Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của tỉnh uỷ đồng tháp trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.11 KB, 108 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng.
Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng và
đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Các cấp uỷ lãnh đạo công tác
kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các tổ
chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo đang phát triển mạnh mẽ, đi vào chiều sâu, đang đặt ra cho Đảng ta và đội
ngũ cán bộ, đảng viên những đòi hỏi và yêu cầu mới. Kinh tế thị trường ngày
càng phát triển, hội nhập quốc tế ngày càng sâu và mở rộng đã xuất hiện
những thời cơ và thuận lợi, nhưng cũng khơng ít khó khăn và thách thức, mặt
trái của nền kinh tế thị trường, của quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế đã
tác động trực tiếp vào Đảng ta và đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặt ra cho công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng những yêu cầu mới với những nội dung, hình
thức và phương pháp mới.
Trong những năm đổi mới vừa qua, phần đông cán bộ, đảng viên kiên
định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, ra sức phấn đấu thực hiện Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước; có nhận thức đúng đắn hơn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhiều cán bộ,
đảng viên đã có bước trưởng thành, tự phấn đấu vươn lên, phát huy vai trị
tiền phong gương mẫu, gắn bó mật thiết với nhân dân. Tuy nhiên, tình trạng
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá
nhân, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tình trạng chạy chức, chạy quyền,
chạy tội, chạy bằng cấp,... vẫn còn tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng


2


viên. Điều đó, đặt ra cho các cấp uỷ, tổ chức đảng và uỷ ban kiểm tra các cấp
phải nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát nhằm góp phần ngăn
chặn và đẩy lùi các tiêu cực đó, góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong
sạch, vững mạnh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp đã đề ra.
Trong những năm qua, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã có
chuyển biến rõ rệt, đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tích cực vào
việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và cơng tác xây dựng Đảng. Tuy
nhiên, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng vẫn còn những hạn chế, khuyết
điểm như: nhận thức của một số cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên về vị trí,
vai trị, tác dụng cơng tác kiểm tra, giám sát chưa đúng nên có lúc cịn xem
nhẹ, bng lỏng; nhiều khuyết điểm, vi phạm của đảng viên và tổ chức đảng
chậm được phát hiện và xử lý kịp thời; chưa coi trọng kiểm tra, giám sát để
phòng ngừa, phát huy nhân tố tích cực;…
Ở Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp, thời gian qua, công tác kiểm tra, giám sát
được Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
nghiêm túc nên đạt được những kết quả quan trọng, qua đó, đã góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức đảng và đội
ngũ cán bộ, đảng viên trong tỉnh. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát của
Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Đồng Tháp vẫn còn những hạn chế, khuyết
điểm như: nhận thức của một vài đồng chí Tỉnh uỷ viên, Uỷ viên Ban Thường
vụ Tỉnh uỷ về vị trí, vai trị, tác dụng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
chưa đầy đủ, nên có lúc chưa quan tâm đúng mức; việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ đối với tổ chức đảng và đảng viên có lúc thiếu trọng tâm, trọng điểm, hiệu
quả chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh; chưa chú
trọng kiểm tra việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với cấp



3
uỷ viên cùng cấp và đảng viên là cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
quản lý; nhiều khuyết điểm, sai phạm của cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc
Tỉnh uỷ và đảng viên là cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý
chậm được phát hiện và xử lý kịp thời;…
Xuất phát từ 03 vấn đề cấp bách được nêu trong Nghị quyết số 12NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay” và yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Đảng bộ tỉnh
Đồng Tháp ngày càng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu cao để lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010 - 2015 thì vấn đề rất quan trọng và cấp thiết
đặt ra cần giải quyết là phải nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát
của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ trong tình hình hiện nay.
Nghiên cứu tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra,
giám sát của Tỉnh uỷ Đồng Tháp thực sự là vấn đề rất cần thiết và cấp bách.
Là một cán bộ đã có thời gian làm Uỷ viên chuyên trách Uỷ ban Kiểm tra
Tỉnh uỷ Đồng Tháp, có thời gian nhất định trực tiếp tham gia các hoạt động
kiểm tra, giám sát và tham mưu Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ giúp Tỉnh uỷ, Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát và hiện nay với vai trị là Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ, tôi luôn
trăn trở và xác định trách nhiệm của mình trong cơng việc này. Vì thế, tơi
chọn và thực hiện đề tài Luận văn thạc sĩ: “Chất lượng công tác kiểm tra,
giám sát của Tỉnh uỷ Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về
cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã được nghiệm thu, đăng trên tạp chí,
in thành sách, cụ thể như sau:
* Các đề tài khoa học:
- Đề tài khoa học cấp nhà nước giai đoạn 2000 - 2005: “Đổi mới công
tác kỷ luật trong Đảng nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai



4
đoạn cách mạng mới”, mã số KX.03.07, do GS, TS Nguyễn Thị Doan làm
Chủ nhiệm, đã nghiệm thu năm 2005.
- Đề tài khoa học cấp bộ "Công tác giám sát trong Đảng giai đoạn hiện
nay" của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2007
do Tiến sỹ Đặng Đình Phú làm Chủ nhiệm, đã nghiệm thu và in thành sách.
* Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:
- Trương Thị Thông (1996) “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm
tra chuyên trách của Đảng trong tình hình hiện nay”, Luận án phó tiến sĩ
Khoa học Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Tác giả làm rõ
những vấn đề cơ bản về lý luận và quan điểm xây dựng, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách của Đảng. Đi sâu khảo sát thực trạng,
nguyên nhân và xu hướng phát triển của công tác kiểm tra và đội ngũ cán bộ
kiểm tra chuyên trách của Đảng. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những phương
hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra
chuyên trách của Đảng hiện nay. Đặc biệt, tác giả đã tiếp cận nghiên cứu khá
hệ thống từ việc xác định tiêu chuẩn đến quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố
trí sử dụng đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách.
- “Công tác kiểm tra, giám sát của Thành uỷ Hà Nội trong giai đoạn hiện
nay”, năm 2004, Luận án tiến sĩ của Lê Tiến Hào, bảo vệ tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
của UBKT huyện uỷ ở các tỉnh duyên hải miền Trung hiện nay”, năm 2004,
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thế Tư, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh. Tác giả đã tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn của vấn đề nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm của các uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở các tỉnh duyên hải miền Trung
nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước.



5
- “Chất lượng công tác kiểm tra của các đảng uỷ xã, thị trấn ở huyện
Long Thành, tỉnh Đồng Nai hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, năm 2005,
Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Lài, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
- “Chất lượng công tác kiểm tra của uỷ ban kiểm tra các quận, huyện
uỷ ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, năm 2004, Luận văn thạc sĩ
của Phạm Huy Giáp, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- "Chất lượng cơng tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra các
huyện uỷ, thị uỷ ở tỉnh Kon Tum giai đoạn hiện nay" của Lê Thị Ngân, năm
2007, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã làm rõ
những phạm trù, khái niệm, những vấn đề lý luận liên quan đến công tác kiểm
tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra huyện, thị uỷ ở tỉnh Kon Tum; đưa ra quan
điểm và tiêu chí đánh giá chất lượng cơng tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban
kiểm tra huyện uỷ, thị uỷ của tỉnh; tác giả đi sâu khảo sát, đánh giá thực trạng
công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra các huyện, thị uỷ từ năm 2001
- 2006. Trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế, kinh nghiệm
và những vấn đề đặt ra cần giải quyết; đề xuất mục tiêu, phương hướng và các
giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của
uỷ ban kiểm tra huyện, thị uỷ ở tỉnh Kon Tum trong giai đoạn hiện nay.
- "Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra các
huyện, thị uỷ ở tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay" của Nguyễn Khắc
Bát, năm 2007, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả
làm rõ khái niệm, quan niệm và những vấn đề lý luận chủ yếu liên quan đến chất
lượng công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra huyện, thị uỷ thuộc tỉnh
Vĩnh Phúc. Khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng công tác kiểm tra, giám sát
của uỷ ban kiểm tra huyện, thị ở tỉnh Vĩnh Phúc, đồng thời chỉ ra ưu điểm,
khuyết điểm, nguyên nhân và kinh nghiệm. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất

phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác


6
kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra huyện, thị uỷ của tỉnh Vĩnh Phúc đến
năm 2010.
- Trần Quang Đản (2008): “Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của
uỷ ban kiểm tra huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong giai
đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học việc Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã làm rõ thêm các khái niệm, cơ
sở lý luận của công tác kiểm tra, giám sát và chất lượng công tác kiểm tra,
giám sát của uỷ ban kiểm tra huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá
trong giai đoạn hiện nay. Đi sâu khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng
công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra huyện, thị, thành uỷ ở Đảng
bộ tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2001 - 2007; chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm,
nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm; từ đó, đề xuất phương hướng, giải
pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra
huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đến năm 2015.
* Các đề tài đăng trên tạp chí:
- GS, TS Nguyễn Thị Doan: Nâng cao vai trị, vị trí của cơng tác kiểm
tra và vị thế của uỷ ban kiểm tra các cấp, Tạp chí Kiểm tra, số 8, năm 2003.
- Tiến sĩ Trần Nam - Lê Quang Giảng: Cơng tác kiểm tra góp phần xây
dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Kiểm tra, số 10,
năm 2005.
- Nguyễn Văn Chi: Cơng tác kiểm tra của Đảng qua 20 năm đổi mới,
Tạp chí Cộng sản, số 23, tháng 12 năm 2005.
* Các đề tài đã in thành sách:
- Lê Văn Giảng (Chủ biên) (2008): Một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Nội dung chủ yếu của cuốn sách là tác giả tập trung trình bày cơ sở lý
luận công tác giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp. Từ đó nêu lên tình hình

thực hiện giám sát trong thời gian qua (2001-2005) và đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp.


7
- Cao Văn Thống (2009): Tăng cường kiểm tra, giám sát phục vụ nhiệm
vụ chính trị và cơng tác xây dựng Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là
cuốn sách tập hợp các bài viết của tác giả đã được đăng tải trên các tạp chí khoa
học về lý luận và thực tiễn của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
- Phạm Thị Hải Chuyền: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác
kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Thông
qua cuốn sách, tác giả trình bày có tính hệ thống một số vấn đề của tư tưởng
Hồ Chí Minh về cơng tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; từ đó tác giả
nêu lên tình hình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật của Đảng trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, tác giả đề ra yêu cầu và
một số giải pháp nhằm tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng
tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Từ nhiều góc độ và cách tiếp cận, với mục đích khác nhau, các tác
giả đã phân tích, nêu lên những căn cứ lý luận và thực tiễn của vấn đề
nghiên cứu; đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác
kiểm tra, giám sát. Song đến nay, chưa có cơng trình khoa học nào nghiên
cứu về chất lượng cơng tác kiểm tra, giám sát của tỉnh uỷ, ban thường vụ
tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc Trung ương trong giai đoạn hiện nay một cách
cụ thể, có hệ thống.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ hơn một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn về chất
lượng công tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ Đồng Tháp, luận văn đề xuất
phương hướng và những giải pháp chủ yếu, khả thi nhằm nâng cao chất lượng
công tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Phân tích khái qt vai trị, đặc điểm, nhiệm vụ cơng tác kiểm tra,
giám sát của Tỉnh uỷ Đồng Tháp.


8
- Làm rõ quan niệm, tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra,
giám sát của Tỉnh uỷ Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.
- Khảo sát, nghiên cứu thực trạng công tác lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ Đồng Tháp từ năm 2006 đến năm 2012;
chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và rút ra một số bài học kinh nghiệm.
- Xác định mục tiêu, phương hướng và đề xuất giải pháp nâng cao chất
lượng công tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ Đồng Tháp đến năm 2020 và
những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của
Tỉnh uỷ Đồng Tháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu nghiên cứu, khảo sát thực tế công
tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Đồng Tháp, công
tác kiểm tra, giám sát ở các huyện, thị, thành uỷ, đảng uỷ, đảng đoàn, ban cán
sự đảng trực thuộc Tỉnh uỷ từ năm 2006 đến năm 2012 để làm cơ sở đề xuất
mục tiêu, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
công tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ Đồng Tháp giai đoạn từ năm 2013
đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng ta về cơng tác kiểm tra, giám sát.
- Cơ sở thực tiễn: Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ,

Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Đồng Tháp giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2012.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin; coi trọng tổng kết thực tiễn, khảo sát và thống kê; đồng
thời luận văn sử dụng các phương pháp lơgíc- lịch sử, phân tích - tổng hợp và
phương pháp chuyên gia…


9
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Đưa ra quan niệm về chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh
uỷ Đồng Tháp và tiêu chí đánh giá.
- Những kinh nghiệm về sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ và
nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ Đồng Tháp giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2012.
- Những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra,
giám sát của Tỉnh uỷ Đồng Tháp từ năm 2013 đến năm 2020 và những năm
tiếp theo.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho các tỉnh uỷ, thành uỷ khu vực phía Nam trong q trình lãnh đạo,
chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cịn có thể được dùng làm tài liệu
tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy và học tập ở Trường Chính trị Tỉnh,
cũng như làm tài liệu tham khảo cho các lớp bồi dưỡng kiến thức lãnh đạo,
quản lý công tác kiểm tra, giám sát do Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh kết hợp với Uỷ ban Kiểm tra Trung ương tổ chức.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.



10
Chương 1
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA TỈNH UỶ
ĐỒNG THÁP - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. TỈNH UỶ ĐỒNG THÁP VÀ CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA
TỈNH UỶ - VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG THỨC
TIẾN HÀNH

1.1.1. Vai trò, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của Tỉnh uỷ Đồng Tháp
1.1.1.1. Khái quát về tỉnh Đồng Tháp
Tỉnh Đồng Tháp nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long trù phú,
cách Thành phố Hồ Chí Minh 165 km về phía Tây Nam, tỉnh Đồng Tháp có
diện tích tự nhiên 3.374 km2, được chia thành 12 đơn vị hành chính gồm 09
huyện (Cao Lãnh, Tháp Mười, Thanh Bình, Tam Nơng, Tân Hồng, Hồng Ngự,
Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò), 02 thành phố vốn là trung tâm kinh tế - văn
hố có tiếng trong vùng (Cao Lãnh - tỉnh lỵ; Sa Đéc), 01 thị xã trẻ (Hồng
Ngự) đang vươn mình đi lên cùng cả nước trong tiến trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố.
Với đường biên giới giáp nước bạn Campuchia dài hơn 48 km và 07
cửa khẩu, trong đó có 02 cửa khẩu quốc tế là Thường Phước và Dinh Bà.
Đồng Tháp đang tập trung đầu tư khai thác, lợi thế kinh tế biên giới để góp
phần phát triển thương mại, dịch vụ, đưa nền kinh tế của tỉnh nhà ngày một đi
lên. Điều kiện tự nhiên, địa lý thuận lợi, Đồng Tháp có 02 nhánh sơng Cửu
Long (sơng Tiền và sơng Hậu) hiền hoà chảy qua, hằng năm bồi đắp phù sa
cho vùng đất này 04 mùa cây xanh, trái ngọt và hệ thống giao thông đường
thuỷ thông suốt. Hai bến cảng Cao Lãnh và Sa Đéc nằm bên bờ sông Tiền
giúp vận chuyển hàng hố thuận tiện với biển Đơng và nước bạn Campuchia.
Đồng Tháp cũng là tỉnh có nhiều quốc lộ đi qua địa bàn. Quốc lộ 30,

Quốc lộ 80, Quốc lộ 54 hiện hữu cùng với đường Hồ Chí Minh qua trung tâm


11
tỉnh lỵ vượt sông Tiền nối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tạo lợi thế
về giao thông bộ nối với Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Cần Thơ và các
tỉnh trong khu vực; hiện đang thi công bắc cầu Vàm Cống và cầu Cao Lãnh sẽ
tạo ra diện mạo mới đối với hệ thống giao thông đường bộ của Tỉnh với các
tỉnh bạn trong khu vực.
Đồng Tháp có nền nơng nghiệp phát triển, là vựa lúa lớn thứ 3 của Việt
Nam, là tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế và chỉ số năng lực cạnh tranh cao
(năm 2012 được xếp hạng 1 trong toàn quốc). Đồng Tháp đang thực hiện đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công
nghiệp và dịch vụ. Hoạt động thương mại của Đồng Tháp trong những năm
gần đây phát triển khá mạnh.
Nhờ tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp kết hợp áp dụng các
tiến bộ khoa học vào sản xuất mà Đồng Tháp đã đưa sản lượng lúa cả năm
vượt qua con số 2,6 triệu tấn, khơng chỉ góp phần ổn định an ninh lương thực mà
cịn đóng góp lớn vào chỉ tiêu xuất khẩu gạo của cả nước. Ngoài cây lúa, Đồng
Tháp cịn có trên 38.000 ha diện tích hoa màu và cây cơng nghiệp ngắn ngày.
Đồng Tháp cịn nổi tiếng với nghề trồng hoa kiểng với 300 ha cung cấp
hằng trăm loại hoa và kiểng quý trong nước và xuất khẩu. Làng hoa kiểng Sa
Đéc đang được đầu tư phát triển khơng chỉ để nâng cao chất lượng các lồi
hoa mà trong tương lai khơng xa nơi đây cịn là một địa điểm du lịch sinh thái
hấp dẫn đối với khách tham quan trong và ngồi nước.
Với địa hình sơng nước, thuỷ sản được coi là thế mạnh thứ hai sau cây
lúa. Nghề nuôi thuỷ sản phát triển rộng khắp trên địa bàn, trong đó, chủ lực là
cá tra, cá ba sa, tơm càng xanh. Diện tích mặt nước ni trồng thuỷ sản đạt
trên 6.000 ha, nông dân tập trung nuôi tôm trên ruộng lúa, nuôi cá bãi bồi ven
sông Tiền, sông Hậu. Đây là một tiềm năng lớn để phát triển thành vùng nuôi

trồng thuỷ sản trọng điểm. Hằng năm cung cấp cho chế biến xuất khẩu trên
245.000 tấn cá và hằng ngàn tấn tôm càng xanh, với kim ngạch xuất khẩu mỗi
năm đạt hằng trăm triệu USD.


12
Trên bước đường cơng nghiệp hố cùng cả nước, Đồng Tháp đang tập
trung xây dựng hạ tầng và mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đồng
Tháp đã quy hoạch tổng thể 6 khu cơng nghiệp, trong đó có 03 khu cơng
nghiệp (Trần Quốc Toản, Sa Đéc, Sơng Hậu) tập trung với quy mô lớn đảm
bảo về hạ tầng thuận tiện về giao thông cả đường bộ và đường thuỷ, đã thu
hút 58 dự án đầu tư, trong đó, có 32 dự án xây dựng hồn thành, đi vào sản
xuất, 17 dự án đang triển khai xây dựng, 09 dự án chuẩn bị đầu tư với tổng
vốn đầu tư hơn 21 triệu USD và hơn 3.300 tỷ đồng; thực hiện quy hoạch 34
cụm công nghiệp với tổng diện tích hơn 2.000 ha, trong đó, có 19 cụm đã
được lập quy hoạch chi tiết với diện tích gần 1.000 ha. Hiện có 44 dự án đăng
ký đầu tư trong các cụm cơng nghiệp, trong đó, có 08 dự án đã đi vào hoạt
động, 15 dự án đang xây dựng và 21 dự án chuẩn bị đầu tư. Ngoài ra, cịn có
10 dự án đăng ký đầu tư ngồi cụm cơng nghiệp, với diện tích xây dựng 23
ha, tổng vốn đăng ký hơn 800 tỷ đồng. Ngoài các dự án trong khu cơng
nghiệp, Đồng Tháp cịn có các nhà máy chế biến thuỷ sản công suất 20.000
tấn/năm, sản xuất bánh phồng tơm 5.500 tấn/năm, xay xát lau bóng gạo 1,7
triệu tấn/năm, sản phẩm may mặc 7 triệu sản phẩm/năm.
Hệ thống thương mại và dịch vụ ở Đồng Tháp được phân bố phù hợp
theo từng địa bàn, khu vực: chế biến lúa gạo Sa Đéc, chợ đầu mối trái cây Mỹ
Hiệp (huyện Cao Lãnh), các siêu thị ở 03 trung tâm của Tỉnh (thành phố Cao
Lãnh, thành phố Sa Đéc và thị xã Hồng Ngự); các chợ phủ khắp các địa bàn,
tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất và tiêu dùng. Tổng mức lưu chuyển hàng
hoá bán lẻ năm 2009 đạt hơn 21.500 tỷ đồng. Kim ngạch xuất khẩu cả năm
đạt trên 430 triệu USD, trong đó giá trị thuỷ sản xuất khẩu bằng 99,6% kế

hoạch, tăng 5,4% so năm 2008.
Là vùng đất được mệnh danh là chim trời cá nước, Tỉnh cịn có tiềm
năng phát triển du lịch. Về Đồng Tháp, du khách sẽ vô cùng thú vị với những
cảnh thiên nhiên tươi đẹp và có dịp thưởng thức nhiều món ăn đặc sản. Du


13
khách sẽ được đến với khu du lịch Xẻo Quýt, vốn là khu căn cứ của Tỉnh uỷ
Kiến Phong năm xưa, nơi đây còn nổi tiếng với rừng tràm nguyên sinh và các di
tích tái hiện lại một giai đoạn lịch sử của quê hương đất Tháp anh hùng. Du
khách còn được đến khu du lịch sinh thái Gáo Giồng, nơi được mệnh danh là lá
phổi xanh giữa vùng Đồng Tháp Mười. Vườn quốc gia Tràm Chim, nổi tiếng với
đàn Sếu đầu đỏ. Hằng ngàn hécta rừng tràm và đồng cỏ hoang sơ của một Đồng
Tháp Mười thu nhỏ, hằng trăm lồi động vật q hiếm của vùng đất ngập nước
đang được gìn giữ, bảo tồn. Khu di tích Gị Tháp nằm ở trung tâm của Đồng
Tháp Mười lại là địa chỉ đầy thú vị cho những ai muốn tìm về một nền văn hoá
cổ. Mỗi mảnh gốm, mỗi viên gạch, mỗi phiến đá v.v. đang được khai quật là một
tín hiệu đầy bí ẩn về nền văn hố Ốc Eo của dân tộc Phù Nam cách đây 1.500
năm. Nơi đây cịn có nhiều ngơi chùa cổ với mỗi năm hai lần lễ hội thu hút hằng
ngàn khách thập phương. Ở trung tâm thành phố Cao Lãnh cịn có khu di tích cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.1.1.2. Khái quát về Đảng bộ Đồng Tháp
a) Vai trị, đặc điểm:
Tính đến cuối năm 2012, Đảng bộ Đồng Tháp có 12 huyện, thị, thành
uỷ (09 huyện uỷ, 01 thị uỷ, 02 thành uỷ); 05 đảng uỷ, 08 đảng đoàn, 03 ban
cán sự đảng trực thuộc Tỉnh uỷ, có 776 tổ chức cơ sở đảng, trong đó, có 261
chi, đảng bộ cơ sở, với tổng số 44.486 đảng viên, chiếm 2,66% so với dân số.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2010 - 2015 là 55 đồng chí (có
07 nữ, chiếm 12,7%), Ban Thường vụ Tỉnh uỷ là 15 đồng chí (có 01 nữ), tuổi
đời bình quân là 45 (cao nhất 53 tuổi, thấp nhất 33 tuổi). Về trình độ chính

trị: 100% đạt trình độ cao cấp, cử nhân chính trị; 100% có bằng đại học hoặc
cử nhân chuyên ngành (có 04 tiến sỹ, 08 thạc sỹ). Trong Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ có 01 Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương.
Kết quả phân tích chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên năm
2008, 2009, 2010, 2011, 2012 số tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững


14
mạnh chiếm tỷ lệ bình qn 85%, hồn thành nhiệm vụ 1,57%, loại yếu
kém 0,59%; số đảng viên đủ tư cách, hồn thành tốt nhiệm vụ chiếm tỷ
lệ bình qn 78,29%, đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ 6,48%, vi phạm
tư cách 0,97%.
Nhìn chung, cơng tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng được Tỉnh uỷ, Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ coi trọng cả về số lượng và chất lượng, gắn với tăng
cường xây dựng hệ thống chính quyền, đồn thể vững mạnh. Đội ngũ đảng
viên giữ được bản lĩnh chính trị vững vàng, phát huy tính tiền phong gương
mẫu, là hạt nhân trong các phong trào thi đua ở địa phương, đơn vị, giữ gìn
phẩm chất, đạo đức lối sống, được quần chúng tín nhiệm; có ý thức tổ chức
kỷ luật cao, chấp hành nghiêm túc Quy định số 47-QĐ/TW của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XI về những điều đảng viên không được làm và
Quy định số 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị khố X về đảng viên đang công tác
giữ mối liên hệ với cấp uỷ và thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú.
b) Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tỉnh uỷ:
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (gọi tắt là Tỉnh uỷ) là cơ quan lãnh đạo của
Đảng bộ giữa hai lần đại hội, thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của cấp uỷ
được quy định trong Điều lệ Đảng, có trách nhiệm và quyền hạn như sau:
- Thảo luận và quyết định:
Chủ trương, biện pháp, kế hoạch thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của
Trung ương và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh; xây dựng nghị quyết lãnh
đạo thực hiện các công tác trọng tâm về phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội,

quốc phịng - an ninh, cơng tác vận động quần chúng và công tác xây dựng
Đảng; đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội trong nửa đầu nhiệm kỳ
và quyết định các chủ trương, giải pháp cần thiết để tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Đại hội.
Chủ trương đầu tư những dự án, chương trình quan trọng, phức tạp
trước khi Hội đồng nhân dân tỉnh xem xét, quyết định.


15
Chương trình làm việc, chương trình kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ
tồn khố, chương trình hành động hằng năm của Tỉnh uỷ, Quy chế làm việc
của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ và Thường trực Tỉnh uỷ;
Quy chế làm việc của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ.
Tự phê bình, phê bình và chất vấn trong các lần hội nghị Tỉnh uỷ hằng
năm, giữa và cuối nhiệm kỳ.
Quy hoạch nhân sự Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ và
Thường trực Tỉnh uỷ, các chức danh Bí thư Tỉnh uỷ, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ
tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, Trưởng đồn đại
biểu Quốc hội tỉnh. Trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhân sự giới thiệu ứng cử các
chức danh Bí thư Tỉnh uỷ, các Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân
tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; giới
thiệu nhân sự ứng cử để Hội đồng nhân dân tỉnh bầu hoặc miễn nhiệm chức
danh Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh; nhân sự
bổ sung hoặc cho thôi ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.
Số lượng ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ủy viên Uỷ ban Kiểm tra
Tỉnh ủy. Bầu ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Tỉnh ủy, các Phó Bí thư
Tỉnh ủy; bầu ủy viên Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra
Tỉnh ủy.
Kiểm tra, giám sát công tác cán bộ tại địa phương; xét khen thưởng, kỷ
luật theo quy định của Điều lệ Đảng, các quy định của pháp luật về thi đua khen thưởng và hướng dẫn của Trung ương, Luật Thi đua - Khen thưởng.

- Cho ý kiến:
Xem xét và cho ý kiến đối với báo cáo của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về
lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, các nghị quyết của Tỉnh
uỷ; báo cáo hoạt động của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ giữa hai lần hội nghị Tỉnh
uỷ; những vấn đề mà Ban Thường vụ Tỉnh uỷ sẽ bàn và quyết định trong thời
gian tới.


16
Báo cáo hằng năm, giữa và cuối nhiệm kỳ, báo cáo bất thường của Uỷ
ban Kiểm tra Tỉnh ủy về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong
Đảng, về hoạt động của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp uỷ
các cấp.
Nhân sự phó chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, phó Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân tỉnh trước khi Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quyết định giới thiệu để Hội
đồng nhân dân tỉnh bầu.
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ:
Là cơ quan thay mặt Tỉnh uỷ lãnh đạo và điều hành mọi công việc của
Đảng bộ giữa hai lần hội nghị Tỉnh uỷ, có trách nhiệm và quyền hạn sau:
Tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và của tỉnh
uỷ; lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra, giám sát toàn diện về tổ chức và hoạt động
của các cấp uỷ, tổ chức đảng trong hệ thống chính trị ở địa phương; tổ chức
đảng trong các cơ quan, đơn vị của Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh.
Căn cứ các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Tỉnh uỷ, thảo luận
và quyết định những vấn đề về phát triển kinh tế, văn hố - xã hội, quốc
phịng - an ninh, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã
hội và công tác xây dựng Đảng.
Cho ý kiến về quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, địa bàn quan
trọng, các chủ trương, chính sách có tầm ảnh hưởng rộng ở địa phương. Đối
với những dự án có ảnh hưởng lớn đến quyền lợi, tư tưởng của nhiều đối tượng

trong xã hội, đến quốc phòng - an ninh, tơn giáo, lịch sử, có yếu tố nước ngồi,
cịn có nhiều ý kiến khác nhau trên địa bàn phát sinh trong năm, Ban Thường
vụ Tỉnh uỷ quyết định và báo cáo lại Tỉnh uỷ vào lần họp gần nhất.
Quyết định chương trình cơng tác hằng tháng, chương trình làm việc
hằng năm của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
Chuẩn bị nội dung và quyết định triệu tập hội nghị Tỉnh uỷ định kỳ và
bất thường. Chỉ đạo chuẩn bị các văn bản trình hội nghị Tỉnh uỷ; báo cáo kết


17
quả hoạt động, công việc giữa hai lần hội nghị của Tỉnh uỷ. Tổ chức thực hiện
tốt việc chất vấn và trả lời chất vấn theo Quyết định số 158-QĐ/TW ngày 125-2008 của Bộ Chính trị khố X tại các lần hội nghị Tỉnh uỷ. Trả lời ý kiến
phê bình, chất vấn của các đồng chí uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh liên
quan đến trách nhiệm của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
Giữa nhiệm kỳ, báo cáo Tỉnh uỷ về tình hình thực hiện nghị quyết đại
hội Đảng bộ tỉnh và đề xuất những chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện
nghị quyết đại hội.
Khi cần thiết, nghe báo cáo và có ý kiến nhận xét đối với các tổ chức
đảng trực thuộc Tỉnh uỷ, tập thể lãnh đạo ngành tỉnh về thực hiện các nhiệm
vụ được giao. Định kỳ nghe các ban của Tỉnh uỷ báo cáo và cho ý kiến về
tình hình cán bộ, cơng tác cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý.
Hằng năm, nhận xét, đánh giá các Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh theo
quy định của Trung ương.
Kết luận những vấn đề liên quan lịch sử chính trị, quan hệ lịch sử
chính trị và chính trị hiện nay của cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
quản lý.
Phân cơng cơng tác đối với các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh, Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
Quyết định các vấn đề liên quan đến công tác cán bộ và cán bộ thuộc
diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý. Chuẩn bị nhân sự để Tỉnh uỷ xem xét,

đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư giới thiệu nhân sự ứng cử các chức danh Bí
thư Tỉnh uỷ, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh. Giới thiệu nhân sự bổ sung Uỷ viên Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh; giới thiệu bầu bổ sung Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ. Xin ý
kiến tham khảo Tỉnh uỷ trước khi quyết định giới thiệu nhân sự để Hội đồng
nhân dân tỉnh bầu đối với các chức danh: phó chủ tịch Hội đồng nhân dân
tỉnh, phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh.


18
Quyết định việc phân cấp quản lý cán bộ đối với các ban cán sự đảng,
đảng đoàn ở các cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh; đối với cấp uỷ huyện, thị,
thành và tương đương; ban hành Quy chế làm việc của Đảng uỷ Quân sự
tỉnh, Đảng uỷ Công an tỉnh, Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh và một số ban
chỉ đạo theo quy định của Trung ương; quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ
chức bộ máy của các ban, cơ quan của Tỉnh uỷ, cơ quan Uỷ ban Kiểm tra
Tỉnh uỷ; kiểm tra giám sát công tác cán bộ của các cấp uỷ, tổ chức đảng
thuộc phạm vi phụ trách.
Chuẩn y kết quả bầu ban chấp hành, bí thư, phó bí thư, uỷ viên ban
thường vụ, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, uỷ viên uỷ ban kiểm tra các huyện, thị,
thành uỷ và đảng uỷ trực thuộc. Điều động, chỉ định bổ sung (hoặc tăng
thêm), cho thôi uỷ viên ban chấp hành, uỷ viên ban thường vụ các huyện, thị,
thành uỷ và đảng uỷ trực thuộc; có thể chỉ định cấp uỷ viên tỉnh vào các chức
danh bí thư, phó bí thư, chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra cấp uỷ huyện và tương
đương; khi cần thiết, điều động đảng viên từ đảng bộ khác chỉ định tham gia
cấp uỷ và giữ các chức vụ bí thư, phó bí thư, chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra cấp
uỷ huyện và tương đương; chỉ định các đảng đoàn, ban cán sự đảng một số cơ
quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh.
Tham gia ý kiến với ban cán sự đảng, đảng đoàn các cơ quan Trung
ương về bố trí, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo của tổ chức theo ngành dọc công tác

và sinh hoạt đảng tại địa phương. Tham gia ý kiến với Đảng uỷ Công an
Trung ương về nhân sự giám đốc, phó giám đốc Cơng an tỉnh; tham gia ý kiến
với Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng về nhân sự chỉ huy trưởng, phó chỉ huy
trưởng, chính uỷ, phó chính uỷ Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phịng tỉnh; tham gia
ý kiến với Quân uỷ Trung ương, Đảng uỷ Quân khu 9 về nhân sự chỉ huy
trưởng, phó chỉ huy trưởng, chính uỷ, phó chính uỷ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh.
Chuẩn bị văn kiện và đề án nhân sự Tỉnh uỷ, Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ
khoá X. Cho ý kiến về nội dung văn kiện và định hướng nhân sự chuẩn bị đại
hội đại biểu các đảng bộ trực thuộc.


19
Xét khen thưởng và kỷ luật theo thẩm quyền; gợi ý kiểm điểm đối với
tập thể cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc và cá nhân thuộc diện Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ quản lý khi cần thiết.
Thay mặt Tỉnh uỷ giải quyết những công việc theo chỉ đạo của Trung
ương, theo Quy chế làm việc của Tỉnh uỷ và những công việc được Tỉnh uỷ
uỷ quyền.
- Những công việc được Tỉnh uỷ uỷ quyền cho tập thể Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ giải quyết, gồm:
Quyết định việc chia tách, hợp nhất, sáp nhập, thành lập mới hoặc giải
thể các ban và cơ quan của Tỉnh uỷ, các ban cán sự đảng, đảng đoàn. Cho ý
kiến về chủ trương thành lập, sáp nhập, chia tách các đơn vị hành chính xã,
phường, thị trấn, huyện, thị xã, thành phố và các cơ quan chuyên môn thuộc
Uỷ ban nhân dân tỉnh.
Lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt đối với Đảng uỷ Quân sự Tỉnh, Đảng uỷ
Cơng an Tỉnh, Đảng uỷ Bộ đội Biên phịng Tỉnh. Kiểm tra, giám sát việc thực
hiện quy chế làm việc của các cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc.
Giải quyết các cơng việc có liên quan với các ngành ở Trung ương;
quyết định tặng Huy hiệu Đảng; chỉ đạo, kiểm tra và báo cáo hoạt động tài

chính của Đảng bộ; báo cáo tình hình cơng tác của Đảng bộ về Trung ương theo
quy định.
Tổng kết rút kinh nghiệm những vấn đề quan trọng về thực tiễn trong lãnh
đạo và chỉ đạo của địa phương. Đề nghị với Trung ương các vấn đề cần xem xét,
bổ sung, sửa đổi chủ trương, chính sách thuộc thẩm quyền của Trung ương.
1.1.2. Cơng tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ Đồng Tháp - Quan
niệm, vai trò, đặc điểm, nội dung nhiệm vụ và phương thức tiến hành
1.1.2.1. Quan niệm
"Kiểm tra là xem xét kỹ đến chi tiết để xác định tính hợp pháp, mức độ
đúng sai" [47, tr.437]. Hoặc kiểm tra là: “Xem xét tình hình thực tế thi hành


20
pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay một công tác cụ thể
được giao để đánh giá, nhận xét…” [48, tr.264]. Kiểm tra cũng là công tác
thuộc nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên đối với cấp dưới, của thủ
trưởng đối với nhân viên. Việc đánh giá, xác định, nhận xét đúng, sai, tốt, xấu,
…này phải căn cứ vào những tiêu chí, văn bản có giá trị hiện hành so với thực
tế cụ thể của đối tượng kiểm tra.
Giám sát là:
Sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động, thường
xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực
để buộc và hướng hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát đi
đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã xác
định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm
chỉnh [48, tr.174].
Hoặc giám sát được hiểu là “Một hình thức hoạt động của cơ quan nhà
nước hoặc tổ chức xã hội nhằm bảo đảm pháp chế hoặc sự chấp hành những
quy tắc chung nào đó" [48, tr.174].
Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ

luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khoá XI (ban
hành kèm theo Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01-11-20011 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng) đã đưa ra khái niệm Kiểm tra của Đảng và Giám sát
của Đảng như sau:
Kiểm tra của Đảng là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng,
là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm
hoặc vi phạm của cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Tổ chức đảng và đảng viên phải thường xuyên tự kiểm tra. Tổ chức
đảng cấp trên kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên.


21
Giám sát của Đảng là việc các tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh giá
hoạt động nhằm kịp thời tác động để cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới và đảng
viên được giám sát chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng.
Tổ chức đảng cấp trên giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Tổ
chức đảng và đảng viên thực hiện nhiệm vụ giám sát theo sự phân cơng. Giám
sát của Đảng có giám sát thường xuyên và giám sát theo chuyên đề; giám sát
trực tiếp, giám sát gián tiếp.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các khái niệm nêu trên và
từ thực tiễn công tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ Đồng Tháp, có thể quan
niệm: Cơng tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ Đồng Tháp là toàn bộ các
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát
của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đối với tổ chức đảng và đảng viên thuộc
Đảng bộ (trực tiếp là kiểm tra, giám sát đối với ban thường vụ các huyện, thị,
thành uỷ và các tổ chức đảng trực thuộc Tỉnh uỷ, Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ,
đảng viên là cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý) nhằm theo

dõi, nắm vững tình hình; kịp thời nhắc nhở, điều chỉnh; nhận xét, đánh giá
việc chấp hành các quy định, quyết định của Đảng và của Tỉnh uỷ, Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ; xác định sự đúng đắn hay vi phạm của các hành vi có
liên quan đến kỷ cương, kỷ luật của Đảng.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đối với công
tác kiểm tra, giám sát là việc Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ định hướng
chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp lãnh đạo và thực hiện công tác kiểm tra, giám
sát. Là việc xây dựng, ban hành chương trình kiểm tra, giám sát tồn khoá của
Tỉnh uỷ, hằng năm của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ; ban hành các chương trình
hành động của Tỉnh uỷ, kế hoạch, quy định, quy chế của Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ để thực hiện các nghị quyết, quy trình, quy định, quy chế, hướng dẫn của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra


22
Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng. Là việc Tỉnh uỷ,
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ nghe Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ báo cáo theo định kỳ
và đột xuất về hoạt động, kết quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật trong Đảng. Là việc Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tiến hành sơ kết,
tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, quy định, quy chế về công tác kiểm
tra, giám sát và kỷ luật đảng. Là việc chăm lo xây dựng tổ chức bộ máy và đội
ngũ cán bộ làm cơng tác kiểm tra, các cấp.
1.1.2.2. Vai trị, nội dung nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ
Đồng Tháp
Tỉnh uỷ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát là việc Tỉnh uỷ lãnh đạo
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ cụ thể hố chương trình kiểm tra, giám sát tồn khố
của Tỉnh uỷ thành chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm và triển khai
thực hiện các cuộc kiểm tra, giám sát đã đề ra đạt chất lượng, hiệu quả, đảm
bảo về thời gian và quy trình, thủ tục quy định. Là việc xem xét, kết luận
kiểm tra, đánh giá, nhận xét kết quả giám sát khách quan, chính xác, đúng với

thực chất đối với tổ chức đảng và đảng viên.
Thực tiễn lãnh đạo công cuộc đổi mới, Tỉnh uỷ Đồng Tháp khẳng định:
Công tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ có vai trị cực kỳ quan trọng trong
tồn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ và của tỉnh Đồng Tháp. Kiểm tra,
giám sát và giữ gìn kỷ luật là nhiệm vụ của toàn Đảng bộ, trước hết là cấp uỷ
Tỉnh. Có lãnh đạo phải có kiểm tra, giám sát; quá trình lãnh đạo cũng là kiểm
tra, giám sát. Các cấp uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ, các cơ quan tham mưu, giúp việc
của Tỉnh uỷ, các tổ chức đảng và đảng viên đều có nhiệm vụ tiến hành công tác
kiểm tra và chịu sự kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
Tỉnh uỷ Đồng Tháp đã rút ra một số bài học kinh nghiệm q báu,
trong đó có bài học kinh nghiệm về cơng tác kiểm tra, giám sát là: Tỉnh uỷ
phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, quyết định


23
của Đảng và của Tỉnh uỷ để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp
thời sai lầm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát công tác, năng lực và phẩm chất
của cán bộ, đảng viên, xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và cán bộ,
đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh. Tỉnh uỷ yêu cầu: đổi mới và
nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ và trong cả hệ
thống chính trị. Kiểm tra nhận thức, năng lực lãnh đạo, xây dựng và tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kiểm tra
phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Kiểm tra, giám sát đều là hoạt động của nội bộ Đảng, do cấp uỷ, tổ
chức đảng và uỷ ban kiểm tra thực hiện. Nội dung kiểm tra và giám sát đều là
việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy
định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quyết định của Tỉnh
uỷ. Mục đích của kiểm tra, giám sát đều nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng bộ, góp phần hồn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị

và công tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên giữa kiểm tra và giám sát cũng có sự
khác nhau cơ bản như:
Về đối tượng: Đối với kiểm tra thì chủ thể kiểm tra rộng hơn chủ thể
giám sát; tổ chức đảng và đảng viên vừa là đối tượng kiểm tra vừa là chủ thể
kiểm tra. Đối với giám sát, đảng viên chỉ là đối tượng giám sát và chỉ được
tham gia giám sát khi được tổ chức đảng có thẩm quyền phân công; đối tượng
giám sát rộng hơn đối tượng kiểm tra, vì bao gồm cả thường trực cấp uỷ, các
tiểu ban, hội đồng, tổ công tác do cấp uỷ các cấp lập ra.
Về phương pháp và hình thức: Giám sát không đi sâu thẩm tra, xác
minh, không xem xét thi hành kỷ luật như một cuộc kiểm tra, thông qua quan
sát, theo dõi để phát hiện vấn đề, phản ánh với tổ chức đảng có thẩm quyền
nhằm kịp thời cảnh báo, ngăn ngừa, tránh để xảy ra vi phạm. Còn phương
pháp kiểm tra là tiến hành theo quy trình, coi trọng thẩm tra, xác minh; sau
kiểm tra có kết luận cuộc kiểm tra, có đánh giá, nhận xét ưu điểm, khuyết


24
điểm, vi phạm (nếu có) và xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên (nếu có vi
phạm đến mức phải xử lý).
Giám sát và kiểm tra có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, muốn
thực hiện tốt việc giám sát thì phải có quan sát, theo dõi, xem xét tình hình
thực tế của đối tượng được giám sát và muốn thực hiện tốt việc kiểm tra thì
phải thường xuyên thực hiện việc giám sát.
Từ thực trạng các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
Đảng bộ tỉnh, Tỉnh uỷ Đồng Tháp xác định: phải tiếp tục đổi mới, nâng cao
chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ. Nâng cao trách nhiệm của
các cấp uỷ, tổ chức đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát
theo Điều lệ Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành chủ trương,
đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, các quyết định của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ; việc chấp

hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ cơng tác, thực
hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đồn kết nội bộ; thực hành tiết kiệm, phịng,
chống tham nhũng, lãng phí, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên; việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; việc quy hoạch, luân
chuyển, đề bạt, sử dụng cán bộ và thực hiện chính sách đối với cán bộ. Chú
trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; phát
hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các sai phạm; tăng cường kỷ cương, giữ
vững kỷ luật trong Đảng bộ.
Như vậy, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng ta, hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ và
thực tiễn Đảng bộ Đồng Tháp có thể khẳng định: Công tác kiểm tra, giám sát
của Tỉnh uỷ là một tất yếu khách quan, là nhu cầu không thể thiếu đối với
hoạt động của Đảng bộ và Tỉnh uỷ; từ đó xác định được mục đích, ý nghĩa, vị
trí và vai trị đặc biệt quan trọng của cơng tác kiểm tra, giám sát của Tỉnh uỷ
và việc giữ gìn cũng như việc thi hành kỷ luật trong Đảng bộ.


25
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát
theo quy định của Điều lệ Đảng, Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Đồng Tháp
luôn nhận thức đúng về vị trí, vai trị, tác dụng công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng và của Tỉnh uỷ, thể hiện ở những nội dung chính sau đây:
- Kiểm tra, giám sát là một tất yếu khách quan, là một biểu hiện
nghiêm túc của hoạt động có ý thức của một tổ chức và con người trong xã
hội. Muốn đạt được kết quả trong thực tiễn, phải xem xét tình hình thực tế để
nhận xét, đánh giá, có nghĩa là phải kiểm tra, giám sát; phải kiểm tra, giám sát
toàn bộ ý định, chủ trương, kế hoạch, phương pháp tổ chức thực hiện đến kết
quả đã đạt được, từ đó, đánh giá đúng ưu, khuyết điểm, rút kinh nghiệm để bổ
sung, điều chỉnh kịp thời những vấn đề thiếu sót, chưa đồng bộ, chưa phù

hợp, uốn nắn sai lầm, lệch lạc nhằm bảo đảm ý định, chủ trương, kế hoạch,
hành động được đúng đắn, kết quả đạt được đúng như mục tiêu đề ra.
Do đó, hoạt động, kiểm tra, giám sát là hoạt động có ý thức; ý thức
càng cao, tổ chức càng quan trọng, nhiệm vụ càng khó khăn, phức tạp thì
càng địi hỏi phải coi trọng và tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát.
- Kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu,
là bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng bộ.
Kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của
Tỉnh uỷ. Từ thực tế lãnh đạo Tỉnh uỷ Đồng Tháp khẳng định: Cơng tác kiểm
tra, giám sát có vị trí cực kỳ quan trọng trong tồn bộ hoạt động lãnh đạo của
Đảng bộ và các cấp uỷ trong tỉnh. Vì lãnh đạo khơng chỉ là việc xây dựng các
chủ trương, chính sách, ban hành các nghị quyết, quyết định, mà lãnh đạo còn
là việc tổ chức thực hiện và bố trí cán bộ, là kiểm tra, giám sát, khơng những
kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, Cương lĩnh chính trị, chủ trương,
chính sách, các quyết định, mà kiểm tra ngay bản thân Cương lĩnh chính trị,
đường lối, chính sách, các quyết định đó và kiểm tra, giám sát cả cách tổ chức
tiến hành kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm đường lối, chính sách, các quyết


×