Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Du lịch về miền Trung qua những vần ca dao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.15 KB, 9 trang )

DU LỊCH VỀ MIỀN TRUNG QUA NHỮNG VẦN CA DAO
Lê Tiến Dũng(*)
TOURISM IN THE CENTRAL OF VIETNAM VIA VIETNAMESE FOLK-SONGS
Abstract
Globalization and Localization in tourism has been a proper, in-depth orientation.
This article has just been named "Localisation in Central Tourism" based on statistics of
three central provinces of Quang Binh, Thua Thien Hue, and Quang Nam.
Coming to Central areas of Vietnam, famous for «shiny sand dunes», tourists have
got a strangely wishful thinking when travelling to numerous beautiful landscapes: Đèo
Ngang (Horizontal Gap), Ba Đồn – one of Quang Binh towns, Lũy Thầy (Đào Duy Từ
rampart), Nuis Ngự (Mount Ngự Bình), sơng Hương (Hương River), Cầu Ngói Thanh Tồn
(Thanh Tồn Tile-Roofed Bridge), cầu Tràng Tiền (Trang Tien Bridge), Kim Long, Núi Hải
Vân (Hải Vân Mountain Pass), Hội An (Hoi An Ancient Town), Hòn Kẽm Đá Dừng (Hòn
Kẽm Đá Dừng landscape), Tam Kỳ (Tam Ky City). However, many other landscapes have not
been explored: Phong Nha Cave, Quang Binh quan (upgraded Dong Hoi Citadel), Non
Temple – Mount Thần Đinh, phá Hạc Hải (Hạc Hải Lagoon), rào Sen (Lotus fence), Điện
Hòn Chén (Hòn Chén Sanctuary), Thien Mu Pagoda, Núi Ngũ Hành Sơn (Marble
Mountains), sông Tho Bồn (Thu Bồn River),etc. Every places have been kept in the tourists’
mind about the land and people there. The people has been caring, hardworking, forthright,
frank, loyal and heroic.
*
1. Tồn cầu hóa Du lịch và Địa phương hóa du lịch là một chủ trương đúng, có tầm
ảnh sâu, rộng. Trong bài viết này chúng tơi chỉ nói “địa phương hóa miền Trung” trên cơ sở
khảo sát ba tỉnh miền Trung: Quảng Bình (QB), Thừa Thiên Huế (TTH) và Quảng Nam
(QN).Trung Việt Nam còn gọi là Trung Bộ, nằm ở phần giữa lãnh thổ và là một trong ba
vùng chính (gồm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ) của Việt Nam. Lịch sử Trung Bộ được gọi
bằng các tên khác nhau như Trung Kỳ (thời thuộc Pháp), An Nam (theo cách người Pháp gọi).
Về miền Trung du lịch là về với miền đói nghèo. Có một câu ca dao mà khi đọc lên có
lẽ khó quên được câu hát chua cay cho một vùng đất:
Quảng Bình là đất Ơ Châu
Ai đi đến đó quảy bầu về không


Câu ca dao là một lời nhắc về cái đói nghèo của cả tỉnh Quảng Bình. Tỉnh Quảng Bình
nghèo lắm. Quảng Bình (các tên gọi cũ khu vực này gồm: Lâm Bình, Tiên Bình, Tây Bình,
Tân Bình) là một tỉnh duyên hải thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Quảng Bình nằm ở nơi
hẹp nhất theo chiều Đơng-Tây của dải đất hình chữ S của Việt Nam. Tỉnh này giáp Hà Tĩnh
về phía bắc với dãy Hồnh Sơn là ranh giới tự nhiên; giáp Quảng Trị về phía nam; giáp Biển
Đơng về phía đơng; phía tây là tỉnh Khăm Muộn và tây nam là tỉnh Savannakhet của Lào với
dãy Trường Sơn là biên giới tự nhiên.
2. Nhưng về miền Trung còn là về với xứ sở của những danh thắng. Đến với miền
Trung là ta đến với xứ mộng mơ, đến với mảnh đất xinh đẹp. Mãnh đất đẹp tựa «tranh họa
(*)

PGS.TS., Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.


đồ». Đó là những câu ca dao nói về đoạn đường gian khổ, khó khăn, khi từ Bắc vào Nam.
Ngày nay, phá Tam Giang được bồi đắp dần dần và trở thành những mảnh đất màu mỡ cho
con người canh tác. Cịn Trng nhà Hồ đã quan tán “cấm nghiêm”:
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
Và đây là hình ảnh của :
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông Nhà Hồ nội tán cấm nghiêm
Đường vô Nam đã được khơi thông. Người đọc không khỏi hồi hộp với một vùng
đất đẹp như một bức tranh.
3. Du lịch về miền Trung là về quê hương có điệu hát, lời ru quê mẹ thấm biết bao ân
tình. Trên đường thiên lý ta nhặt được biết câu câu ca nặng bao nghĩa tình. Trong đó có câu
hát về Đèo Ngang, ví Đèo Ngang như một người gánh nặng:
Đèo Ngang nặng gánh hai vai,

Một vai Hà Tĩnh, một vai Quảng Bình
Hà Tĩnh (HT) ở đây là một tỉnh có địa giới giáp với QB ở phía Nam chính là Đèo
Ngang. Người HT và người QB có một câu hát khác, thấm đượm tình nghĩa thủy chung:
Trèo đèo hai mái chân vân
Lòng về Hà Tĩnh, dạ ái ân Quảng Bình.
4. Trên con đường vào Nam người ta gặp con sông lớn đầu tiên là con Gianh. Đây là
con sông mang nỗi đau chia cắt của một thời. Cho nên đến QB không ai không nhớ câu ca
dao:
Lũy Thầy ai đắp mà cao
Sông Gianh ai bới, ai đào mà sâu
Lũy Thầy tức là lũy Trường Dục hiện đang còn ở Đồng Hới, QB. Lũy này do Đào
Duy Từ quân sư cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên xây nên từ 1630 với chiến lược “phàm
mưu đồ vương bá, cốt yếu phải tìm cách vẹn tồn” (Văn bia Cầu Dài).
Năm 1627, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã gặp và trọng dụng Đào Duy Từ, một người
học rộng tài cao quê Thanh Hóa. Nguyễn Phúc Nguyên gọi Đào Duy Từ là thầy để tỏ lịng
kính trọng. Năm Canh Ngọ 1630, ơng chủ xướng việc thiết kế và chỉ đạo xây dựng hai cơng
trình phòng thủ quan trọng là Lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình (1630)
và Lũy Thầy từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu (Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình).
5. Đi từ Bắc vào Nam, thị trấn ta gặp đầu tiên là thị trấn Ba Đồn.Vừa qua thị trấn Ba
Đồn được chính phủ nâng lên thành thị xã (nghị quyết 125/NQ-CP ngày 20-12-2013 của
Chính phủ). Thị xã nằm sát bờ sông Gianh lịch sử. Đây là huyện lỵ của huyện Quảng Trạch,
tỉnh QB. Nơi đây có chợ Ba Đồn nổi tiếng. Chợ mở đều các ngày. Mỗi tháng có ba ngày chợ
phiên. Đó là các ngày mồng sáu, mười sáu và hai mươi sáu âm lịch. Đây là những phiên chợ
đông vui, sầm uất, nhộn nhịp kẻ bán, người mua. Dân gian xưa đã có câu:
Ba Đồn là chợ xưa nay


Tụ nhân, tụ hóa mười ngày một phiên
Ba Đồn là tên gọi của ba cái đồn do quân Trịnh lập ra ở phía bắc sơng Gianh. Ban
đầu chợ là nơi để quân lính các đồn gặp gỡ, vui chơi, trao đổi. Dần dần thân nhân của nhiều

binh lính cũng lặn lội vượt núi, băng đèo tìm đến. Ca dao xưa có những bài thật cảm động :
Chợ Đồn bán đắt cau khơ
Một đồn con gái chạy vơ thăm chồng.
Gặp trộ mưa dông
Đường trơn gánh nặng
Mặt trời đã lặn
Đèo Ngang chưa trèo
Kháp (gặp) hòn đá cheo leo
Chân trèo, chân trượt
Hỏi o (cơ) gánh nước
Hỏi chú chăn trâu
Ba Đồn qn lính đóng đâu ?
Chợ Ba Đồn lúc dầu đóng dưới cây cổ thụ cao hàng chục mét, có tán lá rộng. Bây giờ
là 2 khu phố. Về sau, chợ dời về sát mạn bờ sông, trên một cồn đất nổi, dưới miếu Cá Ông,
kéo dài đến khu lâm sản và bãi tràn của xưởng mộc. Đến thời kỳ Pháp thuộc, chợ đã hình
thành phố của người Nam, của người Khách (Tàu). Cho nên ở đây dân đã có câu hát:
Phố phường Nam, Khách hai bên
Phiên đơng cũng dến mấy nghìn người ta
Vào khoảng những năm 1938 – 1940 năm đình lớn được xây dựng ở chợ Ba Đồn, mỗi
đình rộng từ 20-25 m, dài từ 60 – 80 m.
Ngày nay chợ Ba Đồn vẫn tấp người bán, kẻ mua như xưa. Khách du lịch ghé thăm
chợ, mua những thứ đặc sản của Ba Đồn nổi tiếng cả nước như cau khơ, nón lá, bánh tráng,
mắm ruốc, lâm sản…
6. Không chỉ cảnh quan thiên nhiên xinh đẹp, miền Trung trước đây còn là kinh đô
của nhà Nguyễn hàng trăm năm, nên đã hội tụ văn hoá nhiều miền của đất nước, tạo nên một
di sản văn hố đồ sộ, trong đó có ca dao.
Đi mơ cũng nhớ q mình
Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh"
Huế là một thành phố đẹp. Cái đẹp của Huế khơng chỉ vì có thành qch, lâu đài, lăng
tẩm, cung điện… Mà cái đẹp của sự hài hoà cao độ giữa nhân tạo và cảnh sắc thiên nhiên.

Nhờ sự hài hồ ấy, Huế có phong cách riêng của một thành phố Á đông, một thành phố Việt
Nam. Góp nên những đường nét rất riêng ấy cho Huế có phần của núi Ngự sơng Hương.
Tổng giam đốc UNESCO đã từng cho rằng “ Huế là một bài thơ đô thị tuyệt tác” (Báo Nhân
dân ngày 27/11/1981).
Sông Hương đẹp từ nguồn tới biển. Nó uốn lượn quanh co giữa núi rừng từ Thác Thủ
cho tới bến Tuần, mang theo bao hương vị của thảo mộc rừng nhiệt đới, rồi toả hương cho
những xom làng, vườn tược mà nó đi qua như Kim Long , Nguyệt Biều, cồn Hến, Vĩ Dạ,
Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh… Sông Hương càng đẹp một cách diễm lệ
bởi những chiếc cầu bắc qua và soi mình trong dịng nước trong xanh thướt tha. Và rồi những


tà áo trăng, những chiếc nón bài thơ học trị dập dờn những cánh bướm bên bờ sông hay trên
cầu Trường Tiền, cầu Phú Xuân càng tôn vẻ đẹp mộng mơ của dịng sơng
Trường Tiền biết mấy là u
Tuổi thơ áo trắng, sớm chiều bướm bay…
(Tố Hữu)
7. Ghé Huế,ta hãy ghé cầu Trường Tiền. Từ khi xây đến nay cầu đã hơn trăm tuổi. Và
biết bao câu hát về cây cầu đã âm vang. Huế cũng có những câu ca dao mang phong cách
riêng của mình, khơng thể lầm lẫn xuất xứ, như lời ca dao nói về cầu Tràng Tiền:
Cầu Tràng Tiền 6 vài, 12 nhịp
Anh qua không kịp, tội lắm, em ơi !
Nghĩa tào khang ai mà vội dứt
Đêm nằm tâm tức, lụy nhỏ tuôn rơi
Bấy lâu ni chịu tiếng mang lời
Dẫu có xa nhau đi nữa
Cũng bởi ơng trời mà xạ
8. Ca dao Huế cịn có ý nghĩa gợi nhớ công lao của bậc tiền nhân, hay, ta thán về nhân
tình thế thái. Huế ngày nay được xem là một bảo tàng lộ thiên với điện ngọc, đền vàng, lăng
tẩm. Đó chính là di sản văn hố vật chất về di tích cố đơ, và là di sản văn hố của cung đình
Việt Nam. Những tố chất đó là nguồn cảm hứng cho con người. Bởi thế, ca dao xứ Huế

không chỉ ngợi ca về thiên nhiên, nói về nhân tình thế thái, mà cịn tìm thấy được hình ảnh
của kiến trúc cố đơ Huế trong ca dao.
Ngọ Mơn năm cửa, chín lầu
Cột Cờ ba bậc, Phú Văn Lâu hai tầng
Chính những điệu hị, những câu ca dao nặng tình yêu thương quê hương đất nước, đã
thấm đẫm vào con người Huế từ thuở ấu thơ. Huế là một miền đất có một cảnh quan thơ
mộng, xinh đẹp, và từ đời sống thiên nhiên đó, ca dao đã được hình thành. Cứ mỗi địa danh,
gần như có một câu ca dao. Có nhiều nhà thơ, nhà nho, cũng đã làm cho nền ca dao phong
phú lên. Chẳng hạn Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã sáng những câu hị mái nhì, những câu ca
dao. Những câu ca dao của ông đã di tâm khảm bao nhiêu thế hệ. Chẳng hạn như câu hị mái
nhì rất nổi tiếng của ơng, thấm đẫm một tấm lịng vói nước non:
Chiều chiều, trước Bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thống bên sơng
Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non
9. Tương truyền vào khoảng đầu năm 1916, Trần Cao Vân thường đến ngồi câu cá
ở Phú Văn Lâu để chờ gặp vua Duy Tân. Bên kia sông, con thuyền thấp thống để chờ đón
vua rời khỏi kinh thành, ra đi khởi nghĩa. Không ngờ, âm mưu bại lộ, vua Duy Tân bị bắt và
bị lưu đày. Ngày nay, lời ru cảm thán về vận nước vẫn còn in đậm trong lòng người dân Huế.
Ca dao còn là nơi gửi gắm nỗi lòng uẩn ức trước những hà khắc của chế độ phong kiến.
Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân"


Vạn Niên là một kiến trúc cầu kỳ nằm trong Lăng Tự Đức. Ngày nay, Lăng Tự Đức trở
thành một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn. Lăng như một bức tranh
sơn thủy hữu tình, gợi cho du khách một hồn êm thơ mộng.
10. Cách thành phố Huế 7 km, có cầu ngói Thanh Tồn. Cầu được phỏng theo cầu
Nhật ở Hội An. Ở đây, ca dao khơng chỉ nói đến một địa danh, mà cịn ghi nhớ đến một tấm

lòng hào hiệp của con người.
Ai về cầu ngói Thanh Tồn
Cho em về với một đồn cho vui
Qua ca dao, không những làm ta liên tưởng đến lịch sử, thắng tích của Huế, mà cịn
biết đến những địa danh với những đặc sản riêng của từng vùng.
Ru em cho thét, cho muồi
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triệu Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim
Tuy ca dao xuất phát trong giới bình dân, nhưng nhiều câu rất nên thơ, và ý nghĩa
đậm đà, dễ xúc cảm người nghe, nên được nhiều người yêu thích và sưu tầm. Cụ Ưng Luận là
một trong những con người đó. Ca dao đã truyền tải được nhiều đền đài, thắng tích, kể cả
cuộc sống của vua chúa, như là ca dao xứ Huế. Đọc ca dao xứ Huế, chúng ta sẽ thấy cả Ngọ
Môn, Cột Cờ, Văn Thánh, Võ Thánh. Biết được Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Đào Duy
Từ… Cụ Ưng Luận là một người rất từng trãi ở Huế. Là nhà giáo lâu năm, nhà hoạt động văn
hố. Có lẽ, nhờ những đặc điểm đó mà cụ đã gom góp lại được cái kho tàng trí tuệ này. Ca
dao xứ Huế do cụ biên tập và bình giảng, đã giúp cho người dân xứ Huế, nhìn lại mình một
cách kỹ hơn, sốt xét lại kho tàng trí tuệ của cha ông. Huế từng là kinh đô của nước Việt
trong thời gian dài, nên đã quy tụ nhiều danh nhân khắp các địa phương. Bởi thế, ca dao có
câu xuất phát từ Huế, nhưng cũng có câu từ nơi khác đến.
11. Ai đi qua Quảng Nam mà bỗng nghe trong tâm thức một câu hát nói về miền đất
này. Một câu hát sâu nặng nghĩa tình, nghe như một câu tổng kết cho cảnh và người của miền
đất “trung dũng, kiên cường”:
Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say
Bạn về đừng ngủ gác tay
Nơi mô nghĩa nặng, ân đầy thì theo.
Câu trên cịn có rất nhiều dị bản. Sinh viên Đại học Sư phạm Huế đã sưu tầm trên

mười dị bản khác nhau. Sau đây chi nêu lên một vài câu tiêu biểu:
Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say
Ðối với ai ơn trọng, nghĩa dày
Một hột cơm cũng nhớ,
Một gáo nước đầy vẫn chưa quên.


Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say
Em thương anh cha mẹ không hay
Như ngọn đèn giữa gió biết xoay phương nào?
Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say
Thuong nhau chưa đặng mấy ngày
Đã mang câu ơn trọng nghĩa dày bạn ơi!
Các câu trên tuy có khác nhau, nhưng câu nào cũng diễn tả rõ tính tình người dân đất
Quảng bộc trực, bén nhạy, nhớ ơn, trọng nghĩa đối với các ân nhân của mình. Quảng Nam là
một tỉnh thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam, là vùng đất cịn lưu giữ nhiều dấu
tích của nền Văn hóa Chămpa. Tên gọi Quảng Nam có nghĩa là "mở rộng về phương Nam".
Quảng Nam nằm ở chính trung điểm đất nước theo trục Bắc - Nam, là nơi giao hòa của
những sắc thái văn hóa giữa hai miền và giao lưu văn hóa với bên ngồi, điều này góp phần
làm cho Quảng Nam giàu truyền thống, độc đáo về bản sắc văn hóa.
12. Đèo Hải Vân trở thành con đường du lịch đẹp nhất VN như nó đã từng được
phong tặng “Đệ nhất hùng quan”. Đèo Hải Vân (còn gọi là Ải Vân) dài 21km vắt ngang qua
những ngọn núi cao ngất của dãy Trường Sơn nơi tiếp giáp với biển Đơng. Đèo Hải Vân (có
nghĩa là biển và mây vì sóng biển vỗ chân đèo và quanh năm mây mù bao phủ trên đỉnh) nổi
tiếng là đường đèo đẹp nhất và cũng hiểm trở nhất VN trên hành trình vào Nam ra Bắc từ hơn
700 năm qua, với độ cao ở đỉnh đèo là 496m so với mực nước biển.
Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông trong một lần vi hành đã dừng lại trên đỉnh đèo

ngắm cảnh làm thơ. Ngạc nhiên trước cảnh đẹp và sự hùng vĩ của trời mây nơi đây, nhà vua
đã đặt cho Hải Vân tên gọi “Đệ nhất hùng quan”.
Trong những ngày nắng đẹp, từ đèo Hải Vân nhìn bao quát về phía bắc là cảnh đồi núi
trập trùng với mây trắng bay là đà, xa xa là đầm Lập An, làng chài Lăng Cơ đẹp như tranh vẽ.
Phía nam, sóng biển vỗ quanh theo triền núi, thấp thoáng những chiếc thuyền đánh cá của
ngư dân rẽ sóng chạy ra khơi.
Du khách có thể phóng tầm mắt nhìn tồn cảnh TP Đà Nẵng bên bờ sông Hàn. Xa
hơn một chút là đỉnh Sơn Trà quanh năm mây phủ với câu ca gợi cho người nghe nhớ về một
mối tình trắc trở của một đôi trai gái ở hai bên đèo Hải Vân: "Chiều chiều mây phủ Sơn Trà.
Lòng ta thương bạn nước mắt và lộn cơm".

Đèo Hải Vân


13. Về Quảng Nam, chắc ai cũng nhớ vùng đất Hội An. Hội An là một thành phố trực
thuộc tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam. Với yếu tố địa
lý và khí hậu thuận lợi, Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, là nơi giao thương
của những thuyền buôn đến từ Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây trong suốt thế kỷ 17 và
18. Trong suốt hai cuộc chiến tranh, Hội An may mắn không bị tàn phá và tránh xa được q
trình đơ thị hóa nhanh chóng vào cuối thế kỷ 20. Là vùng đất hội tụ nhiều nền văn hóa nên
Hội An cũng mang nhiều dấu ấn của các nền văn hóa khác nhau. Điều này được thể hiện
trong các cơng trình kiến trúc như hội qn, đền miếu mang dấu tích của người Hoa, nằm bên
những ngôi nhà truyền thống của người Việt và những ngôi nhà được xây theo kiến trúc
Pháp. Bắt đầu từ những năm 1980, những giá trị kiến trúc và văn hóa của phố cổ Hội An dần
được chú ý khiến nơi này dần dần trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn ở Việt Nam. Ngày
nay, đến với Hội An bạn sẽ được chiêm ngưỡng những ngôi nhà cổ đã có từ hàng trăm năm
trước, và tận hưởng khơng gian êm đềm, cổ kính đặc trưng của thành phố này. Ca dao cũng
nói về Hội An là đất hẹp, người đơng:
Hội An đất hẹp, người đơng
Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu .

Phố Hội An nhỏ hẹp, nhưng ai đã ở Hội An một thời gian rồi, khi rời Hội an khơng
làm sao qn được tình cảm nồng hậu của cư dân ở đây. Từ lâu lắm rồi Hội An xứng đáng là
sầm uất, buôn bán. Hội An, là thương cảng nên bn bán hàng hố sang đẹp, cịn Kim Bồng,
Trà Nhiêu là vùng ngoaị ô, chuyên sản xuất rau cải đem qua bán ở Hội An:
Hội An bán gấm, bán đièu
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành.
Ngày xưa, Hội An là nơi hẹn hị của tình u. Trai gái tập trung về đất Hội An cũng
về nơi đơ hội của tình u. Tình u ở phố Hội An cũng lãng mạn dành cho thi nhân và khách
vãng lai:
Ai đi phố Hội, Chùa Cầu
Ðể thương, để nhớ, để sầu cho ai,
Ðể sầu cho khách vãng lai,
Ðể thương để nhớ cho ai chịu sầu

Phố cổ Hội An
Tháng 12/1999, phố cổ Hội An được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Một vùng đất co vốn văn hóa lâu đời chúng ta tin sẽ ngày càng phát triển.


15. Hòn Kẽm, Đá Dừng cách TP Đà Nẵng khoảng 100 km về phía tây. Sương sớm ở
vách núi quyện cùng hơi nước bốc lên từ mặt sông tạo nên màng sương lãng đãng che khuất
ánh bình minh ló dạng. Cảnh vật thấp thoáng như bức tranh thuỷ mặc tao nhã. Có một câu mà
cũng thuộc nằm lịng là câu hát về Hòn Kẽm, Đá Dừng. Tác giả dân gian đã hai trái núi đầu
nguồn sông Thu Bồn, ở giữa hai huyện Quế Sơn và Ðại Lộc, làm hình ảnh quê mẹ mà những
cô gái lấy chồng xa nhà, mỗi khi ngó lên rất nhớ nhà:
Ngó lên Hịn Kẽm, Ðá Dừng
Thương cha, nhớ mẹ, quá chừng bạn ơi,
Chiều chiều, ra đứng ngõ sau,
Trơng về q mẹ, ruột đau chín chiều.
Hịn Kẽm Đá Dừng không chỉ thể hiện bởi cảnh quan sơng núi hữu tình mà cịn hấp

dẫn bởi những dịng chữ cổ Chiêm Thành khắc ghi trên những phiến đá nặng hàng mấy chục
tấn, đứng sừng sững soi mình xuống dịng sơng Thu Bồn. Du khách sẽ đi qua miền quê với
sông núi hùng vĩ, những bãi dâu, bãi bắp xanh tốt, những vạn đò mua bán tấp nập trên sơng.
Tận hưởng cái cảm giác n bình mà khơng phải nơi nào cũng có, phong thuỷ hữu tình, con
người hồ hợp với thiên nhiên. Những đụn cát cao và dài nằm dọc theo sông, thi thoảng là
những triền dâu những nương ngơ, những xóm làng trung du n ả, những con người hiền
hậu và hiếu khách, những dịng sơng lấp lống những mơ ước và hồi niệm. Lúc này du
khách sẽ cảm nhận sự thanh bình và yên tĩnh đến lạ kì mà thiên nhiên mang lại. Khơng chỉ
đơn thuần là những phiến đá, dịng nước mà có cả sự tự hào dân tộc về cuộc khởi nghĩa nổi
tiếng của nghĩa quân Nguyễn Duy Hiệu. Những câu hát buồn gắn liền với những mảnh đời
vất vả mưu sinh.

Một góc Hịn Kẽm
Dừng ở chợ Trung Phước, khách có thể qua sơng ghé thăm Đại Bường - làng cây ăn
quả nổi tiếng của Quảng Nam, nơi hội tụ những vị ngọt thanh khiết mà thiên nhiên ban tặng.
16. Trước kia, từ vị trí một ngã ba, nay Tam Kỳ trở thành thành phố với nhiều giao lộ
lớn. Hạ tầng phố phường đã xây dựng khá nhiều và quy mô, nhất là khu hành chánh, quảng
trường,... Thị xã Tam Kỳ là một đô thị được hình thành từ lâu, có bề dày lịch sử. Trải qua
nhiều thời kỳ lịch sử, Tam Kỳ luôn có sự phát triển khơng ngừng, gắn liền với vùng đất


Quảng Nam giàu truyền thống cách mạng kiên cường, bất khuất trong công cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Hoàng Văn Bổn (biên soạn), (1985), Văn nghệ dân gian Quảng Nam Đà Nẵng, Sở
VH & TT QNĐN xuất bản
2. Lê Tiến Dũng (2008), Núi Ngự, sông Hương,
VHNT&DL, số 1 (Ký bút danh là Lê Diệu Minh).

Tạp chí Du lịch,Trường CĐ


3. Lê Tiến Dũng- Trần Hoàng (2000), Cụ Hồ ở giũa lòng dân, Bảo tàng HCM tỉnh
Thừa Thiên Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế.
4. Lê Văn Đang (Trưởng ban biên soạn)(1998), Lịch sử giáo dục- đào tạo Quảng Bình
1945 -1995, Sở Giáo dục – đào tạo Quảng Bình xuất bản, Đồng Hới.
5. Trần Hoàng, Lê Tiến Dũng, Lê Văn Hảo, Trần Thùy Mai, Phạm Bá Thịnh (1988), Ca
dao, dân ca Bình Trị Thiên, Nxb Thuận Hóa, Huế.
6. Trần Hùng – Trần Hồng (sưu tầm, biên soạn) (1990), Quảng Bình di tích và danh
thắng, Tập 1, Sở VH và TT Quảng Bình xuất bản, Đồng Hới.
7. Lương Duy Tâm (sưu tầm, biên soạn), (1998), Địa lý – lịch sử Quảng Bình, Bảo tàng
Tổng hợp Quảng Bình xuất bản, Đồng Hới.
TĨM TẮT
Tồn cầu hóa du lịch và địa phương hóa du lịch là một chủ trương đúng, có tầm ảnh
sâu, rộng. Trong bài viết này chúng tơi chỉ nói “địa phương hóa miền Trung” trên cơ sở
khảo sát ba tỉnh miền Trung: Quảng Bình, Thừa Thiên Huế và Quảng Nam.
Đi du lịch về miền Trung «chang chang cồn cát» ta thấy lòng bâng khuâng lạ lùng, ta
đã đi qua bao nhiêu cảnh đẹp của đất nước: Đèo Ngang, Ba Đồn, Lũy Thầy, Núi Ngự, sông
Hương, Cầu Ngói Thanh Tồn, cầu Tràng Tiền, Kim Long, núi Hải Vân, Hội An, Hòn Kẽm
Đá Dừng, Tam Kỳ. Nhưng còn bao nhiêu cảnh đẹp của xứ này mà ta chưa đặt chân tới:
động Phong Nha, Quảng Bình quan, núi Chùa Non, phá Hạc Hải, rào Sen, Điện Hòn Chén,
chùa Thien Mụ, Núi Ngũ Hành Sơn, sông Thu Bồn… Mỗi một địa danh vẫn để lại trong tôi
những ấn tượng về mảnh đất và con người. Mảnh đất và con người miền Trung yêu thương,
cần mẫn, thẳng thắn, bộc trực, thủy chung và anh hùng.



×