Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Chất lượng các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh đồng tháp trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.39 KB, 116 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ban tổ chức cấp ủy là cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy đảng trực tiếp và thường xuyên là ban thường vụ cấp uỷ - về các công tác tổ chức
cán bộ, đảng viên, chính sách cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ. Cùng với các
cơ quan tham mưu, giúp việc khác, ban bổ chức có vai trị đặc biệt quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức và cán bộ. Vì vậy, chất
lượng của ban tổ chức cấp uỷ có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng các
công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên, chính sách cán bộ và bảo vệ chính trị nội
bộ của đảng bộ và của cấp uỷ đảng. Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước do Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khố VIII thơng qua yêu cầu các tổ chức đảng phải “chú
trọng đổi mới, chỉnh đốn các tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ” [17, tr.14].
Kết luận của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố X
coi việc xây dựng tổ chức và con người làm công tác tổ chức, cán bộ là một
trong những nhiệm vụ và giải pháp lớn để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến
lược cán bộ đến năm 2020 và yêu cầu: "Tăng cường giáo dục nâng cao ý thức
trách nhiệm, năng lực và phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ làm cơng tác
tổ chức, cán bộ; phịng, chống tiêu cực trong công tác cán bộ" [23, tr.277].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu nhiệm vụ:
"Kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm
công tác tham mưu, nhất là cấp chiến lược” [24, tr.258-259].
Mới đây, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” (ngày 1601-2012) đã đưa ra bốn nhóm giải pháp để thực hiện trong thời gian tới.
Kết luận của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
XI một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hồn thiện hệ thống chính trị từ trung
ương đến cơ sở đã đề ra nhiều chủ trương mới liên quan đến hệ thống tổ
chức và công tác tổ chức. Nội dung của các chủ trương, giải pháp trung


2


ương đề ra đặt ra trách nhiệm nặng nề cho các cấp uỷ, tổ chức đảng, các
ngành, các cấp, các ban tham mưu, giúp việc cấp uỷ, trong đó có ban tổ
chức cấp uỷ các cấp. Để có thể làm tốt vai trò tham mưu, giúp việc đắc lực
cho cấp uỷ để triển khai thực hiện tốt các nghị quyết Trung ương khố XI,
góp phần tích cực vào nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn Đảng, các ban tổ chức
phải được kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và đổi mới
phương thức hoạt động của mình.
Đồng Tháp là một tỉnh nông nghiệp thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu
Long. Đồng Tháp hiện gồm thành phố Cao Lãnh, 02 thị xã (Sa Đéc, Hồng
Ngự) và 09 huyện (Tân Hồng, Hồng Ngự, Tam Nơng, Thanh Bình, Cao Lãnh,
Tháp Mười, Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò). Trong 12 huyện, thị, thành phố
của tỉnh có 768 tổ chức cơ sở đảng, trong đó 260 đảng bộ cơ sở, với tổng số
40.687 đảng viên, chiếm 2,44% so với dân số. Đến cuối năm 2011, tồn tỉnh
có 776 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 261 đảng bộ cơ sở, với tổng số 44.486
đảng viên, chiếm 2,66% so với dân số.
Trong những năm qua, Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp luôn quan tâm lãnh
đạo kiện toàn, củng cố, xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy các ban tổ chức
cấp uỷ từ tỉnh đến cơ sở. Nhờ vậy, chất lượng hoạt động của các ban tổ chức
các cấp đã từng bước được nâng lên, giúp các cấp uỷ, tổ chức đảng nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; công
tác xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ ngày càng được tăng cường; xây
dựng Đảng bộ ngày càng trong sạch, vững mạnh, góp phần hồn thành cơ bản
các nhiệm vụ chính trị của địa phương: kinh tế tiếp tục phát triển khá, thu
nhập bình quân đầu người khơng ngừng được tăng lên; chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được củng cố và ngày càng phát huy
tốt vai trị của mình; quốc phịng, an ninh được giữ vững; bộ mặt nông thôn
không ngừng đổi mới; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước
được nâng lên.



3
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra trong tình hình hiện nay, chất lượng của
ban tổ chức cấp uỷ các cấp ở tỉnh Đồng Tháp, nhất là các ban tổ chức huyện, thị,
thành uỷ, vẫn còn nhiều bất cập. Năng lực tham mưu của các ban tổ chức huyện,
thị, thành uỷ còn nhiều hạn chế, yếu kém. Trên các công việc lớn, các ban tổ
chức huyện, thị, thành uỷ chưa chủ động đề xuất được các chủ trương lớn cho
cấp uỷ cùng cấp, hầu như chỉ là cơ quan thừa hành, giúp việc cấp uỷ thực hiện
các chủ trương công tác do cấp uỷ đề ra. Việc thực hiện những nhiệm vụ cấp uỷ
giao còn nhiều mặt chưa đạt u cầu về chất lượng và tính hiệu quả. Trình độ
của một bộ phận cán bộ chuyên trách làm công tác tổ chức ở các ban tổ chức
huyện, thị, thành uỷ chưa được chuẩn hố; một số đồng chí chưa nắm chắc
chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều. Các ban tổ chức huyện, thị,
thành uỷ chưa làm tốt việc hướng dẫn nghiệp vụ cho các ban tổ chức của cấp uỷ
trực thuộc huyện, thị, thành uỷ. Cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang thiết bị, phương
tiện làm việc của các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ còn hạn chế; công nghệ
thông tin chưa được áp dụng một cách phổ biến. Tình hình đó đã hạn chế rất lớn
đến sự lãnh đạo của các cấp uỷ đối với công tác xây dựng Đảng về tổ chức, cán
bộ, đảng viên, chính sách cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ nói riêng và cả hệ thống
chính trị ở các huyện, thị, thành phố trong tỉnh nói chung.
Xuất phát từ chủ trương của Đảng và tình hình thực tế nêu trên, việc
nghiên cứu đề tài “Chất lượng các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh
Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay” vừa mang tính cơ bản về lý luận, vừa
mang tính cấp thiết và là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của
Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp hiện nay cũng như trong những năm sắp tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề tổ chức, cán bộ nói chung và việc nâng cao chất lượng hoạt
động của ban tổ chức nói riêng thường xuyên được Đảng và các cán bộ khoa
học quan tâm. Trong thời gian qua đã có một số cơng trình nghiên cứu chuyên
sâu của các nhà khoa học và hoạt động thực tiễn về công tác tổ chức, cán bộ.
Sau đây là một số tài liệu, cơng trình tiêu biểu.



4
- Nguyễn Phú Trọng - Trần Xuân Sầm (2003): “Luận cứ khoa học cho
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Trần Đình Hoan (2002): “Tiếp tục đổi mới, tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ về công tác tổ chức và cán bộ góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội lần thứ IX của Đảng”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9.
- Lê Đức Bình (2002): "Tổ chức và cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng,
số 10.
- Phan Diễn (2002): “Công tác tổ chức và cán bộ luôn là vấn đề quan
trọng hàng đầu”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 11.
- Phan Diễn (2002): “Một số vấn đề quan trọng về công tác tổ chức và
cán bộ của Đảng hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 31.
- Võ Minh Hoàng (2008): “Chất lượng các ban tổ chức huyện uỷ ở tỉnh
An Giang trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hoàn Xuân (2010): "Chất lượng đội ngũ cán bộ các ban
tổ chức huyện, thị, thành uỷ tỉnh Kiên Giang giai đoạn hiện nay", luận văn
thạc sĩ, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Danh (2001): “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
chuyên trách làm công tác tổ chức của Đảng ở Đảng bộ Hà Tĩnh trong giai
đoạn hiện nay”, Luận văn tốt nghiệp đại học chính trị, Hà Nội.
Các cơng trình, bài báo, luận văn nêu trên được thực hiện ở nhiều góc
độ, khơng gian và thời gian khác nhau, do vậy các kết quả nghiên cứu có
những nét đặc trưng riêng. Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình khoa học
nào đi sâu vào nghiên cứu tồn diện, có hệ thống vấn đề chất lượng ban tổ
chức huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng ban tổ chức
huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh Đồng Tháp, luận văn đề xuất phương hướng, giải


5
pháp nâng cao chất lượng các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh Đồng
Tháp trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Xây dựng quan niệm về chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng các
ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng và ưu điểm, hạn chế trong hoạt động
nâng cao chất lượng các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh Đồng Tháp.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng các
ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chất lượng các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở
tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát tổ chức và hoạt động các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở
tỉnh Đồng Tháp từ năm 2007 đến nay và định hướng xây dựng, nâng cao chất
lượng các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời khai thác các quan điểm của Đảng trên lĩnh
vực xây dựng Đảng về tổ chức; kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình
khoa học liên quan đã cơng bố.

5.2. Cơ sở thực tiễn
Q trình xây dựng và hoạt động của các ban tổ chức huyện, thị, thành
uỷ ở tỉnh Đồng Tháp; các báo cáo về vấn đề có liên quan trong thời gian qua.
5.3. Phương pháp nghiên cứu


6
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
tổng kết thực tiễn, kết hợp lơgíc và lịch sử, khảo sát thực tế, phân tích và tổng
hợp, phương pháp chuyên gia…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ quan niệm, các tiêu chí đánh giá chất lượng
các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh Đồng Tháp.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng và hoạt động nâng cao chất
lượng các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh Đồng Tháp, chỉ ra nguyên
nhân và những kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu tiếp tục nâng cao chất
lượng các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh Đồng Tháp phù hợp với yêu
cầu của Đảng và tình hình, nhiệm vụ của địa phương.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các huyện, thị, thành uỷ của
tỉnh trong cơng tác củng cố, kiện tồn, nâng cao chất lượng các ban tổ chức
huyện, thị, thành uỷ ở Đồng Tháp và tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, học
tập mơn Xây dựng Đảng ở Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.



7
Chương 1
CHẤT LƯỢNG CÁC BAN TỔ CHỨC HUYỆN, THỊ, THÀNH UỶ
Ở TỈNH ĐỒNG THÁP - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CÁC HUYỆN, THỊ, THÀNH PHỐ; CÁC HUYỆN, THỊ, THÀNH UỶ VÀ
BAN TỔ CHỨC HUYỆN, THỊ, THÀNH UỶ Ở TỈNH ĐỒNG THÁP

1.1.1. Các huyện, thị xã, thành phố và các đảng bộ huyện, thị xã,
thành phố ở tỉnh Đồng Tháp
1.1.1.1. Khái quát tình hình, đặc điểm của các huyện, thị xã và thành
phố thuộc tỉnh Đồng Tháp
Khái quát tình hình, đặc điểm ở tỉnh Đồng Tháp
Tỉnh Đồng Tháp được thành lập theo Quyết định số 19-QĐ/TW ngày
20- 12-1975 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Sa
Đéc và Long Châu Tiền. Diện tích tự nhiên của tỉnh hiện nay là 3.374 km 2,
bằng 8,17% diện tích khu vực đồng bằng sơng Cửu Long và bằng 0,99% diện
tích của cả nước.
Đồng Tháp nằm ở hạ lưu sơng Mêkơng, phía Bắc đồng bằng sông Cửu
Long, ở hai bên bờ sông Tiền. Phía Bắc tỉnh giáp Campuchia và tỉnh Long
An; phía Đơng tỉnh giáp tỉnh Long An và tỉnh Tiền Giang; phía Nam tỉnh giáp
tỉnh Vĩnh Long và Cần Thơ; phía Tây tỉnh giáp thành phố Cần Thơ và tỉnh An
Giang.
Về tổ chức hành chính, tỉnh Đồng Tháp gồm 09 huyện, 02 thị xã, 01
thành phố và 144 xã, phường, thị trấn. Tính đến cuối năm 2010, tồn tỉnh có
số dân 1.667.706 người, trong đó có 3.612 người dân tộc thiểu số, chủ yếu là
người Hoa. Tỉnh Đồng Tháp có 05 tơn giáo chính: Thiên Chúa giáo, Tin Lành,
Phật giáo, Phật giáo Hồ Hảo, Cao Đài và một số tơn giáo khác, với tổng số
tín đồ là 338.000 người, trong đó Phật giáo Hồ Hảo có số tín đồ đơng nhất,
với 173.000 người (kể cả chức sắc, chức việc).



8
Hiện nay, tồn tỉnh có 188,5 km đường quốc lộ, 372 km đường tỉnh lộ,
805 km đường hương lộ, 1.285 km đường xã, có gần 1.700 cầu các loại, với
tổng chiều dài hơn 36.582 m.
Đồng Tháp có đoạn biên giới giáp với tỉnh Prâyveng của Vương quốc
Campuchia dài 48,7 km, từ đầu kinh Cả Bát, tiếp giáp tỉnh Long An đến giữa
sơng Tiền, tiếp giáp tỉnh An Giang; trong đó, biên giới đường thuỷ dài 38,1
km, đường bộ dài 10,6 km thuộc địa giới hành chính 08 xã biên giới của 02
huyện Tân Hồng và Hồng Ngự. Tỉnh Đồng Tháp có 02 cửa khẩu quốc tế là
Thường Phước và Dinh Bà, ngồi ra cịn có 05 cửa khẩu phụ cho phép được
làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá gồm các cửa khẩu Sở Thượng,
Thơng Bình, Mộc Rá, Á Đơn và Bình Phú.
Trong những năm chiến tranh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
Đồng Tháp (bao gồm tỉnh Sa Đéc, Long Châu Sa, Long Châu Tiền, Kiến
Phong) đã chịu nhiều mất mát, hy sinh, chiến đấu ngoan cường với những
trận đánh vang dội như chiến thắng Giồng Thị Đam - Gị Quản Cung, trận
37 tàu trên sơng Nguyễn Văn Tiếp B..., đóng góp to lớn vào chiến thắng vĩ
đại của dân tộc. Tồn tỉnh có 64.252 người tham gia cách mạng, trong đó
có 21.115 người là bộ đội; có 17.591 liệt sĩ; 7.295 người là thương binh;
593 Bà mẹ Việt Nam anh hùng (trong đó 01 Mẹ có 06 con là liệt sĩ, 01 Mẹ
có chồng và 5 con là liệt sĩ); 3.558 gia đình có cơng với cách mạng, được
hưởng trợ cấp. Qua quá trình chiến đấu, tỉnh được phong tặng, khen thưởng
nhiều danh hiệu cao quý: Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân, 01 Huân chương Sao vàng, 01 Huân chương Hồ Chí Minh, 01 Huân
chương Quân công hạng Nhất, 01 Huân chương Độc lập hạng Ba, 01 Cờ
thêu 8 chữ vàng của Trung ương Cục miền Nam năm 1974 "KIÊN
CƯỜNG, BÁM TRỤ, GIỮ ĐẤT, GIÀNH DÂN". Ngoài ra, 07 huyện, thị;
46 xã, ấp; 12 đơn vị lực lượng vũ trang; 01 ngành và 42 cá nhân được

phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều danh
hiệu cao quý khác.


9
Sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất, dưới
sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự giúp đỡ của Chính phủ và các
bộ, ngành Trung ương; sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của Tỉnh uỷ,
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, sự nỗ lực phấn đấu của các
ngành, các cấp nền kinh tế của tỉnh tiếp tục phát triển khá, thu nhập bình qn
đầu người khơng ngừng được tăng lên; cơng tác xây dựng Đảng, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội không ngừng được củng cố
và ngày càng phát huy tốt vai trị của mình; quốc phịng, an ninh được giữ
vững; bộ mặt nông thôn không ngừng đổi mới; đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân từng bước được nâng lên.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2011 đạt 13,55%, vượt kế hoạch
0,55%, trong đó, khu vực nông nghiệp tăng 5,53%, khu công nghiệp - xây
dựng tăng 22,25%, khu vực thương mại - dịch vụ tăng 16,48%. Thu nhập
GDP bình quân đầu người (theo giá năm 1994) đạt 9,74 triệu đồng, tương
đương 882 USD, tăng 13,22% so với năm 2010 (giá thực tế 21,5 triệu đồng,
tương đương 1.027 USD).
Cơ cấu kinh tế (theo giá năm 1994): khu vực nông nghiệp chiếm
37,87%, khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 28,55%, khu vực thương mại
- dịch vụ chiếm 33,58% trong tổng GDP (giá thực tế đạt theo thứ tự: 50,24%;
23,10%; 26,66%).
Thành tựu nổi bật về kinh tế là tổ chức thực hiện thành cơng chương
trình xúc tiến thương mại, đa dạng hố thị trường; triển khai có hiệu quả
chương trình khuyến cơng; phát triển mạnh doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đặc
biệt, trong năm 2010 chỉ số cạnh tranh (PCI) đứng hàng thứ nhất trong khu
vực đồng bằng sông Cửu Long và đứng hàng thứ ba của cả nước. Tỉnh tiếp

tục lãnh đạo phát triển lĩnh vực nông nghiệp theo chiều sâu. Lúa, gạo, cá tra,
cá basa trở thành mặt hàng chủ lực của tỉnh, có giá trị và sản lượng đứng tóp
đầu của cả nước; nhiều mơ hình sản xuất hiệu quả được nhân rộng; xã hội hố
cơng tác nhân giống; khai thác lợi thế mùa nước nổi. Việc ứng dụng khoa học


10
- kỹ thuật, cơ giới hố trong sản xuất nơng nghiệp ngày càng mạnh mẽ. Giá trị
trên đơn vị diện tích tăng liên tục, trình độ sản xuất của nơng dân ngày càng
tiến bộ. Kết cấu hạ tầng ở nông thôn được đầu tư nâng cấp, bộ mặt nông thôn
không ngừng đổi mới, tiến bộ.
So với năm 2007, tuy có những khó khăn về huy động nguồn vốn,
nhưng với tinh thần phấn đấu, quyết tâm cao, tỉnh đã thực hiện vốn đầu tư
phát triển đạt 2.411 tỷ đồng; trong đó, vốn địa phương quản lý 2.265 tỷ đồng,
bằng 94,8% kế hoạch. Nhiều cơng trình, dự án đầu tư đã hồn thành đưa vào sử
dụng, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Kinh tế phát
triển nên thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt khá, bảo đảm nhu cầu chi theo
dự toán. Tổng thu ngân sách trong tỉnh năm 2011 đạt 3.340 tỷ đồng, bằng 105%
dự toán, chi ngân sách địa phương đạt 5.390 tỷ đồng, bằng 109% dự toán.
Hệ thống ngân hàng đã thực hiện kịp thời chính sách cho vay hỗ trợ sản
xuất theo quy định, ưu tiên vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, xuất
khẩu, an sinh xã hội. Vốn huy động trên địa bàn đạt 13.180 tỷ đồng, tăng
30%; dư nợ cho vay 22.540 tỷ đồng, tăng 18% so với năm 2010.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hồn chỉnh. Hệ thống đơ thị
và chợ được xây dựng, nâng cấp, mở rộng. Hệ thống kênh mương, đê bao
chống và thoát lũ ngày càng phát huy hiệu quả tốt, hạn chế những thiệt hại và
khai thác có hiệu quả lợi thế mùa nước nổi.
Các thành phần kinh tế phát triển mạnh, nhất là kinh tế tư nhân. Trong
điều kiện khó khăn chung của nền kinh tế cả nước, năm 2011 có 390 doanh
nghiệp đăng ký mới, tổng vốn đăng ký là 1.915 tỷ đồng và khoảng 4.960 hộ

kinh doanh cá thể, vốn đăng ký 695 tỷ đồng, nâng tổng số lên 2.720 doanh
nghiệp, tổng vốn 16.565 tỷ đồng và 48.200 hộ kinh doanh cá thể, với tổng
vốn 3.550 tỷ đồng. Doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, kiện tồn theo chủ
trương đổi mới, các cơng ty cổ phần hoạt động có hiệu quả. Kinh tế hợp tác
được củng cố, kinh tế trang trại phát triển, nhất là trên lĩnh vực chăn nuôi, kể
cả nuôi trồng thuỷ sản.


11
Lĩnh vực giáo dục và đào tạo có chuyển biến tích cực. Tồn tỉnh có 683
trường mầm non, phổ thơng (trong đó 63 trường đạt chuẩn quốc gia), với
333.074 học sinh. Đội ngũ cán bộ quản lý và nhà giáo được tăng cường đào
tạo, bồi dưỡng theo chuẩn quy định. Số lượng học sinh yếu kém và học sinh
bỏ học các cấp học năm sau đều giảm so năm học trước. Học sinh thi đỗ tốt
nghiệp trung học phổ thông đạt 94,65% (tăng 13,83%) và hệ thống giáo dục
thường xuyên đạt 81,97% (tăng 50,03%). Đã xây dựng 1.113/1.612 phòng
học theo dự án kiên cố hoá trường, lớp học, đạt 69,04% kế hoạch (do thực
hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ, vốn đối ứng của tỉnh chưa đủ
cân đối, lũ lụt nên phải tạm ngưng thi công). Trường Đại học Đồng Tháp
tuyển mới 4.800 chỉ tiêu, trường Cao đẳng cộng đồng tuyển mới 525 chỉ tiêu,
trường Cao đẳng Y tế tuyển mới 700 chỉ tiêu. Các cơ sở dạy nghề đã đào tạo
cho 20.000 người, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm nghề và kỹ năng dạy học
cho 100 giáo viên dạy nghề. Thực hiện Chương trình Mêkơng 1.000, đến nay
đã xét tuyển đưa đi đào tạo 56 ứng viên (54 thạc sĩ, 02 tiến sĩ), trong đó đã tốt
nghiệp thạc sĩ về nước 10 người, đang theo học ở nước ngoài 12 người, đang
xúc tiến hồ sơ 24 người, đang học ngoại ngữ 10 người.
Hoạt động khoa học - công nghệ được đổi mới theo hướng tập trung
cho nghiên cứu ứng dụng. Một số đề tài, dự án nghiên cứu khoa học về phát
triển các cây giống, con giống phục vụ sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả.
Xuất hiện nhiều điển hình, sáng kiến hay, cách làm tốt. Tỉnh có chính sách hỗ

trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân đăng ký xuất xứ nhãn hiệu hàng hoá và
kiểu dáng công nghiệp, từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập, như: xoài cát
chu huyện Cao Lãnh; quýt hồng huyện Lai Vung; ớt trái huyện Thanh Bình;
cá tra giống huyện Hồng Ngự; khơ cá lóc Tràm Chim huyện Tam Nơng....
Ngồi ra, tỉnh còn hỗ trợ 12 doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất
lượng tiên tiến; phát động phong trào vệ sinh môi trường ở các chợ, khu đông
dân cư; các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường nước ở các khu chăn nuôi,
nuôi trồng thuỷ sản, cơ sở sản xuất, kinh doanh.


12
Đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xố đói, giảm nghèo, xuất khẩu lao
động có bước tiến đáng kể. Trong năm 2011, đã tổ chức 05 phiên giao dịch
việc làm, thu hút 2.201 người đăng ký tìm việc và 291 người đăng ký học
nghề, góp phần giải quyết việc làm cho 30.000 lao động, đạt 100% kế hoạch.
Hỗ trợ cho 3.259 hộ nghèo vay 24 tỷ đồng để sản xuất; hỗ trợ tiền điện 7,812
tỷ đồng và trợ cấp khó khăn 15,275 tỷ đồng cho 65.104 hộ nghèo, góp phần
giảm tỷ lệ hộ nghèo cịn 13,73% (theo tiêu chí mới) đạt chỉ tiêu nghị quyết đề
ra. Bên cạnh đó, thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho 1.958 lao động,
tăng gấp 02 lần so với năm 2010; xây dựng 100 căn nhà tình nghĩa, sửa chữa
34 căn nhà gia đình chính sách, tổ chức đưa 1.136 đối tượng người có cơng đi
điều dưỡng ngồi tỉnh, tổ chức lễ cải táng 40 hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện
Việt Nam. Trợ cấp xã hội cho 40.269 đối tượng, tăng 20.000 người so với
năm 2010; tặng quà cây mùa xuân cho 15.586 trẻ em có hồn cảnh khó khăn.
Cơng tác phịng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo vệ
bà mẹ trẻ em đạt kết quả tốt. Y học cổ truyền phát triển, cơ sở vật chất được
đầu tư nâng cấp, từng bước thực hiện tốt việc chữa bệnh kết hợp giữa đông và
tây y. Công tác xã hội hoá trên lĩnh vực y tế ngày càng được mở rộng, một số
bệnh viện tư nhân được xây dựng khang trang và đưa vào hoạt động với chất
lượng phục vụ cao. Các cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, giường bệnh, nhân

lực được quan tâm đầu tư, nâng dần khả năng khám, chữa bệnh cho nhân dân,
nhất là tuyến cơ sở; 100% trạm y tế xã, phường, thị trấn được xây dựng mới,
nâng cấp đạt chuẩn quốc gia
Lĩnh vực văn hoá, văn nghệ ngày càng phát triển và đi vào chiều sâu.
Hoạt động báo chí, phát thanh và truyền hình Đồng Tháp có nhiều tiến bộ,
kịp thời phản ánh tình hình của địa phương và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu cuộc sống của nhân dân. Phong trào thể dục thể thao phát triển mạnh,
nhiều môn thể dục thể thao được phát huy. Ý thức rèn luyện sức khoẻ của
nhân dân ngày càng được nâng cao. Phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng
đời sống văn hố ở khu dân cư” đạt nhiều kết quả, từng bước củng cố mối


13
quan hệ cố kết cộng đồng, phát huy dân chủ, tình làng, nghĩa xóm được thắt
chặt, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tình hình an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội được giữ vững ổn
định. Công tác trực sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ địa bàn, mục tiêu trọng yếu
được duy trì nghiêm. Thực hiện tốt cơng tác nắm tình hình, quản lý chặt các
đối tượng nổi, triển khai đồng bộ các biện pháp tấn công, trấn áp các loại tội
phạm và các tệ nạn xã hội. Công tác tuyển chọn thanh niên lên đường nhập ngũ
đạt yêu cầu về số lượng và chất lượng. Quan hệ đối ngoại tiếp tục được mở rộng,
tình hữu nghị giữa 02 tỉnh Đồng Tháp và Prâyveng (Vương quốc Campuchia)
tiếp tục được duy trì. Thực hiện tốt công tác phân giới cấm mốc biên giới.
Bên cạnh những thuận lợi, Đồng Tháp vẫn cịn khơng ít khó khăn,
thách thức: Kinh tế tăng trưởng khá, nhưng về cơ bản vẫn là một tỉnh thuần
nông. Tăng trưởng thiếu tính bền vững. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn
chậm. Tỷ lệ học sinh bỏ học ở các xã vùng sâu còn cao. Lĩnh vực y tế, dịch
vụ chăm sóc sức khoẻ người dân tuy có đầu tư xây dựng, trang bị, nhưng
một số trang thiết bị ở tuyến huyện và cơ sở có phần đã xuống cấp. Đời
sống văn hố tinh thần của nhân dân có bước tiến bộ, nhưng vẫn cịn đơn

điệu…Thực tế đó đang đặt ra cho cấp uỷ và chính quyền tỉnh Đồng Tháp
những vấn đề phải quan tâm giải quyết trước mắt cũng như những năm
tiếp theo.
Những đặc điểm chủ yếu của các huyện, thị xã và thành phố của tỉnh
Đồng Tháp
Sáu (06) huyện, 01 thị xã và 01 thành phố phía Bắc tỉnh (thị xã Hồng
Ngự, thành phố Cao Lãnh, các huyện Hồng Ngự, Tân Hồng, Tam Nơng,
Thanh Bình, Tháp Mười và Cao Lãnh) là vùng kinh tế có nhiều tiềm năng
phát triển, đặc biệt là nông, lâm, thuỷ sản và du lịch. Ba (03) huyện và 01 thị
xã phía Nam tỉnh (thị xã Sa Đéc, các huyện Lấp Vò, Lai Vung, và Châu
Thành) nằm giữa sơng Tiền và sơng Hậu, có tiềm năng phát triển công
nghiệp, thương mại - dịch vụ.


14
Thành phố Cao Lãnh có 15 xã, phường. Diện tích tự nhiên là 107 km 2,
với số dân là 162.482 người. Phía Đơng thành phố giáp xã An Bình, huyện
Cao Lãnh; phía Tây giáp huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; phía Nam giáp sơng
Tiền; phía Bắc giáp xã Phong Mỹ, huyện Cao Lãnh. Thành phố Cao Lãnh là
trung tâm hành chính hiện nay của tỉnh Đồng Tháp, có vị trí quan trọng về
chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội của tỉnh; nơi có khu di tích lịch sử cấp quốc
gia - mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh;
Bảo tàng Đồng Tháp ghi lại các giá trị lịch sử, văn hoá trong cuộc sống, các
chiến tích lịch sử cách mạng qua hai thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân Đồng Tháp; có bến phà Cao Lãnh - nơi giao thương hàng hố đi các
nơi trong và ngồi tỉnh.
Thị xã Sa Đéc có 09 xã, phường. Diện tích tự nhiên 60 km 2, với số
dân là 103.667 người. Phía Đơng thị xã giáp huyện Cao Lãnh; phía Tây
giáp huyện Lấp Vị, huyện Lai Vung; phía Nam giáp huyện Châu Thành;
phía Bắc giáp sông Tiền. Sa Đéc là trung tâm hành chính của tỉnh Đồng

Tháp trước đây, có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội
của tỉnh. Thị xã Sa Đéc có bến cảng, các khu công nghiệp lớn, các làng
nghề tiểu, thủ công nghiệp, nơi giao thương hàng hố đi các nơi trong và
ngồi tỉnh. Thị xã có nhà cổ Huỳnh Thuỷ Lê được xây dựng năm 1895 và
được trùng tu năm 1917; chùa Kiến An Cung được khởi công năm Giáp Tý
(1924), khánh thành năm Đinh Mẹo (1927); làng Hoa kiểng Sa Đéc được
hình thành từ những năm 1930 nổi tiếng khu vực đồng bằng sơng Cửu
Long và cả nước.
Thị xã Hồng Ngự có 07 xã, phường. Diện tích tự nhiên là 122 km 2, với
dân số là 78.089 người. Phía Đơng thị xã giáp xã Tân Cơng Chí, huyện Tân
Hồng; phía Tây giáp xã Thường Lạc, huyện Hồng Ngự; phía Nam giáp xã An
Hồ, huyện Tam Nơng; phía Bắc giáp Campuchia. Thị xã Hồng Ngự là một
địa phương cận biên, nơi giao thương hàng hoá nhộn nhịp, với nhiều mặt
hàng phong phú; là địa phương nuôi cá tra, cá basa lớn trong tỉnh; có khu du


15
lịch Mêkơng với diện tích 8.700m2 rộng rãi, thống mát, nằm bên bờ sơng
Tiền rất lý tưởng.
Huyện Tân Hồng có 09 xã, thị trấn. Diện tích tự nhiên là 311 km 2, với
số dân là 91.835 người. Phía Đơng huyện giáp xã Hưng Điền, huyện Vĩnh
Hưng, tỉnh Long An; phía Tây giáp xã An Bình B, xã Bình Thạnh, thị xã
Hồng Ngự; phía Nam giáp xã Phú Hiệp, huyện Tam Nơng; phía Bắc giáp
Campuchia. Tân Hồng là một huyện đầu nguồn, chuyên sản xuất nông
nghiệp. Huyện nằm ở vùng biên giáp nước bạn Campuchia, có cửa khẩu quốc
tế Dinh Bà, giao lưu hàng hoá giữa hai tỉnh Đồng Tháp với tỉnh Prâyveng
(Vương quốc Campuchia); có làng nghề truyền thống "Bánh Tráng Tân
Hồng", có nhà hàng khu du lịch Bàu Dong, với tổng diện tích 18 ha, thích hợp
loại hình du lịch nghỉ dưỡng.
Huyện Hồng Ngự có 11 xã. Diện tích tự nhiên là 210 km 2, với dân số là

144.769 người. Phía Đơng huyện giáp phường An Lạc, thị xã Hồng Ngự; phía
Tây giáp Campuchia; phía Nam giáp thị xã Tân Châu (An Giang); phía Bắc
giáp Campuchia. Hồng Ngự là một huyện đầu nguồn, chuyên sản xuất nông
nghiệp. huyện nằm ở vùng biên giáp nước bạn Campuchia, có cửa khẩu quốc
tế Thường Phước, giao lưu hàng hoá giữa hai tỉnh Đồng Tháp với Prâyveng
(Vương quốc Campuchia) và tỉnh An Giang. Hồng Ngự là địa phương nuôi cá
tra, cá basa lớn trong tỉnh.
Huyện Tam Nơng có 12 xã, thị trấn. Diện tích tự nhiên là 474 km 2, với
số dân là 105.277 người. Phía Đơng huyện giáp xã Tân Quới, huyện Thanh
Bình và xã Phú Thuận B, huyện Hồng Ngự; phía Tây giáp xã Gáo Giồng,
huyện Cao Lãnh, xã Hưng Thạnh, huyện Tháp Mười, xã Vĩnh Châu A, xã
Vĩnh Châu B, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An; phía Nam giáp xã Phú Lợi, xã
An Phong, xã Tân Mỹ, huyện Thanh Bình; phía Bắc giáp xã An Bình A, xã
An Bình B, thị xã Hồng Ngự, xã An Phước, xã Tân Phước, huyện Tân Hồng.
Tam Nông là huyện sản xuất nông nghiệp, nơi có diện tích ni tơm càng
xanh lớn nhất tỉnh; nơi có Vườn Quốc gia Tràm Chim - khu Ramsar thứ tư


16
của Việt Nam, thứ 2.000 của thế giới, với diện tích 7.588 ha, được xem là
Đồng Tháp Mười thu nhỏ với đầy đủ hệ sinh thái của vùng đất ngập nước, đặc
biệt là địa chỉ về thường xuyên hàng năm của loài Sếu đầu đỏ được xếp trong
sách đỏ thế giới cần được bảo vệ khẩn cấp, vì đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Huyện mang dấu ấn lịch sử với trận đánh Giồng Thị Đam - Gò Quản Cung
của Tiểu đồn 502 anh hùng.
Huyện Tháp Mười có 13 xã, thị trấn. Diện tích tự nhiên là 528 km2, với số
dân là 139.141 người. Phía Đơng huyện giáp các xã Mỹ Lợi A, Mỹ Lợi B, huyện
Cái Bè, tỉnh Tiền Giang; phía Tây giáp xã Phú Cường, huyện Tam Nơng; phía
Nam giáp xã Ba Sao, huyện Cao Lãnh; phía Bắc giáp xã Tân Thành, huyện Tân
Thạnh, tỉnh Long An. Tháp Mười là huyện vùng sâu của Đồng Tháp, chuyên sản

xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, những năm gần đây, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp
Mười đã phát triển lên đô thị loại 4; có khu cơng nghiệp tại thị trấn và khu cơng
nghiệp ở xã Trường Xn. Nơi có Khu di tích lịch sử - văn hố Gị Tháp - di tích
quốc gia hạn đặc biệt cịn lưu giữ được dấu tích thành luỹ của Vương quốc Phù
Nam, các di chỉ của nền văn hố Ĩc Eo, Mộ và Đền thờ cụ Thiên Hộ Võ Duy
Dương và Đốc Binh Nguyễn Tấn Kiều. Nơi đây đã diễn ra trận đánh 37 tàu Mỹ
trên sông Nguyễn Văn Tiếp B và trận đánh Tháp Mười tầng.
Huyện Cao Lãnh có 18 xã, thị trấn. Diện tích tự nhiên là 491 km 2, với
số dân là 201.642 người. Phía Đơng huyện giáp các xã Mỹ Q, Láng Biển,
Thanh Mỹ, huyện Tháp Mười, xã Tân Thanh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang;
phía Tây giáp phường Mỹ Phú, xã Tịnh Thới, thành phố Cao Lãnh; phía Nam
giáp sơng Tiền, xã Tân Khánh Đơng, thị xã Sa Đéc; phía Bắc giáp xã Phú
Cường, huyện Tam Nơng, xã Bình Thành, huyện Thanh Bình. Cao Lãnh là
huyện cửa ngõ có Quốc lộ 30 đi qua, chủ yếu sản xuất nơng nghiệp, ngồi cây
lúa, có nhiều loại trái cây khác, đặc biệt là thương hiệu "xồi cát Cao Lãnh"
có tiếng trong cả nước. Huyện có chợ đầu mối trái cây đi khắp nơi trong nước
và nước ngồi; có căn cứ địa cách mạng của Tỉnh uỷ được mệnh danh là "Xẻo
Quít - căn cứ lòng dân".


17
Huyện Thanh Bình có 13 xã, thị trấn. Diện tích tự nhiên là 341 km 2, với
số dân là 135.088 người. Phía Đơng huyện giáp xã Phong Mỹ, huyện Cao
Lãnh; phía Tây giáp huyện Phú Tân, tỉnh An Giang; phía Nam giáp huyện
Chợ Mới, tỉnh An Giang; phía Bắc giáp xã Phú Thuận B, huyện Hồng Ngự.
Thanh Bình là huyện sản xuất nơng nghiệp, ni trồng thuỷ sản; có thương
hiệu "ớt trái Thanh Bình", khu cơng nghiệp Bình Thành; có Dinh Ông Đốc
Vàng - Anh hùng dân tộc - di tích lịch sử - văn hố cấp quốc gia.
Huyện Lấp Vị có 13 xã, thị trấn. Diện tích tự nhiên là 264 km2, với số dân
là 118.000 người. Phía Đơng huyện giáp xã Tân Khánh Đông, thị xã Sa Đéc, xã

Tân Dương, xã Long Hậu, thị trấn Lai Vung, huyện Lai Vung; phía Tây giáp xã
An Hồ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; phía Nam giáp huyện Thốt Nốt, tỉnh
Cần Thơ; phía Bắc giáp sơng Tiền. Lấp Vị có Quốc lộ 80 đi qua, có phà Vàm
Cống. Lấp Vị là huyện sản xuất nơng nghiệp, ni trồng thuỷ sản; có khu công
nghiệp Vàm Cống, Kinh Xáng; là nơi giao thương đường thuỷ, đường bộ rất
thuận lợi; có dấu ấn của địa danh "Long Hưng A nước xốy".
Huyện Lai Vung có 12 xã, thị trấn. Diện tích tự nhiên là 238 km 2, với số
dân là 160.013 người. Phía Đơng huyện giáp thị xã Sa Đéc, huyện Châu
Thành; phía Tây giáp sơng Hậu và thành phố Cần Thơ; phía Nam giáp huyện
Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long; phía Bắc giáp xã Long Hưng A, xã Long Hưng
B, xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vị. Lai Vung là huyện có các quốc lộ 80 và 54
đi qua; chuyên sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, có diện tích trồng
cây ăn trái, với thương hiệu "Quýt hồng Lai Vung", "Nem Lai Vung", làng
nghề truyền thống "Chiếu Định n"; nơi có chiến tích oai hùng của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tại địa phương trong việc kéo tàu Pháp, được
xây dựng "Phù điêu kéo tàu Pháp trên sông" tại xã Tân Dương.
Huyện Châu Thành có 12 xã, thị trấn. Diện tích tự nhiên là 246 km 2, với
số dân là 151.908 người. Phía Đơng huyện giáp xã Tân Hội, thành phố Vĩnh
Long; phía Tây giáp xã Tân Phú Đơng, thị xã Sa Đéc, xã Phong Hồ, huyện
Lai Vung; phía Nam giáp xã Thạnh Quới, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long;


18
phía Bắc giáp phường 4, thị xã Sa Đéc, xã Bình Thạnh, huyện Cao Lãnh.
Châu Thành là huyện cửa ngõ của Quốc lộ 80; là huyện chuyên sản xuất nông
nghiệp, ni trồng thuỷ sản, nhất là có diện tích ni cá tra, cá basa lớn trong
tỉnh; nơi có nhiều loại cây ăn trái, đặc biệt là cây nhãn.
1.1.1.2. Khái quát về các đảng bộ huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh
Đồng Tháp
Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp có 12 đảng bộ huyện, thị, thành phố:

Đảng bộ huyện Hồng Ngự có 44 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 13
đảng bộ cơ sở và 31 chi bộ cơ sở. Số uỷ viên ban chấp hành đảng bộ huyện là
45, trong đó có 04 nữ. Tổng số đảng viên tồn đảng bộ là 2.385, chiếm 1,65%
với dân số.
Đảng bộ thị xã Hồng Ngự có 36 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 09
đảng bộ cơ sở và 27 chi bộ cơ sở. Số uỷ viên ban chấp hành đảng bộ huyện là
43, trong đó có 06 nữ. Tổng số đảng viên toàn đảng bộ là 1.827, chiếm 2,34%
so với dân số.
Đảng bộ huyện Tân Hồng có 46 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 13
đảng bộ cơ sở và 33 chi bộ cơ sở. Số uỷ viên ban chấp hành đảng bộ huyện là
44, trong đó có 06 nữ. Tổng số đảng viên toàn đảng bộ là 2.478, chiếm 2,71%
so với dân số.
Đảng bộ huyện Tam Nơng có 54 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 14
đảng bộ cơ sở và 40 chi bộ cơ sở. Số uỷ viên ban chấp hành đảng bộ huyện là
43, trong đó có 07 nữ. Tổng số đảng viên toàn đảng bộ là 2.359, chiếm 2,25%
so với dân số.
Đảng bộ huyện Thanh Bình có 61 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 16
đảng bộ cơ sở và 45 chi bộ cơ sở. Số uỷ viên ban chấp hành đảng bộ huyện là
44, trong đó có 04 nữ. Tổng số đảng viên tồn đảng bộ là 3.477, chiếm 2,25%
so với dân số.
Đảng bộ thành phố Cao Lãnh có 57 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 18
đảng bộ cơ sở và 39 chi bộ cơ sở. Số uỷ viên ban chấp hành đảng bộ huyện là


19
45, trong đó có 09 nữ. Tổng số đảng viên toàn đảng bộ là 3.540, chiếm 2,19%
so với dân số.
Đảng bộ huyện Cao Lãnh có 47 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 24 đảng
bộ cơ sở và 23 chi bộ cơ sở. Số uỷ viên ban chấp hành đảng bộ huyện 41,
trong đó có 06 nữ. Tổng số đảng viên toàn đảng bộ là 3.897, chiếm 1,94% so

với dân số.
Đảng bộ huyện Tháp Mười có 55 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 15
đảng bộ cơ sở và 40 chi bộ cơ sở. Số uỷ viên ban chấp hành đảng bộ huyện là
43, trong đó có 07 nữ. Tổng số đảng viên toàn đảng bộ là 3.143, chiếm 2,30%
so với dân số.
Đảng bộ huyện Lấp Vị có 58 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 19 đảng
bộ cơ sở và 39 chi bộ cơ sở. Số uỷ viên Ban chấp hành đảng bộ huyện là 43,
trong đó có 05 nữ. Tổng số đảng viên tồn đảng bộ là 3.738, chiếm 2,07% so
với dân số.
Đảng bộ huyện Lai Vung có 55 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 17 đảng
bộ cơ sở và 38 chi bộ cơ sở. Số uỷ viên ban chấp hành đảng bộ huyện là 44,
trong đó có 07 nữ. Tổng số đảng viên toàn đảng bộ là 2.864, chiếm 1,79% so
với dân số.
Đảng bộ thị xã Sa Đéc có 59 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 15 đảng bộ
cơ sở và 44 chi bộ cơ sở. Số uỷ viên ban chấp hành đảng bộ huyện là 42,
trong đó có 07 nữ. Tổng số đảng viên toàn đảng bộ là 2.809, chiếm 2,71% so
với dân số.
Đảng bộ huyện Châu Thành có 56 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 15
đảng bộ cơ sở và 41 chi bộ cơ sở. Số uỷ viên ban chấp hành đảng bộ huyện là
45, trong đó có 08 nữ. Tổng số đảng viên tồn đảng bộ là 3.150, chiếm 2,08%
so với dân số.
1.1.1.3. Các huyện, thị, thành uỷ ở Đồng Tháp
Chức năng, nhiệm vụ
Theo quy định của Điều lệ Đảng, cấp uỷ các cấp là cơ quan lãnh đạo
giữa hai kỳ đại hội. Ban chấp hành đảng bộ huyện, thị, thành phố có chức


20
năng, nhiệm vụ: là cơ quan lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
chính trị theo nghị quyết đại hội đại biểu đảng bộ huyện, thị, thành phố đề

ra và các nhiệm vụ do cấp uỷ cấp trên giao; tập trung lãnh đạo, tổ chức
thực hiện thắng lợi các mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội; quốc
phòng, an ninh, xây dựng Đảng; đối ngoại… Để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ trên, các huyện, thị, thành uỷ có trách nhiệm thực hiện tốt các
cơng việc chủ yếu sau:
- Quyết định chương trình hoạt động tồn khố của ban chấp hành đảng
bộ; quy chế làm việc của ban chấp hành, ban thường vụ và thường trực huyện,
thị, thành uỷ; quy chế làm việc của uỷ ban kiểm tra huyện, thị, thành uỷ.
- Quyết định phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội hằng năm; cho ý kiến một số vấn đề cụ thể quan trọng về an ninh,
quốc phịng, xây dựng Đảng, chính quyền, đồn thể… do ban thường vụ huyện,
thị, thành uỷ, các cơ quan, đơn vị hoặc uỷ viên ban chấp hành đảng bộ huyện,
thị, thành đề nghị.
- Tại các hội nghị thường kỳ, ban chấp hành đảng bộ huyện, thị, thành
xem xét báo cáo của ban thường vụ huyện, thị, thành uỷ về việc lãnh đạo thực
hiện nghị quyết đại hội, nghị quyết của ban chấp hành đảng bộ; những quyết
định quan trọng của ban thường vụ huyện, thị, thành uỷ giữa hai kỳ hội nghị
ban chấp hành đảng bộ; xem xét các báo cáo định kỳ hàng năm và bất thường
của uỷ ban kiểm tra huyện, thị, thành uỷ.
- Quyết định về tổ chức hệ thống chính trị; về chủ trương thành lập, sáp
nhập, chia tách, đổi tên, giải thể các cơ quan, đơn vị của huyện, thị, thành phố
theo chủ trương của Trung ương Đảng, Chính phủ; cho ý kiến về điều chỉnh
địa giới hành chính xã, thị trấn.
- Quyết định giới thiệu nhân sự ứng cử, đề cử hoặc rút khỏi các chức
danh chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch uỷ ban nhân dân huyện.
- Quyết định việc xin rút khỏi ban chấp hành đảng bộ huyện, thị, thành
phố và các chức danh do ban chấp hành đảng bộ huyện, thị, thành phố bầu ra.


21

- Quyết định kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng theo quy định
của Điều lệ Đảng.
- Kết luận một số vấn đề có ý nghĩa chính trị quan trọng về lịch sử đảng
bộ huyện, thị, thành phố.
- Chuẩn bị và triệu tập đại hội đảng bộ; thảo luận và thơng qua các
văn kiện trình đại hội; giới thiệu với đại hội nhân sự ứng cử, đề cử bầu cử
vào ban chấp hành đảng bộ khoá mới và đoàn đại biểu dự đại hội đảng bộ
tỉnh; xác định phương hướng chỉ đạo đại hội các tổ chức cơ sở đảng trực
thuộc đảng bộ huyện, thị, thành.
- Xem xét cơng tác tài chính của đảng bộ.
Tình hình các ban chấp hành huyện, thị, thành phố
Đảng bộ Đồng Tháp có 12 đảng bộ huyện, thị, thành phố tương ứng với
12 huyện, thị, thành phố. Tổng số uỷ viên ban chấp hành đảng bộ huyện, thị,
thành uỷ nhiệm kỳ 2010-2015 là 522 đồng chí, trong đó nam 445 (chiếm
85,25%), nữ 77 (chiếm 14,75%).
Về cơ cấu theo các khối:
- Khối đảng, Mặt trận Tổ quốc, đồn thể: 192 đồng chí (chiếm 36,78 %);
- Khối các cơ quan nhà nước:

272 đồng chí (chiếm 52,10%);

- Khối các lực lượng vũ trang:

48 đồng chí (chiếm 9,20%);

- Khối huyện, thị, thành phố:

378 đồng chí (chiếm 72,41%);

- Khối xã, phường, thị trấn:


144 đồng chí (chiếm 27,59%).

Về độ tuổi: từ 36 đến 45 tuổi là 216 đồng chí (chiếm 41,38%); từ 46 đến
55 tuổi là 299 đồng chí (chiếm 57,28%); từ 56 tuổi trở lên là 07 đồng chí
(chiếm 1,34%).
Về trình độ học vấn: 100% tốt nghiệp phổ thơng trung học và tương đương.
Về trình độ chun mơn nghiệp vụ: 100% có trình độ từ trung cấp trở
lên; trong đó, trung cấp 56 đồng chí (chiếm 10,73%); cao đẳng, đại học 442
đồng chí (chiếm 84,67%); thạc sĩ, tiến sĩ 24 đồng chí (chiếm 4,60%).


22
Về trình độ lý luận chính trị: 100% có trình độ từ trung cấp trở lên;
trong đó, trung cấp 71 đồng chí (chiếm 0,19%); cao cấp, cử nhân 451 đồng
chí (chiếm 86,40%).
Các số liệu thống kê cho thấy, các uỷ viên ban chấp hành huyện, thị,
thành uỷ ở tỉnh Đồng Tháp có một số đặc điểm đáng chú ý.
Một là, cơ cấu theo từng khối tương đối hợp lý: khối các cơ quan nhà
nước có số lượng cấp uỷ viên nhiều hơn, kế đến là các cơ quan đảng, Mặt
trận, đoàn thể và lực lượng vũ trang. Số cấp uỷ viên công tác ở các cơ quan,
ban, ngành cấp huyện cũng nhiều hơn cấp xã.
Hai là, số lượng còn thiếu so với chỉ tiêu của đại hội. Theo quy định và
hướng dẫn của Trung ương, của Tỉnh uỷ Đồng Tháp, mỗi đảng bộ huyện, thị
xã, thành phố được bầu từ 43 đến 45 uỷ viên, ban thường vụ từ 11 đến 13 uỷ
viên. Như vậy, tính chung ở 12 đảng bộ huyện, thị, thành còn thiếu 18 uỷ viên
ban chấp hành. Sự thiếu hụt cấp uỷ viên ở các huyện, thị, thành do nhiều
nguyên nhân: Đại hội bầu không đủ số lượng; một số cấp uỷ viên được luân
chuyển công tác về các cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh,...
Ba là, số lượng cấp uỷ viên nữ chỉ là 77 người (chiếm tỷ lệ 14,75%).

Tỷ lệ cấp uỷ viên nữ nhìn chung chưa đạt theo yêu cầu cơ cấu (15%). Mặt
khác, số cấp uỷ viên nữ phân bổ không đồng đều ở các huyện, thị, thành uỷ.
Bốn là, có đủ ba độ tuổi (36-45, 46-55 và từ 56 trở lên), nhưng cơ cấu
tỷ lệ chưa cân đối. Số lượng uỷ viên trẻ chiếm tỷ lệ thấp, số lượng uỷ viên lớn
tuổi chiếm tỷ lệ cao.
Năm là, trình độ của cấp uỷ viên nhìn chung đáp ứng yêu cầu trong tình
hình hiện nay. Đa số các uỷ viên trưởng thành và tham gia công tác sau ngày
thống nhất đất nước 30-4-1975, nên có điều kiện học tập để chuẩn hố về học
vấn, chun mơn và lý luận chính trị. Tuy nhiên, vẫn cịn một số ít huyện, thị,
thành có uỷ viên lớn tuổi khơng có điều kiện chuẩn hố, nên chưa đáp ứng
tiêu chuẩn, u cầu về chun mơn, lý luận chính trị.


23
1.1.2. Các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở Đồng Tháp
1.1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của các ban tổ chức
huyện, thị, thành uỷ
Chức năng:
Ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở Đồng Tháp có các chức năng chủ yếu:
Một là, là cơ quan tham mưu cho huyện, thị, thành uỷ về công tác tổ chức
xây dựng Đảng. Ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ có vị trí, vai trị quan trọng
trong việc tham mưu, đề xuất, giúp cấp uỷ trong việc định ra chủ trương, kế
hoạch và giải pháp tổ chức thực hiện công tác tổ chức xây dựng Đảng. Do đó,
chức năng chủ yếu của các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ tham mưu cho
ban chấp hành, mà trực tiếp và thường xuyên là ban thường vụ và thường trực
huyện, thị, thành uỷ về công tác tổ chức xây dựng Đảng, bao gồm các lĩnh
vực: tổ chức, cán bộ, tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, chính sách cán bộ và bảo
vệ chính trị nội bộ của hệ thống chính trị trong huyện, thị, thành phố.
Hai là, là cơ quan chuyên môn nghiệp vụ về công tác tổ chức xây dựng
Đảng. Ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ vừa trực tiếp tiến hành các hoạt động

chuyên môn nghiệp vụ về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên, tổ chức cơ sở
đảng, chính sách cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ của huyện, thị, thành phố,
vừa là cơ quan hướng dẫn cho cơ quan, tổ chức thực hiện công tác nghiệp vụ
tổ chức xây dựng Đảng.
Nhiệm vụ:
Nhiệm vụ của các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ gồm:
- Chủ trì hoặc phối hợp nghiên cứu cụ thể hố chủ trương, đường lối,
chính sách và các giải pháp về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên, chính sách
cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ; chuẩn bị hoặc tham gia chuẩn bị các nghị
quyết, quyết định về các lĩnh vực nêu trên của cấp uỷ.


24
- Thẩm định đề án về tổ chức, bộ máy, cán bộ, đảng viên, bảo vệ chính
trị nội bộ mà cấp uỷ phân cấp cho cấp uỷ, các ngành, các cơ quan trực thuộc
trước khi trình cấp uỷ quyết định.
- Hướng dẫn, kiểm tra các ban đảng của huyện, thị, thành uỷ, các tổ
chức cơ sở đảng trực thuộc về việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định,
quyết định…của cấp trên và của cấp mình về cơng tác tổ chức, cán bộ, đảng
viên, bảo vệ chính trị nội bộ và việc thi hành Điều lệ Đảng trong toàn đảng bộ.
- Hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên, bảo vệ chính
trị nội bộ đối với các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc huyện, thị, thành uỷ.
- Phối hợp với cơ quan có liên quan hướng dẫn với các cơ quan nhà nước
của huyện, thị, thành phố trong việc thể chế hoá nghị quyết, quyết định của Đảng
về lĩnh vực tổ chức, cán bộ, cơng chức, viên chức, bảo vệ chính trị nội bộ.
- Tham mưu cho cấp uỷ về quản lý cán bộ, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại,
miễn nhiệm, luân chuyển, khen thưởng và kỷ luật cán bộ, thực hiện chế độ
chính sách đối với cán bộ thuộc diện cấp uỷ quản lý.
- Quản lý tổ chức bộ máy và biên chế các cơ quan đảng, Mặt trận và
các tổ chức chính trị - xã hội trong huyện, thị, thành phố.

- Hướng dẫn việc thực hiện phân công, phân cấp quản lý và quy trình
cơng tác cán bộ theo quy định của cấp uỷ.
- Quản lý hồ sơ cán bộ thuộc diện huyện, thị, thành uỷ, ban thường vụ
huyện, thị, thành uỷ quản lý. Hướng dẫn cấp uỷ trực thuộc quản lý nhập lưu,
khai thác hồ sơ đảng viên, giới thiệu sinh hoạt đảng.
- Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong huyện, thị, thành
phố; tổ chức làm công tác thống kê cơ bản của Đảng.
- Tổ chức thực hiện cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ theo quy định của
Trung ương.
1.1.2.2. Tổ chức bộ máy, biên chế của các ban tổ chức huyện, thị,
thành uỷ


25
Sau khi thực hiện việc rà soát chức năng, nhiệm vụ, sắp xếp tổ chức bộ
máy, tinh giản biên chế theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 lần
thứ khoá VIII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khoá X, tổ chức
bộ máy các ban tham mưu giúp việc của các huyện, thị, thành uỷ ở Đồng
Tháp gồm: ban tổ chức, ban tuyên giáo, ban dân vận, cơ quan uỷ ban kiểm
tra, văn phòng và một đơn vị sự nghiệp là trung tâm bồi dưỡng chính trị. Như
vậy, ban tổ chức là một trong năm cơ quan tham mưu cho huyện, thị, thành
uỷ, chuyên trách công tác tổ chức xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ và chính
sách cán bộ; tổ chức cơ sở đảng, đảng viện; bảo vệ chính trị nội bộ.
Cơ quan ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh Đồng Tháp về cơ bản
có cơ cấu tổ chức, bộ máy giống nhau, gồm lãnh đạo ban và các cán bộ
chuyên mơn trực tiếp làm cơng tác nghiệp vụ, khơng có các tổ chức trực
thuộc ban, nhưng có chia thành các bộ phận nghiệp vụ, như: tổ chức, cán bộ
và chính sách cán bộ; tổ chức cơ sở đảng, đảng viện; bảo vệ chính trị nội bộ;
hành chính, văn phịng.
Lãnh đạo ban gồm: Trưởng ban và 02 phó trưởng ban. Trưởng ban phụ

trách chung và công tác tổ chức cán bộ, chính sách cán bộ. Một phó trưởng
ban phụ trách tổ chức cơ sở đảng - đảng viên; hành chính văn phịng. Một phó
trưởng ban phụ trách cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ. Ở các huyện, thị, thành
phố thống nhất phân công 01 uỷ viên ban thường vụ huyện, thị, thành uỷ làm
trưởng ban, có 01 phó trưởng ban là cấp uỷ viên. Lãnh đạo ban làm việc theo
chế độ thủ trưởng, kết hợp với cơ chế tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Lãnh đạo ban trực tiếp chỉ đạo cán bộ của ban làm việc theo sự phân công
trong ban lãnh đạo. Đội ngũ cán bộ làm việc theo chế độ chuyên viên phụ
trách mảng công việc được giao.
Tổng số biên chế ở 12 ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ ở tỉnh Đồng
Tháp là 81 người, bình quân 6,75 người/ban. Song, trên thực tế, số lượng cán
bộ, công chức ở các ban tổ chức huyện, thị, thành uỷ là khơng đồng đều, có
nơi cao, nơi thấp. Cụ thể: Ban Tổ chức Thị uỷ Hồng Ngự có 06 người; Ban


×