1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy nhà nước ta, Hội đồng nhân dân (HĐND) là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương trong việc
thực thi quyền lực nhà nước. Với tính chất đó, HĐND nước ta có vai trị đặc
biệt quan trọng trong việc đảm bảo quyền lực nhân dân, phát huy dân chủ,
đảm bảo hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Vì vậy, nâng
cao năng lực hoạt động của HĐND các cấp là một trong những nhiệm vụ rất
cơ bản của q trình xây dựng và hồn thiện bộ máy nhà nước nói riêng, của
sự nghiệp đổi mới đất nước ta hiện nay nói chung. Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X đã khẳng định:
Nâng cao chất lượng của HĐND và UBND, đảm bảo quyền tự chủ
và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi
được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của HĐND. Tổ chức hợp
lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính
quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo [10, tr.127].
Triển khai tinh thần đó, Nghị quyết Trung ương 5, khố X đã đề xướng
chủ trương thực hiện thí điểm khơng tổ chức HĐND huyện, quận, phường.
Qua thí điểm sẽ tổng kết, đánh giá và xem xét thực hiện chính thức chủ
trương này cùng với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Ngày 14/11/2008
Quốc hội khố XII đã thơng qua 02 Nghị quyết liên quan đến yêu cầu củng cố
và tăng cường hiệu quả hoạt động của HĐND: Nghị quyết số 25/2008/QH12
ngày 14/11/2008 về việc kéo dài nhiệm kỳ hoạt động 2004 - 2009 của HĐND
các cấp. Tại điều 1 của Nghị quyết quy định kéo dài nhiệm kỳ 2004 - 2009
của HĐND và Uỷ ban nhân dân (UBND) các cấp cho đến kỳ họp thứ nhất của
HĐND các cấp khoá sau vào năm 2011 và Nghị quyết số 26/2008/QH12 ngày
2
14/11/2008 về thực hiện thí điểm khơng tổ chức HĐND quận, huyện, phường.
Đó chính là những động thái mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước nhằm thực hiện
hoá các quan điểm tổ chức và hồn thiện chính quyền địa phương. Những
động thái này vừa là tiền đề chính trị quan trọng, vừa dự báo trước những
thành cơng của q trình đổi mới.
Đổi mới tổ chức hoạt động của HĐND các cấp có thể được triển khai từ
nhiều khâu, với nhiều cấp độ. Một trong những hướng của sự đổi mới chính là
u cầu khơng ngừng nâng cao chất lượng của đại biểu HĐND mà trước hết
là cấp xã (xã, phường, thị trấn). Cơ sở lý giải cho yêu cầu này xuất phát từ vai
trò đặc biệt quan trọng của đội ngũ đại biểu HĐND cấp xã là cấp gần nhất, là
cấp mà mỗi động thái của đại biểu HĐND đều tác động trực tiếp tới người
dân, đều có khả năng gây ra những hệ quả hoặc tích cực hoặc tiêu cực tới thái
độ và lòng tin của nhân dân vào chế độ xã hội, chế độ nhà nước.
Nhu cầu nâng cao chất lượng của đại biểu HĐND cấp xã lại càng trở
nên cấp bách nếu đặt trong bối cảnh thực trạng chất lượng của đại biểu
HĐND xã trên phạm vi cả nước nói chung, ở từng địa bàn cụ thể nói riêng.
Có thể lấy địa bàn tỉnh Nghệ An là một ví dụ điển hình. Thực tế trong những
năm qua chất lượng của đại biểu HĐND cấp xã ở tỉnh Nghệ An đã đạt được
một số kết quả đáng khích lệ như các đại biểu HĐND đã được nâng cao về
trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, đặc biệt là về kỹ năng công tác trong
hoạt động đại biểu. Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động của đại biểu HĐND
cấp xã ở tỉnh Nghệ An vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém như chưa thực hiện hết
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền theo luật định, vai trò đại diện nhân dân của
từng đại biểu còn hạn chế. Do vậy, việc nâng cao chất lượng đại biểu HĐND
các cấp xã trên địa bàn tỉnh Nghệ An là một yêu cầu cần thiết.
Trong bối cảnh đó, hoạt động nghiên cứu lại chưa được triển khai đúng
mức khiến cho nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng hoạt động của
đại biểu HĐND cấp xã còn bị bỏ ngỏ. Đề tài luận văn "Chất lượng đại biểu
3
Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Nghệ An" được lựa chọn chính là nhằm
góp thêm căn cứ để xây dựng các luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng của đại biểu HĐND cấp xã ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều cuốn sách, bài viết và một số đề
tài khoa học đề cập thực trạng và các giải pháp liên quan đến chất lượng, năng
lực của đại biểu HĐND cấp xã. Có thể nêu một số cơng trình điển hình sau:
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở
Việt Nam do PGS.TS. Lê Minh Thông, PGS. TS Nguyễn Như Phát đồng
chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2002. Trong cơng trình này, các
tác giả đã đề cập nhiều khía cạnh lý luận và thực tiễn về chính quyền ở
Việt Nam trong đó có chương IV bàn tập trung về tổ chức chính quyền cơ
sở ở nơng thơn hiện nay.
- Mơ hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Tư pháp Hà Nội,
2004. Trong tác phẩm này tác giả tập trung phân tích và kiến nghị về mơ hình
tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, trong đó đặc biệt chú ý đến
mơ hình của HĐND cấp xã.
- Phương thức và kỹ năng hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân
trong chương trình tập huấn đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
1999 - 2004 do PGS.TS Bùi Thế Vĩnh chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia Hà
Nội 2000. Với cơng trình này, lần đầu tiên, những vấn đề liên quan đến cơ sở
lý luận về phương thức và kỹ năng hoạt động của đại biểu HĐND đã được đặt
ra nghiên cứu một cách tương đối sâu sắc.
- Hệ thống chính trị cơ sở. Thực trạng và một số giải pháp đổi mới do
TS. Chu Văn Thành chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2004. Các tác
giả đã nghiên cứu, khảo sát có hệ thống về thực trạng tổ chức hoạt động của
hệ thống chính trị địa phương trên phạm vi cả nước và đi tới nhận định rằng
4
HĐND, UBND cấp xã ln giữ vị trí vai trị trọng tâm trong nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị cơ sở, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Từ đó các
tác giả đã đề ra phương hướng và một số giải pháp thiết thực để củng cố về tổ
chức, hoạt động của HĐND, UBND, góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng
của hệ thống chính trị cơ sở.
- Trong Tạp chí Quản lý Nhà nước số 2 năm 2005, TS Vũ Đức Đán có
bài viết “Vấn đề bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu Hội
đồng nhân dân”. Tại đây, tác giả đã lý giải một cách biện chứng về vai trị, vị
trí của HĐND nói chung và đại biểu HĐND nói riêng ở bộ máy chính quyền
cấp xã.
- Luận án tiến sĩ "Nâng cao hiệu lực hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay". của Vũ
Mạnh Thông. Trong luận án của mình, tác giả đã khái quát sự ra đời, phát
triển của HĐND các cấp, đồng thời nhấn mạnh vai trò và vị thế của HĐND
cấp tỉnh qua hoạt động giám sát của HĐND, từ đó đã đề cập yêu cầu đổi mới
tổ chức và hoạt động của HĐND ở nước ta hiện nay.
- Luận án tiến sĩ "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng đồng
bằng sông Cửu Long hiện nay", của Phạm Công Khâm. Đây là cơng trình đầu
tiên nghiên cứu có hệ thống về thực trạng tình độ, năng lực, đặc thù của cán
bộ chủ chốt cấp xã ở một số tỉnh phía Nam nước ta.
Sự thống kê một cách sơ lược về các công trình khoa học nói trên cho
thấy vấn đề đổi mới nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở đã được các
nhà khoa học đề cập ở các khía cạnh và với các mức độ khác nhau. Đặc biệt, liên
quan trực tiếp tới chủ đề của luận văn này là vấn đề về năng lực và hiệu quả hoạt
động của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã đã được soi sáng ở mức độ nhất
định. Với kết quả nghiêm cứu đạt được, các cơng trình nghiên cứu nói trên đã
cung cấp những tư liệu cần thiết cho việc triển khai các nghiên cứu tiếp theo về
chủ đề này theo hướng đi sâu hơn những nội dung đã được đề cập.
5
Tuy nhiên, từ góc độ của khoa học pháp lý, hiện chưa có cơng trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và xuất phát từ thực tiễn về yêu cầu
và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã. Đó
cũng chính là một trong những lý do để học viên xác định chủ đề của luận văn
thạc sĩ luật học "Chất lượng đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Nghệ
An" nhằm cung cấp tư liệu thực tế cho hoạt động nghiên cứu về chất lượng
đại biểu HĐND cấp xã nói chung, đồng thời trực tiếp nhằm mục tiêu nâng cao
hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã tại tỉnh Nghệ An nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về chất
lượng đại biểu HĐND cấp xã và thực trạng chất lượng hoạt động của đại biểu
HĐND cấp xã ở tỉnh Nghệ An, luận văn hướng tới đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã ở tỉnh Nghệ An.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn thực hiện các
nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chất lượng và nâng cao chất lượng của
đại biểu HĐND cấp xã.
- Đánh giá thực trạng chất lượng đại biểu HĐND cấp xã ở tỉnh Nghệ
An giai đoạn từ 2004 đến nay.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đại biểu
HĐND cấp xã ở tỉnh Nghệ An hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực
tiễn liên quan đến chất lượng của đại biểu HĐND cấp xã tại các xã thuộc các
huyện, thành, thị trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu luận văn: Về phạm vi không gian: Luận văn
tập trung nghiên cứu chất lượng đại biểu HĐND ở các phường, xã, thị trấn
của tỉnh Nghệ An thông qua việc thu nhập các báo cáo hoạt động và quy chế
hoạt động của HĐND; Quy chế phối hợp giữa Thường trực HĐND, UBND,
6
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An và các phường, xã, thị trấn; báo cáo
tổng hợp tiếp xúc cử tri, các nghị quyết đã được HĐND tỉnh và HĐND các
phường, xã, thị trấn ở tỉnh Nghệ An thông qua.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tổ
chức và hoạt động của HĐND nói chung, chất lượng của đại biểu HĐND nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, luận văn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp lịch sử,
phương pháp luật học so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương
pháp điều tra xã hội học, phương pháp thống kê ..
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Thông qua các nội dung nghiên cứu, luận văn góp phần làm rõ về mặt
lý luận và thực tiễn quy định của pháp luật về vai trị, vị trí, chức năng nhiệm
vụ, chất lượng hoạt động của HĐND cấp xã.
- Luận văn góp phần vào việc hoàn thiện cơ sở lý luận cho việc nâng
cao chất lượng đại biểu HĐND cấp xã ở tỉnh Nghệ An, đồng thời đề xuất giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng đại biểu HĐND cấp xã ở tỉnh Nghệ An.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc hồn thiện cơ sở lý luận cho việc nâng
cao chất lượng đại biểu HĐND cấp xã ở tỉnh Nghệ An. Từ đó, giúp cho cơ
quan lãnh đạo cấp tỉnh có quy hoạch, kế hoạch và phương pháp phù hợp
trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả về việc nâng cao chất lượng
của đại biểu HĐND cấp xã ở tỉnh Nghệ An phù hợp theo yêu cầu đổi mới.
- Luận văn được dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định
chính sách, các nhà quản lý, đồng thời giúp cho bản thân tác giả làm tốt hơn
nhiệm vụ và trách nhiệm của mình với cơng việc được giao.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐẠI BIỂU
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN CẤP XÃ
1.1.1. Khái niệm đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
Trong bộ máy nhà nước ta hiện nay, chính quyền cơ sở góp phần một
vai trị quan trọng, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, trực tiếp
tổ chức thi hành đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đảm bảo hiệu
quả triển khai nghị quyết của Đảng và những quy định của Nhà nước tại địa bàn
cơ sở. Bộ máy nhà nước ở Trung ương muốn vững mạnh thì phải thường xun
củng cố và kiện tồn chính quyền cơ sở. Đó cũng là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa
lâu dài của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta hiện nay.
Hiến pháp năm 1992 quy định chính quyền cấp xã là một cấp - cấp cơ
sở - trong hệ thống hành chính bốn cấp của bộ máy nhà nước ta hiện nay. Chính
quyền cấp xã là tổ chức nhà nước gần dân nhất nên không chỉ là nơi đảm bảo
cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện đầy đủ mà còn tạo điều kiện thiết thực
phát huy quyền dân chủ của các tầng lớp nhân dân tại cơ sở, đảm bảo quyền và
nghĩa vụ của mọi công dân, đồng thời tạo điều kiện cho người dân ổn định đời
sống vật chất và tinh thần trong phạm vi xã, phường, thị trấn.
Xét về mặt cấu trúc tổ chức, chính quyền cấp xã gồm hai bộ phận cấu
thành: HĐND cấp xã và UBND cấp xã. Như vậy, HĐND xã, phường, thị trấn
là bộ phận cấu thành không thể tách rời của chính quyền cấp cơ sở ở nước ta
hiện nay.
HĐND cấp xã ở Việt Nam là một hình thức tổ chức quản lý xã hội theo
kiểu mới, là hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực của nhân dân trong xã.
8
HĐND cấp xã do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho nhân dân trong
xã, đồng thời đại diện cho chính quyền nhà nước cấp trên.
Trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn hoạt động quản lý, HĐND
cấp xã có thể được nhận diện từ những khía cạnh khác nhau. Nhưng về cơ
bản, căn cứ và nhận thức chung về HĐND đã được xác định trong Luật Tổ
chức HĐND và UBND cũng như căn cứ vào tính đặc thù của địa bàn cơ sở,
có thể nêu khái nhiệm HĐND cấp xã như sau:
HĐND cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương bao gồm
các đại biểu do nhân dân trong xã trực tiếp bầu ra đại diện cho nhân dân tồn
xã, có tồn quyền quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội tại địa phương theo
quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân trong xã và chính
quyền nhà nước cấp trên.
Các chức năng cơ bản của HĐND được thực hiện thông qua kỳ họp
của HĐND, qua hoạt động của Thường trực HĐND, qua hoạt động các ban
của HĐND và qua hoạt động cá nhân của từng đại biểu HĐND. Như vậy,
dù với hình thức hoạt động nào thì yếu tố quyết định hiệu quả và chất
lượng hoạt động của HĐND suy cho cùng vẫn tùy thuộc vào hoạt động của
đại biểu HĐND.
Điều 121 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: Đại biểu HĐND là người
đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, phải liên hệ chặt chẽ
với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử
tri về hoạt động của mình và của HĐND, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử
tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Cụ thể hóa nội dung hiến định của Hiến pháp năm 1992, Điều 36 Luật
Tổ chức HĐND - UBND năm 2003 quy định:
Đại biểu HĐND là cơng dân nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tơn giáo, trình độ, văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú đủ
9
18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng
cử đại biểu HĐND theo quy định của pháp luật [30, tr.6].
Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân
địa phương, gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, tuyên
truyền vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật và tham gia vào
việc quản lý nhà nước.
Đại biểu HĐND phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra mình,
chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý
kiến, nguyện vọng, kiến nghị cử tri với HĐND và cơ quan nhà nước hữu quan
ở địa phương.
Theo cách hiểu đó, đại biểu HĐND cấp xã là công dân Việt Nam tại địa
phương, do nhân dân trong xã bầu ra, đại diện cho nhân dân trong xã và thực
hiện quyền lực nhà nước tại địa phương, chịu trách nhiệm trước cử tri trong
xã và chính quyền nhà nước cấp trên. Đại biểu HĐND xã thay mặt cho cử tri
của mình để quyết định những vấn đề tại địa phương, đồng thời lắng nghe ý
kiến của cử tri, chuyển những kiến nghị của cử tri đến tổ đại biểu HĐND và
Thường trực HĐND cấp xã để tổng hợp báo cáo trước HĐND, gửi tới cơ
quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền xem xét giải quyết.
Như vậy, đại biểu HĐND cấp xã là thành viên của cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân địa phương. Đại biểu HĐND cấp xã vừa chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương, vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà
nước cấp trên về mọi mặt kinh tế - xã hội, đảm bảo thực hiện Hiến pháp, Luật
và các quyết định của cơ quan nhà nước tại địa phương. Trong hoạt động, đại
biểu HĐND cấp xã thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, quyết
định các vấn đề quan trọng để phát huy các tiềm năng của địa phương, xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội, biến ý chí quyền lực của nhân dân trên địa
bàn trở thành quyền lực nhà nước, thể hiện bằng các quyết định của Nhà
10
nước, thực hiện quyền giám sát việc tuân theo pháp luật của UBND cùng cấp
và của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân đóng tại địa phương. Về thực chất, đại biểu HĐND cấp xã là
người thực hiện quyền lực nhân dân theo phương thức thay mặt cử tri trên
phạm vi địa bàn cơ sở. Bản thân quyền lực của người đại biểu HĐND cấp xã
có được là do nhân dân trao cho. Đại biểu HĐND cấp xã được hình thành
theo nguyên tắc bầu cử trực tiếp của cử tri.
1.1.2. Đặc điểm của đại biểu Hội dồng nhân dân cấp xã
Hội đồng nhân dân cấp xã có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, đại biểu HĐND cấp xã là đại diện tiêu biểu cho tiếng nói của
các tầng lớp nhân dân trong xã, đại diện cho trí tuệ tập thể của cử tri.
Tính đại diện nhân dân của đại biểu HĐND cấp xã được thể hiện ở
những điểm sau:
- Được nhân dân trong xã trao quyền, thể hiện ý chí, nguyện vọng của
nhân dân thơng qua các quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước.
Sự yêu cầu về lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân là cơ sở
căn cứ xác định nội dung hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã; đại biểu
HĐND cấp xã phải phán ánh trung thực và bảo vệ mọi quyền, lợi ích chính
đáng của cử tri nơi bầu ra mình. Cần quan tâm đến mọi nguồn thơng tin đại
chúng để hiểu rõ cái gì cử tri đang địi hỏi, để hình thành chương trình hoạt
động của đại biểu HĐND.
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền thay mặt nhân dân trong xã. Đó là
quyền thảo luận, quyền quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương
trong các kỳ họp HĐND; quyền thay mặt nhân dân khi quan hệ với các cơ
quan, tổ chức ở địa phương để yêu cầu giải quyết đảm bảo các quyền, lợi ích
hợp pháp của nhân dân. Trong hoạt động, mỗi đại biểu HĐND cấp xã cần
quan tâm trước hết là lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân địa phương,
của cộng đồng xã hội trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội địa phương,
trong bảo vệ lợi ích chung của dân tộc.
11
Thứ hai, đại biểu HĐND cấp xã là người trực tiếp thực hiện quyền lực
nhà nước của HĐND cấp xã.
Hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của từng đại biểu HĐND cấp
xã được phản ánh ở hai khía cạnh sau:
- Mỗi đại biểu HĐND cấp xã đều trực tiếp tham gia thực hiện quyền lực
nhà nước tại địa bàn cấp xã. Đại biểu là người quyết định những vấn đề quan
trọng của địa phương trong phạm vi thẩm quyền của HĐND, thực hiện quyền
giám sát của HĐND thông qua hoạt động chất vấn, nghe và xem xét báo cáo
của các cơ quan nhà nước trước HĐND trong việc thực hiện nghị quyết của
HĐND. Điều đó được đảm bảo thơng qua việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của
đại biểu HĐND trong thực tế.
- Đại biểu HĐND cấp xã là người đại diện cho cơ quan quyền lực trong
quan hệ với các cơ quan nhà nước khác và các viên chức nhà nước, với các tổ
chức xã hội và nhân dân. Đại biểu có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà
nước về việc thi hành pháp luật, về những vấn đề thuộc lợi ích chung. Đại
biểu HĐND có quyền u cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội kịp thời
chấm dứt việc làm trái pháp luật. Các cơ quan, tổ chức được đại biểu HĐND
cấp xã yêu cầu thì phải bố trí tiếp đại biểu theo đúng quy định. Đồng thời phải
có nghĩa vụ trả lời đại biểu HĐND khi có kiến nghị của đại biểu.
Đây là hoạt động gắn liền với chức trách đại biểu của đại biểu HĐND.
Để hoạt động của đại biểu có hiệu quả, pháp luật đưa ra những quy định
những cần thiết, tạo khả năng thực tế cho đại biểu thực hiện đầy đủ tính đại
diện nhân dân, thực thi quyền lực nhà nước trong hoạt động HĐND ở đơn vị
bầu cử. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm khóa IX Ban chấp hành Trung ương
Đảng về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị cơ sở xã,
phường, thị trấn, đã nhấn mạnh:
Đổi mới cơ chế bầu cử, bảo đảm cho dân đề cử, ứng cử, lựa chọn các đại
biểu HĐND thực sự là người đại diện cho dân, tăng thêm số lượng đại biểu
12
HĐND so với hiện nay, tăng tỷ lệ thích đáng đại biểu HĐND là người ngoài
Đảng; tăng số kỳ họp và nâng cao chất lượng các kỳ họp HĐND.
Thứ ba, đại biểu HĐND cấp xã thực hiện hoạt động đại biểu trong
khuôn khổ những quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định.
Đại biểu HĐND cấp xã có các quyền hạn và trách nhiệm sau:
Một là, quyền và nghĩa vụ trong tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã:
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền và nhiệm vụ tham gia đầy đủ các kỳ
họp, HĐND;
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền bầu cử và ứng cử trong các cơ quan
của HĐND;
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền bầu cử và ứng cử trong các cơ quan
của HĐND;
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền đề nghị đưa vào chương trình của kỳ
họp những vấn đề mà đại biểu HĐND xem xét thấy cần thiết để HĐND cấp xã
xem xét quyết định. Ý kiến của đại biểu phải được ghi vào biên bản kỳ họp;
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền chất vấn Chủ tịch UBND, các thành
viên của UBND và Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn khác thuộc UBND
cấp xã. Người bị chất vấn phải có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại
biểu HĐND chất vấn theo thủ tục pháp luật quy định;
- Đại biểu HĐND cấp xã được bầu vào các cơ quan tổ chức của HĐND.
Đại biểu HĐND cấp xã phải tôn trọng và chấp hành quy chế về tổ chức và
hoạt động do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Hai là, quyền và nghĩa vụ trong mối liên hệ với cử tri ở đơn vị bầu cử
của đại biểu:
- Đại biểu HĐND cấp xã phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, tiếp xúc cử tri theo
lịch, lấy ý kiến của cử tri về các vấn đề sẽ đưa vào nội dung trong kỳ họp HĐND;
- Đại biểu HĐND cấp xã phải báo cáo với cử tri về hoạt động của mình
và HĐND. Đồng thời chịu sự giám sát của cử tri về các hoạt động đó;
13
- Đại biểu HĐND cấp xã tham gia tổ chức thực hiện pháp luật và các
quyết định của HĐND và UBND cấp trên.
- Đại biểu HĐND cấp xã tiếp dân theo lịch được phân công hoặc theo
yêu cầu của nhân dân; khi nhận được kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của cơng
dân, đại biểu có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất ý kiến trực tiếp hoặc thông
qua tổ chức hoạt động của HĐND cấp xã để giám sát, chất vấn các cơ quan tổ
chức có thẩm quyền xem xét giải quyết những khiếu nại, tố cáo đó;
- Đại biểu HĐND cấp xã tham gia tổ chức thực hiện pháp luật và các
quyết định của HĐND và UBND cấp trên.
- Đại biểu HĐND cấp xã tiếp dân theo lịch được phân công hoặc theo
yêu cầu của nhân dân; khi nhận được kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công
dân, đại biểu có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất ý kiến trực tiếp hoặc thông
qua tổ chức hoạt động của HĐND cấp xã để giám sát, chất vấn các cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền xem xét giải quyết những khiếu nại, tố cáo đó;
Ba là, quyền của đại biểu HĐND cấp xã trong quan hệ với các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội và các đơn vị trên phạm vi hành chính và nghĩa vụ
của các cơ quan, tổ chức trong xem xét, yêu cầu của đại biểu và tiếp đại biểu.
- Theo ủy quyền của HĐND, đại biểu của HĐND cấp xã có quyền xem
xét hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội… về
những vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND cấp xã;
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền yêu cầu được cung cấp tài liệu, được
đảm bảo thông tin cần thiết cho hoạt động đại biểu. Các cơ quan có thẩm
quyền phải đảm bảo các yêu cầu đó cho đại biểu HĐND.
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền để nghị để hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đề nghị các biện pháp ngăn chặn tiêu cực trong cơ
quan tổ chức, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm đối với
những cán bộ, cơng chức nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật;
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền theo dõi, giám sát, đôn đốc hoạt
động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các công dân trong các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
14
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền yêu cầu gặp lãnh đạo các cơ quan, tổ
chức. Người có thẩm quyền phụ trách cơ quan phải có trách nhiệm tiếp và
giải quyết các u cầu đó;
Các cơ quan hành chính nhà nước và các cán bộ nhà nước trong phạm
vi thẩm quyền có trách nhiệm tạo điều kiện, cung cấp tư liệu, thông tin, địa
điểm tiếp xúc cử tri, phương tiện giao thông hoạt động đại biểu HĐND;
- Đại biểu HĐND cấp xã có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể trong hoạt động đại biểu HĐND.
Bốn là, quyền của đại biểu HĐND cấp xã trong tăng cường pháp chế.
Đảm bảo tăng cường và pháp chế là đòi hỏi đối với mọi tổ chức, cơ
quan, cán bộ, công chức và mọi công dân. Vì vậy, đại biểu vừa phải trực tiếp
tiến hành mọi hoạt động thuộc phạm vi chức năng, quyền hạn của HĐND cấp
xã theo đúng quy định của pháp luật, vừa có nghĩa vụ tham gia phát hiện đấu
tranh mọi hành vi vi phạm pháp luật, cụ thể:
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước
về việc thi hành chính sách, pháp luật và những vấn đề thuộc lợi ích chung
của cộng đồng dân cư tại cơ sở.
- Đại biểu HĐND có quyền yêu cầu tổ chức, cơ quan nhà nước chấm
dứt những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật hoặc xâm phạm đến quyền lợi
của nhân dân.
1.1.3. Vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
Đơn vị hành chính cấp xã là nơi hàng ngày, hàng giờ diễn ra các mối
quan hệ trên mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội mà các cơ quan nhà nước cấp
trên không thể giải quyết hết được. Bởi vậy, ở đó phải đặt ra bộ máy chính
quyền cơ sở, xem đó là mắt xích quan trọng của hệ thống tổ chức nhà nước từ
Trung ương đến địa phương, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong điều kiện cụ thể của thể chế nhà nước Việt Nam, pháp luật quy
định: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương bầu
15
ra theo ngun tắc: trực tiếp, phổ thơng, bình đẳng và bỏ phiếu kín; chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Như vậy, sự
hiện diện của đại biểu HĐND cấp xã trong bộ máy nhà nước là một nhu cầu
khách quan. Đó là bộ phận trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước tại cơ sở và
là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân địa phương.
Vai trò của đại biểu HĐND cấp xã được minh chứng rõ nét là người đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương. Đại biểu HĐND cấp
xã là người do nhân dân trực tiếp bầu ra, mỗi đại biểu HĐND xã đại diện cho
một khu vực dân cư, tổ chức đoàn thể, thành phần dân tộc, tôn giáo hoặc một
tổ chức nghề nghiệp trong địa bàn cấp xã. Từng đại diện HĐND xã đều có
quyền và nghĩa vụ chuyển tải đầy đủ yêu cầu, kiến nghị của chính tổ chức,
thành phần do mình đại diện vào chương trình hành động của HĐND cấp xã,
đồng thời xem xét, phân tích, đánh giá thể chế hóa những nội dung cần thiết
thành nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước tại cơ sở. Thông qua vai trị
đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương của đại biểu
HĐND, HĐND xã đã mang tính chất quyền lực. Như vậy từ khía cạnh này đại
biểu HĐND cấp xã giữ một vai trò quan trọng trong việc là người thay mặt
nhân dân địa phương thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, trong chức trách
là người thực hiện chức năng quyền lực trực tiếp giám sát mọi hoạt động của
UBND và các cơ quan, đơn vị chuyên môn trực thuộc UBND cùng cấp, bảo
vệ mọi quyền chính đáng, hợp pháp của nhân dân trên địa bàn dân cư của
người đại biểu. Đại biểu HĐND cấp xã là người vừa quyết định những biện
pháp cụ thể, vừa phải trực tiếp xử lý những vấn đề nẩy sinh từ thực tiễn q
trình thực hiện chính sách, pháp luật tại địa phương, kiểm nghiệm tính đúng
đắn, phù hợp trong những quyết định của cơ quan cấp trên cũng như kịp thời
phát hiện những vấn đề mới nẩy sinh tại cơ sở.
Từ cuộc bầu cử HĐND cấp xã khóa đầu tiên vào tháng 4 năm 1946 cho
đến nay, tổ chức và hoạt động HĐND xã ln được củng cố, hồn thiện theo
16
hướng ngày càng phát triển để đảm bảo đúng đặc trưng là một cơ quan quyền
lực, đại diện chân chính cho nguyện vọng, ý chí của tất cả nhân dân trên địa
bàn xã. Thực tiễn trong từng giai đoạn cách mạng Việt Nam đã chứng minh:
nếu đảm bảo vị trí, vai trị của đại biểu HĐND trong chính quyền cấp xã thì sẽ
hạn chế được rất nhiều những tiêu cực phát sinh trong đời sống xã hội và
trong quản lý nhà nước, giảm bớt những vụ việc khiếu kiện lên cấp trên và sẽ
tiết kiệm được thời gian, tiền bạc, công sức của nhân dân.
Hơn 7 thập kỷ qua, từ khi nhà nước dân chủ cộng hòa Việt Nam ra đời
đến nay, Đảng ta ln coi trọng vai trị của HĐND cấp xã là nền tảng cấu trúc
chiến lược trong xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Do vậy, cho đến nay vị
trí, vai trị của đại biểu HĐND cấp xã ln được tăng cường thơng qua q
trình hoàn thiện và nâng cao vị thế thực quyền của cơ quan quyền lực nhà
nước cấp cơ sở. Trong công cuộc đổi mới phát triển đất nước, đại biểu HĐND
cấp xã đã và đang phát huy vai trị của mình trong thực hiện thắng lợi đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước ở từng địa bàn
dân cư. Điều đó cho thấy đã có sự lớn mạnh và biến đổi sâu sắc về số lượng
và nâng lên chất lượng cả phẩm chất, năng lực, nhận thức của người đại biểu
theo yêu cầu, nhiệm vụ ở cấp cơ sở.
1.2. KHÁI NIỆM, CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ
CHẤT LƯỢNG ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.2.1. Khái niệm chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân
Trước khi phân tích các yếu tố cấu thành chất lượng đại biểu HĐND
cấp xã, nhất thiết cần làm rõ khái niệm “chất lượng”.
Theo từ điển Tiếng việt thì “chất lượng” hiểu theo nghĩa chung nhất là:
“cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một người, một sự vật, sự việc” [27, tr.28].
Như vậy, nói đến chất lượng của một cá nhân là nói đến khả năng đạt
được kết quả trong hoạt động nào đó của chính cá nhân đó. Muốn hoạt động
có kết quả thì cá nhân phải có những phẩm chất tâm lý nhất định phù hợp với
17
yêu cầu của hoạt động. Nếu những thuộc tính tâm lý cá nhân không phù hợp
với yêu cầu của hoạt động thì coi như khơng có chất lượng. Chất lượng khơng
phải là những thuộc tính riêng lẻ mà là một tổ hợp các thuộc tính cá nhân đáp
ứng yêu cầu cao của hoạt động. Tổ hợp khơng có nghĩa là các thuộc tính đó
tồn tại song song mà chúng có quan hệ và tác động lẫn nhau, thống nhất với
nhau theo yêu cầu nhất định.
Chất lượng của con người và là cái “tự nhiên” có sẵn, vừa là kết quả
của quá trình học tập, rèn luyện, hoạt động thực tiễn của con người. Có thể
nói rằng, chất lượng khơng phải là tư chất bẩm sinh thuần túy vốn có của con
người, tự động đảm bảo cho con người đạt kết quả trong hoạt động nào đó mà
nó là kết quả của sự phối hợp những tư chất bẩm sinh vốn có với sự rèn luyện,
tu dưỡng, học tập thơng qua hoạt động thực tiễn của con người.
Người cán bộ nói chung và người đại biểu HĐND nói riêng phải có
phẩm chất, đạo đức, trình độ, năng lực nhất định mới có thể hồn thành tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình. Chất lượng của người đại biểu HĐND trong
việc tư duy lý luận và năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn là hai nhân tố
quan trọng nhất tạo nên tài năng của mỗi người. Các yếu tố này có quan hệ
chặt chẽ với nhau, không thể tách rời nhau, cái này hỗ trợ cái kia phát triển.
Nếu người đại biểu HĐND khơng có khả năng tư duy lý luận thì khơng thể
nào có khả năng khái qt, sáng tạo và vận dung đúng đắn, linh hoạt. Trái lại,
chỉ có năng lực tư duy lý luận mà khơng có năng lực tổ chức thực tiễn thì
năng lực tư duy lý luận dần dần bị xơ cứng, giáo điều, thoát ly thực tiễn, thoát
ly cuộc sống, dễ rơi vào chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí.
Người đại biểu HĐND ln gần gũi với nhân dân địa phương bầu ra
mình, lắng nghe và truyền tải ý chí, nguyện vọng của cử tri đến cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, biến ý chí của nhân dân địa phương thành các quyết
định quản lý nhà nước. Điều đó địi hỏi đại biểu HĐND xã phải là người có
trình độ, năng lực mới có thể hoạt động tồn diện trên tất cả các lĩnh vực thì
mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Bởi vậy, ngoài các yếu
18
tố trên, người đại biểu HĐND cịn cần phải có tính sáng tạo, tính quyết đốn,
khả năng làm việc độc lập cũng như khả năng làm việc tập thể cao.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu, chất lượng của đại biểu HĐND là một
tổ hợp các khả năng của đại biểu giúp cho họ đạt được kết quả cao nhất khi
thực hiện các chức năng thuộc thẩm quyền của người đại biểu HĐND. Theo
nghĩa đó, chất lượng của đại biểu HĐND cấp xã là một tổ hợp các yếu tố
mang thuộc tính cá nhân giúp cho đại biểu HĐND cấp xã thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ được giao tại địa bàn cấp xã.
1.2.2. Các yếu tố cấu thành chất lượng đại biểu HĐND cấp xã.
Chất lượng của đại biểu HĐND cấp xã được cấu thành bởi các yếu tố sau :
Thứ nhất, chất lượng tư duy lý luận: Là tổng thể các phẩm chất trí tuệ
của người đại biểu có thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh nhạy,
đúng đắn về những vấn đề thực tiễn ở cấp độ lý luận, giúp cho người đại biểu
HĐND có những đề xuất sắc bén, khả năng vận dụng sáng tạo, linh hoạt, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND, biểu hiện:
Một là, khả năng xác lập tri thức. Đó là khả năng tiếp thu lý luận, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách đúng đắn; khả
năng phát hiện những mâu thuẫn, những vấn đề mới; khả năng tổng kết thực
tiễn; khả năng vận dụng sáng tạo lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách để
xây dựng chương trình, kế hoạch cơng tác, kế sách phát triển kinh tế - xã hội
phù hợp với thực tiễn địa phương.
Hai là, khả năng xác lập quan hệ giữa các tri thức. Đó là khả năng liên
kết tri thức ở các lĩnh vực, các ngành nghề chuyên môn đa dạng, phong phú
thành một tổng thể ở mức độ khái quát cao. Đồng thời cũng phân định được
tính đặc thù giữa các loại tri thức, thơng tin để khi vận dụng vào thực tiễn vừa
phải đảm bảo tính hệ thống, chỉnh thể ở tầm quốc gia, vừa phải đảm bảo tính
đặc thù phù hợp với địa phương.
Ba là, khả năng hiện thực hóa tri thức. Đó là khả năng biến những tri
thức đã lĩnh hội được thành các chủ trương, kế hoạch hành động làm biến
19
đổi lý luận với thực tiễn; vận dụng cái chung một cách đúng đắn vào từng
tình huống cụ thể. Đó cũng là khả năng tổng hợp để có cái nhìn hệ thống,
nắm được cái chủ yếu, cái bản chất của sự vật, hiện tượng trong sự vận
động của chúng, trên cơ sở đó đưa ra quyết định đúng đắn, sát hợp với thực
tế địa phương.
Như vậy, chất lượng tư duy lý luận của người đại biểu HĐND có giá trị
định hướng đúng đắn hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của họ.
Chất liệu trực tiếp tạo nên năng lực đó là những tri thức lý luận tiếp thu từ chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ kho tàng tri thức của nhân loại,
từ đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và từ
sự trải nghiệm trong phong trào cách mạng sâu rộng của địa phương.
Thứ hai, chất lượng tổ chức thực tiễn: Là khả năng hình thành một cơ
cấu chỉnh thể như một bộ máy với những bộ phận có chức năng ổn định hay
những con người cụ thể có nhiệm vụ xác định, hoạt động có trật tự, có nề nếp,
nhịp nhàng cân đối, có hiệu lực, hiệu quả nhằm hiện thực hóa mục tiêu đề ra.
Chất lượng tổ chức thực tiễn của người đại biểu HĐND được biểu hiện
cụ thể như sau:
Một là, khả năng thu nhận và xử lý thông tin liên quan đến mọi mặt của
đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phịng….) ở địa
phương một cách nhanh chóng và có hiệu quả cụ thể, thiết thực. Thơng qua hoạt
động tiếp xúc cử tri, tiếp xúc với nhân dân địa phương cũng như hoạt động hàng
ngày của mình, người đại biểu HĐND phải nắm bắt thấu đáo những nguyện
vọng của nhân dân, phải biết được những gì nhân dân đang quan tâm, đang cần
được giải quyết. Đại biểu HĐND là người trực tiếp gần dân nhất nên phải nắm
chắc tình hình ở cơ sở, ở địa phương để chuyển tải các vấn đề đó đến HĐND
xem xét, giải quyết. Do vậy để thu thập và xử lý thông tin đầy đủ, một mặt người
đại biểu HĐND phải bám sát thực tế, đối thoại dân chủ với nhân dân, gần dân,
tin dân; mặt khác, cần xây dựng phong cách làm việc khoa học.
20
Xét cho cùng, những quyết định và giải pháp mà người đại biểu HĐND
đưa ra đều phải xuất phát từ thực tiễn, bởi vậy họ cần phải có được lượng
thơng tin chính xác và phong phú để có các quyết định đúng đắn, kịp thời
trong hoạt động của mình. Sau khi có thơng tin, họ phải có khả năng tổng
hợp, khái quát, đánh giá, phân tích để đề ra những biện pháp hành động
đúng đắn. Kết quả nắm bắt và xử lý thơng tin kịp thời, chính xác, khách
quan quyết định chất lượng hoạt động của đại biểu HĐND nói riêng và của
cả HĐND nói chung.
Hai là, có khả năng tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của địa
phương. Sau khi nắm bắt thông tin từ cử tri, từ nhân dân địa phương, nắm bắt
được tình hình kinh tế, chính trị, xã hội…của địa phương, người đại biểu
HĐND phải trực tiếp tham gia quyết định các vấn đề về phát triển kinh tế, xã
hội của địa phương. Các quyết định do HĐND đưa ra có tính khả thi cao
trong thực tế hay không phụ thuộc vào khả năng đánh giá tình hình địa
phương và khả năng đưa ra các quyết định mang tính chất quyết đốn nhưng
khách quan, khoa học của từng đại biểu.
Ba là, có khả năng tổ chức thực hiện các quyết định, bố trí và phối hợp
với các lực lượng ở cơ sở; khả năng lôi cuốn, thu hút, thúc đẩy cán bộ và nhân
dân thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, các nghị quyết của HĐND cũng như nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra.
Đó là khả năng xử lý nhanh nhạy, chính xác những nhiệm vụ cơ bản trọng
tâm trước mắt và lâu dài, biết cách thay đổi nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với
sự biến đổi của tình hình. Đó chính là khả năng phối hợp hoạt động của người
đại biểu HĐND với những chủ thể khác nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp.
Bốn là, có khả năng kiểm tra việc thực hiện chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nghị quyết của HĐND để
phát hiện kịp thời những vấn đề mới nảy sinh để giải quyết, tìm ra những lệch
lạc, sai sót để góp ý sửa chữa, hoàn chỉnh các đại biểu HĐND quyết định đảm
21
bảo để các nghị quyết của HĐND đưa ra được chính xác, có tính khả thi cao
trong thực tế. Năng lực đó cịn thể hiện ở khả năng đánh giá hiệu quả việc
thực hiện các nghị quyết của HĐND và khả năng đúc rút kinh nghiệm thực
tiễn kịp thời, khả năng vận dụng những bài học kinh nghiệm thực tiễn có giá
trị vào cuộc sống. Thực tế cho thấy, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn khơng chỉ
có giá trị trong việc biểu quyết, quyết định chính xác mà cịn giúp tìm ra
những hình thức, biện pháp, cách thức thực hiện các quyết định một cách hiệu
quả nhất.
Năm là, năng lực sáng tạo, tính quyết đốn. Năng lực sáng tạo là khả
năng tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần, đặc biệt là tìm ra
được con đường mới trong những tình huống ln ln biến đổi ở địa phương
mà khơng gị bó, khơng phụ thuộc vào cái đã có. Nó là q trình suy lý, lập
luận chân thực, biết tìm ra cái mới, cái chưa biết từ cái đã biết thơng qua phán
đốn, suy luận, diễn dịch, quy nạp, so sánh… Đó cũng là khả năng phân loại
và hệ thống hóa vấn đề, xác định bản chất vấn đề. Năng lực đó rất cần thiết
trong hoạt động của người đại biểu HĐND đặc biệt khi tham gia quyết định
các vấn đề quan trọng của địa phương. Đồng thời với năng lực sáng tạo, tính
quyết đốn là khả năng phán đốn một cách quả quyết, có những quyết định
nhanh chóng và dứt khốt, khơng do dự, khơng rụt rè, khơng đùn đẩy, thối thác
thách trách nhiệm. Tính quyết đoán khác hẳn với bệnh hách dịch, cửa quyền,
liều lĩnh, phiêu lưu. Nó là sản phẩm của tính kiên quyết, tính chủ động, sự thận
trọng và niềm tin khoa học, biểu hiện cụ thể ở những khả năng sau:
- Khả năng phán đốn chính xác tình hình, đưa ra các quyết định kịp thời,
quyết định đó có được do sự nhạy cảm của năng lực trực giác, khả năng đoán định
trên cơ sở kiến thức phong phú, khả năng phân tích, tổng hợp….
- Khả năng ra quyết định một cách dứt khoát và giám chịu trách nhiệm
về quyết định của mình. Để có được khả năng này, người đại biểu HĐND
phải nhận biết trước được sự vận động của thực tiễn, biết lắng nghe và am
hiểu cơng việc mình đảm nhận.
22
- Ngoài các yếu tố cơ bản nêu trên, người đại biểu HĐND cịn phải có
năng lực làm việc với con người, với tập thể và khả năng làm việc độc lập.
Hoạt động của người đại biểu HĐND luôn luôn phải tiếp xúc với nhiều
người bằng nhiều phương thức khác nhau. Bởi vậy, khả năng giao tiếp không
chỉ là thành tố của năng lực đại biểu mà còn như một “nghệ thuật” để nâng
cao hiệu quả hoạt động của người đại biểu.
Phần lớn thời gian làm việc của đại biểu HĐND là hoạt động giao tiếp
(đối thoại) như: hội họp, tiếp xúc với cử tri, với nhân dân, tiếp xúc với các
phương tiện thơng tin đại chúng…chất lượng hồn thành nhiệm vụ của họ phụ
thuộc nhiều vào khả năng giao tiếp này. Qua giao tiếp mà các mối quan hệ xã
hội cũng như năng lực, phong cách công tác của họ được hình thành, hồn
thiện, kỹ năng, kỹ xảo được bộc lộ. Nhờ nghệ thuật giao tiếp mà người đại
biểu HĐND có thể nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của cử tri, của nhân
dân và chuyển tải tâm tư, nguyện vọng đó đến các kỳ họp của HĐND, vấn đề
đó trở thành quyền lực nhà nước. Người đại biểu HĐND cịn phải có khả
năng đồn kết, phát huy sức mạnh của toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Chất lượng làm việc với cá nhân, với tập thể còn là khả năng xây dựng
các mối quan hệ, thu hút mọi người tham gia vào công việc chung. Chẳng
hạn, biết đặt mình vào vị trí người khác, biết phát huy tính tích cực của đồng
nghiệp, của nhân dân, biết vì lợi ích chung, thương người, có thái độ điềm
tĩnh, cư xử nhã nhặn, lịch sự, tế nhị, khiêm tốn với nhân dân, tôn trọng nhân
dân, hiểu rõ tâm tư, tình cảm của họ, thơng cảm với họ, biết nghe dân nói, biết
nói cho dân nghe, biết phê bình và tự phê bình, biết khuyến khích cái hay, cái
tốt của người khác, biết tôn trọng ý kiến, phát huy sáng kiến của nhân dân.
Chất lượng đó biểu hiện rõ trong q trình phân tích, đánh giá tình hình, trong
thảo luận, lựa chọn phương án tối ưu, trong việc đề ra và thơng qua các nghị
quyết, chương trình, kế hoạch, trong tổ chức thực tiễn, kiểm tra, thuyết phục,
đặc biệt trong công tác vận động quần chúng.
23
Ngoài chất lượng giao tiếp, làm việc với tập thể, người đại biểu HĐND
cịn phải có khả năng làm việc độc lập, đó là khả năng tự nghiên cứu, phân tích
và đưa ra các quyết định mang tính chất cá nhân. Trên cơ sở đó, thơng qua các
kỳ họp, họ mới có khả năng tham gia ý kiến một cách độc lập dựa trên kết quả
làm việc độc lập của bản thân, đảm bảo tính dân chủ, khắc phục được tính hình
thức trong các kỳ họp của HĐND. Để làm được điều này, người đại biểu HĐND
phải có một tư duy lý luận sắc bén, có sự hiểu biết rộng rãi trong các mặt của đời
sống xã hội, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tính quyết đốn và tác phong làm
việc nghiêm túc, khoa học.
1.2.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã
Chất lượng đại biểu HĐND cấp xã là nhân tố quyết định chất lượng
hoạt động của HĐND cấp xã. Vì vậy, căn cứ vào các yếu tố cấu thành chất
lượng đại biểu Hội đồng nhân dân, làm rõ tiêu chuẩn của đại biểu HĐND cấp
xã và từ đó xác định các tiêu chí đánh giá chất lượng của đại biểu HĐND cấp
xã là điều kiện để bảo đảm chất lượng hoạt động của HĐND cấp xã trong việc
thực thi các chức năng, nhiệm vụ của HĐND trên địa bàn cơ sở.
Theo quy định tại điều 3, Luật Bầu cử đại biểu HĐND, đại biểu HĐND
phải đáp ứng đẩy đủ 5 tiêu chuẩn sau:
Một là, trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phấn đấu
thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và xây dựng, phát triển địa phương;
Hai là, có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành pháp luật, tích
cực đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham
nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật khác, bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân;
Ba là, có trình độ và năng lực thực hiên nhiệm vụ đại biểu HĐND, có
khả năng tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện chính sách,
24
pháp luật, am hiểu tình hình kinh tế - xã hội để tham gia quyết định những
vấn đề quan trọng ở địa phương;
Bốn là, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân,
được nhân dân tín nhiệm;
Năm là, có điều kiện tham gia các hoạt động của HĐND [30, tr.6].
Về cơ bản, các yếu tố cấu thành chất lượng đại biểu HĐND cấp xã thể
hiện thông qua hiệu quả hoạt động của họ. Liên quan đến hiệu quả hoạt động
của người đại biểu HĐND hiện nay có những quan niệm khác nhau, trong đó
có quan niệm cho rằng hiệu quả hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã đồng
nghĩa với những chi phí ít nhất (bao gồm những chi phí về vật chất, thời gian
và tinh thần….). Quan niệm như vậy phải chăng chỉ mới đánh giá được về
mặt định lượng, mà hoạt động của đại biểu HĐND ở đây có những mặt khơng
thể định lượng được, mà phải vừa có tính định tính, vừa có tính định lượng.
Trong thực tiễn, hiệu quả hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã là kết
quả thực tế do việc thực hiện các quy định pháp lý về quyền hạn, nhiệm vụ và
trách nhiệm của người đại biểu đem lại. Kết quả đó càng cao thì hiệu quả
càng lớn và ngược lại.
Trên cơ sở các tiêu chuẩn của người đại biểu HĐND theo quy định của
pháp luật hiện hành, có thể nêu ra một số tiêu chí đánh giá chất lượng của đại
biểu HĐND cấp xã, căn cứ vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của người
đại biểu thể hiện thông qua hiệu quả hoạt động của họ trên các phương diện sau:
Một là, mức độ chính xác và kết quả của việc phản ánh ý kiến của cử
tri, những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân trong xã đến HĐND cấp xã và
các cơ quan nhà nước khác. Để làm tốt cơng việc này địi hỏi người đại biểu
phải thực hiện nghiêm túc chế độ tiếp xúc với cử tri, của nhân dân địa
phương. Người đại biểu phải luôn gần dân, sát dân, biết lắng nghe và tơn
trọng các ý kiến, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đồng thời phải
truyền tải thật chính xác, khách quan, trung thực ý kiến của cử tri tới HĐND
và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
25
Hai là, khả năng bảo vệ nhân dân của người đại biểu. Biểu hiện cụ thể của
vấn đề này là người đại biểu có tinh thần đấu tranh và có đấu tranh kiên quyết
với những hành vi vi phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp, tự do, danh dự, nhân
phẩm, tính mạng, sức khỏe, tài sản của cơng dân hay khơng; người đại biểu có
sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân để bảo vệ quyền lợi của nhân dân hay khơng;
họ có dám đấu tranh chống lại các quyết định của các cơ quan nhà nước khi các
quyết định đó khơng đạt tính khả thi trên thực tế, thậm chí làm phương hại đến
đời sống của nhân dân hay không. Trước khi đưa ra các quyết định quan trọng
liên quan đến việc phát triển kinh tế, xã hội… của địa phương, người đại biểu có
thẳng thắn tranh luận để đi đến các phương án tối ưu nhất, người đại biểu có thể
hiện được khả năng quyết đốn, dám làm, dám chịu trước nhân dân hay không…
Thứ ba, khả năng tiến hành tốt các hoạt động chuẩn bị trước khi tham
gia kỳ họp của các đại biểu phải thật sự cơng phu, chu đáo, có tinh thần trách
nhiệm cao. Trước khi tham dự kỳ họp, người đại biểu phải tiến hành tiếp xúc cử
tri, chuẩn bị tài liệu, nghiên cứu các tài liệu được cung cấp liên quan đến chương
trình nghị sự của kỳ họp, tiến hành thảo luận tổ, tham gia các cuộc họp chuyên
đề… để có được các thông tin và sự hiểu biết thấu đáo các vấn đề liên quan đền
kỳ họp. Trước khi tham gia thảo luận xây dựng một nghị quyết, người đại biểu
phải nắm bắt một cách chính xác, sâu sắc vấn đề cần được quyết định.
Bốn là, khả năng giải quyết nhanh nhạy các vấn đề của cử tri đặt ra và
có uy tín với cử tri. Muốn vậy, người đại biểu phải có trình độ hiểu biết về
mọi mặt nhất là hiểu biết về pháp luật và phải có tinh thần phấn đấu cao.
Đồng thời người đại biểu phải thường xuyên duy trì mối quan hệ với cử tri và
nhân dân địa phương, luôn bám sát thực tiễn, nắm vững tâm tư, nguyện vọng,
yêu cầu và luôn chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO CHẤT
LƯỢNG ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng chất lượng đại biểu Hội dồng nhân dân
cấp xã