1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công
nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, đã ảnh hưởng to lớn đến hầu
hết các lĩnh vực của đời sống con người, đồng thời cũng là một tác nhân quan
trọng trong việc hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức, xã hội tri thức.
Trên nền tảng của công nghệ thông tin hiện đại đã hình thành một loại hình
phương tiện truyền thơng mới là Internet. Sự ra đời của Internet được cho là
một cột mốc quan trọng tạo ra những biến đổi sâu sắc trong đời sống xã hội ở
phạm vi tồn cầu, xóa đi mọi khoảng cách về không gian và thời gian để biến
tồn thế giới thành một “ngơi làng tồn cầu”, biến “thế giới trịn” thành “thế
giới phẳng”. Thơng qua Internet, hàng triệu người trên thế giới không phân
biệt quốc gia, dân tộc có thể tự do trao đổi với nhau về văn hóa, tư tưởng, tình
cảm..., thực hiện những giao dịch về kinh tế, thương mại, dịch vụ... Đặc biệt
tri thức của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia được tích hợp và lưu trữ trong các
thư viện, ngân hàng dữ liệu trên Internet đã được quốc tế hóa và trở thành tài
sản của loài người. Từ đây mở ra khả năng vô tận cho mỗi cá nhân, tổ chức
trong việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thông tin đó, biến nó thành
lực lượng sản xuất trực tiếp phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội và nâng
cao chất lượng đời sống con người.
Ở Việt Nam, Đảng ta cũng đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của
công nghệ thông tin, đặc biệt là Internet trong đời sống xã hội. Đảng ta cho
rằng trong thời đại ngày nay công nghệ thông tin (CNTT) là một trong các
động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ
cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế
giới hiện đại. Do vậy, cần phải tăng cường việc ứng dụng và phát triển CNTT
ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần
của tồn dân tộc, thúc đẩy cơng cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại
hóa các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp,
2
hỗ trợ có hiệu quả cho q trình chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và tạo khả năng
đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Phát triển mạng thơng tin quốc gia phủ sóng trên cả nước với thông lượng
lớn, tốc độ v à chất lượng cao, giá rẻ; tỉ lệ người sử dụng Internet đạt mức
trung bình thế giới.
Trên cơ sở xác định mạng thông tin quốc gia là kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội quan trọng, Đảng cũng cho rằng cần đẩy mạnh đầu tư xây dựng
mạng thông tin quốc gia bao gồm hệ thống viễn thông và Internet Việt Nam.
Phát triển nhanh mạng thông tin quốc gia, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu
dài của tồn xã hội, đặc biệt sớm hình thành siêu xa lộ thông tin trong nước và
liên kết với các nước trong khu vực và quốc tế. Việc phát triển, quản lý viễn
thông và Internet nhất thiết phải phục vụ việc đẩy nhanh ứng dụng và phát
triển công nghệ thơng tin trong mọi lĩnh vực và trong tồn xã hội, đồng thời
phải có biện pháp tồn diện, đồng bộ để ngăn chặn những hành vi lợi dụng
gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Những quan điểm và chủ trương đó của Đảng đã được cụ thể hóa bằng
những văn bản của Nhà nước để đẩy mạnh việc phát triển Internet ở Việt
Nam. Nghị định số 21/1997/NĐ-CP ra đời đã tạo lập cơ sở hành lang pháp lý
tạm thời cho các hoạt động Internet Việt Nam ở thời điểm ban đầu. Nghị định
55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và khai thác sử dụng Internet tạo thêm
điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của Internet ở Việt Nam trong những
năm tiếp theo. Mười năm sau, Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung
cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet đã đánh dấu
một bước phát triển mới của Internet tại Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị định đã khuyến khích việc ứng
dụng Internet trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội để nâng cao năng
suất lao động, mở rộng các hoạt động thương mại, hỗ trợ cải cách hành chính,
tăng tiện ích xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và bảo đảm
3
an ninh, quốc phòng; đồng thời thúc đẩy việc ứng dụng Internet trong các cơ
quan Đảng, Nhà nước, trường học, bệnh viện, các cơ sở nghiên cứu và đưa
Internet đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Chính phủ ln
tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp và sử dụng
dịch vụ Internet, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, hướng
dẫn pháp luật về Internet; có biện pháp để ngăn chặn những hành vi lợi dụng
Internet gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, vi phạm đạo đức, thuần phong
mỹ tục, vi phạm các quy định của pháp luật và để bảo vệ trẻ em khỏi tác động
tiêu cực của Internet.
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Internet ngày càng được ứng
dụng rộng rãi và trở nên phổ biến đối với mọi người dân trong xã hội. Theo
kết quả nghiên cứu Net Index 2011 vừa được công bố, Internet đã vượt qua
radio (23%) và báo giấy (40%) để trở thành phương tiện thông tin được sử
dụng hàng ngày phổ biến nhất tại Việt Nam (42%). Trong đó giới trẻ độ tuổi
từ 15 đến 24 là đối tượng dùng Internet nhiều nhất [73].
Đối với thành phố Đà Nẵng, một địa phương có tốc độ phát triển kinh
tế cao của khu vực miền Trung và Tây Nguyên, lĩnh vực công nghệ thông tin,
truyền thông được quan tâm đầu tư phát triển mạnh, đảm bảo cho mọi người
dân đều có cơ hội tiếp cận với những dịch vụ cơng nghệ thơng tin và truyền
thơng chất lượng cao, trong đó có cả tầng lớp học sinh, sinh viên. Có thể nói,
học sinh, sinh viên thành phố Đà Nẵng là lớp người trẻ tuổi rất năng động,
sáng tạo, có tri thức, có khả năng nhanh chóng tiếp cận và nắm bắt những
thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại. Trong xu thế vận động và phát
triển của xã hội hiện nay, việc học sinh, sinh viên sử dụng Internet như một
phương tiện để phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu cũng như trong sinh
hoạt là rất phổ biến. Khơng thể phủ nhận những tiện ích mà Internet mang lại
cho người sử dụng, tuy nhiên những hạn chế, bất cập của nó cũng là vấn đề
đáng quan tâm. Ngồi mặt tích cực như giúp các em tiếp cận nhanh chóng các
tri thức của nhân loại để phục vụ cho việc học tập, nâng cao sự hiểu biết, tạo
4
cơ hội giải trí, đáp ứng nhu cầu giao tiếp văn hóa mới... thì những ảnh hưởng
tiêu cực của Internet đến đời sống của học sinh, sinh viên cũng bộc lộ ngày
càng rõ nét. Việc lạm dụng tiện ích giải trí trên mạng làm ảnh hưởng đến sức
khỏe, gây lãng phí thời gian và tiền của của gia đình cũng như xã hội. Việc
các em truy cập trang web đen như một thú tiêu khiển đã dẫn đến rất nhiều hệ
lụy tiêu cực trong lối sống, tiềm tàng nguy cơ nảy sinh những tệ nạn ảnh
hưởng đến trật tự an tồn xã hội; ranh giới giữa ảo hóa thơng tin với cung cấp
thông tin giả trên mạng ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường... Khi những
biểu hiện khơng lành mạnh trong mơi trường ảo được hiện thực hóa ngồi đời
thì tác hại mà nó gây ra là rất đáng lo ngại.
Xuất phát từ lý do đó tơi đã chọn đề tài: Ảnh hưởng của Internet đối với
đời sống văn hóa học sinh, sinh viên thành phố Đà Nẵng hiện nay làm luận
văn tốt nghiệp. Mục đích của đề tài là tập trung nghiên cứu về sự ảnh hưởng
của Internet đối với đời sống văn hóa của giới trẻ trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là tầng lớp học sinh, sinh viên. Trên cơ
sở phân tích, đánh giá những tác động tích cực cũng như những hạn chế của
Internet đối với đời sống văn hóa của học sinh, sinh viên, luận văn đề xuất
những giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả những mặt tích cực của Internet,
cũng như giảm thiểu những hạn chế của nó đối với thanh thiếu niên, góp phần
xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh cho thế hệ chủ nhân tương lai của đất
nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề ảnh hưởng của Internet đối với đời sống văn hóa của cộng đồng
đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong vài thập kỷ gần đây,
trong đó nổi lên một số cơng trình đáng chú ý sau:
- Năm 2004, đề tài luận văn thạc sĩ văn hóa học “Internet với đời sống
văn hóa của nhân dân thủ đơ Hà Nội” của Tạ Thị Hạnh, trường Đại học Văn
hóa Hà Nội đã tập trung nghiên cứu những ảnh hưởng của việc sử dụng
Internet đến đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của người dân Thủ đô, tập
5
trung vào bốn nhóm xã hội chính là học sinh, sinh viên, cán bộ làm công tác
nghiên cứu giảng dạy, cán bộ làm cơng tác quản lý và nhóm cán bộ công nhân
viên chức. Trên cơ sở đánh giá mức độ ảnh hưởng trên cả hai phương diện tích
cực và tiêu cực, tác giả đã đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
của việc sử dụng Internet trong đời sống văn hóa cộng đồng trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
- Năm 2006, tác giả Bùi Hoài Sơn cơng bố cơng trình “Ảnh hưởng của
Internet đối với thanh niên Hà Nội”, Nxb Khoa học xã hội. Để lý giải được
những ảnh hưởng của Internet đối với giới trẻ Hà Nội, tác giả cuốn sách đã
đưa ra một số quan điểm lý thuyết khác nhau như: Lý thuyết về mối quan hệ
giữa bối cảnh xã hội và việc sử dụng Internet, Lý thuyết về vốn xã hội và việc
sử dụng Internet, Lý thuyết về sự bắt chước, Quan điểm về sự khác biệt trong
sử dụng Internet. Trên cơ sở khảo sát thực trạng sử dụng Internet của thanh
niên Thủ đơ, tác giả đã phân tích các khía cạnh tích cực và tiêu cực, những lợi
ích và tác hại của việc sử dụng Internet, rút ra kết luận về những thay đổi văn
hóa - xã hội do Internet mang lại và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng Internet trong giới trẻ.
- Cùng thời điểm này, bài viết “Internet và định hướng giá trị của sinh
viên về tình dục trước hơn nhân” của tác giả Nguyễn Quý Thanh trên Tạp chí
Xã hội học, số 2/2006 đã đề cập đến mức độ ảnh hưởng của Internet đến định
hướng giá trị về đạo đức của sinh viên, mà cụ thể là những quan điểm của họ
về “tự do tình dục”, về “tình dục trước hơn nhân”. Qua việc xử lý các số liệu
khảo sát, tác giả nhận thấy có sự liên quan giữa tần suất truy cập Internet với
xu hướng chấp nhận quan hệ tình dục trước hôn nhân của một bộ phận giới trẻ
hiện nay. Điều này đặt ra vấn đề là cần phải có biện pháp giáo dục, hướng dẫn
để sinh viên sử dụng Internet một cách có trách nhiệm, phù hợp với các chuẩn
mực xã hội và giá trị đạo đức truyền thống.
- Năm 2010, luận văn cử nhân xã hội học “Tìm hiểu nhu cầu sử dụng
Internet của sinh viên hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Tuyết, Trường đại
6
học Bình Dương đã khảo sát nhu cầu sử dụng Internet và thực trạng sử dụng
Internet để đáp ứng các nhu cầu về học tập, giải trí, tìm việc làm của sinh viên
trong nhà trường; đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực của Internet
đối với đời sống, học tập của sinh viên, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
và khuyến nghị.
- Gần đây nhất, năm 2011, cơng trình “Ảnh hưởng của mạng xã hội trên
Internet đối với đời sống văn hóa sinh viên thủ đô Hà Nội” của tác giả Vương
Văn Bằng được công bố. Trong cơng trình này, tác giả đã đề cập đến thực
trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên trên địa bàn Thủ đôi với những đặc
điểm về tần suất và thời gian sử dụng, mục đích sử dụng, những khó khăn khi
sử dụng. Tác giả cũng nêu lên thực trạng những thay đổi văn hóa xã hội trong
đời sống của sinh viên dưới tác động của mạng xã hội, bao gồm những thay
đổi trong văn hóa đọc, văn hóa viết, sự thay đổi phương thức giải trí, thay đổi
một số giá trị xã hội; đánh giá những tác động tích cực và những mặt hạn chế
của việc sử dụng mạng xã hội trong sinh viên Thủ đô. Trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc sử dụng mạng xã hội trong
giới sinh viên Hà Nội hiện nay.
Ngồi ra cịn có một số cơng trình khác có liên quan như: “Những
thách thức của sự phát triển trong xã hội thông tin” Viện Thông tin khoa học
xã hội (2000); “Phương tiện truyền thông mới và những thay đổi văn hóa xã
hội ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội (2008); “Nghiên cứu về việc sử dụng
Internet trong trẻ em” của Nguyễn Thị Minh Phương - Đề tài Viện xã hội
học; Văn hóa nghe nhìn và giới trẻ, Đỗ Nam Liên chủ biên Nxb Khoa học xã
hội (2005); Báo cáo chuyên đề: Thanh thiếu niên Việt Nam với việc tiếp cận
và sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng của Ngân hàng phát triển
châu Á, Tổng cục Dân số - KHHGĐ, Quỹ dân số Liên hiệp quốc (2010)…
Các cơng trình nghiên cứu trên bước đầu đã nêu lên được vai trò của
Internet trong đời sống xã hội, những ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa
của cộng đồng, bao gồm cả thanh niên, học sinh sinh viên trong những không
7
gian cụ thể; đánh giá mức độ của những ảnh hưởng đó và đề xuất các giải
pháp nhằm phát huy tính tích cực cũng như hạn chế những tiêu cực của loại
hình phương tiện truyền thơng này đối với cộng đồng, đặc biệt là giới trẻ. Tuy
nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách chun sâu
và có hệ thống về ảnh hưởng của Internet đối với đời sống văn hóa của học
sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích: Luận văn khảo sát, đánh giá thực trạng sử dụng Internet
và những ảnh hưởng của Internet đến đời sống văn hóa của học sinh, sinh viên
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của việc sử dụng Internet trong học sinh, sinh viên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn
tập trung vào các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Nghiên cứu xác định khái niệm Internet, khái niệm đời sống văn hóa;
Nêu lên những đặc trưng của Internet, lịch sử hình thành phát triển của
Internet trên thế giới và ở Việt Nam cũng như vai trò của Internet trong đời
sống xã hội hiện đại.
- Giới thiệu tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng và sự phát
triển của mạng Internet thành phố Đà Nẵng; đặc điểm của học sinh, sinh viên
thành phố Đà Nẵng.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng sử dụng Internet và những ảnh hưởng của
Internet đối với đời sống văn hóa của học sinh, sinh viên thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử
dụng Internet trong giới trẻ thành phố Đà Nẵng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung khảo sát thực trạng sử dụng Internet và những ảnh
hưởng của Internet đến đời sống văn hóa của học sinh, sinh viên thành phố Đà
Nẵng từ năm 2009 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
8
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn vận dụng các quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam, các chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát
triển cơng nghệ thơng tin, truyền thơng. Ngồi ra, luận văn cịn kế thừa một
cách chọn lọc các cơng trình khoa học của các tác giả đi trước về vấn đề này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử như là cơ sở phương pháp luận
của toàn bộ quá trình nghiên cứu. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như:
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu Anket: Xây dựng bảng mẫu và tổ
chức điều tra xã hội học với 300 phiếu cho các học sinh, sinh viên một số
trường đại học và phổ thông trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Số phiếu thu về
là 298 phiếu, đạt tỉ lệ 99%.
+ Phương pháp phỏng vấn sâu: Trao đổi trực tiếp với 14 học sinh phổ
thông, 12 sinh viên đại học, 2 giáo viên, 1 chuyên gia tâm lý, 1 chuyên gia
trong lĩnh vực truyền thông trên địa bàn thành phố Đà Nẵng về những ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực của Internet đến hoạt động học tập và các sinh hoạt
khác của học sinh, sinh viên.
+ Phương pháp quan sát - tham dự: Được thực hiện ở một số địa điểm
cung cấp dịch vụ Internet trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
+ Phương pháp thống kê: Thống kê các số liệu từ điều tra xã hội học của
tác giả luận văn cũng như từ các nguồn khác.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích, tổng hợp các số liệu trên
phiếu điều tra thu được để thấy được thực trạng việc sử dụng Internet cũng
như những ảnh hưởng của nó đến học sinh, sinh viên.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ quan niệm về Internet, sự ra đời và xâm
nhập của Internet vào đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của Việt Nam, trong
đó có thành phố Đà Nẵng.
9
- Luận văn làm rõ thực trạng sử dụng Internet và những ảnh hưởng tích
cực cũng như tiêu cực của Internet đến đời sống văn hóa của học sinh, sinh
viên thành phố Đà Nẵng.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả việc sử dụng Internet đối với học sinh, sinh viên thành phố Đà Nẵng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Góp phần làm rõ vai trị của Internet trong đời sống văn
hóa của giới trẻ thành phố Đà Nẵng.
- Về mặt thực tiễn: Đánh giá một cách khách quan thực trạng sử dụng và
những ảnh hưởng của Internet đối với học sinh, sinh viên, đưa ra những giải
pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng Internet nhằm khai
thác một cách cao nhất những mặt tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất
những tiêu cực của Internet đối với giới trẻ.
Kết quả đạt được trong luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan giáo dục đào tạo, các bậc phụ
huynh cũng như các tổ chức đoàn thể xã hội thành phố Đà Nẵng trong việc tổ
chức, quản lý Internet và việc sử dụng Internet của giới trẻ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, kết cấu của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ INTERNET
VÀ VAI TRỊ CỦA INTERNET TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HĨA
1.1. INTERNET - MỘT HIỆN TƯỢNG VĂN HÓA CỦA THỜI ĐẠI
HIỆN NAY
1.1.1. Khái niệm Internet
Trao đổi thông tin là một nhu cầu không thể thiếu của con người kể từ
thuở sơ khai cho đến ngày nay và ngày càng gia tăng mạnh mẽ cùng với sự
phát triển của xã hội. Quá trình trao đổi thơng tin có thể diễn ra ở phạm vi hẹp
(giữa cá thể này với cá thể khác, giữa cá thể với cộng đồng) hoặc ở một phạm
vi rộng lớn hơn (giữa cộng đồng này với cộng đồng khác, dân tộc này với dân
tộc khác). Nhờ trao đổi thông tin, con người tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau,
trao đổi những kinh nghiệm sống và cùng liên kết, hợp tác trong các hoạt
động lao động sản xuất, chinh phục thiên nhiên, đấu tranh cải tạo và xây dựng
xã hội. Hoạt động trao đổi thông tin trong đời sống xã hội được gọi là truyền
thông. Truyền thông do vậy được quan niệm “… là sự trao đổi thông điệp
giữa các thành viên hay các nhóm người trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu
biết lẫn nhau” [40, tr.18].
Căn cứ vào phạm vi tác động, mức độ ảnh hưởng, hiệu ứng lan truyền
mà truyền thơng được phân thành ba loại hình chính: truyền thơng đại chúng,
truyền thơng nhóm và truyền thơng cá nhân với những nội dung và hình thức
khác nhau. Trong đó, truyền thơng đại chúng là cách thức truyền đạt thông tin
cập nhật thông qua các phương tiện kỹ thuật (như Báo chí, Phát thanh -Truyền
hình, Internet...) đến đại bộ phận cơng chúng nhằm mục đích củng cố, thay
đổi hoặc định hướng nhận thức, quan điểm, hành vi của họ đối với các vấn đề
khác nhau trong xã hội.
Từ góc độ tiếp cận đó, Internet được xem là một loại hình phương tiện
truyền thơng đại chúng mới, là sản phẩm của cuộc cách mạng khoa học và
11
công nghệ hiện đại trên lĩnh vực truyền thông vào những thập niên cuối thế kỷ
XX. Sự ra đời của những chiếc máy tính cá nhân những năm đầu thập niên
1980 và sự thành công trong việc kết nối mạng Internet vào thập niên 1990
được coi là một trong những phát minh vĩ đại nhất của loài người từ trước đến
nay, mở ra kỷ nguyên bùng nổ truyền thông và thơng tin tồn cầu.
Trong tác phẩm “Internet and life” các tác giả cho rằng: “Internet là
một môi trường truyền thông mới với ý nghĩa là sự kết nối của các máy tính
đầu cuối, bao gồm cả máy tính cá nhân, của hộ gia đình, của các cơ quan, tổ
chức...” [25, tr.35].
Tương đồng với quan điểm trên, nhóm tác giả cuốn sách “Kỷ ngun
thơng tin” cũng nhìn nhận: “Internet là mạng của các mạng. Nó là một tập
hợp các kết nối tồn cầu các máy tính mà ở đó có thể trao đổi dữ liệu, tin tức
và ý tưởng” [26, tr.21].
Theo Từ điển bách khoa toàn thư mở wikipedia:
Internet là một hệ thống thơng tin tồn cầu có thể được truy nhập
cơng cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau và truyền
thơng tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa
trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (giao thức IP). Hệ
thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các
doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của
người dùng cá nhân, và các chính phủ trên tồn cầu. Các cách thức
thơng thường để truy cập Internet là quay số, băng rộng, không dây,
vệ tinh và qua điện thoại cầm tay [75].
Từ đặc điểm của loại hình công nghệ đặc biệt này, trong cuốn “Internet”,
tác giả Nguyễn Đình Hiến đã xác lập một cách nhìn tổng quát:
- Internet là hệ thống thơng tin tồn cầu được nối với nhau hợp lý
bằng một không gian địa chỉ độc đáo dựa trên giao thức mạng (IP);
- Có thể tạo điều kiện cho các máy tính giao tiếp với nhau thơng
qua bộ giao thức (TCP/IP); cơng khai hoặc bí mật cung cấp, cho
12
phép sử dụng, cho phép truy cập các dịch vụ cao cấp được xếp trên
các mục giao tiếp và cơ sở liên quan;
- Khơng thể có được sơ đồ cụ thể của mạng Internet vì các máy tính
và các mạng máy tính liên tục được đăng ký thêm vào mạng Internet
cũng như các thông tin trên mạng liên tục thay đổi, cập nhật;
- Internet mang đến cho bạn hạ tầng kỹ thuật để giao dịch (online);
Internet là cấu trúc kỹ thuật giúp cho mọi người trên thế giới thu lợi
khi thâm nhập vào liên mạng toàn cầu [23, tr.26].
Từ các quan niệm nêu trên, có thể xác định một cách hiểu chung nhất:
Internet là một hệ thống toàn cầu của các mạng máy tính được kết nối, sử
dụng giao thức TCP/IP (Transmission Control Protocol/Internet Protocol) để
trao đổi thông tin và liên lạc nhằm cung cấp các dịch vụ và ứng dụng khác
nhau cho người sử dụng.
Thuật ngữ Internet khi viết hoa chữ cái đầu tiên được dùng để chỉ tập
hợp các mạng và các cổng nối (Gateway) trên toàn cầu, sử dụng bộ giao thức
TCP/IP. Đây chính là nghĩa được sử dụng nhiều nhất. Cịn từ internet (khơng
viết hoa chữ cái đầu) là từ viết tắt của từ internetwork (liên mạng), chỉ một tập
hợp các mạng máy tính bất kỳ, có thể khác nhau và được nối với nhau thơng
qua các cổng nối. Trên thế giới có nhiều “internet” nhưng chỉ có duy nhất một
Internet trên phạm vi tồn cầu.
1.1.2. Đặc trưng của Internet
Là một loại hình phương tiện truyền thơng đại chúng mới, ngồi những
thuộc tính chung của truyền thơng đại chúng (như tính chất đại chúng, tính
gián tiếp, tính tập thể), Internet cịn có những đặc trưng riêng như sau:
- Tính đa phương tiện
Thực tế cho thấy sự phát triển của truyền thông đại chúng luôn gắn liền
với sự phát triển của các phương tiện truyền thông. Không có sự phát triển đa
dạng của các phương tiện truyền thơng thì khơng thể có sự phát triển của
truyền thơng. Trong thời đại ngày nay, sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ
13
của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thơng tin, đã tác động sâu sắc
đến truyền thơng nói chung và các phương tiện truyền thơng nói riêng. Chính
nhờ sự biến đổi và phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông mà hệ
thống truyền thông ngày nay cịn được gọi là “hệ thống truyền thơng đa phương
tiện”. Tính chất “đa phương tiện” đã trở thành một đặc trưng cơ bản của truyền
thông hiện đại trong bối cảnh tồn cầu hóa, và được thể hiện một cách rõ nét
trong loại hình phương tiện truyền thơng Internet [29, tr.37].
Internet, song song với việc truyền tải thơng tin, cịn tạo ra những hiệu
ứng đặc biệt để truyền dẫn hình ảnh (bao gồm cả tĩnh và động), âm thanh một
cách sinh động, rõ nét. Đây là chức năng chuyên biệt mà các phương tiện truyền
thơng khác chưa có khả năng tích hợp được. Nó như là một sự tổng hợp, tích
hợp các tính năng của cả báo chí, phát thanh, truyền hình... Để làm được điều đó,
Internet có sự tập hợp của hơn 100 giao thức được sử dụng để kết nối máy tính
vào mạng, trong đó có hai giao thức chính là giao thức điều khiển truyền dẫn TCP
và giao thức IP. Bên cạnh đó cịn có sự đóng góp của World Wide Web (một phần
quan trọng của mạng Internet mà người ta vẫn thường gọi tắt là Web) - đây là
phần chủ yếu nhất của mạng Internet tuy nhiên không phải là mạng Internet.
Web được coi là một tập hợp các tài liệu liên kết với nhau bằng các
siêu liên kết (hyperlink) và các địa chỉ URL, là môi trường giao tiếp chính của
người sử dụng trên Internet. Nó cung cấp khả năng truy cập dễ dàng nguồn tài
nguyên đa dạng từ văn bản, hình ảnh, âm thanh và thậm chí cả video... nghĩa
là gần như tồn bộ những gì mà con người có thể nghe và nhìn thấy được từ
màn hình vi tính. Do vậy Web đơi khi còn được gọi là đa phương tiện của
mạng Internet. Điều đặc biệt nữa của Web là ở chỗ: các trang Web mà ta nhìn
thấy trên màn hình máy tính có khả năng liên kết với những trang Web khác,
dẫn người dùng đến những nguồn thông tin khác nhau. Khả năng này có được
là nhờ thơng qua các “siêu liên kết” (hyperlink). Về bản chất đây là chức năng
chỉ dẫn tới nguồn thơng tin (trang Web) nằm đâu đó trên mạng Internet. Bằng
những siêu liên kết này, các trang Web có thể liên kết với nhau thành một
14
mạng chằng chịt, trang này chỉ dẫn và kết nối tới trang khác, cho phép người
sử dụng tiếp cận đến xa lộ thơng tin mênh mơng của nhân loại.
- Tính tương tác đa chiều
Trong những nỗ lực để tiếp cận với đông đảo công chúng, ở các giai
đoạn trước đây, truyền thơng đại chúng đã tìm ra các phương thức để tiếp cận
với người nhận thơng tin thơng qua hình thức mở các chuyên mục như: “Ý
kiến độc giả”, “Hộp thư bạn đọc”, “Ý kiến bạn nghe đài”, “Ý kiến bạn xem
truyền hình”... Tuy nhiên về bản chất, đây vẫn là phương thức truyền thơng
đơn chiều, trong đó các thơng điệp truyền thông sau khi được biên tập, sản
xuất bởi các tổ chức, công ty truyền thông sẽ được truyền dẫn tới cơng chúng,
cũng giống như q trình sản xuất và cung ứng sản phẩm cho người tiêu
dùng. Điều này thể hiện rõ nét tính đơn chiều của mơ hình truyền thông
truyền thống, đơn thuần chỉ tồn tại một chủ thể truyền thông duy nhất - những
người sản xuất các thông điệp truyền thông, và một khách thể truyền thông
duy nhất - những người tiếp nhận thông tin.
Ngày nay mô hình này đã có những sự thay đổi theo một chiều hướng
khác hẳn. Sự ra đời của Internet - với tư cách là một loại hình phương tiện
truyền thơng mới - đã góp phần tạo ra một q trình tương tác thông tin mà
các nhà xã hội học gọi là “một không gian truyền thông đa chiều”. Xu thế
phát triển của xã hội hiện đại ngày nay là tiến tới xây dựng xã hội công dân,
xã hội dân sự, trong đó mỗi thành viên của cộng đồng cho dù có khác nhau về
vị thế xã hội vẫn được nói lên tiếng nói của mình, đóng góp ý kiến của mình
vào những vấn đề chung trong xã hội mà họ đang sống. Trong bối cảnh đó, sự
phát triển của truyền thơng từ đơn chiều sang đa chiều là một sự vận động
hợp quy luật. Trong không gian truyền thông đa chiều, từ những nhà lãnh đạo
cao nhất đến những công dân bình dị nhất đều có thể được tiếp nhận, xử lý và
chuyển phát các thông điệp truyền thông. Mỗi công dân đều có thể xử lý và
chuyển tải các nguồn thơng tin theo nhận thức riêng của mình [29, tr.52-53].
15
Trong sự vận hành của mơ hình truyền thơng đa chiều, với sự hỗ trợ
của Internet, mỗi cá nhân đều có thể đóng vai trị như một trạm tiếp nhận, xử
lý, nhận định, đánh giá và chuyển tải các thông điệp truyền thông. Các thông
điệp liên tục được phát ra, và lưu chuyển trên một mạng lưới thống nhất ở quy
mơ tồn cầu, tạo ra một sự gắn kết liên tục và đa dạng của không gian truyền
thông. Sự cách biệt giữa thông tin đại chúng với thông tin cá nhân, giữa thơng
tin chính thống với thơng tin dư luận, giữa những nhà truyền thông chuyên
nghiệp và những người làm truyền thông “nghiệp dư”, giữa người gửi và
người nhận thông điệp là khơng đáng kể và hầu như rất khó để phân định ranh
giới. Nhà nghiên cứu Serge Soudoplatoff (năm 2004) đã nhận định: Internet
đã phá vỡ trật tự của các mơ hình truyền thơng trước đây dựa trên thứ bậc
đẳng cấp. Logic cơ bản của Internet là sự chia sẻ quyền lực về thơng tin giữa
những tác nhân tích cực và ngang hàng thay cho một trung tâm phát sóng với
những khán giả thụ động như những khối “đại chúng” [29 tr.41].
Như vậy có thể nói, Internet dựa trên những thành tựu của khoa học
công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin đã tạo nên được một ưu
thế vượt trội so với các loại hình phương tiện truyền thơng khác. Nó là một
phương tiện truyền thơng có tính tích hợp cao nhất (khơng chỉ có khả năng
chuyển tải văn bản như báo in, mà cịn có thể truyền tải được cả âm thanh,
hình ảnh sống động như phát thanh, truyền hình). Bên cạnh đó Internet đã góp
phần thay đổi mơ hình truyền thơng sang một hình thức mới thích ứng với sự
vận động và phát triển của đời sống xã hội. Trong không gian truyền thông đa
chiều, tính trực tuyến của Internet đã tạo điều kiện cho sự tương tác rất lớn
giữa công chúng với công chúng, giữa công chúng với cơ quan truyền thông,
giữa công chúng với các nhân vật của truyền thông... Điều này làm cho sự tác
động và ảnh hưởng của thông tin đã vượt ra khỏi biên giới của các quốc gia,
dân tộc để vươn tới phạm vi toàn cầu.
1.2. INTERNET - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ QUÁ TRÌNH
DU NHẬP VÀO VIỆT NAM
16
1.2.1. Sự ra đời và phát triển của Internet trên thế giới
Mốc thời gian đánh dấu sự ra đời của Internet là năm 1969 với dự án
mạng ARPANET của Bộ quốc phịng Mỹ, với mục đích tạo ra một mạng lưới
thông tin liên kết các trung tâm nghiên cứu quân sự lớn của Mỹ nhằm dự báo
kịp thời các cuộc tấn cơng qn sự từ bên ngồi cũng như bảo vệ an toàn cho
các dữ liệu quan trọng trong trường hợp xảy ra chiến tranh hạt nhân. Để đáp
ứng mục đích ấy Internet được xây dựng theo một cấu trúc đặc biệt: đó là cấu
hình mạng nhện để đề phịng trường hợp khi một đường liên lạc bị cắt đứt thì
việc truyền tin tức và dữ liệu vẫn có thể thực hiện thông suốt. Để thực hiện
được điều này người ta đã thiết kế hệ thống các cửa, cổng (gate, way) và các
kênh truyền dẫn, các máy chủ vẫn nối mạng được với nhau nhờ các mạng
điện thoại và các kênh chun dụng đặc biệt.
Qua q trình tìm tịi và thử nghiệm, đến năm 1972 Internet mới chỉ kết
nối khoảng khoảng 40 máy tính của các cơ quan, viện nghiên cứu thuộc Bộ
quốc phòng và một số trường đại học của Mỹ. Đây cũng là thời kỳ cục diện
quan hệ quốc tế có những chuyển biến sâu sắc, cuộc chiến tranh lạnh giữa hai
siêu cường có xu hướng hịa dịu dần. Trong xu thế đó mạng máy tính qn sự
ARPANET được chuyển dần thành mạng truyền thông dân sự. Vào năm 1981
số máy tính được nối mạng tăng lên 213 chiếc và đây cũng là năm đánh dấu
sự ra đời của Internet như một minh chứng về sự bắt đầu của một thời kỳ mới.
Năm 1983, Quỹ khoa học quốc gia Mỹ (NSF) thực hiện tài trợ cho dự
án mạng máy tính của hơn 60 trường đại học của Mỹ và 3 trường của Châu
Âu. Sau hai năm triển khai thực hiện, dự án đã thu được kết quả khả quan,
mạng máy tính NSF đi vào hoạt động và nhập với Internet làm cho hoạt động
trên mạng chung trở nên phổ biến và nhộn nhịp hơn. Tốc độ truyền dẫn dữ
liệu đạt tới hơn 2 triệu bit/giây.
Năm 1989, mạng Châu Âu (Eunet) và mạng Ôtxtrâylia (AUSSIBnet)
được nối với NFSnet. Nhiều doanh nghiệp trên thế giới đã bắt đầu nối mạng
với Internet. Số máy tính tham gia mạng chung đã lên đến 159.000 chiếc.
17
Đến năm 1993, trên tồn thế giới đã có 15 nước tham gia nối mạng
Internet với tổng số máy tính lên đến 2 triệu chiếc. Tốc độ truyền dữ liệu đã
được nâng lên 622 triệu bit/giây. Những hình ảnh video đầu tiên được truyền
đi trên Internet vào năm 1994. Đến giữa năm 1999, Internet đã trở thành một
siêu mạng toàn cầu với 56.218.000 máy tính được kết nối [40, tr.209].
Đánh giá sự phát triển nhanh chóng của Internet trên thế giới, các tác
giả của cuốn sách “Kỷ nguyên thông tin” đã nhận định: Internet trở thành hệ
thống trung gian tăng trưởng nhanh nhất. Chỉ trong vòng 4 năm số lượng
người sử dụng Internet đã đạt tới con số 50 triệu. Ngược lại radio phải mất 38
năm, vô tuyến mất 13 năm... để đạt tới mốc lịch sử tương tự [26, tr.21].
Tính đến năm 2011, số người dùng Internet trên tồn cầu đã tăng từ con
số khiêm tốn 360 triệu người vào cuối năm 2000 lên con số 2,1 tỷ người, tức
chiếm gần 1/3 dân số thế giới. Châu Á chiếm số đông với 922 triệu người sử
dụng (riêng Trung Quốc đã là 485 triệu người), châu Âu đứng thứ hai với 475
triệu người và Bắc Mỹ xếp thứ ba với 271 triệu người [72].
1.2.2. Quá trình du nhập của Internet vào Việt Nam
Vào thời điểm năm 1997, mạng viễn thông của Việt Nam tuy dung
lượng cịn nhỏ nhưng cơng nghệ đã tương đương một số nước trong khu vực.
Đây là giai đoạn đất nước đang trên đà đổi mới mạnh mẽ, Việt Nam đã tham
gia vào nhiều tổ chức trong khu vực và thế giới như ASEM. Trong thời điểm
đó, các thành viên ASEM đang hướng tới một ASEM điện tử (e-ASEM),
nhưng ở Việt Nam vẫn chưa có Internet. Đây cũng là một trong những yếu tố
khách quan thúc đẩy việc sớm đưa Internet vào Việt Nam.
Nhận thức được lợi ích thiết yếu của Internet đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương
phát triển, mở rộng việc cung cấp và sử dụng Internet đi đôi với việc tăng
cường các biện pháp quản lý. Ban chỉ đạo quốc gia về Internet được thành lập
theo quyết định số 136/TTg của Thủ tướng Chính phủ (với thành phần bao
gồm các Bộ, ngành liên có quan như: Tổng cục Bưu điện, Bộ Khoa học công
18
nghệ, Bộ Văn hóa - Thơng tin, Bộ Cơng an...) nhằm xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật, các nghị định, thông tư, các quy định, quy chế về chất
lượng dịch vụ, giá cước... để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc phát
triển Internet ở Việt Nam. Văn bản pháp lý đầu tiên về quản lý dịch vụ
Internet là Nghị định 21 được ban hành tháng 3/1997 chuẩn bị cho việc chính
thức mở Internet Việt Nam sau đó vào tháng 11.
Thời điểm đáng ghi nhớ của ngành Bưu chính Viễn thơng Việt Nam là
ngày 19/11/1997 - ngày đầu tiên Việt Nam hịa vào mạng Internet tồn cầu.
Ngun thứ thưởng Bộ Bưu chính Viễn thơng Mai Liêm Trực đã nhận định: Nếu
như các dịch vụ viễn thông của Việt Nam mở ra chậm hơn thế giới khoảng 40-50
năm, dịch vụ điện thoại di động chậm hơn thế giới khoảng 15-20 năm thì
Internet vào Việt Nam chậm hơn so với khởi đầu của thế giới chỉ chừng 7-8 năm.
Còn so với một số quốc gia trong khu vực thì chỉ chậm vài ba năm [71].
Nghị định số 21/1997/NĐ-CP ra đời đã tạo lập cơ sở hành lang pháp lý
tạm thời cho các hoạt động Internet Việt Nam ở thời điểm hiện tại. Tháng
11/1997 một doanh nghiệp cung cấp hệ thống đường trục kết nối trong nước
và quốc tế là Tổng cơng ty Bưu chính Viễn thơng Việt Nam (VNPT) cùng 4
nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) là VNPT, Công ty Đầu tư phát triển công
nghệ (FPT), Công ty cổ phần Dịnh vụ bưu chính, viễn thơng Sài gịn (SPT),
Công ty Netnam - (Viện công nghệ thông tin) được cấp phép và bắt đầu cung
cấp dịch vụ Internet ra thị trường. Sau 3 năm phát triển, mạng lưới hạ tầng mạng
đã kết nối đến 61/61 tỉnh thành. Trên toàn quốc, người dân đều có thể truy nhập
Internet qua mạng điện thoại công cộng tại địa phương. Trong thời kỳ này, các
dịch vụ cung cấp cho người tiêu dùng chủ yếu là dịch vụ kết nối Internet.
Ngày 17/10/2000 Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 58-CT/TW về đẩy
mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố. Nội dung chỉ thị nhấn mạnh: Công nghệ thông tin là một trong các
động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ
cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế
19
giới hiện đại. Ứng dụng và phát triển công nghệ thơng tin ở nước ta nhằm góp
phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của tồn dân tộc, thúc
đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế,
tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho
quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để
thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Về vấn đề phát
triển Internet, Chỉ thị 58 cũng nêu rõ:
- Đẩy mạnh đầu tư xây dựng mạng thông tin quốc gia bao gồm hệ thống
viễn thông và Internet Việt Nam. Phát triển nhanh mạng thông tin quốc gia, đáp
ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài của toàn xã hội, đặc biệt sớm hình thành siêu
xa lộ thơng tin trong nước và liên kết với các nước trong khu vực và quốc tế.
- Phát triển, quản lý viễn thông và Internet nhất thiết phải phục vụ việc
đẩy nhanh ứng dụng và phát triển cơng nghệ thơng tin trong mọi lĩnh vực và
trong tồn xã hội, đồng thời phải có biện pháp tồn diện, đồng bộ để ngăn
chặn những hành vi lợi dụng gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và việc giữ
gìn bản sắc văn hố dân tộc.
- Có chính sách đảm bảo thúc đẩy môi trường cạnh tranh, tạo điều kiện
cho mọi thành phần kinh tế tham gia các hoạt động dịch vụ viễn thông và
Internet. Từ năm 2001, đảm bảo cung cấp đầy đủ và thuận lợi các dịch vụ
viễn thông và Internet cho người sử dụng với tốc độ và chất lượng cao, giá
cước thấp hơn hoặc tương đương so với các nước trong khu vực; áp dụng giá
cước ưu đãi đặc biệt đối với các cơ quan Đảng, Nhà nước và các lĩnh vực giáo
dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Tiếp theo đó, ngày 23/8/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định
55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng Internet. Nghị định 55 ra đời
đã tạo ra một bước phát triển mới cho Internet ở Việt Nam trên cơ sở điều
chỉnh việc quản lý cung cấp và sử dụng dịch vụ phù hợp với tình hình phát
triển của Internet trên thực tiễn. Sau hai năm ban hành Nghị định, thị trường
20
Internet Việt Nam đã trở nên sôi động với nhiều nhà cung cấp và nhiều loại
hình dịch vụ Internet. Việc cho phép mở rộng thành phần các doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ Internet đã tạo ra động lực cạnh tranh, buộc các doanh
nghiệp phải năng động hơn trong cuộc chạy đua chiếm lĩnh thị trường. Bên
cạnh đó, Nghị định cũng mở đường cho thời kỳ xã hội hóa dịch vụ Internet
một cách sâu rộng, thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia (điển hình là sự
phát triển của hàng ngàn đại lý Internet). Đây là một trong những điều kiện
góp phần làm tăng số lượng người sử dụng Internet từ 300.000 ngàn người
năm 2000 lên hơn 1 triệu người vài năm sau đó, tạo nhiều cơng ăn, việc làm
cho một bộ phận dân cư. Ngoài ra, Nghị định 55 còn là tiền đề thúc đẩy việc
ứng dụng Internet trong hệ thống các cơ quan, ban ngành của Đảng, Chính
phủ và các đoàn thể từ Trung ương đến địa phương. Đây được coi là tiền đề
quan trọng để triển khai việc thực hiện Chính phủ điện tử trong tương lai.
Kể từ năm 2000, số người sử dụng Internet tăng trưởng mạnh qua từng
năm: năm 2001 số người sử dụng là 1.009.544 người, đến năm 2007 đã tăng
lên 18.551.409 người (trong đó có 20.000 th bao băng thơng rộng ở 26 tỉnh,
thành phố) [67].
Ngày 28/8/2008 Chính phủ đã ra Nghị định số 97/2008/NĐ-CP Về quản
lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet. Sau
3 năm triển khai Nghị định 97/2008/NĐ-CP, số doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ Internet (được cấp phép) tăng gấp 5 lần, băng thông quốc tế tăng 9 lần,
băng thông trong nước tăng 8 lần. Việt Nam là một trong hai mươi nước có số
người sử dụng Internet cao nhất thế giới. Internet Việt Nam từ một dịch vụ
cao cấp đã trở thành một dịch vụ bình dân, phổ biến trong mọi gia đình, cơng
sở, trường học; từ một dịch vụ bổ sung trở thành một dịch vụ thiết yếu trong
cuộc sống, đã làm thay đổi cuộc sống của người dân và xã hội. Internet cùng
các ứng dụng trên mạng đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, đồng
thời tạo ra một mơi trường học tập, giải trí tiện ích cho mọi người....
Số liệu thống kê của trang web Internetworldstats.com thu thập từ các cơ
quan quản lý mạng ở nhiều quốc gia cho thấy tỷ lệ tăng trưởng số lượng
21
người sử dụng internet trong giai đoạn 2000-2009 ở VN là 10.882%, cao hơn
hẳn các quốc gia cùng nhóm thị trường mới nổi như Trung Quốc (1.500%),
Indonesia (1.150%).
Biểu đồ 1.1: Tăng trưởng Internet Việt Nam tháng 7/2010
Theo thống kê của Trung tâm số liệu Internet quốc tế, Việt Nam xếp hạng
18/20 quốc gia có số người dùng Internet lớn nhất thế giới trong quý I-2012. Cụ
thể, tính tới thời điểm ngày 31/3/2012, Việt Nam có 30.858.742 người dùng
Internet, chiếm tỉ lệ 34,1% dân số Việt Nam và bằng 1,4% dân số thế giới. Cũng
theo thống kê của Trung tâm số liệu Internet quốc tế, Việt Nam có số lượng
người dùng Internet nhiều thứ 8 trong khu vực châu Á và đứng vị trí thứ 3 ở khu
vực Đơng Nam Á (sau Indonesia và Philippines). Nếu so với lượng người dùng
Internet ở Việt Nam vào trước năm 2000 chỉ ở mức 200.000 người thì sau 12
năm, số lượng người dùng Internet Việt Nam đã tăng khoảng hơn 15 lần [59].
1.3. VAI TRỊ CỦA INTERNET TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HĨA HIỆN ĐẠI
1.3.1. Khái niệm đời sống văn hóa
Trải qua q trình tiến hóa và phát triển hàng nghìn năm lịch sử, con
người sống trên trái đất ln có hai nhu cầu cơ bản là: nhu cầu vật chất và nhu
cầu tinh thần. Nhu cầu vật chất là nhằm để thỏa mãn đời sống vật chất của
22
con người như nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, thể thao, chữa bệnh... Việc thỏa
mãn nhu cầu này giúp con người tồn tại như một cá thể sống trên trái đất. Còn
nhu cầu tinh thần giúp con người tồn tại như một sinh thể xã hội, tức là một
“nhân cách văn hóa” [56, tr.93].
Để đáp ứng hai nhu cầu cơ bản của cuộc sống, con người không thể
trông chờ, phó mặc vào tự nhiên mà bắt buộc phải hoạt động cải tạo và chinh
phục (bằng cả lao động tay chân và lao động trí óc) với những phương thức
khác nhau, ở những trình độ khác nhau. Tồn bộ những hoạt động sống đó tạo
thành đời sống xã hội, trong đó đời sống văn hóa là một bộ phận cấu thành.
Khi con người phát triển đến một trình độ nhất định, đời sống xã hội lại
xuất hiện một nhu cầu mới: đó là nhu cầu văn hóa. Nhu cầu này thể hiện khía
cạnh chất lượng của trình độ đáp ứng nhu cầu. Ví dụ: con người, từ buổi
hoang sơ biết lấy lá cây, sau này biết dệt vải để che chở thân mình khỏi những
ảnh hưởng của thiên nhiên, thời tiết. Đây chính là nhu cầu về mặt vật chất.
Tuy nhiên trải qua quá trình phát triển, con người lại xuất hiện nhu cầu mặc
thế nào cho đẹp hơn, hợp thời trang hơn. Đây chính là nhu cầu văn hóa, và nó
thuộc về đời sống văn hóa của con người.
Như vậy, có thể nói nhu cầu văn hóa là biểu hiện của nhu cầu tinh
thần, nhưng nó khơng hồn tồn đồng nhất với nhu cầu tinh thần. Chỉ có
những nhu cầu tinh thần nào hướng tới các giá trị cao cả, và sự đáp ứng các
nhu cầu này góp phần phát triển con người theo hướng nhân văn thì mới xem
là nhu cầu văn hóa. Và các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa của con
người được gọi là hoạt động văn hóa.
Hoạt động văn hóa là một bộ phận của hoạt động xã hội, dưới góc độ
kinh tế học nó được xem như là q trình sản suất (sáng tạo), bảo quản, phân
phối, và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa do quá khứ để lại và đương thời tạo
ra. Nó được phân biệt với các loại sản phẩm vật chất đồng loạt khác ở tính
độc đáo, cũng như được sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực
tiễn - lịch sử của nhân loại. Sản phẩm văn hóa bao gồm hai loại: vơ hình (sản
23
phẩm khơng có hình thể, tồn tại dưới dạng giá trị, được ghi nhận trong ký ức
xã hội) và hữu hình (sản phẩm hữu thể, tồn tại dưới dạng vật thể).
Khi nói đến sản phẩm văn hóa khơng thể khơng nói đến con người với
tư cách là chủ thể sáng tạo ra thế giới sản phẩm văn hóa. Các sản phẩm văn
hóa ấy ln được vận hành trong sự gắn kết chặt chẽ với mạng lưới hoạt động
văn hóa của xã hội để hình thành nên mơi trường văn hóa ni dưỡng và hình
thành nhân cách con người. Yếu tố cốt lõi, ngầm ẩn của mơi trường văn hóa là
những tri nhận của con người về thế giới, xã hội và chính bản thân.
Con người vừa là chủ thể sáng tạo vừa là đối tượng thụ hưởng các sản
phẩm do chính mình tạo ra. Với sự hỗ trợ của các phương tiện thơng tin đại
chúng, các sản phẩm văn hóa do xã hội tạo ra có thể đến thẳng với từng
người. Tuy nhiên, do nhu cầu xã hội cần có sự điều tiết cho phù hợp với từng
loại đối tượng, cho nên sản phẩm của văn hóa phải thơng qua các thiết chế
văn hóa - xã hội, tức là qua trạm chung chuyển để đến với công chúng. Thiết
chế văn hóa là các cơ quan văn hóa như trường học, trung tâm văn hóa, thư
viện, bảo tàng, các phương tiện truyền thơng, nhà xuất bản... có nhiệm vụ
chun chở các loại sản phẩm văn hóa đến với mọi người trong xã hội.
Điều đó cho thấy, muốn cho các sản phẩm văn hóa nảy sinh và được
vận hành trong đời sống xã hội, cần phải hội đủ ba yếu tố là: sản phẩm văn
hóa, thể chế văn hóa; các dạng hoạt động văn hóa; những con người văn hóa.
Ba yếu tố này tạo thành cấu trúc của đời sống văn hóa.
Do vậy, đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm
tổng thể những hoạt động văn hóa của con người (trong đó các hoạt động học
tập, nhận thức, khám phá sáng tạo giữ vai trò chủ đạo), những tác động qua
lại lẫn nhau giữa con người với con người, con người với tự nhiên và xã hội
để tạo ra những quan hệ có văn hóa trong cộng đồng, trực tiếp hình thành
nhân cách, và lối sống của con người, củng cố nền tảng tinh thần của đời sống
xã hội, đáp ứng những nhu cầu văn hóa của cộng đồng.
24
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, khi khảo sát, đánh giá sự tác
động, ảnh hưởng của Internet đến đời sống văn hóa của học sinh, sinh viên,
chúng tơi chỉ đề cập đến những phạm vi như sau:
- Ảnh hưởng đến học tập: Hoạt động học tập là công việc thường ngày
của học sinh, sịnh viên. Song cũng là một lĩnh vực cơ bản của hoạt động văn
hóa - hoạt động khai trí, nâng cao tri thức và học vấn.
- Ảnh hưởng đến hưởng thụ văn hóa, vui chơi giải trí nhằm giải tỏa
những căng thẳng sau q trình học tập, tạo điều kiện thư giãn, cân bằng trong
cuộc sống.
- Ảnh hưởng đến lối sống chủ yếu đề cập đến việc hình thành nếp sinh
hoạt văn hóa mới.
- Ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội nhấn mạnh đến sự hình thành và
đáp ứng nhu cầu giao tiếp văn hóa mới thơng qua mơi trường mạng.
1.3.2. Vai trị của Internet trong đời sống văn hóa hiện nay
1.3.2.1. Internet - cơng cụ phổ biến văn hóa
Theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ hệ thống giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội, mang tính
chân, thiện, mỹ, phục vụ cho sự sinh tồn và phát triển của con người và xã hội
loài người. Trước đây, các chủ thể truyền thơng thơng qua những loại hình
phương tiện truyền thơng truyền thống như sách, báo, phát thanh, truyền
hình... để thực hiện việc chuyển tải những giá trị đó đến con người, và chúng
được lưu giữ, được trao chuyền và bồi đắp từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tuy nhiên, những loại hình phương tiện truyền thơng nêu trên vẫn bộc lộ
những hạn chế, đặc biệt là những cản trở về mặt thời gian và không gian.
Trước khi Internet xuất hiện, khó ai dám tưởng tượng có thể xem ảnh
một thành phố xa xơi nào đó qua vệ tinh hay đọc tin tức báo chí ở những nơi
cách họ tới vài múi giờ, thậm chí học cách làm một món ăn mà người hướng
dẫn trực tiếp cho họ lại ở cách đó hàng nghìn cây số. Cho đến năm 1994, mọi
người vẫn quen với việc dán tem gửi thư, trực tiếp đến ngân hàng kiểm tra tài
25
khoản, đợi nhân viên giao báo đến để đọc tin tức và theo dõi tỷ số trận đấu,
gọi điện cho trung tâm dự báo khí tượng hay chờ chương trình tivi để biết tình
hình thời tiết...
Ngày nay sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông hiện
đại mà điển hình là Internet đang xóa đi mọi khoảng cách về không gian và
thời gian để biến thế giới thành một “ngơi làng tồn cầu” (như cách nói của
McLuhan - 1964) và biến “thế giới tròn” thành “thế giới phẳng” (như cách nói
của Thomas Friedman - 2005), và “nhanh nhất, xa nhất” là cụm từ mà người
ta có thể nói một cách ngắn gọn và khái quát nhất về khả năng của truyền
thông trong thời đại ngày nay. Theo thuyết tương đối của Einstein: khi tốc độ
càng nhanh thì khoảng cách càng giảm. Trong trường hợp của Internet - với
tốc độ truyền tin đa năng gần như tức thời của nó - khoảng cách của thế giới
rút lại gần như bằng không là một điều hiển nhiên. Khi khoảng cách về thời
gian và không gian được rút ngắn cũng đồng nghĩa với việc tăng năng suất,
nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần
của con người.
Internet với chức năng như một siêu kênh thơng tin tồn cầu cho phép
liên kết con người lại bằng thông tin và kết nối nguồn tri thức đã tích lũy của
nhân loại trong một mạng lưu thơng nhất quán. Hàng triệu người trên khắp
thế giới, thuộc đủ mọi quốc gia, dân tộc, qua mạng Internet có thể trao đổi,
phổ biến cho nhau những những kinh nghiệm sống, làm việc hoặc vui chơi
giải trí. Đặc biệt thơng qua mạng Internet, tri thức của từng cộng đồng, từng
quốc gia được tích lũy và lưu trữ trong các thư viện, các ngân hàng dữ liệu đã
được quốc tế hóa, trở thành tài sản của toàn thể loài người. Từ một máy tính
nối mạng ở Việt Nam, hoặc ở một nước tại châu Phi hay châu Mỹ, con người
có thể đọc được các báo nổi tiếng nhất ở châu Âu hay Nhật Bản; truy cập vào
kho dữ liệu khổng lồ của các trường đại học tại các nước phát triển. Ngược
lại, từ những trung tâm kinh tế, chính trị hàng đầu của thế giới, người ta cũng