
đã đến sinh sống và công tác. Sự kết hợp các yếu tố tâm lý, văn hoá nhiều
miền khác nhau tạo nên sự phong phú về đặc điểm của đội ngũ cán bộ, công
chức tỉnh Quảng Ninh nói chung.
Trong đội ngũ cán bộ, mỗi người trưởng thành từ những con đường
khác nhau, một bộ phận đáng kể là những người được kinh qua các cuộc
kháng chiến, tham gia rèn luyện trong quân đội sau khi chuyển ngành về địa
phương làm cán bộ, bộ phận này thường giàu nhiệt huyết cách mạng, tinh
thần thái độ làm việc rất nghiêm túc, thường chưa được đào tạo chính quy, ít
21
người có trình độ chun mơn sau đại học.
Một bộ phận cán bộ của các sở, ban, ngành của tỉnh và một số ít ở cấp
huyện, thị xã, thành phố được trải qua các trường đào tạo, có chun mơn,
nghiệp vụ được đề bạt, phân công.
Một bộ phận cán bộ trưởng thành từ phong trào của các địa phương,
cơ sở, cơ quan, đơn vị, các nhà máy, xí nghiệp trải qua q trình rèn luyện,
phấn đấu được tín nhiệm đề bạt từ phong trào thực tiễn, bộ phận này giàu
kinh nghiệm thực tiễn, nhưng trong quá trình hoạt động một số đã tích cực
học tập nâng cao trình độ lý luận, chun mơn, nghiệp vụ và lý luận chính trị.
Ngồi ra, một số cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản
lý có nguồn gốc từ sự điều động, luân chuyển theo yêu cầu, nhiệm vụ của tổ
chức hoặc theo nhu cầu, nguyện vọng của cá nhân được đề bạt, bổ nhiệm tham
gia các chức vụ ở các sở, ban, ngành hoặc các huyện, thị xã, thành phố. Chính vì
lẽ đó, đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý có
tinh thần đồn kết, không cục bộ địa phương, yên tâm công tác, gắn bó với
cơng việc được phân cơng.
Hai là, đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản
lý có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, với truyền thống
của giai cấp công nhân vùng mỏ, họ cơ bản là những người cần cù, chịu khó,
năng động, sáng tạo, có kỷ luật, có khả năng tiếp cận cái mới nhanh, nhiệt
tình, tâm huyết, ln có ý thức phấn đấu vươn lên nhằm đáp ứng ngày càng
cao trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của tỉnh.
Ba là, trình độ đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ
vừa phong phú về chuyên ngành, vừa đa dạng về loại hình đào tạo, đa số có
kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác, tuổi đời tương đối cao, số cán bộ trẻ,
cán bộ nữ, cán bộ dân tộc còn ít so với quy định.
Bốn là, xuất phát từ nhiều nguồn cán bộ khác nhau, được sinh ra và
22
lớn lên từ nhiều tỉnh khác nhau nên có sự khác nhau về truyền thống, phong
tục, tập quán, có tâm lý, tình cảm, hồn cảnh gia đình và cuộc sống khơng
đồng đều. Do đó, cần có chính sách động viên về vật chất, tinh thần để phát
huy khả năng hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ.
Năm là, đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh
quản lý có nhiệm vụ và cương vị cơng tác được xác định tương đối rõ ràng,
trên nhiều lĩnh vực, địa bàn, lĩnh vực cơng tác của tồn tỉnh. Chính vì vậy cần
thực hiện chính sách bố trí, ln chuyển, phân công nhiệm vụ cán bộ phù hợp
để phát huy tốt năng lực, sở trường của từng người, khai thác tối đa khả năng
công tác của từng người vào nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ quan, đơn vị, địa
phương là góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị chung của tồn tỉnh.
* Vai trị của đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng
Ninh quản lý
Một là, đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản
lý là những người vừa chịu trách nhiệm trước Trung ương, vừa chịu trách
nhiệm trước nhân dân tỉnh Quảng Ninh, những người trực tiếp lĩnh hội mọi
nghị quyết, chủ trương chính sách của cấp Trung ương để triển khai, quán triệt
và tổ chức chỉ đạo thực hiện ở địa phương; có vai trị quan trọng trong xây
dựng chủ trương, chương trình, kế hoạch phát triển tồn diện hoặc trong phạm
vi từng ngành, từng lĩnh vực ở địa phương; chịu trách nhiệm kiểm tra, kiểm
soát mọi lĩnh vực hoạt động diễn ra trên địa bàn theo đúng đường lối, quan
điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời tăng cường tổng kết thực
tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm, qua đó, có thể khái quát thành lý luận
góp phần cùng các địa phương khác và Trung ương hồn thiện đường lối,
chính sách phát triển đất nước. Đó là những người giữ vai trị trụ cột, quyết
định các hoạt động ở đơn vị do mình phụ trách.
Hai là, đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản
lý vừa là người lãnh đạo, vừa là người quản lý mọi hoạt động của bộ máy, một
23
tổ chức, một cơ quan, đảm bảo cho bộ máy đó vận hành đồng bộ, đúng chức
năng, nhiệm vụ, góp phần quan trọng làm cho mọi nghị quyết, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được triển khai thực hiện có hiệu
quả trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Họ có trách nhiệm to lớn trong xây dựng tổ
chức, bộ máy, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ đồng bộ bảo
đảm thực hiện nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của các tổ chức trong hệ thống
chính trị của tỉnh và các huyện, thị xã, thành phố.
Ba là, đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý
là hạt nhân chính trị, trung tâm đồn kết, tập hợp, quy tụ đội ngũ cán bộ, công
chức trong đơn vị thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương, đòi hỏi
họ là những người trong sáng về phẩm chất đạo đức, có quan hệ đúng mực với
quần chúng và có năng lực nổi trội hơn để cán bộ trong đơn vị học tập, noi theo.
Bốn là, đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản
lý còn là một trong những nguồn quan trọng cung cấp cho các bộ, ban, ngành của
Trung ương. Thực tế cho thấy, nhiều đồng chí cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ Quảng Ninh quản lý có q trình cơng tác ở tỉnh khi được điều động lên
Trung ương công tác đã có những đóng góp quan trọng.
Trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, cán bộ lãnh đạo thuộc diện
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý luôn giữ vai trò đặc biệt quan
trọng, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh đối với sự nghiệp cách mạng của tỉnh, góp phần tích cực
vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước. Vai trò cán bộ lãnh đạo thuộc
diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý chỉ được thể hiện rõ và có
hiệu lực khi gắn với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng. Nếu đội ngũ cán
bộ lãnh đạo thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh quản lý có phẩm
chất chính trị, trình độ năng lực đáp ứng, đồng đều thì sẽ góp phần thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Ngược lại, nếu đội ngũ đó khơng
tương xứng với u cầu nhiệm vụ thì chắc chắn sẽ khơng thực hiện thành
cơng nhiệm vụ chính trị của tỉnh, thậm chí sẽ làm suy yếu năng lực lãnh đạo
24
và sức chiến đấu của các cấp uỷ đảng, gây nên những hậu quả khó lường.
1.2. BỔ NHIỆM CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY QUẢNG
NINH QUẢN LÝ - QUAN NIỆM, VAI TRỊ, NGUN TẮC, ĐIỀU KIỆN, QUY
TRÌNH VÀ THỦ TỤC BỔ NHIỆM
1.2.1. Quan niệm về bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Quảng Ninh quản lý
1.2.1.1. Quan niệm về bổ nhiệm cán bộ
Quan niệm bổ nhiệm đã xuất hiện từ rất lâu được dùng như cất nhắc,
đề bạt. Cất nhắc, đề bạt hay bổ nhiệm, thường hay đi liền với các khái niệm
lựa chọn, sử dụng cán bộ mà các nhà chính trị hay gọi là phương sách dùng
người hay là cách dùng người. Cất nhắc, đề bạt hay bổ nhiệm, lựa chọn cán
bộ là một nội dung của sử dụng cán bộ; lựa chọn cán bộ để bổ nhiệm hay bố
trí vào một cơng việc nào đó, nhưng cũng có thể lựa chọn cán bộ nhưng
không sử dụng ngay mà để đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn; đề bạt, bổ nhiệm
cán bộ là căn cứ vào tài năng, đạo đức mà bố trí cán bộ vào vị trí cơng tác có
chức vụ cao hơn chức vụ cũ.
Theo Từ điển Tiếng Việt (2008) của Trung tâm Từ điển học - Nhà xuất
bản Đà Nẵng, thì cất nhắc, đề bạt, bổ dụng, bổ nhậm và bổ nhiệm đều có
nghĩa tương tự nhau là cán bộ được cử giữ chức vụ nào đó. Tuy nhiên chúng
cũng được sử dụng trong các trường hợp khác nhau: Cất nhắc cũng đồng
nghĩa với đề bạt, trong đó cất nhắc là “nâng đỡ, đưa lên một chức vụ cao
hơn”, chẳng hạn “được cất nhắc vào chức trưởng phòng” [52, tr.163]; còn đề
bạt là “cử giữ một chức vụ cao hơn”, chẳng hạn “được đề bạt làm phó giám
đốc” [52, tr.392]. Cịn bổ dụng, bổ nhậm và bổ nhiệm cũng đều đồng nghĩa
với nhau, trong đó bổ dụng là “cử giữ một chức vụ (thường không vào loại
quan trọng) trong bộ máy nhà nước”, chẳng hạn “được bổ dụng lãnh đạo
thông ngôn” [52, tr.102]; bổ nhiệm là “(người, đơn vị có thẩm quyền) cử ai đó
giữ một chức vụ trong bộ máy lãnh đạo hoặc quản lý”, chẳng hạn “được bổ
25
nhiệm là giám đốc” [52, tr.112]. Như vậy có thể nói, bổ nhiệm là chung nhất
bao hàm các nội dung trên là việc người hoặc đơn vị có thẩm quyền cử ai đó
giữ một chức vụ (cao hơn) trong bộ máy lãnh đạo, quản lý.
Theo Luật Cán bộ, công chức (2008) thì bổ nhiệm là việc cán bộ, cơng
chức được quyết định giữ một chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc một ngạch theo
quy định của pháp luật [47, tr.03].
Từ Đại hội VII đến Đại hội XI, Đảng ta luôn bổ sung, hồn thiện, phát
triển các quan điểm về cơng tác cán bộ nói chung và cơng tác bổ nhiệm cán
bộ nói riêng. Đảng ta đã xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm, vững mạnh.
Trong công tác bổ nhiệm cán bộ, Đảng đã ban hành quy chế bổ nhiệm cán bộ,
thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ trên cơ sở phân cấp quản lý cán bộ, thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, quyết định theo đa số. Mọi cán bộ được bổ nhiệm phải tiến
hành quy trình nhân sự theo một quy chế thống nhất, đảm bảo dân chủ, tránh
cách làm tuỳ tiện, áp đặt; trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải đảm bảo bố trí
đúng người, đúng việc, đúng sở trường, đảm bảo tính kế thừa và phát triển;
thực hiện quy chế bầu cử có nhiệm kỳ, bổ nhiệm có thời hạn; đồng thời kiên
quyết miễn nhiệm hay thay đổi công tác, những cán bộ khơng cịn đáp ứng
tiêu chuẩn hay khơng phù hợp với công việc được giao.
Nghị quyết Trung ương ba khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã bàn chun sâu, tồn diện về
vấn đề cán bộ và có nghị quyết chuyên đề về cán bộ và công tác cán bộ, nghị
quyết đã nêu quan điểm, mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ
trong thời kỳ mới và đề ra một số nhiệm vụ giải pháp lớn về cơng tác cán bộ,
trong đó nhấn mạnh phải xây dựng quy chế về bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ.
Nghị quyết khẳng định: “Thực hiện chế độ bổ nhiệm có thời hạn” [14, tr.88] và
“việc bố trí và sử dụng cán bộ phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn phù hợp với sở
trường. Đề bạt cán bộ phải đúng lúc, đúng người, đúng việc” [14, tr.93]. Việc
bổ nhiệm cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn, sở trường cán bộ, yêu cầu công