1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
"Trẻ em hơm nay, thế giới ngày mai", "trẻ em là tương lai của đất
nước". Đối với mỗi bậc làm cha, làm mẹ, con cái là một trong các mắt xích
quan trọng tạo nên hạnh phúc gia đình, là tình yêu thương, hy vọng, là tình
cảm gần gũi, thân thương và sâu nặng nhất. Trong xã hội, trẻ em là lớp người
kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là tương lai của cả dân tộc. Vì
vậy, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em là trách nhiệm của mỗi gia đình, của
cộng đồng và tồn xã hội. Bảo vệ trẻ em là bảo vệ sự phát triển trong tương
lai của mỗi quốc gia, dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của nhân
dân Việt Nam đã nói: "Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước
nhà, thanh, thiếu niên là bộ phận quan trọng của dân tộc". Vì vậy, bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và cần thiết.
Lời mở đầu Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em cũng chỉ rõ:
"Do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc
đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra
đời". Điều 3 của Công ước về quyền trẻ em quy định: "Trong tất cả những
hành động liên quan đến trẻ em... lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan
tâm hàng đầu".
Nhận thức được tầm quan trọng trong việc bồi dưỡng và giáo dục thế
hệ trẻ trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước, trong mn vàn khó
khăn của mỗi thời kỳ và mỗi giai đoạn của cuộc cách mạng, Đảng và Nhà
nước ta luôn khẳng định: Quan tâm đến thiếu niên và nhi đồng, tức là quan
tâm đến tiền đồ và sự nghiệp cách mạng, đến tương lai của Tổ quốc.
Chính vì vậy, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự
quan tâm đặc biệt đối với thanh, thiếu niên, nhất là những người đang ở tuổi
chưa thành niên. Trong nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, chớnh sỏch, phỏp luật của
2
Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ nhiệm vụ và đảm bảo các điều kiện nhằm đào
tạo, bồi dưỡng thanh niên, thiếu niên cả về thể lực, trí lực để khi họ trưởng
thành có thể đảm đương được nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Có thể khẳng định, phần lớn thanh thiếu niên Việt Nam có lối sống
trong sạch, lành mạnh, khơng ngừng phấn đấu vươn lên trong học tập, rèn
luyện, tiếp thu những kiến thức tiên tiến, khoa học của nhân loại nhằm cống
hiến sức lực, trí tuệ của mình cho đất nước, đáp ứng được mong muốn của gia
đình và trở thành công dân tốt của xã hội. Nhiều tấm gương điển hình tiên
tiến học sinh nghèo vượt khó học giỏi vẫn từng ngày, từng giờ được nhắc đến.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau có một bộ
phận không nhỏ thanh, thiếu niên ở độ tuổi chưa thành niên không chịu học
tập, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, sống buông thả, ăn chơi, đua đòi
dẫn đến vi phạm pháp luật, mang đến nỗi đau cho gia đình, đồng thời là gánh
nặng cho tồn xã hội. Theo số liệu thống kê của TAND tỉnh Phỳ Thọ, trong 5
năm trở lại đây tình trạng NCTN phạm tội đang có xu hướng gia tăng, tính
chất mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng, làm mất trật tự, an tồn xã
hội, gây nỗi lo cho gia đình và xã hội. Vì vậy, đấu tranh phịng, chống tội
phạm do NCTN thực hiện là một bộ phận cấu thành quan trọng của sự nghiệp
chăm sóc, giáo dục và bảo vệ thế hệ trẻ, là trách nhiệm của các cấp, các
ngành, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng và của toàn xã hội.
Hiện nay, BLHS quy định về chính sách hình sự đối với NCTN
phạm tội là bước phát triển quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta;
BLTTHS quy định về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử đối với NCTN phạm
tội và xác định vai trị của Tồ án trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội
phạm do NCTN thực hiện. Tuy nhiên, do tính thiếu thống nhất của các văn
bản quy phạm pháp luật, những bất cập, tồn tại yếu kém trong quá trình đã
3
làm hạn chế vai trị của Tồ án trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm
do NCTN thực hiện.
Mặt khác, việc đấu tranh phòng, chống tội phạm của NCTN hiện nay
khơng cịn là vấn đề riêng của mỗi quốc gia mà đã trở thành vấn đề được hầu
hết các quốc gia trên thế giới dành sự quan tâm đặc biệt. Vì thế, việc nghiên
cứu đề tài "Vai trị của tồ án nhõn dõn tỉnh Phỳ Thọ trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện" trong điều
kiện hiện nay có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và tính thời sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến NCTN phạm tội và vai trò của
TAND trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm được một số nhà khoa học
và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều cơng trình
khoa học. Có một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, một số giáo trình giảng
dạy, bài viết trên tạp trí và một số sách chuyên khảo đã nghiên cứu những vấn
đề liên quan. Cụ thể như sau:
- Một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành của các tác giả:
+ Đặng Thanh Nga: "Khía cạnh tâm lý của tội phạm vị thành viên cần
được chú ý trong điều tra truy tố và xét xử", Tạp chí Tâm lý học, số 5/2002;
+ Nguyễn Đình Gấm: "Nguyên nhân tâm lý xã hội của tội phạm vị
thành niên", Tạp chí Tâm lý học số 5/2002;
+ Nguyễn Tất Viễn: "Tồ án NCTN", Tạp chí Vì trẻ thơ, số chuyên đề,
năm 2000;
+ Trương Minh Mạnh: "Phân loại tội phạm với việc quy định trách
nhiệm hình sự của NCTN", Tạp chí Kiểm sốt, số 8/2002;
+ Phạm Hồng Hải: "Vai trị của Toà án trong hệ thống cơ quan tư
pháp", Tạp chí TAND, số 1/2001.
4
+ Lý Văn Quyền: "Vai trị của Tồ án trong việc phịng ngừa tội phạm",
Tạp chí Luật học, năm 2005;
+ Minh Quân: "Thực tiễn xét xử vụ án hình sự đối với bị cáo là NCTN",
Thông tin khoa học xét xử - Viện Khoa học xét xử TAND tối cao, số 3/2006.
- Một số sách chuyên khảo và một số luận án, luận văn đề cập đến tội
phạm do NCTN thực hiện và cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm do
NCTN thực hiện nói chung:
+ Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật: "Cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền" do TSKH Lê Cảm và TS
Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên;
+ Luận văn thạc sỹ luật học của Vũ Thị Bích Hường về: " Đấu tranh
phịng chống tội phạm của NCTN tại thành phố Hồ Chí Minh", năm 1997;
+ Luận văn thạc sỹ luật học của Vũ Thị Thu Quyên về: " Hoàn thiện pháp
luật bảo đảm quyền của NCTN phạm tội ở Việt Nam hiện nay", năm 2003;
+ Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Đồng Luyện về: " Đấu tranh
phòng chống tội phạm do NCTN thực hiện trên địa bàn thành phố Hải
Phịng", năm 2007.
Các cơng trình kể trên ở những khía cạnh, góc độ nhất định đã phân
tích, luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn về đấu tranh phòng, chống tội
phạm ở độ tuổi chưa thành niên. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình
nào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ lý luận chung về nhà nước
và pháp luật về vai trò của TAND tỉnh Phỳ Thọ trong đấu tranh phòng chống
tội phạm do NCTN thực hiện
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Về mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu vai trò của TAND và các hình
thức thể hiện vai trị đó trong đấu tranh phịng, chống tội phạm, tổng kết thực
tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm do NCTN thực hiện, trên cơ sở đó đề
5
xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của TAND tỉnh Phỳ Thọ trong đấu
tranh phòng, chống các tội phạm do NCTN thực hiện.
Về nhiệm vụ:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về khái niệm NCTN phạm
tội; đấu tranh phòng, chống tội phạm do NCTN thực hiện và vai trị của Tồ
án trong đấu tranh phịng, chống tội phạm do NCTN thực hiện;
- Đánh giá thực trạng hoạt động của TAND tỉnh Phỳ Thọ trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm do NCTN thực hiện trong những năm qua chủ
yếu thông qua hoạt động xét xử án hình sự, từ đó rút ra ưu điểm, hạn chế,
vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó.
- Đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao vai trò của TAND
tỉnh Phỳ Thọ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm do NCTN thực hiện
trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về đối tượng nghiên cứu, luận văn tập trung về những vấn đề sau:
- Những vấn đề lý luận về vai trò của TAND trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm do NCTN thực hiện.
- Thực trạng vai trò của TAND tỉnh Phỳ Thọ trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm do NCTN thực hiện hiện nay.
- Những giải pháp góp phần nâng cao vai trị của Tồ án trong đấu tranh
phịng, chống tội phạm do NCTN thực hiện.
Về phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở lý luận về vai trị của Tồ án trong đấu tranh phịng, chống
tội phạm do NCTN thực hiện, luận văn đi sâu nghiên cứu thực tiễn vai trị của
Tồ án trong đấu tranh phịng, chống tội phạm do NCTN thực hiện từ năm
2007 - 2011 thông qua công tác xét xử của TAND tỉnh Phỳ Thọ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
6
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật XHCN. Nhất là quan điểm chỉ
đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư
pháp trong thời gian tới" và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020"; quan điểm của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
thanh thiếu niên về đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và đấu tranh
phịng, chống tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng.
Ngồi ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng đồng bộ các
phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý chủ yếu, như: phương pháp tổng
hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phân tích, giải thích,
phương pháp quy nạp, mơ tả, phương pháp tốn học...
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò
của TAND trong đấu tranh phòng, chống tội phạm do NCTN thực hiện.
- Phân tích thực trạng vai trò của TAND tỉnh Phỳ Thọ trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm do NCTN thực hiện và đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao vai trò của TAND tỉnh Phỳ Thọ trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm do NCTN thực hiện.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo
phục vụ yêu cầu nâng cao vai trò của TAND trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm do NCTN thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo giúp cho lãnh đạo Toà án các cấp đề ra
7
phương hướng hoạt động của Tồ án cấp mình trong việc tham gia đấu tranh
phòng, chống tội phạm do NCTN thực hiện.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
8
Chương 1
CƠ SỞ Lí LUẬN VỀ VAI TRề CỦA TỒ ÁN NHÂN DÂN
TRONG ĐẤU TRANH PHềNG, CHỐNG TỘI PHẠM DO NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN
1.1 KHÁI NIỆM, VAI TRề CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG ĐẤU TRANH
PHềNG, CHỐNG TỘI PHẠM DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN
1.1.1. Khỏi niệm người chưa thành niên và người chưa thành niên
phạm tội
Khái niệm NCTN được sử dụng rộng rói trong cỏc ngành khoa học khỏc
nhau như tâm lý học, giỏo dục học, xó hội học, luật học…Tuy nhiên, tuỳ theo
các góc độ và lĩnh vực mà khỏi niệm này cú những cỏch định nghĩa khác nhau.
Theo nhà tõm lý học G.Stanley Hall, thời kỳ chưa thành niên là thời kỳ
qúa độ trẻ em chuyển sang người lớn và là thời kỳ gắn liền với những xung
đột, xáo chộn tâm trạng, nó cũng được quan niệm đồng nghĩa với tuổi đang
lớn hoặc đang trưởng thành.
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật Việt Nam, sử dụng hai khái niệm
không đồng nhất với nhau là trẻ em và NCTN.
Thứ nhất, khái niệm trẻ em dựa vào độ tuổi. Quy định của pháp luật Việt
Nam cũng như các văn kiện quốc tế về quyền trẻ em có sự khác nhau về khái
niệm này. Tại điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em quy định rằng: “Trẻ
em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi”. Cũn tại điều 1 của Luật bảo vệ, chăm
sóc giáo dục trẻ em của Việt Nam xác định: “Trẻ em là công dân Việt Nam
dưới 16 tuổi”. Cỏc khỏi niệm phỏp lý trờn khụng nờu đặc điểm tâm lý, sinh lý
của trẻ em mà chỉ đưa ra khái niệm về độ tuổi và chính độ tuổi đó có liên
quan chặt chẽ tới các quan hệ pháp luật khác nhau. Như vậy, khái niệm trẻ em
theo luật chưa chỉ ra được đó là những người chưa trưởng thành, cũn non nớt
về thể chất và chớ tuệ, cũn bồng bột nụng nổi, dễ bị tổn thương cần được xó
9
hội chăm sóc và bảo vệ, nhất là sự bảo vệ về mặt luật pháp. Theo quy luật tự
nhiên, mọi sinh vật không ngừng phát triển và thay đổi. Con người cũng vậy,
kể từ khi chào đời, cơ thể ngày càng lớn lên, trí tuệ ngày càng hồn thiện. Có
một khoảng thời gian đặc biệt mà mỗi con người có những bước phát triển
nhảy vọt kể cả thể chất và tâm hồn. Đến một độ tuổi nhất định, con người
phát triển đầy đủ về thể chất, tõm sinh lý và trở thành người trưởng thành. Trẻ
em càng nhỏ tuổi thỡ thể chất cũng như tâm sinh lý cần có thời gian để hoàn
thiện. Vỡ vậy, việc ban hành một thể chế thớch hợp và việc ỏp dụng cú hiệu
quả thể chế ấy là việc cần thiết nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phỏt triển cho
cỏc em.
Thứ hai khỏi niệm NCTN dựa vào sự phân chia giai đoạn trong cuộc đời
của mỗi con người. Quỏ trỡnh phỏt triển từ khi sinh ra cho đến khi người
trưởng thành được các nhà khoa học phân chia thành các giai đoạn khác nhau,
trong đó có giai đoạn chưa thành niên. Tuy nhiờn, việc xác định cụ thể thời
điểm bắt đầu, kết thúc tuổi chưa thành niờn cũn cú nhiều ý kiến khỏc nhau
(Tuổi chưa thành niên từ 14-17 tuổi; 11-15 tuổi; 12-15 tuổi). Ở mỗi giác độ tiếp
cận khác nhau thỡ quan niệm về NCTN khụng giống nhau và đều chưa chỉ rừ
mức độ, giới hạn cụ thể của sự “chưa trưởng thành” của đối tượng. Mặc dự cú
sự khỏc nhau nờu trờn, nhưng cỏc quan niệm về NCTN đều có chung đặc điểm
là những người chưa trưởng thành về thể chất và trí tuệ.
Hiện nay ở nước ta, pháp luật thực định cũng chỉ đưa ra những khái niệm
NCTN với giới hạn về độ tuổi và ở các lĩnh vực điều chỉnh khác nhau pháp luật
cũng quy định không giống nhau. Chẳng hạn, BLLĐ của Việt Nam quy định tại
điều 119: “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”.
Điều 18 BLDS xác định: “Người từ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người
chưa đủ 18 tuổi là NCTN”. BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ xung năm
2009) không nêu khái niệm NCTN, mà quy định giới hạn độ tuổi NCTN phạm
tội phải chịu TNHS là người “Từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi” (Điều 68).
10
Từ điển Tiếng Việt khơng có khái niệm NCTN mà có khái niệm vị thành
niên, theo đó: “Vị thành niên là người chưa đến tuổi được pháp luật coi là đủ
khả năng để sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trỏch nhiệm” [54, tr.779].
Thuật ngữ này được sử dụng trong một số văn bản, bài viết. Tuy nhiên, nếu
theo cách định nghĩa trên, đối chiếu với BLDS, BLLĐ thỡ vị thành niờn là
người dưới 18 tuổi, đối chiếu với BLHS thỡ vị thành niên phải dưới 14 tuổi.
Như vậy, thuật ngữ vị thành niờn không đồng nghĩa với thuật ngữ NCTN,
bởi lẽ nó khơng nêu được cụ thể những đặc điểm tâm sinh lý cũng như xác
định độ tuổi của NCTN.
Về phỏp luật núi chung và phỏp luật hỡnh sự núi riờng cũn có nhiều ý
kiến, nhiều quy định khác nhau về khái niệm NCTN:
Có quan điểm cho rằng NCTN là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi.Quan niệm này có khía cạnh phù hợp với luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em. Tuy nhiên, giới hạn tối thiểu cho NCTN trên không phù hợp với nhiều
quy định và pháp luật Việt Nam, đặc biệt là trong pháp luật hỡnh sự hiện hành.
Có quan điểm coi NCTN chỉ bao gồm những người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi. Quan niệm trên có xu hướng gắn khái niệm NCTN với quy định
về độ tuổi phải chịu TNHS của NCTN. Nếu coi đó là khái niệm chung về
NCTN thỡ nú lại chưa phù hợp với ngay chính pháp luật dân sự. Chẳng hạn
khi quy định tỡnh tiết tăng nặng của người tổ chức sử dụng trái phép chất ma
tuý trong những trường hợp nhất định, thỡ điểm c khoản 2 Điều 197 BLHS
năm 1999 quy định “Đối với NCTN từ đủ 13 tuổi trở lên”. Quy định này cho
thấy NCTN trong độ tuổi phải chịu TNHS là người chưa đủ 14 tuổi. Cũng
xuất phát từ quan điểm trên mà có ý kiến cho rằng: Xỳi giục NCTN phạm tội
chỉ trong phạm vi xỳi giục NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, mới coi là
tỡnh tiết tăng nặng (Điều 48 BLHS). Điều này là bất hợp lý với thực tế và
khụng phự hợp với nhiều quy định khác của BLHS. Thực tế, việc xúi giục, sử
dụng NCTN (hay trẻ em) chưa đủ 14 tuổi thực hiện hành vi phạm tội cú tớnh
11
nguy hiểm khụng khỏc gỡ NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thậm chí cũn
nguy hiểm hơn đối với người 14 tuổi. Nhiều quy định trong phần tội phạm
của BLHS quy định nguời phạm tội xúi giục, lôi kéo NCTN dưới 14 tuổi hay
trẻ em phạm pháp là tỡnh tiết tăng nặng khung hỡnh phạt. Chẳng hạn lụi kộo
NCTN từ đủ 13 tuổi trở lên sử dụng trái phép chất ma tuý là tỡnh tiết tăng
nặng khung, quy định tại điểm d khoản 2 Điều 200 BLHS về tội “Cưỡng bức,
lôi kéo, người khác sử dụng trái phép chất ma tuý”. Do vậy, quan niệm NCTN
là người trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi là chưa thống nhất trong
những quy định của pháp luật hỡnh sự.
Có quan điểm cho rằng, trong trừng mực nhất định nào đó, thuật ngữ trẻ
em đồng nhất với thuật ngữ vị thành niên và có sự phân chia người dưới 18
tuổi thành hai nhóm. Nhóm 1 gồm những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 là
vị thành niờn, cũn nhúm hai- dưới 14 tuổi là NCTN và không phải chịu
TNHS. Tuy nhiên, theo quan niệm này, trẻ em sẽ bao gồm những người dưới
18 tuổi, là không đúng với quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em, mặt khác nó cũng mâu thuần với một số quy định trong pháp luật hỡnh sự
khụng thừa nhận trẻ em là ngươi đủ từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Theo chúng tôi, tổng hợp các quy định của BLHS và một số Bộ luật
khỏc, thỡ trẻ em theo luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là người từ
dưới 16 tuổi; theo BLDS, thỡ NCTN là người dưới 18 tuổi và trẻ em là người
dưới 13 tuổi, ví dụ, mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi đều là
hiếp dâm trẻ em theo quy định tại Điều 112 BLHS năm 1999. Do đó, có thể
phân biệt trẻ em theo pháp luật hỡnh sự là người dưới 13 tuổi và NCTN là
người đủ từ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi, NCTN phạm tội là người có độ tuổi theo
quy định tại điều 12 BLHS.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học thỡ: “NCTN phạm tội là người
có độ tuổi từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi” [4, tr.86]. Nội dung này phù hợp
với quy định NCTN phạm tội tức là tuổi chịu TNHS của BLHS.
12
Ở mỗi quốc gia khác nhau, việc xác định giới hạn độ tuổi mà NCTN khi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xó hội cú thể phải chịu TNHS là khụng
giống nhau. Chẳng hạn, Cộng hoà liờn bang Nga là từ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi; Nhật Bản là từ 14 tuổi đến dưới 20 tuổi; ở Singapore những người từ 7
tuổi trở lên phải chịu TNHS, trong đó những người từ đủ 7 tuổi đến 12 tuổi
chỉ bị kết ỏn về cỏc tội do cố ý.
Ngay các văn bản pháp lý quốc tế khi đưa ra khái niệm NCTN cũng chỉ
đưa ra giới hạn về độ tuổi mà không dựa vào những đặc điểm tâm sinh lý hay
sự phỏt triển thể chất của NCTN. Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp
quốc về bảo vệ NCTN được tước quyền tự do thông qua ngày 14/12/1990
nêu: “NCTN là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được
pháp luật xác định…” (Quy tắc 2.1 mục a). Như vậy khái niệm NCTN có giới
hạn là dưới 18 tuổi, mặt khác quy định trên dặt ra khả năng mỗi quốc gia tuỳ
điều kiện về kinh tế, văn hoá, xó hội, cũng như truyền thống của mỡnh cú thể
quy định độ tuổi đó sớm hơn trong luật pháp.
Trong khoa học phỏp lý Việt Nam cú quan niệm: NCTN phạm tội là
người chưa trũn 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xó hội mà BLHS
quy định là tội phạm. Tuy nhiên, không phải NCTN phạm tội nào cũng bị truy
cứu TNHS mà chỉ những người từ đủ 14 tuổi trở lờn mới bi truy cứu TNHS.
Quan niệm này coi người chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xó hội mà BLHS quy định là tội phạm đều là NCTN phạm tội. Điều này mâu
thuẫn với quan điểm về tội phạm, theo quy định của Điều 8 BLHS năm 1999
thỡ tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xó hội được quy định trong BLHS,
nhưng phải do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vụ ý,
xõm hại cỏc khỏch thể (hay cỏc quan niệm xó hội) được luật hỡnh sự bảo vệ.
Năng lực TNHS chính là khả năng nhận thưc và khả năng điều khiển hành vi
của mỗi người, khả năng này phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố độ
tuổi. Bởi vậy mà phỏp luật hỡnh sự quy định độ tuổi chịu TNHS nghĩa là chỉ
13
đạt độ tuổi nhất định, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xó hội được quy
định trong BLDS mới phải chịu TNHS. Nói đến khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi, có người đạt độ tuổi phải chịu TNHS thỡ cũng cú người chưa
đạt độ tuổi này. Khoa học pháp lý đưa ra khái niệm sự chưa đủ tuổi chịu
TNHS là: “Khi người ấy chưa đạt đến độ tuổi quy định của pháp luật hỡnh sự
để có thể nhận thức được tính chất thực tế và tính chất pháp lý của hành vi
nguy hiểm cho xó hội bị luật hỡnh sự cấm mà mỡnh thực hiện hoặc điều
khiển được hành vi đó” [7, tr.526]. Do vậy, NCTN chưa đử độ tuổi phải chịu
TNHS khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xó hội bị luật hỡnh sự cấm khụng
phải là NCTN phạm tội.
Điều 12 BLHS năm 1999 đó phõn chia rất rừ về độ tuổi phải chịu TNHS
của NCTN: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi TNHS về tội phạm rất
nghiờm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Quy định trên xuất phát từ đường lối xử lý của Nhà nước ta đối NCTN
phạm tội, cũng như xuất phát từ cơ sở cho rằng người ở độ tuổi năng lực trách
mhiệm hỡnh sự chưa đầy đủ vẫn có thể nhận thức được tính chất nguy hiểm
cho xó hội do hành vi của mỡnh gõy ra.
Độ tuổi chịu TNHS ở đây là độ tuổi mà theo các quy định của Pháp luật
hỡnh sự phải chịu TNHS đối với loại tội phạm tương ứng được phân loại
trong BLHS. Trong đó NCTN từ đủ 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi phải chịu
TNHS về mọi tội phạm. Quy định như vậy các nhà làm luật căn cứ vào khả
năng nhận thức và khả măng điều khiển hành vi của NCTN trong khoảng tuổi
này ở mức tương đối hoàn thiện. NCTN ở lứa tuổi này đó cú đủ khả năng tự
chủ, có khả năng hiểu biết được tính chất nguy hiểm cho xó hội của mỡnh,
mặc dự chưa đạt đến mức hoàn thiện. Do vậy, luật hỡnh sự Việt Nam, một bắt
buộc NCTN trong khoảng tuổi này phải chịu trỏch nhiệm hỡnh sự về mọi
hành vi phạm tội, khụng kể hành vi đó được thực hiện dưới hỡnh thức lỗi cố ý
14
hay vụ ý. Tuy nhiờn, do những hạn chế nhất định về tuổi đời, kinh nghiệm
sống, trỡnh độ nhận thức, khả năng xử lý các tỡnh huống phức tạp xảy ra,
cuộc sống chủ yếu vẫn cũn phụ thuộc nhiều vào gia đỡnh…cho nờn về
nguyờn tắc xử lý, NCTN bao giờ cũng được hưởng mức hỡnh phạt nhẹ hơn
so với người đó thành niờn, nếu họ vi phạm cựng một tội cú tớnh chất nguy
hiểm ngang nhau. Cũn NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS
chỉ về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Điều đó có nghĩa rằng NCTN trong độ tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi,
khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xó hội được quy định tại các điều luật
trong phần các tội phạm cụ thể của BLHS, thỡ họ cũng khụng bị coi là phạm
tội nếu hành vi đó chỉ có những dấu hiệu cấu thành tội phạm ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý. Điều này là phù
hợp với thực tế của NCTN trong độ tuổi này. Đối với những tội phạm trên thỡ
núi chung tớnh chất nguy hiểm cho xó hội khụng lớn và chưa cần thiết phải
áp dụng hỡnh phạt hỡnh sự mà dựng cỏc biện phỏp giỏo dục khỏc vẫn cú thể
đưa NCTN về cuộc sống bỡnh thường.
Cách tính tuổi “từ đủ” của NCTN như thế nào cho đúng. Tại Nghị quyết
02/HĐTP ngày 05 tháng 01 năm 1986 của Hội đồng Thẩm phán của TAND
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS đó chỉ rừ:
Cách tính tuổi do luật định quy định là “đủ 14 tuổi” hoặc “đủ 16
tuổi”, tức là tính theo tuổi trũn. Thớ dụ: Sinh ngày 1 thỏng 1 năm
1975 thỡ ngày 1 thỏng 1 năm 1989 mới đủ 14 tuổi. Trong trường
hợp khơng có điều kiện xác định chính xác ngày sinh thỡ tớnh ngày
sinh theo ngày cuối cựng của thỏng sinh mà nếu cũng khụng cú
điều kiện để xác định chính xác thỡ xỏc định ngày sinh là ngày 31
tháng 12 năm [19, tr.9].
Giống như người đó thành niờn, NCTN đủ tuổi phải chịu TNHS như đó
phõn tớch trờn đây, thỡ sự đủ độ tuổi mới chỉ là trong những cơ sở cần thiết
15
để có thể có năng lục TNHS- nghĩa là có thể có khả năng nhận thức được đầy
đủ tính nguy hiểm cho xó hội và tớnh trỏi phỏp luật hỡnh sự của hành vi gõy
thiệt hại về mặt phỏp lý hỡnh sự, cũng như điều khiển được đầy đủ hành vi
đó. Bởi lẽ, nếu xét về mặt y học, người đủ độ tuổi chịu TNHS nói chung nếu
ở trong trạng thái không bỡnh thường (bị bệnh tâm thầm hoặc một bệnh lý
khác) đến mức hồn tồn khơng thể nhận thức được và điều khiển được hành
vi của mỡnh, khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xó hội được quy định trong
BLHS thỡ khụng phạm tội và khụng cú năng lực TNHS. Điều 13 BLHS xác
định rừ: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xó hội trong khi đang mắc
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mỡnh thỡ khụng phải chịu TNHS”
Như vậy theo chúng tôi, NCTN là người chưa phát triển đầy đủ về thể
chất và chí tuệ, là người cũn non nớt trong nhận thức và hiểu biết xó hội, hành
động, việc làm thường hiếu động, bồng bột, thiếu chín chắn, suy nghĩ nơng
cạn dễ thay đổi, nhận định, đánh giá về thế giới quan và nhân sinh quan cũn
nhiều sai lệch. Những mõu thuẫn trong sự phỏt triển sinh lý và khả năng nhận
thức dễ đưa NCTN vào con đường thực hiện tội phạm. Chính vỡ những
nhược điểm trên của NCTN mà pháp luật hỡnh sự của chỳng ta cú phõn định
mức độ trách nhiệm hỡnh sự và đặt ra các yêu cầu khi giải quyết các vụ án có
liên quan đến NCTN phạm tội. NCTN phạm tội được pháp luật hỡnh sự Việt
Nam xỏc định những người có độ tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18
tuổi. Đây là độ tuổi mang những đặc điểm về thể chất, trí tuệ nêu trên, đồng
thời, quy định về độ tuổi này cơ bản là phù hợp với pháp luật quốc tế.
1.1.2. Khái niệm đấu tranh phũng, chống tội phạm do người chưa
thành niên thực hiện
Lịch sử xó hội lồi người đó tồn tại nhiều học thuyết khỏc nhau về tội
phạm và trừng phạt. Trong nhiều thế kỷ qua nhận thức của con người vẫn chế
ngự một tư tưởng sai lầm rằng: nếu như Nhà nước có một hệ thống pháp luật
16
nghiêm khắc, Tồ án sử dụng rộng rói hỡnh phạt khắc nghiệt thỡ chắc chắn sẽ
xóa bỏ được tội phạm. Nhưng thực tế đó chứng minh điều ngược lai. Thời kỳ
Trung cổ như: biện phỏp trừng phạt kẻ phạm tội hết sức dó man, tàn bạo đó
được áp dụng như: chém đầu, ném vào vạc dầu, đưa lên giàn thiêu, cho thú
vật xé xác, chặt chân tay, chu di tam tộc...nhưng tội phạm vẫn tồn tại thậm chí
gia tăng. Thực tế đó chứng minh, sự tàn bạo này sẽ làm nảy sinh ra một sự tàn
bạo khác tương ứng. Những hỡnh phạt đau đớn và sỉ nhục con người không
bao giờ làm giảm đi được tội phạm. Mặt khác, gieo rắc sự tàn bạo sẽ làm ảnh
hưởng cực kỳ bất lợi trong nhận thức xó hội, nú làm chai sạn tỡnh cảm của
con người và giáo dục tư tưởng xem thường, khinh bỉ của người này đối với
người khác, nó xa lạ với chủ nghĩa nhân đạo đang mong muốn củng cố, đồn
kết xó hội lồi người trên trái đất.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê nin đó cho rằng, loại trừ tội
phạm ra khỏi đời sống xó hội không chỉ tiến hành bằng cuộc đấu tranh chống
tội phạm với sự giúp đỡ của pháp luật và hoạt động của các cơ quan chừng
phạt mà là mà là phải tổ chức lại xó hội, hồn thiện hệ thống và cỏc tổ chức
xó hội, giải phúng nú khỏi cỏc lề thúi xấu của những hỡnh thức kinh tế - xó
hội của giai cấp búc lột, giỏo dục con người mới. Như vậy không thể loại trừ
tội phạm bằng con đường cải cách những mặt riêng rẽ của cuộc sống xó hội,
mà chỉ bằng con đường thay đổi tồn bộ hệ thống cỏc quan hệ xó hội, cải tạo
quan hệ xó hội búc lột thành quan hệ xó hội cộng sản chủ nghĩa.
Điều dĩ nhiên là trên con đường lâu dài để tiến tới một xó hội khụng cũn
tội phạm thỡ hỡnh phạt nghiờm khắc (chứ khụng phải là dó man) vẫn và sẽ
luụn là cụng cụ quan trọng để góp phần ngăn chặn sự gia tăng của tỡnh hỡnh
tội phạm và trong nhiều trường hợp nó có ý nghĩa quyết định đối với việc
giáo dục và cải tạo kẻ phạm tội, ngăn ngừa họ và những người khác không
tiếp tục phạm tội lại, nhất là không để lọt bất cứ một hành vi phạm tội nào,
ngăn ngừa những hành vi khơng tn thủ pháp luật có thể xảy ra. Nếu làm
17
được điều này xó hội sẽ đỡ mất cơng sức tiền của để khắc phục những hậu
quả do tội phạm gây ra và nhiều khi không thể khắc phục được như: Chết
người, thương tật vĩnh viễn….và cũng không phải phát hiện, điều tra, bắt giữ,
truy tố, xét xử hay cải tạo kẻ phạm tội. Rừ ràng là trong cuộc đấu tranh với
hiện tượng tội phạm phương hướng cơ bản và quan trọng là “phũng ngừa”, chứ
khụng phải là “chống”. Điều này đó được Cỏc Mỏc khẳng định: Người làm luật
thơng thái cần phải phũng ngừa tội phạm làm sao để khỏi trừng phạt nó.
Hiện nay, cỏc thuật ngữ “phũng”, “chống” hay “đấu tranh chống tội
phạm” vẫn được sử dụng thường xuyên thành một cụm từ như “đấu tranh
phũng chống tội phạm” hay “đấu tranh chống và phũng ngừa tội phạm”
nhưng chưa cắt nghĩa một cách rừ ràng, tỡnh trạng lẫn lộn giữa cỏc khỏi
niệm cũng diễn ra phổ biến. Sự nhầm lẫn giữa khỏi niệm “phũng ngừa tội
phạm” và “Chống” tội phạm cú thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc là: Thứ
nhất thiếu cơ sở lý luận để soi sáng những hoạt động thực tiễn, cải tạo thực
tiễn và tiếp tục phỏt triển lý luận khoa học. Thứ hai, khơng thấy cái đích cần
đạt được của các biện pháp đưa ra để áp dụng, không xác định được phạm vi,
tác động và khơng có cơ sở để dánh giá hiệu quả của nó. Thứ ba, khơng xác
định được phương hướng chính của cuộc đấu tranh với hiện tượng tội phạm
và làm lu mờ mặt này hay mặt khác của cuộc đấu tranh. Thứ tư, không biết
cách chủ động tạo ra những tiền đề cần thiết đảm bảo hiệu quả của cỏc biện
phỏp phũng ngừa cũng như chống tội phạm như: Hệ thống tổ chức, các trang
thiết bị, cán bộ, cơ sở pháp lý…và cuối cựng làm giảm hiệu quả của cuộc đấu
tranh nói chung, hiệu quả của hoạt động phũng ngừa núi riờng. Cho nờn việc
làm sỏng tỏ thờm bản chất của cỏc khỏi niệm “phũng ngừa tội phạm” và
“chống tội phạm” đó đặt ra ở đây như một nhu cầu vừa có ý nghĩa lý luận,
vừa mang ý nghĩa thực tiễn.
Mục đích của “Phũng ngừa tội phạm” là khụng để cho tội phạm xảy ra
và gây nên những hậu quả nguy hiểm cho xó hội là kịp thời phát hiện tội
18
phạm, nhanh chóng điều tra, truy tố, xét xử và thi hành hỡnh phạt đối với kẻ
phạm tội theo đúng pháp luật.
Hiện nay mặc dù các nhà khoa học vẫn đang và sẽ tiếp tục tỡm kiếm
những biện phỏp phũng ngừa mới, cú hiệu quả hơn nhưng thực tiễn và lý luận
được rút ra từ những công trỡnh nghiờn cứu khoa học đó cho phộp chỳng ta
cú thể khỏi quỏt được một số các biện pháp để đấu tranh phũng ngừa NCTN
phạm tội đang được áp dụng trong thực tiễn. Do dựa trên những cơ sở khoa
học khác nhau mà người ta có những cách phân loại hệ thống những biện
pháp phũng ngừa khỏc nhau.Nếu dựa vào lĩnh vực phũng ngừa thỡ cú cỏc
biện phỏp về kinh tế, chớnh trị, cỏc biện phỏp về tổ chức, cỏc biện phỏp về
phỏp luật… Nếu dựa vào tớnh chất của tỡnh hỡnh tội phạm cú cỏc biện phỏp
phũng ngừa ở phạm vi toàn quốc hay từng khu vực lónh thổ hành chớnh, cỏc
biện phỏp phũng ngừa nhúm tội phạm. Nếu dựa vào tính chất tác động của
các biện pháp phũng ngừa thỡ cú thể chia thành cỏc biện phỏp giỏo dục, cỏc
biện phỏp tổ chức quản lý, cỏc biện phỏp xử lý theo phỏp luật.
Tuy nhiên, để dễ thấy được phũng ngừa người phạm tội nói chung và
phũng ngừa NCTN phải là một hệ thống liờn hoàn bao gồm cỏc biện phỏp ở
những mức độ khác nhau và trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành và tồn xó
hội thỡ theo chỳng tụi cỏc biện phỏp đấu tranh phũng, chống tội phạm của
NCTN dựa vào phạm vi tỏc động của các biện pháp để phân chia các biện
pháp phũng ngừa là hợp lý hơn cả. Theo cách phân chia này thỡ cỏc biện
phỏp phũng ngừa sẽ gồm 2 nhúm: cỏc biện phỏp phũng ngừa chung và cỏc
biện phỏp phũng ngừa riờng.
Cỏc biện phỏp phũng ngừa chung mà cỏc biện phỏp nhằm nõng cao mọi
mặt của đời sống xó hội, đồng thời từng bước loại trừ những yếu tố tiêu cực là
nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trỡnh hỡnh thành nhân cách của NCTN. Đó
là các biện pháp phát triển về kinh tế, đổi mới về chính trị, các biện pháp giáo
dục văn hố, đạo đức, pháp luật, dạy nghề, trang bị các kiến thức, xây dựng ý
19
thức, trỏch nhiệm và nghió vụ của cụng dõn cho thanh, thiếu niờn; cỏc biện
pháp phát triển thông tin, văn hoá thể dục thể thao…, các biện pháp giáo dục,
chăm sóc của gia đỡnh.
Cỏc biện phỏp phũng ngừa riờng: đó là các biện pháp tác động trực tiếp
tới thanh, thiếu niên phạm tội nhằm phát hiện kịp thời những hành vi phạm
tội, xử lý nghiờm những người phạm tội và giáo dục, cải tạo họ trở thành
cơng dân có ích cho xó hội. Cỏc biện phỏp phũng ngừa riờng cú thể được chia
thành 3 nhóm. Nhúm thứ nhất gồm các biện pháp phát hiện và bố trí người
giúp đỡ thanh, thiếu niên lâm vào cảnh sống và giáo dục bất lợi trước những
tác động tiêu cực đối với việc hỡnh thành nhõn cỏch của họ. Nhúm thứ 2 gồm
các biện pháp giáo dục, ngăn chặn NCTN có hành vi vi phạm đạo đức hay vi
phạm pháp luật. Nhúm thứ 3 gồm các biện pháp điều tra, truy tố, xét xử và
giỏo dục cải tạo NCTN phạm tội (xử lý về hỡnh sự). Nhúm biện phỏp này
được tiến hành bởi các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án trong sự
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước, các đồn thể và tổ chức xó hội
với sự giỳp đỡ tích cực của nhân dân. Đây là biện pháp thể hiện thái độ cứng
rắn của Nhà nước đối với NCTN phạm tội ở mức nghiêm trọng nhất định và
khi các biện pháp giáo dục và tác động khác của xó hội khụng đủ tác dụng
dăn đe thỡ cú thể ỏp dụng cỏc biện phỏp xử lý hỡnh sự.
Trong thực tiễn, do ý nghĩa to lớn của các biện pháp chống tội phạm,
phát hiện, điều tra truy tố, xét xử và thi hành phạt đối với việc ngăn ngừa tội
phạm mà nhiều người cho rằng chống tội phạm là một bộ phận cần thiết và
quan trọng của phũng ngừa tội phạm nhằm đảm bảo tính triệt để của các biện
pháp phũng ngừa cú hiệu lực. Bởi vỡ ai cũng thấy rừ khi ỏp dụng đối với kẻ
phạm tội, hỡnh phạt khụng chỉ tỏc động trực tiếp đối với người đó để đảm bảo
cho tính bắt buộc phải chịu trách nhiệm pháp lý khi gõy ra tội phạm mà cũn
ngăn chặn chính họ tiếp tục phạm tội mới. Đồng thời hỡnh phạt cũn cú ý
nghĩa phũng ngừa chung thụng qua việc gõy tỏc động giáo dục quần chúng
20
nhân dân lao động tham gia đấu tranh với tội phạm và răn đe những người
khác không vi phạm pháp luật và phạm tội. Tại Điều 27 BLHS năm 1999
(Được sửa đổi, bổ sung năm 2009) của nước ta quy định rừ: Hỡnh phạt khụng
chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà cũn giỏo dục họ trở thành người có ích
cho xó hội, cú ý thức tũn theo phỏp luật và cỏc quy tắc của cuộc sống xó hội
chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hỡnh phạt cũn nhằm giỏo dục người
khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phũng ngừa và phũng chống tội phạm.
Từ những phân tích trên, chúng tơi có thể rút ra khái niệm đấu tranh
phũng, chống tội phạm do NCTN thực hiện như sau: Đấu tranh phũng, chống
tội phạm do NCTN thực hiện là việc ỏp dụng đồng bộ các biện pháp kinh tế,
chính trị, tư tưởng, văn hoá, pháp luật….do các cơ quan, tổ chức và mọi cơng
dân tiến hành sự lónh đạo của Đảng nhằm hạn chế, loại trừ nguyên nhân,
điều kiện phát sinh tội phạm do NCTN thực hiện nhằm ngăn chặn tội phạm,
kịp thời phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành hỡnh phạt đối
với người phạm tội theo đúng pháp luật.
1.1.3. Khỏi niệm vai trũ của Tũa ỏn nhõn dõn trong đấu tranh
phũng, chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện
Ở nước ta, đấu tranh phũng, chống tội phạm là một trong những chớnh
sỏch lớn của Đảng và Nhà nước, là trỏch nhiệm của tất cả các cơ quan, tổ
chức, các cấp, các ngành và tồn xó hội trên cơ sở sự phối kết hợp chặt chẽ
giữa cỏc cấp, cỏc ngành và toàn xó hội nhằm tạo nờn sức mạnh tổng hợp
trong cụng tỏc đấu tranh phũng, chống tội phạm núi chung và đấu tranh
phũng, chống tội phạm do NCTN thực hiện núi riờng.
Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, mỗi cơ quan, tổ chức tuỳ theo
tính chất cơng việc và chức năng hoạt động nờn cú vai trũ và vị trớ trỏch
nhiệm khỏc nhau. Muốn cú sự kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa cỏc lực lượng
trên thỡ việc phõn định rừ vai trũ, trỏch nhiệm của từng cơ quan trong lĩnh
vực này là vô cùng quan trọng và cần thiết. Đối với ngành TAND, vai trũ trong
21
cụng tỏc đấu tranh phũng, chống tội phạm núi chung và tội phạm do NCTN thực
hiện núi riờng hiểu như thế nào?
Theo Từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 1996 (do
Giáo sư Hoàng Phê chủ biên chỳ thích theo quy định,) thỡ “vai trũ” được định
nghĩa là: “tác dụng, chức năng trong sự hoạt động, sự phát triển của cái gỡ đó”.
Theo nghĩa này, vai trũ của TAND trong đấu tranh phũng, chống tội phạm được
thể hiện thông qua chức năng và việc thực hiện chức năng của Toà án.
Tại điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định về chức năng xét xử của toà
án như sau: “TAND tối cao, các TAND địa phương, các toà án quân sự và các
toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của Nước Cộng hồ xó hội
chủ nghĩa Việt Nam”. Hiến pháp khẳng định chức năng xét xử chỉ thuộc về
tồ án chứ khơng thuộc bất kỳ cơ quan nhà nước nào.
Điều 27 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trong tiến tỡnh tiến hành tố
tụng hỡnh sự Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ tỡm ra
nguyờn nhõn và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan
áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa”.
Điều 1 Luật Tổ chức tũa ỏn nhân dân quy định Trong phạm vi chức
năng, Tũa ỏn cú nhiệm vụ bảo vệ phỏp chế xó hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ
xó hộichủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước,
của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của cơng
dân; góp phần giáo dục cơng dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật, tơn trọng những quy tắc của cuộc sống xó hội, ý thức đấu
tranh phũng ngừavà chống tội phạm, cỏc vi phạm phỏp luật khỏc. Toà ỏn thực
hiện vai trũ đấu tranh phũng, chống tội phạm chung và tội phạm do NCTN
thực hiện núi riờng thụng qua và chủ yếu bằng chức năng xét xử, chức năng
duy nhất của Toà án đó được Hiến pháp ghi nhận.
Với những phõn tớch trờn, cú thể khỏi quỏt vai trũ của TAND trong đấu
tranh phũng, chống tội phạm do NCTN thực hiện được hiểu như sau: Vai trũ
22
của TAND trong đấu tranh phũng, chống tội phạm do NCTN thực hiện là việc
TAND thực hiện chức năng xét xử, làm rừ nguyờn nhõn và điều kiện phát sinh
tội phạm do NCTN thực hiện, để tham mưu cho Đảng và Nhà nước ban hành,
thực hiện cỏc chớnh sỏch, phỏp luật để phũng ngừa tội phạm do NCTN thực
hiện; gúp phần tuyờn truyền giỏo dục phỏp luật và phối hợp chặt chẽ với cỏc
cơ quan nhà nước, các đoàn thể, tổ chức xó hội nhằm phỏt hiện, kịp thời
ngăn chặn tội phạm, nhanh chóng điều tra, truy tố, xét xử và thi hành hỡnh
phạt đối với NCTN phạm tội theo đúng quy định của pháp luật.
1.2. NỘI DUNG VAI TRề CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG ĐẤU TRANH
PHềNG, CHỐNG TỘI PHẠM DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN
1.2.1. Chức năng xét xử
Ở nước ta, bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc “Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền, lập pháp, hành pháp và tư
pháp” dưới sự lónh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. TAND được phân công
thực hiện quyền tư pháp là quyền xét xử, một trong những chức năng quan
trọng của nhà nước Việt Nam. Do vậy, có thể thấy TAND có vị trí rất quan
trọng trong bộ máy nhà nước, là cơng cụ chun chính của chính quyền thực
hiện tốt chức năng xét xử trong công cuộc đấu tranh phũng, chống tội phạm
giữ vững an ninh trật tự.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị (khố IX) về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó khẳng định: “Tổ chức các cơ
quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về
cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc, trong đó xác định tồ án có
vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm” [3, tr.3].
Theo quy định của pháp luật, TAND là cơ quan xét xử duy nhất của
Nước Cộng hồ xó hội Việt Nam. Tồ ỏn xột xử những vụ ỏn hỡnh sự, dõn
sự, hụn nhõn và gia đỡnh, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết việc
23
khác theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi chức năng của mỡnh, Toà
ỏn cú nhiệm vụ bảo vệ phỏp chế xó hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xó hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhõn dõn, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập
thể bảo vệ tập thể, tài sản, tự do, danh dự và nhõn phẩm của cơng dân. Bằng
hoạt động của mỡnh, Tồ ỏn gúp phần giỏo dục cụng dõn trung thành với Tổ
quốc, chấp hành nghiờm chỉnh phỏp luật, tụn trọng những quy tắc của cuộc sống
xó hội, ý thức đấu tranh phũng ngừa và chống tội phạm và cỏc vi phạm phỏp
luật khỏc.
Với vị trớ phỏp lý núi trờn, hoạt động phũng chống, tội phạm của
TAND cỏc cấp phải xuất phỏt từ việc thực hiện chức năng xét xử. Bằng phán
quyết đúng đắn, hợp tỡnh, hợp lý trong xột xử cỏc vụ ỏn nhất là cỏc vụ ỏn
hỡnh sự do NCTN thực hiện, Tồ ỏn thể hiện sự đánh giá chính thức của Nhà
nước ta đối với tội phạm và người phạm tội. Việc xét xử đúng người đúng tội,
đúng pháp luật chính là giỏo dục làm cho người phạm tội nhận thức được tội
lỗi của mỡnh để tự cải tạo để trở thành người tốt, đồng thời đó cũng là hoạt
động hữu hiệu nhất của Tồ án góp phần đấu tranh phũng, chống tội phạm do
NCTN thực hiện. Xét xử quá nhẹ làm cho pháp luật bị coi thường, không
được tuân thủ nghiêm chỉnh. Xột xử quỏ nặng tạo nờn tõm lý bi quan, chỏn
nản, tiờu cực là triệt tiờu động cơ cải tạo, giáo dục của người phạm tội dẫn
đến tâm lý liều lĩnh, bất cần, nhất là đối với những người chưa phát triển hoàn
thiện NCTN phạm tội. Cả hai xu hướng sai lầm đó đều dẫn đến khả năng cao
về tái phạm của người phạm tội, hạn chế hiệu quả phũng ngừa của hoạt động
xét xử mà cái đích cuối cùng của hoạt động xét xử là thơng qua từng vụ án cụ
thể, Tồ án khơng chỉ trừng trị những người phạm tội mà cũn cải tạo, giỏo dục
họ trở thành người có ích cho xó hội,.
Xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không chỉ giáo dục người
pham tội mà cũn làm cho người khác tin tưởng vào sự công minh của pháp
luật, vào sự công bằng và sự tất yếu phải bị trừng trị của người thực hiện hành
24
vi nguy hiểm cho xó hội, trờn cơ sở đó có ý thức tũn thủ phỏp luật và tớch
cực tham gia đấu tranh phũng, chống tội phạm, giáo dục ý thức pháp luật
chung cho công dân để họ không đi vào con đường vi phạm pháp luật và tích
cực tham gia đấu tranh phũng, chống tội phạm.
Có quan điểm cho rằng, việc phũng ngừa tội phạm của Toà ỏn là khụng
thực tế vỡ chức năng cuả Toà án là xét xử những vụ án hỡnh sự (những tội
phạm đó xảy ra) và như thế thỡ khụng cũn gỡ để phũng ngừa nữa, nờn họ cho
rằng việc xột xử của Toà ỏn giỏi lắm thỡ cũng chỉ theo kịp tỡnh hỡnh tội
phạm núi gỡ đến việc phũng ngừa tội phạm. Thậm chớ, cú người cũn cho
rằng hoạt động xét xử của Toà án và việc phũng ngừa tội phạm khụng cú mối
liờn quan nào cả.
Cần phải nhận thức rằng, phũng và chống tội phạm là hai mặt của một
hoạt động thống nhất. Khi thực hiện chức năng xét xử, ngoài việc thực hiện
nhiệm vụ xác định sự thật khách quan của vụ án giải quyết đúng đắn và kịp
thời vụ án hỡnh sự, Toà ỏn nắm vững nhiều loại thụng tin phản ánh những sơ
hở, bất cập về kinh tế, xó hội, những yếu kộm trong quản lý nhà nước, là
những nguyên nhân các điều kiện thúc đẩy làm phát sinh tội phạm để kiến
nghị với các cơ quan có thẩm quyền đề ra các biện pháp khắc phục nhằm
phũng ngừa chung cũng như phũng ngừa riờng đối với tội phạm.
Vai trũ của Toà ỏn trong đấu tranh phũng, chống tội phạm do NCTN
thực hiện cũn thể hiện ở một khớa cạnh khỏc. Khác với người đó thành niờn
phạm tội, NCTN phạm tội là chủ thể chịu sự tỏc động của việc xét xử của Toà
án là một loại đối tượng đặc biệt. Đây là những người đang ở độ tuổi phát
triển, so với người đó thành niờn thỡ trỡnh độ nhận thức, kinh nghiệm sống
cũn hạn chế, nhận thức về chuẩn mực xó hội cũn những sai lệch. Vỡ vậy, đũi
hỏi quỏ trỡnh ỏp dụng phỏp luật trong xột xử phải đảm bảo và bảo vệ được
quyền và lợi ớch hợp phỏp của NCTN.
25
Việc áp dụng pháp luật về thủ tục trong xét xử NCTN phạm tội ngoài
việc tuân thủ những quy định chung của BLTTHS, cũn phải tuõn theo những
quy định riêng về thủ tục tố tụng đối với NCTN phạm tội. Pháp luật tố tụng
hỡnh sự coi đây là thủ tục đặc biệt và quy định thành một chương riêng
(Chương XXXII) trong BLTTHS năm 2003 và đũi hỏi mọi hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử phải tuân theo. Điều 301 BLTTHS năm 2003 quy định: “Thủ
tục tố tụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN
được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định
khác của bộ luật này không trái với những quy định của Chương này” [32,
tr.205]. Có thể coi đây là tuân thủ các quy định chung của BLTTHS là điều
kiện cần, thỡ việc tuõn thủ quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTN là điều
kiện đủ để Toà án áp dụng pháp luật về trỡnh tự thủ tục trong xột xử đối với
NCTN phạm tội. Toà án tuân thủ những quy định riêng về thủ tục tố tụng đối
với NCTN phạm tội trong BLTTHS là nhằm đảm bảo các quyền của NCTN
cũng như thực hiện chính sách nhân đạo của nhà nước đối với NCTN phạm
tội.
Áp dụng phỏp luật về trỡnh tự, thủ tục trong xột xử đối với NCTN
được coi là “trỡnh tự, thủ tục đặc biệt”. Tính chất “đặc biệt” được thể hiện
qua các quy định rất chặt chẽ có ý nghĩa nhấn mạnh và đảm bảo quyền của
NCTN phạm tội. Chẳng hạn, điều 305 BLTTHS năm 2003 quy định việc lựa
chọn người bào chữa NCTN và đại diện hợp pháp của họ trong các giai đoạn
tố tụng. Nếu họ không lựa chọn được thỡ cỏc cơ quan tố tụng tuỳ theo giai
đoạn tố tụng “Phải yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phũng luật sư cử
người bào chữa cho họ hoặc đề nghị uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ
chức thành viên của mặt trận cử người bào chữa cho thành viờn của tổ chức
mỡnh. Điều 306 BLTTHS năm 2003 quy định: “Tại phiên toà xét xử bị cáo là
NCTN phải có mặt đại diện gia đỡnh bị cỏo, trừ trường hợp đại diện gia đỡnh
cố ý vắng mặt mà khụng cú lý do chớnh đáng, đại diện của nhà trường, tổ