1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN nói chung và cải cách tư pháp nói riêng, Bộ Chính trị Ban chấp hành
Trung ương Đảng đã có Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm
2002 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020. Nghị quyết số 49 khẳng định: “xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN” [2]. Trong hoạt động đấu tranh
phòng và chống tội phạm ở các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử, các cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều được xác định vị trí, vai
trị quan trọng riêng, trong đó, Viện kiểm sát ngồi chức năng thực hành
quyền cơng tố cịn có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Do đó, kiểm sát
điều tra (KSĐT) các vụ án hình sự (VAHS) là một vấn đề cần được nghiên
cứu cả về phương diện lý luận cũng như về phương diện tổng kết thực tiễn
trong hoạt động áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát, đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp nói chung và cải cách tư pháp hình sự nói riêng.
Theo quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) và Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS) Việt Nam thì điều tra là một trong những hoạt động quan trọng
nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật có tính chất nguy hiểm cho xã
hội, có dấu hiệu tội phạm phải được điều tra làm rõ. Hoạt động KSĐT các
VAHS là một trong những hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND)
bảo đảm hoạt động điều tra chống tội phạm hình sự đạt hiệu quả và đúng pháp
luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Trước những địi hỏi, u cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm
hiện nay, việc nâng cao chất lượng hoạt động KSĐT của VKSND là một trong
những nội dung quan trọng được thể hiện ở nhiều nghị quyết của Đảng trong
2
thời gian qua. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ
Chính trị xác định: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp” [1].
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, trong bối cảnh cịn nhiều khó
khăn, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, song VKSND các cấp đã có sự
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng triển khai nhiều biện pháp
theo tinh thần cải cách tư pháp, trong đó có hoạt động KSĐT các VAHS và đã
đạt hiệu quả tích cực trong đấu tranh trấn áp tội phạm. Có thể thấy rõ là, trong
những năm qua số vụ phạm tội và đối tượng phạm tội được phát hiện kịp thời
hơn; tỷ lệ người bị bắt, tạm giữ chuyển khởi tố điều tra đảm bảo tính chính
xác; số vụ án, bị can đình chỉ điều tra do không phạm tội chiếm tỷ lệ không
đáng kể; đã khắc phục cơ bản tình trạng hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh
tế. Hầu hết các vụ án mà VKSND truy tố đều đảm bảo tính có căn cứ và đúng
pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất các oan sai trong tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động của VKSND
trong lĩnh vực này vẫn còn những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu
cầu của xã hội và công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. VKSND chưa làm tốt
công tác phối hợp trong quản lý thông tin tội phạm, nhiều vụ việc có dấu hiệu
tội phạm chưa được khởi tố điều tra theo quy định của pháp luật. Tội phạm về
tham nhũng, tội phạm về kinh tế chức vụ được phát hiện khởi tố, điều tra
chưa nhiều, một số vụ việc nổi cộm, bức xúc được dư luận xã hội quan tâm
chưa được xử lý kịp thời. Hoạt động KSĐT mặc dù đã có nhiều đổi mới song
vẫn chưa phát huy tính chủ động, chưa nghiêm túc thực hiện hoạt động KSĐT
ngay từ khi khởi tố vụ án. Tình trạng vi phạm thời hạn điều tra, vi phạm thời
hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn xảy ra cịn nhiều. Tuy khơng nhiều
nhưng vẫn cịn các vụ án, bị can được đình chỉ điều tra do không kết luận
được tội phạm; một số vụ án Viện kiểm sát truy tố song Tòa án tuyên bị cáo
3
không phạm tội. Một trong những nguyên nhân là do chính sách hình sự, các
quy định pháp luật về tố tụng hình sự cịn có nhiều bất cập, chậm được sửa
đổi bổ sung. Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, hoạt động
KSĐT các vụ án hình sự cũng còn bộc lộ những yếu kém, hạn chế nhất
định, nhiều Kiểm sát viên (KSV), nhiều đơn vị kiểm sát không thực hiện
được công tác KSĐT ngay từ giai đoạn đầu, còn làm thay một số thao tác
của Điều tra viên hoặc tình trạng thụ động, chờ việc ở cơ quan điều tra vẫn
còn phổ biến. Nhiều vụ án khi cơ quan điều tra kết thúc điều tra đề nghị xử
lý Kiểm sát viên mới tiếp xúc hồ sơ, từ đó dẫn đến chất lượng hồ sơ điều
tra không đảm bảo, việc thu thập tài liệu chứng cứ không đầy đủ, nhiều vi
phạm tố tụng chậm được phát hiện và tất yếu phải trả hồ sơ điều tra bổ
sung dẫn đến nhiều vụ án bị kéo dài, có vụ đã vi phạm pháp luật tố tụng
hình sự (TTHS), thậm chí cịn làm oan người vô tội, đã ảnh hưởng nhất
định đến q trình đấu tranh phịng, chống tội phạm.
Xuất phát từ những lý do nêu trên và từ nhận thức việc áp dụng pháp
luật (ADPL) trong hoạt động KSĐT các VAHS là một trong những vấn đề cần
quan tâm nghiên cứu nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động này của
VKSND, học viên lựa chọn đề tài: "Áp dụng pháp luật trong hoạt động
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao” để
viết luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Nhà nước
và pháp luật tại Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về ADPL trong hoạt động tư
pháp nói chung và ADPL trong KSĐT các VAHS nói riêng. Các nghiên cứu
này đã được thể hiện trong các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ, một số giáo
trình giảng dạy mơn pháp luật của các trường Đại học và trong nhiều cơng
trình khoa học đã được cơng bố trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành.
4
Phần lớn các cơng trình khoa học này đã tập trung làm rõ được các vấn đề lý
luận và thực tiễn pháp lý có liên quan. Có thể nêu ra như sau:
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự của Đại học Luật Hà Nội.
Đề tài nghiên cứu cấp bộ: “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong
hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp” của Viện khoa học kiểm
sát VKSNDTC năm 2008;
Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội, 2004.
Sổ tay kiểm sát viên hình sự của Viện Khoa học hình sự Viện kiểm sát
nhân dân tối cao (VKSNDTC), Nxb Văn hóa dân tộc, 2006.
Bùi Mạnh Cường: "Áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố các vụ án
ma túy theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay", luận văn Thạc sĩ
Luật học, 2007.
Hà Văn Khanh: "Áp dụng pháp luật trong quản lý hành chính nhà
nước về đất đai ở thành phố Hà Nội", luận văn Thạc sĩ Luật học, 2007.
Tạ Văn Hồ: "Áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự đối với các tội
phạm về chức vụ ở Việt Nam hiện nay", luận văn Thạc sĩ Luật học, 2007.
Trần Minh Tạo: "Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu", luận văn Thạc sĩ Luật học, 2008.
Nguyễn Ngọc Khánh: “Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc quyết
định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp cưỡng chế tố tụng
khác trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”Tạp chí Kiểm
sát, tháng 1/2011
Đặng Văn Thìn :"Áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra
các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang" Luận văn Thạc
sỹ luật học, 2010.
5
Dương Thanh Biểu: “Thể chế hóa các quan điểm của Đảng về cải
cách tư pháp trong Bộ luật Tố tụng hình sự” in trong phần kỷ yếu đề tài
nghiên cứu cấp Bộ: “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động
điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp” của Viện khoa học kiểm sát
VKSNDTC năm 2008;
Khuất Văn Nga: “ Viện kiểm sát nhân dân trên con đường cải cách tư
pháp sắp tới” in trong phần kỷ yếu đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Tăng cường
trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư
pháp” của Viện khoa học kiểm sát VKSNDTC năm 2008;
Hoàng Nghĩa Mai: “Nâng cao trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các
vụ án hình sự”, in trong phần kỷ yếu đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Tăng cường
trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư
pháp” của Viện khoa học kiểm sát VKSNDTC năm 2008;
Trần Thanh Thủy: “Bàn về văn bản yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên
trong hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát tháng 3/2011.
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu, khảo sát về ADPL trong
hoạt động KSĐT các VAHS của VKSNDTC một cách tồn diện và có hệ thống;
luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này tại VKSNDTC ở cấp
độ luận văn Thạc sĩ Luật học. Các công trình nghiên cứu đã được thực hiện là
nguồn tư liệu rất phong phú cho học viên thực hiện luận văn tốt nghiệp của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và tổng kết thực tiễn
ADPL trong hoạt động KSĐT các VAHS, Luận văn đề xuất các phương hướng và giải pháp bảo đảm ADPL trong hoạt động KSĐT các VAHS của
VKSND tối cao.
6
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện tốt mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
Phân tích cơ sở lý luận của ADPL trong hoạt động KSĐT các VAHS.
Phân tích, đánh giá thực trạng ADPL trong hoạt động KSĐT các
VAHS của VKSND tối cao; neeu và đánh giá nguyên nhân của kết quả và
nguyên nhân của hạn chế hoạt động ADPL trong hoạt động KSĐT các
VAHS.
Phân tích và đề xuất các phương hướng, giải pháp bảo đảm ADPL
đúng đắn trong hoạt động KSĐT các VAHS của VKSND tối cao trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động điều tra các VAHS và vai trò của VKS trong kiểm sát hoạt
động điều tra các VAHS.
Những vấn đề lý luận về ADPL trong hoạt động KSĐT các VAHS.
Thực tiễn ADPL trong hoạt động KSĐT của VKSNDTC đối với hoạt
động điều tra của cơ quan điều tra cấp Trung ương thuộc Bộ Công an và cơ
quan điều tra thuộc VKSNDTC.
Những nguyên nhân tồn tại, hạn chế khi ADPL trong quá trình điều tra
và KSĐT các VAHS.
Những phương hướng và giải pháp bảo đảm hiệu quả ADPL trong hoạt
động KSĐT các VAHS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ của luận văn, phạm vi nghiên cứu
của luận văn như sau:
Tập trung nghiên cứu, khảo sát hoạt động ADPL trong KSĐT các
VAHS của VKSNDTC
7
Phạm vi nghiên cứu, khảo sát thực trạng áp dụng pháp luật trong
KSĐT các VAHS theo thẩm quyền của VKSNDTC từ năm 2007 đến năm
2011.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam, khoa học lý luận về lịch sử Nhà nước và Pháp luật nói chung, lý
luận về ADPL nói riêng. Các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng
cường pháp chế trong đấu tranh phòng chống tội phạm, xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, phát huy dân
chủ, công khai minh bạch đối với hoạt động của các cơ quan cơng quyền
trong đó có hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là quan điểm mục
tiêu nội dung về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị: "về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020".
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử trong triết học Mác-Lênin. Đồng thời, còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau đây trong thực hiện các chương của luận văn:
Phương pháp hệ thống cấu trúc để nghiên cứu cả 3 chương
Phương pháp phân tích và tổng hợp để nghiên cứu chương 1, chương 3
Phương pháp quy nạp và diễn dịch và phương pháp trừu tượng hóa và
cụ thể hóa để nghiên cứu chương 1.
Phương pháp lịch sử logic, để nghiên cứu cả 3 chương.
Các phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp tổng
kết kinh nghiệm được sử dụng nghiên cứu chủ yếu ở chương 2.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
8
Luận văn là cơng trình khảo sát đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối
có hệ thống và tồn diện ở cấp độ luận văn Thạc sĩ Luật về hoạt động ADPL
nói chung và ADPL trong hoạt động KSĐT các VAHS của VKSNDTC nói
riêng, luận văn có những đóng góp khoa học mới, cụ thể như sau:
Về phương diện lý luận: Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan
đến hoạt động ADPL nói chung và ADPL trong hoạt động KSĐT các VAHS
nói riêng, trong đó xác định những vấn đề lý luận của ADPL trong hoạt động
KSĐT các VAHS của VKSNDTC.
Về phương diện thực tiễn: luận văn đánh giá khách quan, khoa học về
thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế, đồng thời đề ra những
phương hướng và giải pháp, nhằm thực hiện có hiệu quả hơn hoạt động ADPL
trong KSĐT các VAHS của VKSND tối cao.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM ĐIỀU TRA, KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ
VAI TRỊ CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm điều tra vụ án hình sự và kiểm sát điều tra vụ án
hình sự
Về khái niệm điều tra vụ án hình sự
Do tính chất hoạt động của các loại tội phạm đòi hỏi phải được các cơ
quan chức năng điều tra khám phá để xử lý. Nhiệm vụ khám phá tội phạm đặt
9
ra cho các cơ quan bảo vệ pháp luật phải xác định và làm rõ các vấn đề phải
chứng minh trong vụ án hình sự.
Theo Điều 63 BLTTHS năm 2003 thì những vấn đề phải chứng minh
trong vụ án hình sự:
Có hành vi phạm tội xảy ra hay khơng, thời gian, địa điểm và những
tình tiết khác của hành vi phạm tội;
Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay khơng có lỗi, do cố
ý hay vơ ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay khơng; mục đích hoặc động
cơ phạm tội;
Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân bị can, bị cáo;
Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều tra. Bị can,
bị cáo có quyền nhưng khơng bắt buộc chứng minh mình vơ tội, vì thế cơ
quan điều tra phải tìm cho được những chứng cứ để làm rõ u cầu trên, thì
đó chính là điều tra.
Như vậy, xét về mặt tổng thể dưới góc độ lý luận, thấy rằng: Điều tra
tội phạm là một q trình nhận thức, thơng qua các hoạt động thu thập, nghiên
cứu, phân tích, đánh giá tài liệu, tình hình phản ánh thực tế khách quan về tội
phạm, về vụ phạm tội, bằng các hình thức, biện pháp, phương tiện chuyên
môn của cơ quan chuyên trách để khám phá tội phạm; vạch trần kẻ phạm tội;
phòng ngừa ngăn chặn mọi thiệt hại do tội phạm gây ra. Đây là q trình thu
thập những thơng tin, tài liệu, số liệu … phản ánh sự thật về một tổ chức, con
người, việc, hiện tượng hoặc địa bàn. Phục vụ cho cơng tác nắm, quản lý tình
hình về an ninh trật tự.
Trên cơ sở đó, tác giả rút ra khái niệm điều tra vụ án hình sự:
Điều tra vụ án hình sự là hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và
cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm
10
xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị
truy tố, tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ
quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa
Về cơ quan điều tra hình sự và hoạt động điều tra hình sự
Vị trí cơ quan điều tra hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam được
xác định trong hệ thống tổ chức các cơ quan điều tra hình sự như sau:
Cơ quan điều tra hình sự được tổ chức trong Cơng an nhân dân, Quân
đội nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. CQĐT trong Cơng an nhân dân có
cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp
tỉnh và cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện; cơ quan An ninh điều
tra Bộ Công an và cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh. Cơ quan Cảnh
sát điều tra Bộ Cơng an gồm có Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã
hội, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, Cục Cảnh sát điều tra tội
phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về
ma túy và Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra. Cơ quan An ninh điều tra Bộ
Công an gồm có các phịng điều tra, phịng nghiệp vụ và Văn phòng cơ quan
An ninh điều tra. Như vậy, CQĐT trong Công an nhân dân cùng cấp với
VKSND tối cao là các cơ quan Cảnh sát điều tra và cơ quan An ninh điều tra Bộ
Công an.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Cơng an có thẩm quyền điều tra những
vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm
quyền điều tra của CQĐT cấp tỉnh nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra
(khoản 4 Điều 110 BLTTHS và khoản 3 Điều 11 Pháp lệnh tổ chức điều tra
hình sự). Cơ quan An ninh điều tra Bộ Cơng an có thẩm quyền điều tra các vụ
án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm
quyền điều tra của cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh nhưng xét thấy
cần trực tiếp điều tra (khoản 3, Điều 12 PLTCĐTHS).
11
Cơ quan điều tra Bộ Cơng an có quyền điều tra các hành vi phạm tội
gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội đó là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Những tội
phạm phức tạp, liên quan đến những cơ quan, bộ, ban ngành Trung ương,
những tội phạm hoạt động có tổ chức, kết cấu chặt chẽ phạm vi trong nước,
hoặc liên quan đến nước ngoài; hành vi tội phạm diễn ra địa bàn rộng, nhiều
tỉnh, khu vực hoặc nhiều quốc gia, khi chủ thể của tội phạm là những người
có chức vụ, uy tín cao trong bộ máy nhà nước, tổ chức chính trị, tôn giáo hoặc
xét thấy việc điều tra của CQĐT của Công an cấp tỉnh không đảm bảo các yêu
cầu về nội dung, thời hạn cũng như yếu tố khách quan khác.
Trước đây, CQĐT của VKS được tổ chức ở hai cấp, Cục Điều tra
VKSND tối cao và Phòng điều tra VKS cấp tỉnh. Tuy nhiên, hiện nay khơng
cịn Phịng điều tra VKSND cấp tỉnh. Cơ quan điều tra VKSND tối cao (Cục
Điều tra) là CQĐT chuyên trách, duy nhất có thẩm quyền điều tra tội xâm
phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ của các cơ quan tư
pháp, quy định tại Chương 22 BLHS, chủ thể tội phạm là cán bộ của các cơ
quan tư pháp (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,…) và tội phạm đó
phải thuộc thẩm quyền xét xử của Tịa án nhân dân.
Hoạt động điều tra hình sự là việc thực hiện trong thực tế các nhiệm
vụ và quyền hạn của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng và của Điều tra viên theo
luật định nhằm thực hiện chức năng điều tra các vụ án hình sự, làm cơ sở, căn
cứ để truy tố bị cáo, không truy tố bị can ra trước tòa xét xử.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì hoạt động của
Thủ trưởng cơ quan điều tra hình sự là việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền
hạn như: Trực tiếp tổ chức và chỉ đạo các hoạt động điều tra của cơ quan điều
tra; Quyết định phân cơng Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên
trong điều tra các vụ án hình sự; Kiểm tra các hoạt động điều tra của cấp phó
12
và Điều tra viên; có quyền hạn thay đổi hoặc hủy bỏ các quyết định khơng có
căn cứ và trái pháp luật của cấp phó của mình và Điều tra viên; Quyết định
thay đổi Điều tra viên; Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của cơ
quan điều tra. Trong khi thực hiện việc điều tra các vụ án hình sự, Thủ trưởng
cơ quan điều tra có quyền ra các quyết định về các việc sau:
Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định không khởi tố vụ
án, quyết định nhập hoặc tách vụ án; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy
bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết định truy nã bị can, khám xét, thu giữ, tạm
giữ, kê biên tài sản, xử lý vật chứng; quyết định trưng cầu giám định, quyết
định khai quật tử thi; kết luận điều tra vụ án; quyết định tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ điều tra, quyết định phục hồi điều tra; trực tiếp tiến hành các biện
pháp điều tra; cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định
và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của cơ quan điều
tra. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về các quyết định và hành vi của mình.
Đối với điều tra viên, hoạt động điều tra bao gồm việc thực hiện các
công vụ sau đây: Lập hồ sơ vụ án hình sự; triệu tập và hỏi cung bị can; triệu
tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; quyết định áp giải bị can,
dẫn giải người làm chứng. Điều tra viên thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam,
khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản; tiến hành khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra và các
hoạt động khác thuộc thẩm quyền. Điều tra viên phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật và trước Thủ trưởng cơ quan điều tra.
Luận văn này nghiên cứu việc áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát
điều tra các VAHS của VKSNDTC đối với hoạt động điều tra của cơ quan điều tra
cấp Trung ương thuộc Bộ Công an và cơ quan điều tra thuộc VKSNDTC.
13
Về khái niệm kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp. Nhiệm vụ của VKSND là kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra và của các cơ quan
khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Tòa án nhân dân, trong việc thi hành
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án nhân dân; kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ và cải tạo; điều tra tội phạm
trong những trường hợp do pháp luật TTHS quy định.
KSĐT là một nhiệm vụ quan trọng trong số các nhiệm vụ mà ngành
Kiểm sát nhân dân phải thực hiện.
Theo Từ điển Luật học thì: Cơng tác kiểm sát việc tn theo pháp luật
trong điều tra của các cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra bằng các hoạt động sau:
Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra.
Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra.
Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra (Ví
dụ, khám chỗ ở, khám người, đồ vật,…); Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn (Ví dụ, bắt khẩn cấp, bắt tạm giam, hủy bỏ
tạm giữ, tạm giam); hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra.
Yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt
động điều tra, thay đổi, xử lý Điều tra viên vi phạm pháp luật; nếu hành vi của
Điều tra viên đó có dấu hiệu phạm tội thì khởi tố về mặt hình sự.
Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra, quyết định truy tố bị can.
Kiến nghị tới các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện
pháp phòng ngừa tội phạm.
14
Hoạt động KSĐT các VAHS được quy định trong BLTTHS hiện hành.
Như vậy, KSĐT VAHS là hoạt động áp dụng pháp luật của VKSND có phạm
vi rộng lớn, xuyên suốt từ khi phát hiện dấu hiệu phạm tội, làm rõ hành vi,
tính chất, mức độ, hậu quả của tội phạm, nhân thân kẻ phạm tội và truy tố kẻ
phạm tội ra trước Tòa án nhân dân để xét xử; bảo đảm mọi hành vi phạm tội
đều phải được điều tra, xử lý nghiêm minh, không bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội.
1.1.2. Một số hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự
1.1.2.1. Kiểm sát việc khởi tố vụ án
Khởi tố vụ án hình sự là một quyết định mang tính pháp lý của cơ
quan chức năng bao gồm: Cơng an, VKS, Tịa án và một số cơ quan chức
năng khác được pháp luật trao thẩm quyền. Trong phạm vi của luận văn này,
học viên chỉ xin đề cập tới việc khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra của
ngành Công an nhân dân và cơ quan điều tra thuộc VKSNDTC.
Căn cứ theo Điều 100 BLTTHS năm 2003, thì căn cứ khởi tố vụ án
được quy định chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội
phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
Tố giác của công dân.
Tin báo của các cơ quan, tổ chức.
Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm
lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm.
Người phạm tội tự thú.
Khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp lý đầu tiên để tiến hành điều tra
xử lý vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Khi đã xác định được các dấu
15
hiệu của tội phạm theo Điều 100 của BLTTHS năm 2003 thì cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định khởi tố vụ án. Do đó các thơng tin, tài liệu ban đầu có thể
chưa chính xác, chưa đầy đủ và sẽ được bổ sung trong q trình điều tra, thậm
chí có thể phát sinh những tình tiết, điều kiện mới làm thay đổi căn bản bản
chất vụ việc; hoặc một số loại tội phạm có mặt khách quan gần giống nhau
(như các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản); nhưng khi xác định về mặt khách quan, chủ thể của tội phạm và các
tình tiết khác của vụ án thì mới xác định chính xác là tội phạm gì, người phạm
tội đã thực hiện những hành vi tội phạm nào. Do đó, thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố vụ án hình sự là một thực trạng thường hay gặp trong quá
trình điều tra các vụ án hình sự.
1.1.2.2. Kiểm sát khởi tố bị can
Theo Từ điển Luật học: "Khi đã có đủ căn cứ để xác định một người
nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan điều tra ra quyết định khởi
tố đối với người đó" [31, tr.254-255].
Theo quy định tại Điều 126 của BLTTHS năm 2003 thì: Khởi tố bị
can là việc cơ quan điều tra hoặc VKS xác định một người đã thực hiện hành
vi phạm tội cụ thể bằng một quyết định để bắt đầu tiến hành TTHS về người
đó với tư cách là bị can.
Việc khởi tố bị can là hoạt động tố tụng có ảnh hưởng đến uy tín,
danh dự, nhân phẩm của người bị khởi tố. Cho nên, cơ quan điều tra phải
giao ngay quyết định khởi tố bị can; thay đổi bổ sung quyết định khởi tố bị
can cho người bị khởi tố và phải giải thích rõ quyền và nghĩa vụ cho bị can
theo quy định tại Điều 44 BLTTHS năm 2003, việc giao nhận phải được lập
biên bản cụ thể.
1.1.2.3. Kiểm sát việc áp dụng, thay thế, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn
16
Biện pháp ngăn chặn là một loại biện pháp cưỡng chế do cơ quan
điều tra. VKS, Tòa án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội,
đối với bị can, bị cáo và cả bị án. Khi các cơ quan này có căn cứ cho
rằng những người này sẽ gây khó khăn trong việc điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội mới [44, tr.502-503].
Các biện pháp ngăn chặn trong TTHS gồm: Tạm giữ, tạm giam, cấm
đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Về điều kiện bắt bị can bị cáo để tạm giam, theo Điều 80 BLTTHS
năm 2003 quy định: Phải là những bị can phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm
trọng mà BLHS quy định hình phạt tù từ trên 2 năm và có căn cứ cho rằng
người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp
tục phạm tội.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do cơ quan điều tra,
VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm
trọng mà BLHS hiện hành quy định hình phạt tù từ trên hai năm và có căn cứ
để cho rằng người đó trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp
tục phạm tội. Tạm giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, đối tượng
bị tạm giam bị tước bỏ một số quyền tự do thân thể và bị hạn chế một số
quyền nhân thân khác.
1.1.2.4. Kiểm sát việc hỏi cung
Hỏi cung bị can là hoạt động do Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên tiến
hành đối với bị can, yêu cầu bị can phải khai báo tội lỗi của mình và đồng bọn
trong vụ án (nếu là đồng phạm); cũng như những tình tiết khác có liên quan
nhằm làm rõ tồn bộ vụ án, phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và
phòng ngừa tội phạm.
17
Kiểm sát việc hỏi cung bị can là hoạt động của VKSND, sử dụng các
quyền năng pháp lý độc lập để kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Điều tra
viên hoặc Kiểm sát viên trong quá trình hỏi cung bị can nhằm đảm bảo cho
việc hỏi cung được khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 14 Luật tổ chức VKSND; Điều 49, khoản 1
Điều 113 và Điều 131, Điều 132 BLTTHS năm 2003; sau khi nhận được
quyết định khởi tố bị can và các tài liệu liên quan do VKS chuyển đến, cơ
quan điều tra, phải giao ngay quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can
cho bị can, đồng thời tiến hành ngay việc hỏi cung. Đây là thời điểm mà kiểm
sát viên bắt đầu kiểm sát việc hỏi cung bị can.
1.1.2.5. Kiểm sát việc lấy lời khai người làm chứng
Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến vụ
án hình sự. Lấy lời khai của người làm chứng là hoạt động điều tra do điều tra
viên hoặc kiểm sát viên tiến hành để thu thập lời khai theo trình tự TTHS của
những người biết được những thơng tin về vụ án hình sự, phục vụ cho công tác
điều tra xử lý tội phạm. Việc lấy lời khai của người làm chứng phải được lập thành
biên bản theo quy định tại Điều 95, Điều 125 và Điều 136 BLTTHS năm 2003.
Khi lấy lời khai người làm chứng, điều tra viên hoặc kiểm sát viên
phải tuân thủ theo quy định tại Điều 135 BLTTHS năm 2003.
1.1.2.6. Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường
Khám nghiệm hiện trường là hoạt động nghiệp vụ trong TTHS, do các
cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành.
Khám nghiệm hiện trường là dạng hoạt động tố tụng, đồng thời là biện
pháp nghiệp vụ cấp bách do cơ quan điều tra tiến hành theo Điều 150
BLTTHS, cơ quan điều tra tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát
hiện tội phạm nhằm phát hiện dấu vết của tội phạm, những chứng cứ
và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án [31, tr.246].
18
Khám nghiệm hiện trường là những hoạt động tố tụng quan trọng của
cơ quan tiến hành tố tụng. Có thể nói, hoạt động khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi là cái "gốc", là "xuất phát điểm" của mọi hoạt động điều
tra, khám phá vụ án hình sự. Tại hiện trường, là nơi tập trung nhiều nhất các
dấu vết, các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội.
1.1.2.7. Kiểm sát việc khám nghiệm tử thi
Khám nghiệm tử thi được tiến hành khi phát hiện có người chết chưa
rõ nguyên nhân. Người chết có thể do: bị giết, bị tai nạn, tự sát hoặc do bệnh
lý (Ví dụ, chết do sốc ma túy, do say rượu) … Tuy nhiên, để xác định nguyên
nhân chết thì cần phải tiến hành khám nghiệm tử thi.
Việc khám nghiệm tử thi phải do điều tra viên chủ trì; có sự tham gia
của bác sỹ pháp y và người chứng kiến. Khi khám nghiệm tử thi, tùy thuộc
vào kết quả khám nghiệm mà điều tra viên, sau khi đã tham khảo ý kiến của
bác sĩ pháp y có thể quyết định khám nghiệm bên ngồi, khám nghiệm bên
trong hoặc khám nghiệm một cách tổng thể tử thi. Khi khám nghiệm tử thi,
tùy theo yêu cầu, kết quả khám nghiệm và tùy theo tình trạng của tử thi mà có
quyết định thu mẫu vật hay khơng. Trong trường hợp cần phải khai quật tử thi
thì phải có quyết định của cơ quan điều tra và phải thông báo cho gia đình nạn
nhân biết trước khi tiến hành khai quật tử thi. Trong mọi trường hợp việc
khám nghiệm tử thi phải được thông báo trước cho VKSND cùng cấp biết.
Kiểm sát viên phải có mặt để giám sát quá trình khám nghiệm tử thi.
1.1.2.8. Kiểm sát việc tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự (được quy
định tại Điều 160 BLTTHS năm 2003)
Quá trình điều tra là quá trình thu thập tài liệu và chứng cứ để chứng
minh người phạm tội và làm rõ toàn bộ nội dung vụ án để xử lý đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Xuất phát từ bản chất của chế độ ta là ưu việt;
19
những người ốm đau, bệnh tật nguy hiểm mặc dù họ phạm tội, họ vẫn được
cộng đồng và gia đình chăm sóc và chữa bệnh.
Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác mà có
chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y thì có thể được tạm đình chỉ điều
tra trước khi hết hạn điều tra vụ án hình sự.
Trong trường hợp đã xác định được bị can, nhưng do không kịp tiến
hành các biện pháp ngăn chặn nên để bị can bỏ trốn hoặc khơng biết rõ bị can
đang ở đâu thì tạm đình chỉ điều tra bị can khi đã hết thời hạn điều tra vụ án
hình sự. Trường hợp này cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi
ra quyết định tạm đình chỉ.
Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can mà lý do tạm đình chỉ điều tra
khơng liên quan đến tất cả các bị can thì có thể tạm đình chỉ điều tra đối với
từng bị can.
1.1.2.9. Kiểm sát việc đình chỉ điều tra (được quy định tại Điều 146
BLTTHS năm 2003)
Nếu hết thời hạn điều tra vụ án hình sự mà tài liệu thu thập được xác
định không đủ cơ sở cấu thành tội phạm hoặc kết luận khơng phải là tội phạm
thì cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự. Bản kết
luận phải nêu rõ quá trình điều tra, lý do và các căn cứ đình chỉ điều tra.
Những căn cứ mà cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra
vụ án hình sự:
Khi người bị hại có quyền khởi tố vụ án theo quy định tại Khoản 2,
Điều 105 BLTTHS năm 2003 mà họ rút yêu cầu khởi tố vụ án.
Khi bị can tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo quy định tại
Điều 19 BLHS năm 1999.
Khi thấy cần miễn trách nhiệm hình sự thì cơ quan điều tra ra quyết
định đình chỉ điều tra.
20
Quyết định truy tố (được quy định tại Điều 166, 167 BLTTHS năm
2003)
Sau khi kết thúc điều tra vụ án hình sự, cơ quan điều tra chuyển tồn
bộ hồ sơ vụ án sang VKS để VKS thực hiện chức năng truy tố bị can theo quy
định của pháp luật. "Truy tố là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó
Viện kiểm sát tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm truy tố bị can ra trước
Tòa án bằng một bản cáo trạng hoặc những quyết định truy tố khác để giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự" [24, tr.254].
VKS ra quyết định truy tố bằng một bản cáo trạng (nếu vụ án không
phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ) là giai đoạn
cuối cùng của công tác KSĐT các vụ án hình sự của VKSND.
Điều 166 BLTTHS năm 2003 quy định trong thời hạn hai mươi ngày,
đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng và trong thời hạn
ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng; kể
từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, VKS phải ra một
trong các quyết định sau:
Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng.
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Trong trường hợp cần thiết Viện trưởng VKS có thể gia hạn, nhưng
khơng q mười ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm
trọng; khơng quá mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không
quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra một trong các quyết định trên,
VKS phải thông báo cho bị can, người bào chữa biết, phải giao cáo trạng,
quyết định cho bị can.
21
Sau khi nhận hồ sơ vụ án; VKS có quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy
bỏ các biện pháp ngăn chặn; yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can. Thời hạn
tạm giam được áp dụng theo quy định chung của BLTTHS năm 2003.
Trong trường hợp truy tố thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra
quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, VKS phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng
đến Tòa án để Tòa án thụ lý giải quyết theo thẩm quyền.
Trong trường hợp vụ án khơng thuộc thẩm quyền truy tố của mình,
VKS ra ngay quyết định chuyển vụ án cho VKS có thẩm quyền xử lý.
Bản cáo trạng của VKS là một văn bản pháp lý thể hiện quan điểm,
thái độ của cơ quan kiểm sát đối với người phạm tội và vụ án hình sự. Do đó nội
dung của bản cáo trạng phải thể hiện rõ những vấn đề phải chứng minh trong vụ
án hình sự và phải tuân thủ theo quy định tại Điều 167 BLTTHS năm 2003.
1.1.3. Vai trò của áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
Áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của VKSND có vai
trị và nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế XHCN trong hoạt động tố tụng hình
sự nói chung và trong hoạt động điều tra hình sự nói riêng; bảo vệ chế độ XHCN
và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể;
bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân;
bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử lý theo pháp luật.
Áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của VKS nói chung
và VKSNDTC nói riêng có vai trò bảo đảm cho hoạt động điều tra của Thủ
trưởng các cơ quan điều tra và Điều tra viên tiến hành điều tra các vụ án hình
sự đúng chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền; đặc biệt là việc sử dụng các biện
pháp nghiệp vụ theo đúng quy định của pháp luật và theo trình tự thủ tục quy
22
định. Do đó vai trị của KSĐT là ngăn ngừa các vi phạm pháp luật phát sinh
trong hoạt động điều tra hình sự.
Áp dụng pháp luật trong KSĐT của VKS có vai trị vừa là kiểm sát
hoạt động điều tra đồng thời là hoạt động phối hợp chỉ đạo của VKS đối với
CQĐT bảo đảm cho việc điều tra các vụ án hình sự được tiến hành khẩn
trương, kịp thời và đạt kết quả cao. Do đó KSĐT có vai trò giúp cho VKS
thực hiện tốt chức năng thứ hai là thực hành quyền công tố.
Áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của VKSND có vai
trị quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật; kích thích tư duy
pháp lý mới; bảo đảm tuân thủ pháp luật nghiêm minh trong hoạt động điều
tra cũng như việc tuân thủ pháp luật của người bị truy cứu trách nhiệm hình
sự và các bên có liên quan đến vụ án hình sự. Thực tế thấy rằng, các quy
phạm pháp luật nói chung và các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực KSĐT
nói riêng đều được kiểm nghiệm qua cơng tác KSĐT, kiểm nghiệm về tính
phù hợp hay khơng phù hợp, tính có căn cứ hay tính khơng có căn cứ... Là cần
phải có những quy định mới hay cần sửa đổi bổ sung những quy định cụ thể
nào khác... Mà chỉ có qua cơng tác KSĐT các vụ án hình sự mới có thể phát
hiện ra được. Qua công tác KSĐT, phát hiện ra những vi phạm pháp luật mới
phát sinh trong hoạt động điều tra tội phạm, những dạng quan hệ xã hội mới
cần phải có những quy phạm pháp luật điều chỉnh kịp thời, những quy phạm
đã lạc hậu, chồng chéo cần thay thế, sửa đổi.
Vai trò cơ bản của áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự
của VKS là nhằm bảo đảm chế độ XHCN, bảo vệ quyền tự do dân chủ của
cơng dân; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người
dưới chế độ XHCN. Áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự góp
phần đảm bảo giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, giữ gìn kỷ
23
cương phép nước. Những hành vi vi phạm và tội phạm đều phải được phát
hiện, xử lý nghiêm minh và kịp thời; đảm bảo pháp chế XHCN.
Áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự cịn có vai trò quan
trọng là hướng các chủ thể của các quan hệ pháp luật trong điều tra các vụ án
hình sự thực hiện những hành vi phù hợp với các quy định của pháp luật:
Thực hiện đúng, đầy đủ chức trách của mình được giao khi tiến hành tố tụng;
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng; Ngăn ngừa, hạn
chế các hành vi vi phạm mới trong quá trình điều tra các vụ án hình sự của
những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng.
Áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự cịn có vai trị nổi
bật: Đó là thơng qua KSĐT, VKS thường có những biện pháp, cách thức
tuyên truyền, phổ biến pháp luật; những biện pháp kiến nghị phịng ngừa vi
phạm trên địa bàn hoạt động. Cơng tác vận động tuyên truyền của VKS không
chỉ đối với các đối tượng vi phạm, tội phạm mà còn tác động rộng lớn trong
cộng đồng dân cư, các cơ quan ban ngành hữu quan.
Đối với VKSNDTC, áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ
án hình sự ngồi các vai trò trên, đã giúp cho VKSNDTC khẳng định được vị
thế của mình, đảm bảo pháp luật được tơn trọng, đảm bảo pháp chế XHCN;
qua hoạt động KSĐT, kịp thời phát hiện những thiếu sót, vi phạm của các cơ
quan hữu quan trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, từ đó có kiến
nghị với các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan liên quan khắc phục
những thiếu sót, tồn tại trong q trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, YÊU CẦU ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự
24
Nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng, nhằm phát triển lý luận về áp dụng pháp
luật nói chung và áp dụng pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể nói riêng.
Áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự là một dạng của áp
dụng pháp luật nói chung. Áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự
thuộc trường hợp áp dụng pháp luật: Khi Nhà nước thấy cần thiết phải tham
gia bằng hình thức giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia trong các
quan hệ điều tra, KSĐT các vụ án hình sự. Cơ sở phát sinh hoạt động áp dụng
pháp luật của VKSND đó là các quyết định của cơ quan điều tra, các hành vi
của những người tiến hành tố tụng trong hoạt động TTHS. Các quyết định và
các hành vi đó có thể được ban hành, thực hiện theo đúng hoặc không đúng
quy định của pháp luật. Khi đó Nhà nước thơng qua hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKSND, nhằm phát hiện những sai phạm, kịp thời đề
ra các yêu cầu, kiến nghị các chủ thể trong quá trình điều tra các vụ án hình
sự, khắc phục, sửa chữa; đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hình sự được
tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
Dưới góc độ lý luận chung về áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật là
một hình thức thực hiện pháp luật, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực
nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền nhằm cá biệt hóa những vi phạm
pháp luật vào từng trường hợp cụ thể đối với những cá nhân, đơn vị, tổ chức
cụ thể. Áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự có thể coi là hoạt
động mang tính quyền lực nhà nước của VKSND nhằm cá biệt hóa các quy
phạm pháp luật nói chung và các quy phạm pháp luật TTHS nói riêng đối với
các chủ thể trong q trình giải quyết các vụ án hình sự.
Từ khái niệm về áp dụng pháp luật nói chung, có thể hiểu áp dụng
pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự của VKSND nói chung và
VKSNDTC nói riêng là hoạt động của VKSND thực hiện pháp luật tố tụng
25
hình sự và các quy định khác của pháp luật nhằm đảm bảo cho toàn bộ hoạt
động điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra được tuân thủ theo
đúng quy định của pháp luật, theo đó kết luận điều tra vụ án hình sự có đủ
căn cứ khách quan toàn diện, kịp thời và đúng pháp luật.
1.2.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự
Hoạt động áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của
VKSND có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự là hoạt
động chỉ do VKSND tiến hành theo pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật thì VKSND các cấp là cơ quan có chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thơng qua
việc thực hiện chức năng này, VKSND góp phần thực hiện quyền lực nhà
nước, trực tiếp thực hiện quyền tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế XHCN,
bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà
nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân. Bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, của tập
thể và lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử lý nghiêm minh trước
pháp luật.
Là cơ quan duy nhất nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của các cơ quan tư pháp và thực hành quyền công tố. Hoạt
động KSĐT các vụ án hình sự được quy định tại Điều 12, 13, 14 Luật tổ chức
VKSND năm 2002.
Tại Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND trong khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra: