1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng là một tổ chức
chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, được tổ chức theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Hệ thống tổ chức của Đảng tương ứng với hệ thống tổ chức
hành chính 4 cấp của Nhà nước: Cấp Trung ương, cấp tỉnh, thành phố (trực
thuộc Trung ương), cấp huyện (quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh), và cấp
cơ sở (xã, phường, thị trấn).
Trong công tác xây dựng Đảng, là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính
trị ở cơ sở. Các chi bộ thôn, bản trực thuộc Đảng bộ cơ sở là sợi dây chuyền
để liên lạc giữa Đảng với quần chúng. Chi bộ là tế bào của Đảng, là nơi trực
tiếp tiến hành các hoạt động để xây dựng nội bộ đảng, là nơi trực tiếp quản lý,
giáo dục và rèn luyện đảng viên, chi bộ chính là nền móng của Đảng, chi bộ
tốt thì mọi việc sẽ tốt.
Theo quy định của Điều lệ Đảng (khóa XI): “Chi bộ cơ sở họp thường lệ
một tháng một lần, họp bất thường khi cần”. Chính vì vậy việc tổ chức sinh
hoạt chi bộ là một hoạt động thường xuyên của các chi bộ Đảng, mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của địa
phương đều được truyền tải, phổ biến trong sinh hoạt chi bộ. Mọi định hướng
lãnh đạo của chi bộ về xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương,
công tác xây dựng chi bộ, phân công nhiệm vụ cho đảng viên cũng được bàn
và quyết định trong sinh hoạt chi bộ. Sinh hoạt chi bộ thường xuyên để nắm
bắt tình hình đảng viên trong chi bộ, cơng tác lãnh đạo của chi bộ, kiểm tra
đảng viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, để tăng cường mối quan hệ mật
thiết giữa chi bộ, giữa đảng viên với nhân dân trên địa bàn góp phần nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của .
2
Nâng cao chất lượng sinh hoạt của các chi bộ thôn, bản một trong những
nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng đảng. Trong những năm vừa qua,
Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo
về nội dung nâng cao chất lương sinh hoạt chi bộ như:
+ Quyết định số 95-QĐ/TW của Ban bí thư Trung ương (khóa IX) quy
định về chức năng, nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã.
+ Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban bí thư Trung ương ( khóa X) về nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
+ Hướng dẫn số 57-HD/BTCTW của Ban tổ chức Trung ương về “Một
số vấn đề nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”
+ Hướng dẫn số 05-HD/BTCTW của Ban tổ chức Trung ương về “Nội
dung sinh hoạt chi bộ trong các loại hình ”.
Gần đây nhất, ngày 02-3-2012 Ban tổ chức Trung ương đã ban hành
Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW về “Nội dung sinh hoạt chi bộ”.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta chỉ rõ:
“Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại
hình… Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, trước
hết là bí thư cấp ủy, thực hiện trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, tăng cường bồi dưỡng
kỹ năng, nghiệp vụ theo chức danh cán bộ cơ sở”.
Do có sự chỉ đạo sát sao, cụ thể và kịp thời của Trung ương về cơng tác
xây dựng Đảng nói chung, trong đó có cơng tác nâng cao chất lượng sinh hoạt
của các chi bộ thơn, bản nói riêng, trong thời gian qua Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang đã luôn quan tâm chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các
đảng bộ xã. Ban thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Đề án số 02-ĐA/TU ngày
29/4/2011 về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của giai đoạn 2011
- 2015”. Ban tổ chức Tỉnh ủy ban hành Công văn số 835-CV/BTCTU về việc
3
“sinh hoạt chi bộ”. Các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ủy viên
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh được phân cơng phụ trách huyện; các đồng chí
cán bộ lãnh đạo, chuyên viên Ban tổ chức Tỉnh ủy đã xây dựng kế hoạch về
dự sinh hoạt chi bộ trên địa bàn phụ trách. Chính bởi vậy, chất lượng sinh
hoạt chi bộ nói chung, chi bộ thơn, bản nói riêng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
đã có nhiều chuyển biến. Hầu hết các chi bộ thôn, bản trên địa bàn tồn tỉnh
đã cố gắng tìm tịi, cải tiến nội dung và hình thức sinh hoạt theo hướng gắn
liền với thực tiễn của địa phương, phát huy tính tiên phong gương mẫu của
đội ngũ đảng viên. Công tác đánh giá, phân loại đảng viên từng bước được
nâng cao, sát thực hơn. Nhiều chi bộ đã quan tâm đến công tác tạo nguồn, bồi
dưỡng kết nạp đảng viên, tăng cường quản lý đảng viên thông qua sinh hoạt
chi bộ.
Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của nhiều chi bộ thôn, bản trên địa bàn tỉnh còn yếu. Việc đổi mới, nâng cao
chất lượng sinh hoạt chi bộ còn hạn chế. Nội dung sinh hoạt ở một số chi bộ
thôn, bản chậm đổi mới. Việc tổ chức sinh hoạt chun đề cịn hình thức, kỹ
năng điều hành, chủ trì cuộc họp của nhiều đồng chí bí thư chi bộ cịn yếu, có
chi bộ duy trì thời gian sinh hoạt chưa nghiêm túc, tỷ lệ đảng viên dự sinh
hoạt còn vắng nhiều. Ý thức tổ chức kỷ luật, tính đảng của một số đảng viên
trong sinh hoạt chưa cao, việc phát hiện đấu tranh xử lý kịp thời đảng viên vi
phạm còn hạn chế.
Những hạn chế, khuyết điểm trên do nhiều nguyên nhân cả về khách quan
và chủ quan nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu: Ban chỉ ủy, đồng chí
bí thư chi bộ và đội ngũ đảng viên trong một số chi bộ chưa nhận thức một cách
đầy đủ và sâu sắc về mục đích và yêu cầu, nội dung của sinh hoạt chi bộ, chưa
thấy hết được vị trí, vai trị của chi bộ trong toàn bộ hệ thống của Đảng; trình độ,
năng lực và kinh nghiệm làm cơng tác đảng của một bộ phận cấp ủy, bí thư chi
4
bộ còn hạn chế, chưa qua đào tạo, bồi dưỡng nên việc điều hành hoạt động chi
bộ còn lúng túng, chưa đúng quy trình và thủ tục; các chi bộ thơn, bản nhất là chi
bộ nơng nghiệp bố trí theo địa bàn dân cư, đảng viên chủ yếu là anh em, họ
hàng, làng xóm nên cấp ủy và đồng chí bí thư chi bộ cịn có tư tưởng nể nang,
nương nhẹ, dĩ hịa vi q…Làm cho tính kỷ luật và tinh thần đấu tranh của đảng
viên trong chi bộ có phần giảm nhẹ. Một nguyên nhân nữa là do chế độ phụ cấp
của đồng chí bí thư chi bộ cịn thấp nên việc đầu tư nghiên cứu chuyên môn,
nghiệp vụ, phương pháp lãnh đạo cịn hạn chế. Nhiều đồng chí trong chi ủy và bí
thư chi bộ có tư tưởng làm khóa nào biết khóa đó, nên khơng đầu tư cho công tác
lãnh đạo, chỉ đạo và hoạt động của chi bộ.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, là người trực tiếp làm công tác tổ
chức xây dựng Đảng, tác giả đã có nhiều lần xuống dự sinh hoạt chi bộ nhất
là chi bộ thôn, bản. Tác giả luôn băn khoăn tự nhủ với tình hình như hiện nay
làm thế nào để cải tiến, nâng cao chất lượng hoạt động của các chi bộ thôn,
bản. Ngay từ khi được học lớp Thạc sỹ Khoa học Chính trị, chuyên ngành
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả luôn luôn ấp ủ nghiên cứu về vấn
đề này. Đến nay sau khi đã được trang bị đầy đủ các kiến thức về lý luận xây
dựng Đảng tác giả quyết định chọn đề tài: “Chất lượng sinh hoạt chi bộ
thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay” làm nội dung nghiên
cứu với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào cơng tác xây
dựng Đảng của tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về chất lượng sinh hoạt chi bộ thôn, bản thuộc các Đảng bộ
xã là một trong những nội dung được nhiều nhà nghiên cứu, giảng dạy và hoạt
động thực tiễn quan tâm. Nhiều học viên, nghiên cứu sinh chọn đề tài làm nội
dung viết luận án và luận văn tốt nghiệp trình độ tiến sĩ, thạc sĩ. Các đề tài,
cơng trình nghiên cứu tiêu biểu phải kể đến là:
5
- Nguyễn Phương Cương (2006), Chất lượng sinh hoạt của chi bộ thơn ở
các đảng bộ xã của huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
- Nguyễn Thị Bích Hạnh (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về chi bộ Đảng
với việc xây dựng Đảng vững mạnh trong sạch.
- Cao Thanh Vân (2008), Chất lượng sinh hoạt chi bộ thơn xóm ở thành
phố Hà Nội giai đoạn hiện nay.
- Nguyễn Hồng Sơn (2010), Chất lượng sinh hoạt chi bộ thuộc các Đảng
bộ xã ở thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc Sĩ khoa học
chính trị, chun ngành xây dựng Đảng.
Các đề tài, cơng trình nghiên cứu trên đã đi sâu vào phân tích, đánh giá
chất lượng sinh hoạt chi bộ dưới nhiều góc độ, nêu lên nhiều vấn đề về lý luận
và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Trên cơ sở đó đánh
giá thực trạng của việc sinh hoạt chi bộ hiện nay của các chi bộ đảng ở cơ sở
và tham mưu đề xuất nhiều giải pháp thiết thực để không ngừng cải tiến, đổi
mới nội dung, hình thức và phương pháp sinh hoạt của các chi bộ thuộc đảng
bộ các xã.
Bên cạnh các cơng trình, Đề tài nghiên cứu cịn có các bài viết đăng trên
các báo, tạp chí như:
- Ngơ Đình Xây (10-2002), Những tiêu chí cần có để nâng cao chất
lượng buổi sinh hoạt chi bộ, thông tin công tác đảng, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
- Thu Thủy (12-7-2009), Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ gắn với
việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, Tạp chí Ban Tuyên giáo điện tử.
- Minh Tuấn và Thanh Liêm (05-9-2009), Nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ, vấn đề là ở cấp ủy hay đảng viên?, Tạp chí xây dựng Đảng điện
tử.
- Bùi Văn Tiếng (20-3-2010), Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ khu
6
dân cư, Tạp chí Cộng sản điện tử.
Nội dung của các bài viết phản ánh thực chất của sinh hoạt chi bộ hiện
nay, cung cấp thêm những luận cứ khoa học và kinh nghiệm thực tiễn về sinh
hoạt chi bộ. Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang chưa có một đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống và toàn
diện về chất lượng sinh hoạt chi bộ thôn, bản trong phạm vi tồn tỉnh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chi bộ thôn, bản
tỉnh Bắc Giang, luận văn tập trung phân tích, đánh giá chất lượng sinh hoạt
chi bộ thôn, bản tỉnh Bắc Giang hiện nay; xác định nguyên nhân; rút ra kinh
nghiệm và đề xuất một số giải pháp cụ thể để nâng cao chất lương sinh hoạt
chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang từ nay đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ nội dung, hình thức, đặc điểm sinh hoạt chi bộ, quan niệm, tiêu
chí đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang Giang.
- Phân tích, đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc
Giang hiện nay; xác định nguyên nhân; rút ra kinh nghiệm.
- Xác định phương hướng và đề xuất một số giải pháp cụ thể để nâng cao
chất lượng sinh hoạt chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng sinh hoạt chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu tình hình sinh hoạt chi bộ thôn,
bản ở một số Đảng bộ xã thuộc tỉnh Bắc Giang từ năm 2008 đến nay (Theo
tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XVII, nhiệm kỳ
2010 - 2015). Đề xuất kịp thời những giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt
7
chi bộ thơn, bản trên địa bàn tồn tỉnh hiện nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng .
5.2. Cơ sở thực tiễn
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn hoạt động lãnh đạo công tác
xây dựng Đảng của Tỉnh ủy Bắc Giang và chất lượng sinh hoạt của các chi bộ
thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang từ năm 2008 đến nay.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, Luận văn sử dụng một số phương pháp cụ thể như: Các phương
pháp chuyên ngành và liên ngành, tổng kết thực tiễn, phân tích và tổng hợp,
so sánh, điều tra xã hội học, sử dụng chuyên gia.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn đã làm rõ thêm về thực trạng sinh hoạt và chất lượng sinh hoạt
chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang hiện nay, đồng thời đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Sau khi bảo vệ và được công nhận luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
cho những người làm công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là đội ngũ bí thư chi
bộ và chi ủy viên ở các chi bộ thôn, bản trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
8
Chương 1
CHẤT LƯỢNG SINH HOẠT CHI BỘ THÔN, BẢN Ở TỈNH BẮC
GIANG - NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH BẮC GIANG; CÁC THÔN, BẢN VÀ CHI
BỘ THÔN, BẢN Ở TỈNH
1.1.1. Khái quát về tỉnh Bắc Giang, các thôn, bản ơ
tỉnh
1.1.1.1. Khái quát về tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang là một tỉnh miền núi có diện tích tự nhiên 3.843,95 km 2, dân
số 1.576.962 người, mật độ trung bình 410,2 người/1km 2. Tồn tỉnh có 10 đơn
vị hành chính gồm 9 huyện và 1 thành phố là Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam,
Yên Thế, Tân Yên, Lạng Giang, Hiệp Hoà, Việt Yên, Yên Dũng và thành phố
Bắc Giang với 230 xã, phường, thị trấn.
* Về điều kiện tự nhiên:
Phía Bắc và Đơng Bắc của tỉnh Bắc Giang giáp tỉnh Lạng Sơn; phía Tây và
Tây Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên; phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Hải Dương,
tỉnh Bắc Ninh và thành phố Hà Nội; phía Đơng giáp tỉnh Quảng Ninh.
Bắc Giang có chiều ngang rộng nhất theo hướng Đông - Tây khoảng 120
km, chiều dọc hẹp nhất theo hướng Bắc - Nam khoảng 26 km.
Bắc Giang có vị trí địa lý khá độc đáo, là tụ điểm cuối cùng các cánh
cung Ngân Sơn, Yên Lạc, Bắc Sơn, Đông Triều là khởi điểm trong dải đất
chuyển tiếp Bắc Châu Thổ. Do ở giữa vùng núi và đồng bằng nên địa lý tự
nhiên của Bắc Giang phong phú và đa dạng bao gồm: Vùng rừng núi, vùng
đồi trung du, vùng thềm phù sa cổ, vùng thềm mài mịn.
Khí hậu của Bắc Giang cũng mang những đặc trưng chuyển tiếp, vừa có
tính chất nhiệt đới nóng ẩm, vừa có tính chất á nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình
9
hàng năm là 230C, lượng mưa trung bình từ 1.500 - 1.700mm. Nhìn chung,
khí hậu Bắc Giang có nhiều thuận lợi cho một nền kinh tế công - nông nghiệp.
Mạng lưới sông hồ của Bắc Giang tương đối phong phú, bao gồm các
con sông lớn: Sông Thương, sông Cầu, sông Lục Nam.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên của Bắc Giang phong phú và đa dạng với
hơn 20 loại khoáng sản, khoảng 40 loại mỏ vàng, sắt, chì, kẽm, thuỷ ngân.
Bắc Giang có hàng chục mỏ than đá và than bùn như Đồng Rẽ (huyện Sơn
Động), Bố Hạ (huyện Yên Thế)…
* Về kinh tế:
Từ khi tái lập tỉnh đến nay (01-7-1997) nền kinh tế của tỉnh Bắc Giang
đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Tiến trình cơng nghiệp hố được đẩy mạnh, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân hàng năm đạt 9,2%, trong đó: cơng nghiệp - xây dựng tăng 14,9%; dịch
vụ tăng 8,7%; nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,9%. GDP bình quân/người
ước đạt 1.080 USD, tăng 420 USD so với năm 2010. Sản xuất Công nghiệp
tiếp tục được quan tâm phát triển, duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Đến nay trên
địa bàn tỉnh đã hình thành 34 cụm công nghiệp thu hút 225 dự án với 3.200 tỷ
đồng. Sản xuất nơng nghiệp phát triển, đã hình thành một số vùng sản xuất
nơng nghiệp hàng hóa tập trung theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm và
hiệu quả kinh tế. Chương trình xây dựng nơng thơn mới đạt được một số kết
quả bước đầu. cơ cấu ngành công nghiệp tiếp tục có sự chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng chăn nuôi, giảm tỷ trọng trồng trọt. Thương mại, dịch vụ và du lịch
tăng trưởng khá, giá trị xuất khẩu tăng cao. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán
lẻ về doanh thu dịch vụ năm 2012 đạt gần 11.560 tỷ đồng. Năn 2013 ước đạt
15.000 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân 3 năm (2011 - 2013) đạt 26
%/năm. Thu hút đầu tư ở trọng và ngoài nước đạt được kết quả tích cực.
Đến nay, tồn tỉnh đã thu hút 139 dự án (trong đó 93 dự án trong nước,
10
46 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài) với số vốn 5.192,5 tỷ đồng và 1.331
triệu USD. Kết cấu hạ tầng tiếp tục được quan tâm, đầu tư nâng cấp. Toàn tỉnh
đã huy động được 5.100 tỷ đồng để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị.
* Về văn hoá - xã hội:
Chất lượng giáo dục - đào tạo được duy trì, cơng tác xã hội hố giáo dục
được quan tâm. Quy mơ dạy nghề được mở rộng, đáp ứng cơ bản nhu cầu học
nghề của người lao động, 10/10 huyện thành phố và 230 xã, phường, thị trấn
đạt chuẩn phổ cập trẻ 5 tuổi, các hoạt động văn hố, thể thao khơng ngừng
phát triển. Đến nay tồn tỉnh có 127 nhà văn hố cấp xã, 2061 nhà văn hố
cấp thơn (tăng 67 nhà so với năm 2010). Cơng tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ
nhân dân có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế đạt 64%, cứ
35,5 cán bộ y tế/1 vạn dân, 7 bác sỹ/1 vạn dân, 19,5 giường bện/1 vạn dân.
Cơng tác xố đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh xã hội, giải quyết chế độ
chính sách và phòng chống tệ nạn xã hội được quan tâm. Đã giải quyết việc
làm cho trên 65.600 lao động, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ19,61% năm 2010 xuống
còn 12,11% năm 2012 và ước năm 2013 còn 11%. Thực hiện chi trả kịp thời,
đúng quy định cho gần 3 vạn người có cơng đang hưởng trợ cấp xã hội.
* Về quốc phịng an ninh:
Đẩy mạnh nâng cao chất lượng công tác giáo dục quốc phòng xây dựng
khu vực phòng thủ, xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an
ninh nhân dân. Hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ
hàng năm. 100% ban chỉ huy quân sự cấp xã được tổ chức kiện toàn theo quy
định. Tích cự đấu tranh phịng ngừa các loại tội phạm, bài trừ các tệ nạn xã
hội. Từ 2011 đến nay, toàn tỉnh đã phát hiện 327 vụ với 456 đối tượng xâm
phạm về trật tự quản lý kinh tế, gây thiệt hại 12,9 tỷ đồng; điều tra khám phá
1.771 vụ với 1.899 đối tượng phạm pháp hình sự, đạt tỷ lệ 74,9%, triệt phá 31
đường dây ma tuý lớn. Tai nạn giao thơng giảm trên cả 3 tiêu chí.
11
* Cơng tác xây dựng Đảng có chuyển biến tiến bộ:
Toàn Đảng bộ tỉnh Bắc Giang tiếp tục đẩy mạng cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đẩy mạnh cơng tác sinh hoạt
chi bộ, đổi mới cả về nội dung và hình thức sinh hoạt, ý thức sinh hoạt Đảng
được nâng lên, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) của
Đảng “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Thực hiện
nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát, đến nay cấp uỷ các cấp đã kiểm tra
việc chấp hành với 2493 tổ chức Đảng, 13.920 đảng viên. Qua kiểm tra đã xử
lý kỷ luật 20 tổ chức Đảng, 1055 đảng viên.
* Cơng tác xây dựng chính quyền:
- Hoạt động của HĐND, UBND các cấp được nâng lên, tăng cường hoạt
động giám sát, tiếp xúc cử tri, trả lời ý kiến kiến nghị của cử tri.
UBND các cấp nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành. Thực hiện
nghiêm túc việc đánh giá, xếp loại trách nhiệm người đứng đầu. Nâng cao
chất lượng hoạt động của cơ chế một cửa, một cửa liên thông, một cửa điện
tử, ý thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức. Đẩy
mạng công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng,
lãng phí.
* Hoạt động của mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân:
Các cấp uỷ Đảng đã quan tâm lãnh đạo hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội. Cấp uỷ, chính quyền các cấp thường xuyên
tổ chức giao ban với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Tỷ lệ hội viên, đoàn
viên tham gia sinh hoạt trong tổ chức ngày càng tăng.
Tình hình dân tộc, tơn giáo trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định. Đại bộ
phận nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành tốt chính
sách, pháp luật của Nhà nước, của địa phương, xây dựng đời sống văn hoá
ở khu dân cư.
12
1.1.1.2. Các thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang, vai trò và đặc điểm
* Vai trị của các thơn, bản ở tỉnh Bắc Giang.
Theo Đại từ điển tiếng Việt “Thôn, làng là một phần của xã, gồm nhiều
xóm” [54, tr.1584]’ “Bản là đơn vị dân cư nhỏ nhất của một vùng dân tộc
thiểu số Việt Nam, tương đương với làng xóm [54, tr.92].
Tại Thông tư số 04/2012/TT - BNV ngày 31-8-2012 của Bộ Nội vụ ghi
rõ: Thôn, làng, ấp, bản, buôn, phun, sóc…(gọi chung là thơn) được tổ chức ở
xã dưới xã là thôn, không phải là một tổ chức hành chính mà là một tổ chức tự
quản của cộng đồng dân cư có chung địa bàn cư trú trong một khu vực ở một
xã, nơi thực hiện dân chủ trực tiếp và rộng rãi để phái huy các hình thức hoạt
động tự quản, tổ chức nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên giao.
Như vậy, thôn, bản có vai trị vơ cùng quan trọng trong đời sống xã hội ở
tỉnh Bắc Giang. Vai trị của các thơn, bản ở tỉnh Bắc Giang thể hiện cụ thể
trên những nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện
mọi đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Với đặc điểm là một vùng đất cổ, có truyền thống lịch sử lâu đời, bởi vậy
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang các thôn, bản đan xem, cộng đồng các dân tộc
sống xen canh, xen cư, tạo nên sự đồn kết, gắn bó các dân tộc anh em. Thơn,
bản ở tỉnh Bắc Giang được hình thành từ lâu đời, có vai trị to lớn trong đời
sống của cộng đồng dân cư. Tại đây, diễn ra các hoạt động lao động dản xuất,
đảm bảo đời sống của dân cư, đồng thời thôn, bản cũng là nơi tạo nên các sắc
thái văn hoá đặc thù của mỗi vùng, miền. Mọi chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Suy cho cùng phải được chuyển
tải đến từng thôn, bản, từng người dân. Các phong trào như: Tồn dân đồn
kết xây dựng đời sống văn hố, xây dựng thơn bản văn hố, gia đình văn hố
13
hay việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đều được tổ chức triển khai và
thực hiện ở thôn, bản.
Thứ hai, thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang là nơi diễn ra các hoạt động của
cộng đồng dân cư tạo nên các sắc thái đặc sắc, đa dạng và phong phú của
văn hố các dân tộc tỉnh Bắc Giang.
Thơn, bản ở tỉnh Bắc Giang là nơi cư trú lâu đời của nhân dân các dân
tộc trong tỉnh. Trong mỗi thơn, bản hình thành các cộng đồng người, các
dịng họ cùng huyết thống, cùng dân tộc, cùng tôn giáo. Tuy nhiên, do sự
biến động của cuộc sống, so chiến tranh, do sự di cư buôn bán, làm ăn, do
các điều kiện sống khác nhau, trong các thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang cịn có
các gia đình, các dịng họ khác đến sinh sống. Họ mang đến các thôn bản
các phong tục, tập quán, cách thức làm ăn khác nhau, những nét văn hoá
khác nhau. Qua sự giao thoa giữa những người bản địa (người gốc) và
người từ nơi khác đến tạo nên sự phong phú, đa dạng của văn hoá vùng
miền. Vùng là điểm khác biệt tạo nên các sắc thái văn hoá của các vùng
miền, các xã, các huyện trong tỉnh Bắc Giang.
Thứ ba, ở trong các thôn, bản của tỉnh Bắc Giang còn lưu giữ và bảo tồn
nhiều phong tục tập quán tạo nên các sắc thái văn hoá của các dân tộc tỉnh
Bắc Giang.
Như trên ta đã nói, thơn bản của tỉnh Bắc Giang được hình thành từ lâu
đời. Bởi vậy nhiều hoạt động của con người trong các thôn, bản được lưu
truyền, lập đi, lập lại từ đời này sang đời khác. Trong mỗi gia đình, dịng họ
đều có các nghi lễ, quy định khác nhau. Các tập tục như: cưới xin, ma chay,
tín ngưỡng, thờ cúng…đã trở thành lối mịn, tiềm thức của thơn, bản, con
người, của mỗi dòng họ, được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Mặc dù
cho đến ngày nay nhiều phong tục, tập quán đã được cải tiến, sửa đổi cho phù
hợp với đời sống mới, xong những sắc thái văn hố thể hiện tính thuần phong
14
mỹ tục vẫn được lưu giữ và bảo tồn trong các thơn bản, tạo nên sắc thái, màu
sắc văn hố của mỗi vùng, miền, mỗi dân tộc trong tỉnh. Các sắc thái văn hoá
này được thể hiện rõ nét qua ngày hội văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Giang
được tổ chức thường niên 2 năm một lần.
* Đặc điểm của các thôn, bản ở tình Bắc Giang.
Với đặc điểm của một tỉnh miền núi phía Bắc có nhiều dân tộc anh em
sinh sống như: Kinh, tày, Nùng, Sán Dùi, Cao Lan, Sán Chí, Dao, Hoa… các
thơn, bản ở tỉnh Bắc Giang có nhiều đặc điểm riêng biệt.
Một là, mặc dù có nhiều dân tộc anh em sinh sống nhưng đồng bào các
dân tộc ở các thôn, bản sống đan xen, có nhiều điểm văn hố chung.
Đồng bào các dân tộc anh em sống chủ yếu ở các huyện: Lục Nam, Lục
Ngạn, Sơn Động, Yên Thế, Lạng Giang. Nếu như ở nhiều tỉnh miền núi
như Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kan…có những
bản vùng cao chủ yếu là dân tộc ít người sinh sống thì ở tỉnh Bắc Giang
trong các bản có vài ba dân tộc anh em sinh sống. Đặc biệt, nhờ có cơng
cuộc đổi mới, đường xá giao thông, điện, thông tin , việc giao lưu phát
triển kinh tế đã làm cho các thôn, bản có nhiều đổi mới. Trong các thơn,
bản có nhiều dân tộc anh em sinh sống, đời sống vật chất tinh thần, sự
giao lưu văn hoá ngày càng phát triển. Phong tục tập quán của các dân tộc
tuy có những nét đặc sắc riêng nhưng sự khác biệt không nhiều, chủ yếu
mang đậm nét sắc thái văn hoá của các dân tộc tỉnh Bắc Giang. Đó là nên
văn hố miền núi, đời sống tâm linh là tín ngưỡng đa thần mà cối lõi là
thờ cúng các vị thần nông nghiệp, các vị thần có cơng với nước... Các dân
tộc thiểu số ở tỉnh Bắc Giang đều có phong tục thờ cúng tổ tiên, canh tác
ruộng nước, nương rẫy, có truyền thống đồn kết gắn bó cộng đồng người
dân trong các thơn, bản đã có sự giao lưu về văn hố, làm ăn kinh tế, giữ
gìn các phong tục, tập quán tốt đẹp của người xưa để lại.
15
Hai là, trong các thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang trước đây người dân sống
thưa thớt, cách xa nhau. Nhưng ngày nay người dân sống đông
hơn, sự giao lưu của các dân tộc giữ các thôn, bản được phát
triển cả về kinh tế và văn hoá.
Trước đây ở các huyện miền núi cao như Sơn Động, Lục Nam, Lục
Ngạn, Yên Thế quy mô thôn bản nhỏ, người dân sống thưa thớt, từ nhà nọ đến
nhà kia khoảng cách rất xa. Do quá trính phát triển của xã hội, ngày nay các
thơn, bản quy mơ ngày càng lớn. Thêm vào đó sự phát triển của hệ thống
đường giao thông, người ở dưới xuôi lên làm ăn sinh sống lập nghiệp trên
miền núi ngày càng nhiều. Sự pháp triển kinh tế và cơng nghiệp hình thành
nên các khu cơng nghiệp, cụm cơng nghiệp và trang trại đã làm cho các thôn,
bản ngày càng phát triển. Chẳng hạn tuyến đường Quốc lộ 13 từ thành phố
Bắc Giang đi huyện Sơn Động được mở rộng, cải tạo và nâng cấp. Từ thị trấn
An Châu (huyện Sơn Động) đã xây dựng thêm tuyến đường vào thị trấn
Thanh Luận nối liền với tỉnh Quảng Ninh tại dãy núi Yên Tử, xây dựng nhà
máy nhiệt điện Sơn Động, đã làm cho thôn, bản thay đổi, dân cư đông đúc.
Nếu như trước đây việc đi lại, thông thương làm ăn, bn bán, giao lưu
văn hố giữa các thơn, bản gặp khó khăn, thì nay thuận lợi và thơng thương.
Người dân giữa các thôn bản đi lại buôn bán, làm ăn phát triển kinh tế, giao lưu
văn hoá, học hỏi lẫn nhau. Khơng cịn sự phân biệt giữa miền xuôi và miền núi,
giữa vùng này với vùng khác. Thông tin giữa các thơn, bản ngày càng thường
xun, xố bỏ ranh giới giữa các vùng miền trên địa bàn toàn tỉnh.
Ba là, công tác quản lý hoạt động của các thơn, bản vừa
mang tính chất pháp lý lại vừa mang đậm tính chất đạo lý và
các phong tục cộng đồng dân cư.
Theo quy định chung, thôn bản ở tỉnh Bắc Giang tuy khơng phải là một
cấp hành chính nhưng lại là cánh tay nối dài của chính quyền cơ sở. Với tính
16
chất là một đơn vị tự quản của cộng đồng dân cư, thơn bản vừa mang tính
chất Nhà nước vì chức danh trưởng thôn, trưởng bản do nhân dân các thôn,
bản trực tiếp bầu ra và được chủ tịch UBND xã quyết định bổ nhiệm, đồng
thời thôn, bản lại là nơi mà ở đó chi bộ Đảng, Ban quản lý thơn bản, các đồn
thể quần chúng trong thơn, bản gắn liền với người dân, nắm dân và hiểu dân.
Chính quyền cơ sở muốn vững mạnh, phải đặc biệt quan tâm đến các thôn,
bản trên địa bàn. Việc củng cố, xây dựng và phát triển các thôn, bản vững
mạnh, tăng cường đồn kết, hồ hợp, gắn bó giữa các dân tộc trong từng thôn,
bản, giữa thôn bản này với thôn bản khác là động lực mạng mẽ để xây dựng
hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, tạo điều kiện để phát triển kinh tế, văn
hoá - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh ở cơ sở.
Để quản lý tốt mọi hoạt động của các thôn, bản phải tuân thủ theo các
quy định của Đảng và Nhà nước (các nội quy, quy định, hướng dẫn, các chủ
trương, chính sách của Nhà nước và Chính phủ) mà người trực tiếp điều hành là
ban quản lý thôn, bản. Tuy nhiên, do đặc điểm huyết thống, họ hàng, dịng tộc,
làng xóm, láng giềng trong công tác quản lý các hoạt động của thơn, bản, ngồi
tính chất pháp lý cuả Nhà nước, việc quản lý thơn, bản cịn phải khơn khéo vận
dụng nhiều yếu tố khác đan xen như: yếu tố làng bản, dân tộc, họ hàng, làng
xóm, phong tục tập qn…Bởi vì con người sống trong các thơn, bản thiên về
tình cảm “Một trăm cái lý khơng bằng một tý cái tình”. Chính vì vậy, chúng ta
chủ trương xây dựng thơn, bản văn hố gắn với gia đình văn hố có ý nghĩ vô
cùng to lớn, thúc đẩy xây dựng thôn, bản ngày càng văn minh, tiến bộ.
Bốn là, mặc dù có nhiều tiến bộ nhưng về trình độ dân trí, các điều kiện
về cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
các dân tộc miền núi tỉnh Bắc Giang vẫn còn khoảng cách so với thành thị và
nhiều nơi khác.
Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên phát triển
17
các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Tuy
nhiên, do điều kiện địa hình khơng thuận lợi, giao thơng cịn hạn chế. Thêm
vào đó do trình độ nhận thức, tập qn lạc hậu vẫn còn tồn tại trong đời sống
của đồng bào các dân tộc tỉnh Bắc Giang, bởi vậy việc học tập, nâng cao trình
độ dân trí của con em đồng bảo các dân tộc trong tỉnh còn hạn chế. Đường xá
đi lại đến các bản làng vùng cao chưa được đầu tư nhiều. Việc hưởng thụ văn
hóa của đồng bào các dân tộc trong tỉnh cịn ít. Phong tục tập qn làm ăn,
sinh sống còn lạc hậu, thiếu hiểu biết khoa học. Bởi vậy, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân ở các thơn, bản vùng cao tuy có nhiều cải thiện so với
trước nhưng so với các vùng đô thị trong tỉnh (thành phố, thị trấn), với các địa
phương miền xi cịn chênh lệch về khoảng cách, nhân dân cịn phải chịu
nhiều thiệt thịi.
1.1.2. Các chi bợ thơn, bản ở tỉnh Bắc Giang - Vị trí, vai trò, đặc
điểm, chức năng, nhiệm vụ
1.1.2.1. Vị trí, vai trò, đặc điểm của chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang
* Vị trí, vai trị của chi bộ thơn, bản ở tỉnh Bắc Giang
Theo từ điển tiếng việt: Vị trí là chỗ, nơi xác định, là địa vị, vai trò trong
xã hội, trong một tổ chức.
Vai trò là tác dụng, chức năng trong sự hoạt động, sự phát triển
[52, tr.1422, 1400, 388].
Chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang là một loại hình tổ chức Đảng trực
thuộc Đảng uỷ các xã, là các tổ chức tạo nên các đảng bộ xã, từ đó tạo nên các
tổ chức Đảng cấp trên (Huyện uỷ, Tỉnh uỷ) và tồn Đảng. Chi bộ thơn, bản có
vai trị to lớn trong mọi hoạt động của các Đảng bộ xã và trong hệ thống tổ
chức và hoạt động của toàn Đảng. Điều này đã được các nhà sáng lập ra Chủ
nghĩa Mác - Lê nin, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định. Trong quá trình hoạt động cách mạng, đẫm mình trong phong trào cộng
18
sản và công nhân quốc tế, C. Mác và Ph. Ăng ghen đã đưa ra những quan
điểm đầu tiên về vị trí, vai trị của chi bộ. Trong tác phẩm “Liên đồn những
người cộng sản” Hai ơng khẳng định về cơ cấu Liên đoàn gồm chi bộ, khu bộ,
tổng khu bộ, Ban chấp hành Trung ương và Đại hội: Chi bộ được hình thành
từ các hội bí mật trong các tổ chức của cơng nhân. Chi bộ phải có sự liên hệ
chặt chẽ với nhau và liên hệ với Trung ương. Nếu các chi bộ khơng có sự liên
hệ chặt chẽ với nhau sẽ dẫn tới sự cắt đứt liên lạc với Trung ương và như vậy
sẽ làm mất đi chỗ dựa cho “Liên đoàn những người cộng sản”. Hai ông còn
cho rằng trong hoạt động phải thường xuyên củng cố các chi bộ, biến các chi
bộ thành trọng tâm và hạt nhân của các hiệp hội công nhân, là mắt xích quan
trọng, là chỗ dựa vững chắc của Đảng.
Kế thừa và phát triển sáng tạo các quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen
về xây dựng các tổ chức Đảng, V.I. Lênin đã ra sức xây dựng Đảng kiểu mới
của giải cấp cơng nhân - Đảng Bơn sê vích Nga. Theo Lênin “Đảng là đội tiên
phong của giai cấp thì phải hết sức có tổ chức. Đảng viên phải tham gia trong
một tổ chức của Đảng [34, tr.86]. Trong toàn bộ hệ thống tổ chức của Đảng,
V.I.Lênin coi trọng đến chi bộ. Bởi vì chi bộ là nơi hàng ngày, hàng giờ diễn
ra công tác giáo dục, rèn luyên, phân công công tác, quản lý, phát triển đảng
viên, thanh lọc đảng viên, nhằm làm cho họ luôn là chiến sỹ tiên phong của
giai cấp cơng nhân.
Lênin cịn khẳng định: Các chi bộ phải liên hệ chặt với nhau và với
Trung ương để trao đổi kinh nghiệm công tác, thực hiện tuyên truyền quần
chúng cách mạng. Đồng thời các chi bộ phải tự thích nghi với mọi điều
kiện, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và mọi tầng lớp nhân dân. Lê nin
cho rằng mỗi chi bộ và mỗi uỷ ban công nhân của Đảng phải là một điểm
tựa để tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động và tổ chức thực hiện trong
quần chúng”, tức là nhất định phải đi đến nơi mà quần chúng đi và trong
19
mỗi bước đi, phải cố gắng làm cho ý thức của quần chúng hướng về chủ
nghĩa xã hội [34, tr.447].
Theo Lênin “Trong các chi bộ, ta thấy cịn có rất ít tính chủ động, hoạt
động của họ tại địa phương sẽ rất có lợi về mặt tác động vào những người ngoài
Đảng [34, tr.56], các cán bộ, các cơ quan Xô viết phải đem hết sức lực, đem hết
chú ý để tạo ra, để phát huy một tính chủ động lớn hơn ở cơ sở [37, tr 279].
Vận dụng sáng tạo các học thuyết, quan điểm của C.Mác, Ph.Ăng ghen
và V.I.Lênin về cơng tác xây dựng Đảng nói chung và cơng tác xây dựng chi
bộ nói riêng, trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln quan tâm đến cống tác xây
dựng Đảng trong đó có cơng tác xây dựng chi bộ Đảng cho phù hợp với tình
hình thực tiễn ở nước ra trong từng thời điểm, từng địa phương nhất định.
Đảng ta khẳng định: “Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo
quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng ở cơ
sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ
và lực lượng vĩ đại của quần chúng [28, tr23].
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong sự nghiệp
xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn coi các chi bộ là tế bào trong hệ
thống tổ chức của Đảng. Hoạt động của Đảng chủ yếu diễn ra ở chi bộ. Chất
lượng của các chi bộ là yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng lãnh đạo của Đảng,
là uy tín của Đảng trước quần chúng nhân dân, là yếu tố quyết định đến sức
mạnh của tồn Đảng.
Là một người Đảng viên cơng sản, người đầu tiên sáng lập ra Đảng Cộng
sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trong cơng tác xây dựng chi
bộ Đảng, người coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác
xây dựng Đảng. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Chi bộ là gốc rễ
của Đảng” [44, tr.242], “là nền tảng của Đảng, của cách mạng xã hội” [44,
20
tr.467], “Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng và nó là sợi dây chuyền để
liên hệ đảng với quần chúng” [44, tr243], “Mỗi chi bộ phải là một hạt nhân
vững chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nước, cần kiệm xây dựng nước
nhà” [45, tr.205] “Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt,
mọi công việc đều tiến bộ không ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì cơng việc
khơng trơi chảy” [46, tr.161], “Muốn làm nhà cho tốt phải xây dựng nền cho
vững. Muốn thực hiện Kế hoạch cho tốt phải chăm lo củng cố chi bộ. Thực tế
cho thấy chỗ nào chi bộ tốt, công việc trôi chảy, chổ nào chi bộ yếu, công việc
xộc xệch. Chi bộ được củng cố phải được biểu hiện trước hết ở chỗ đảng viên,
đoàn viên thanh niên lao động ở hợp tác xã, xí nghiệp, cơ quan, cơng trường..
phải gương mẫu [44, tr.226]. Hồ Chí minh đã xem xét, phân tích vai trò nền tảng
của chi bộ trong mối quan hệ với chất lượng tổ chức cơ sở đảng và chất lượng
của tồn Đảng. Theo Người “Để lãnh đạo cách mạng thì Đảng phải mạnh, Đảng
mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” [46, tr .94].
Xuất phát từ quan điểm của các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, có thể
khái qt về vị trí, vai trị của các chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang như sau:
Các chi bộ thôn, bản trực thuộc đảng uỷ các xã, là nền tảng của Đảng, là
hạt nhân chính trị ở mỗi thôn, bản, là cầu nối trực tiếp giữa Đảng với nhân
dân. Mỗi chi bộ trực tiếp lãnh đạo đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân trên
địa bàn (thôn, bản) thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Động viên, khích lệ, khơi dậy nguồn lực, nguồn trí
tuệ trong nhân dân, đời sống dân sinh, dân chủ chủ của mỗi người dân sinh
sống trên địa bàn thôn, bản.
Chi bộ thôn, bản là nơi trực tiếp, hàng ngày giáo dục, rèn luyện, quản lý,
phát triển và sàng lọc đảng viên, đóng góp ý kiến vào xây dựng Đảng bộ xã
và các tổ chức Đảng cấp trên. Đồng thời là nơi đào tạo, cung cấp cán bộ cho
21
đảng uỷ, chính quyền, các ban, ngành, đồn thể xã, góp phần nâng cao đội
ngũ cán bộ cho địa phương.
Chi bộ thôn, bản là trung tâm quy tụ, tập hợp lực lượng ở trong làng
xóm. Trực tiếp nắm bắt mọi tâm tư, nguyện vọng của nhân dân trên địa bàn
thôn, bản phản ánh kịp thời với xã, với huyện, với Đảng và Nhà nước. Tạo
niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Thực tiễn đã chứng minh ở thơn, bản nào chi bộ trong sạch vững mạnh,
chính quyền thơn vững mạnh là ở đó có đảng viên gương mẫu, đời sống kinh
tế, văn hoá, xã hội của nhân dân trong thơn, bản được cải thiện, quốc phịng
an ninh vững chắc, mối quan hệ giữa chi bộ, đảng viên, giữa đảng viên và
quần chúng ngày càng mật thiết, tạo nên một bộ mặt trong thôn, bản mới
ngày càng khởi sắc.
* Đặc điểm của chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang
Các chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, các chi bộ thơn, bản có số lượng đảng viên và quy mô không
đồng đều, phạm vi hoạt động rất đa dạng.
Do ảnh hưởng của vị trí địa lý và tình hình dân cư, các thơn, bản trong
tỉnh có diện tích và dân số khơng đồng đều. Điều này tác động đến số lượng
đảng viên của mỗi chi bộ. Ở những huyện vùng dưới (Yên Dũng, Việt Yên,
HIệp Hoà) chủ yếu là mỗi thơn có 01 chi bộ, có chi bộ có từ 10 - 12 đảng
viên, nhưng cũng có chi bộ lên tới 60 - 70 đảng viên, đảng viên phần lớn là
người Kinh. Trong khi đó tại những huyện vùng cao (Yên Thế, Lục Nam, Lục
Ngạn, Sơn Động) mặc dù diện tích rộng nhưng dân cư thưa thớt, vẫn còn tồn
tại chi bộ ghép, đảng viên là người dân tộc chiếm tỷ lệ khá lớn, số lượng
đảng viên trong chi bộ cịn ít (có chi bộ chỉ có từ 5 - 7 đảng viên) thậm chí
từ 3 - 4 đảng viên. Địa bàn hoạt động của các chi bộ phụ thuộc vào địa bàn
dân cư. Có chi bộ, đảng viên chủ yếu là người Kinh, nhưng cũng có chi bộ
22
đảng viên xuất thân từ nhiều dân tộc khác nhau (Kinh, Tày, Nùng, Cao Lan,
Hoa…). Có chi bộ chủ yếu là lãnh đạo phát triển nơng nghiệp, nhưng cũng
có chi bộ lãnh đạo đan xen nhiều ngành kinh tế, Nông nghiệp tiểu thủ công
nghiệp - dịch vụ…Bởi vậy, trong sinh hoạt, các chi bộ thôn, bản cần nắm
chắc đặc điểm của địa phương mình, chủ động đề ra các biện pháp lãnh
đạo, duy trì hoạt động của chi bộ một cách phù hợp với thực tiễn để mang
lại hiệu quả thiết thực.
Hai là, đối tượng lãnh đạo của chi bộ thôn, bản là đồng bào các dân tộc
trong tỉnh, trong đó chủ yếu là nơng dân.
Trong các thơn, bản ở tỉnh Bắc Giang có nhiều dân tộc anh em cùng cư
trú đan xem, hoà đồng. Bởi vậy, đối tượng lãnh đạo của các chi bộ là đồng
bào các dân tộc bao gồm: Người Kinh và các dân tộc thiểu số như Tày, Nùng,
Sán Dìu, Cao Lan, Sán Chỉ, Hoa…Trong đó dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ đông
nhất (khoảng 87,9%).
Tuy mỗi dân tộc có phong tục tập quán và những nét văn hố riêng
nhưng họ có những điểm chung, tương đồng là: Có tinh thần đồn kết, u
thương, giúp đỡ lẫn nhau đã được thử thách qua lịch sử, thời gian, cần cù chịu
khó trong lao động, ln tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chung sức xây
dựng cuộc sống mới ngày càng văn minh và tiến bộ.
Ở các thôn, bản người nông dân chiếm số lượng đông đảo. Bởi vậy, đối
tượng lãnh đạo của chi bộ chủ yếu là nơng dân. Mặc dù trình dộ dân trí đã
được cải thiện nhưng nhìn chung trình độ nhận thức của người nơng dân so
với đối tượng khác cịn thấp, đời sống kinh tế vẫn cịn có những khó khăn
nhất định. Trong lãnh đạo, các chi bộ thôn, bản cần nắm chắc đặc điểm này để
tập trung lãnh đạo. Bên cạnh đó, một số phong tục tập quán lạc hậu của các
dân tộc chưa được loại bỏ hồn tồn, thậm chí có xu hướng gia tăng như: Ma
23
chay, cưới xin, bói tốn… đã tác động trực tiếp đến sự lãnh đạo của các chi bộ
thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang.
Ba là, môi trường hoạt động của các chi bộ thôn, bản chủ yếu là khu vực
nông thôn.
Trong các thôn, bản người dân sống chủ yếu bằng nghề sản xuất nơng
nghiệp, do đó mơi trường hoạt động của chi bộ thôn, bản là địa bàn nông
thôn. Đến nay, công cuộc đổi mới, xây dựng nông thôn mới đang có nhiều
khởi sắc, nhưng ở nhiều nơi, cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập, đời sống của
người dân còn nhiều khó khăn. Ở những vùng dân tộc, vùng cao, vùng sâu,
các phong tục, tập quán còn lạc hậu, nặng nề. Có những nơi như Lục Ngạn,
Sơn Động, Lục Nam vẫn cịn tồn tại chi bộ ghép, thậm chí trắng đảng viên
(Lục ngạn 2 thôn) làm cho hoạt động của chi bộ gặp nhiều khó khăn. Trong
lãnh đạo, chỉ đảo các chi bộ, thôn, bản cần nắm chắc đặc điểm này để xây
dựng Nghị quyết chuyên đề tập trung lãnh đạo thôn, bản nâng cao chất lượng
của chi bộ.
Bốn là, trình độ của đội ngũ cán bộ và đảng viên của các chi bộ thôn,
bản không đồng đều.
Như trên đã phân tích, đảng viên các chi bộ thơn, bản chủ yếu là nơng
dân nên trình độ khơng đồng đều. Đại đa số đảng viên trình độ văn hố tốt
nghiệp THCS, chưa qua đào tạo lý luận chính trị. Đội ngũ Ban chi uỷ thường
xuyên có sự thay đổi theo nhiệm kỳ đại hội chi bộ, phần lớn chỉ được bồi
dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng hoặc được đào tạo sơ
cấp lý luận chính trị. Trong khi đó có một bộ phận cán bộ đảng viên là cán bộ
nghỉ hưu về sinh hoạt theo nơi ở thì trình độ văn hố, lý luận chính trị cao, đã
tích luỹ, đúc rút kinh nghiệm. Bởi vậy, trong lãnh đạo, các cấp uỷ chi bộ và
đồng chí bí thư chi bộ thơn, bản cần nắm chắc trình độ đảng viên. Một mặt,
phát huy, tranh thủ ý kiến của đội ngũ đảng viên hưu trí. Mặt khác đề ra các
24
nghị quyết, nhiệm vụ lãnh đạo phù hợp với trình độ của đảng viên nơng
nghiệp đảm bảo tính đồn kết, phù hợp giữa mọi đảng viên và đảm bảo vai
trò, hiệu quả lãnh đạo của chi bộ.
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của các chi bộ thôn, bản
ở tỉnh Bắc Giang
* Chức năng của các chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI quy định chức năng, nhiệm vụ của chi bộ trực thuộc đảng uỷ
cơ sở: “Chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị; giáo dục,
quản lý và phân công công tác cho đảng viên; làm công tác vận động quần
chúng và công tác phát triển đảng viên; kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật
đảng viên; thu, nộp đảng phí. Chi bộ, chi uỷ họp thường lệ mỗi tháng một
lần” [26, tr.41]. Theo quy định của Điều lệ Đảng, chức năng của các chi bộ
thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang như sau:
Chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang là cầu nối trực tiếp giữa Đảng với
nhân dân ở địa bàn các thơn, bản, có chức năng lãnh đạo nhân dân trên địa
bàn thôn, bản thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; nghị quyết, chương trình, kế hoạch kinh tế - xã hội của
đảng uỷ xã; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; động viên
nhân dân làm trịn nghĩa vụ cơng dân đối với Nhà nước; giữ vững ổn định
chính trị, xã hội ở địa phương; xây dựng phong trào toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hố ở thơn, bản; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở và
thường xuyên giữ mối liên hệ với đảng viên đang công tác ở nơi cư trú.
Sự lãnh đạo của chi bộ thôn, bản là lãnh đạo chính trị, tức là chi bộ xác
định các chủ trương, giải pháp và lãnh đạo nhân dân thực hiện các nội dung
nêu trên. Chi bộ không can thiệp quá sâu và làm thay công việc của trưởng
thôn, trưởng bản và các đồn thể nhân dân ở thơn, bản.
* Nhiệm vụ của chi bộ thôn, bản ở tỉnh Bắc Giang.
25
Chi bộ thơn, bản ở tỉnh Bắc Giang có những nhiệm vụ sau:
Một là, chi bộ thôn, bản lãnh đạo cơng tác chính trị tư tưởng.
Chi bộ thơn, bản tổ chức tuyên truyền, giáo dục sâu rộng chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị
quyết của cấp trên và của chi bộ cho đảng viên và nhân dân chấp hành
nghiêm chỉnh.
Bên cạnh đó, chi bộ thơn, bản thường xun chăm lo, giáo dục, rèn luyện
đội ngũ cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống, về phẩm chất chính trị, năng
lực cơng tác, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên.
Chi bộ thôn, bản phải quan tâm, nắm vững tâm tư, nguyện vọng, diễn
biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua đó, chi bộ thơn, bản kịp
thời giải quyết, phản ánh lên cấp trên xem xét, giải quyết những đề xuất, kiến
nghị chính đáng của nhân dân trên địa bàn thôn, bản mà chi bộ lãnh đạo.
Chi bộ thơn, bản phải tích cực đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc,
âm mưu “Diễn biến hoà binh”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, nhất là
các thôn, bản ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống
của tỉnh Bắc Giang.
Hai là, chi bộ thôn, bản lãnh đạo phát triển sản xuất, chăm lo đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, chi bộ thôn, bản cần tuyên truyền, vận
động nhân dân thực hiện các chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội
theo tinh thần nghị quyết của Đại hội chi bộ, nghị quyết Đại hội đảng bộ xã,
và các nghị quyết của cấp trên.
Với vai trò lãnh đạo của mình, các chi bộ thơn, bản cần tích cực tạo mơi
trường thuận lợi, khuyến khích phát triển sản xuất, trong đó các thơn, bản ở
tỉnh Bắc Giang chủ yếu là sản xuất nông - lâm nghiệp; lãnh đạo vận động
nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ đối với nhà nước (thuế nông