Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Thuế với phát triển kinh tế xã hội ở vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.81 KB, 109 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng: Thuế ra
đời là một sự cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển
của Nhà nước. Để có nguồn lực vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của mình, Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị
vốn có để huy động một bộ phận của cải của xã hội. Việc huy động tập trung
nguồn của cải xã hội vào trong tay Nhà nước có thể thực hiện bằng nhiều cách
khác nhau: Đóng góp bắt buộc, vận động dân đóng góp tự nguyện hoặc vay…
Trong đó, biện pháp huy động, tập trung của cải có tính bắt buộc đối với mọi
thành viên trong xã hội được gọi là thuế.
Cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới, cùng với các bất cập
nội tại của nền kinh tế khiến chính sách tài khóa của Việt Nam đã bộc lộ nhiều
bất cập trên nhiều mặt như: Thu ngân sách thiếu tính bền vững, cịn phụ thuộc
nhiều vào các khoản thu không tái tạo, không bền vững như khoản thu từ bán
tài nguyên, đất đai...Cùng với tiến trình hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế
và cam kết gia nhập WTO, hàng rào thuế quan sẽ ngày một thu hẹp, do vậy
khả năng thu từ hoạt động nhập khẩu sẽ giảm sút trong những năm tới...
Những sức ép về việc giảm thâm hụt ngân sách và tập trung nhiều hơn các các
biện pháp kích cầu buộc Chính phủ Việt Nam nhìn nhận và quan tâm nhiều
hơn đến vấn đề thu ngân sách, chủ yếu thông qua nguồn thu từ thuế. Trên
thực tế, trong những năm qua, nguồn thu cho ngân sách từ thuế ngày càng
lớn, góp phần quan trọng để Đảng và Nhà nước duy trì hoạt động của bộ
máy các cấp, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, thực hiện các chương trình
xố đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Thông qua công cụ thuế, Chính
phủ đã từng bước tạo lập mơi trường kinh doanh ngày càng lành mạnh, thúc
đẩy những ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, nâng cao năng lực,


2


cơ hội và điều kiện cho những vùng nghèo, khu vực nông thôn…Bằng các
biện pháp giảm thuế hoặc miễn thuế và trong bối cảnh kinh tế thế giới đứng
trước nguy cơ khủng hoảng, kinh tế Việt Nam tiềm ẩn những dấu hiệu của suy
thối, cơng cụ thuế lại được sử dụng như một lựa chọn hữu hiệu trong bối
cảnh hiện nay và việc miễn, giảm thuế được xem như một biện pháp ưu tiên.
Trong bối cảnh ấy với phạm vi là một địa phương cấp tỉnh, thuế vừa là nguồn
thu chủ yếu của ngân sách, vừa là công cụ để chính quyền địa phương thực hiện
những nhiệm vụ kinh tế - xã hội đề ra. Nguồn thu từ thuế không chỉ góp phần
chủ yếu để cân đối ngân sách, mà cịn có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội theo các mục tiêu đã lựa chọn. Nói cách khác, nếu thuế được sử dụng như
một công cụ hữu hiệu sẽ phát huy vai trò to lớn đối với thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội, ngược lại, nó có thể kìm hãm sự phát triển, làm triệt tiêu hoạt động
sản xuất kinh doanh, kìm hãm tốc độ tăng trưởng…của địa phương.
Trong những năm qua, cùng với cả nước, Vĩnh Phúc đang vươn lên từng
ngày nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng Vĩnh Phúc trở thành một trong
những tỉnh phồn thịnh nhất cả nước. Với đặc thù là tỉnh đồng bằng trung du,
hoạt động thương mại luôn sôi động, phát triển mạnh mẽ và vươn tới khắp các
địa phương trong cả nước cũng như quốc tế. Những tác động và ảnh hưởng
của chính sách thuế đối với kinh tế - xã hội của Vĩnh Phúc luôn trực tiếp và
rất rõ ràng. Mặc dù đã được đổi mới căn bản từ việc triển khai thực hiện chính
sách, pháp luật, đến đổi mới quy trình, thủ tục, tổ chức bộ máy và quản lý thu
thuế trên địa bàn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều
bất cập làm giảm đi hiệu quả và vai trò của thuế đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Nếu những bất cập ấy không sớm được giải quyết sẽ
gây ra nhiều khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Vĩnh
Phúc trong thời gian tới. Những hạn chế, bất cập ấy địi hỏi cần phải được
phân tích, luận giải một cách có hệ thống để tìm ra hướng đi, giải pháp nhằm
đổi mới và hồn thiện cơng tác thuế trên địa bàn nhằm thúc đẩy phát triển


3

kinh tế - xã hội trong điều kiện hiện nay. Đây là vấn đề cấp thiết cả về lý luận
và thực tiễn. Xuất phát từ lý do ấy nên đề tài: “Thuế với phát triển kinh tế xã hội ở Vĩnh Phúc” được lựa chọn để nghiên cứu trong luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Dưới nhiều góc độ khác nhau đã có rất nhiều các cơng trình và đề tài
nghiên cứu về cơng tác thuế trong thời gian qua, điển hình như:
+ Nhóm các cơng trình bàn về lý luận thuế trong điều kiện hội nhập:
“Góp phần nâng cao vai trị của thuế ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế”, Luận án Tiến sỹ kinh tế của Lê Phú Hào, Đại học
kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2007. Trong điều kiện, Việt Nam ngày càng
hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới trong xu thế toàn cầu hóa. Những
vấn đề về bảo hộ sản xuất, cắt giảm thuế theo lộ trình, điều chỉnh các mức
thuế cho phù hợp… sẽ trở nên gay gắt hơn. Tác giả đã đưa ra được nhóm
giải pháp nhằm nâng cao vai trị của thuế ở nước ta trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
“Đổi mới hệ thống thuế phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập kinh
tế quốc tế”, Luận án tiến sỹ kinh tế của tác giả Sẻn sắc Su ly sắc, Hà Nội,
2009. Trong đó, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu phương pháp và cách thức
đổi mới hệ thống thuế trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh
tế và trên cơ sở đó các luận án đã đề xuất các nhóm giải pháp nâng cao vai trò
của thuế ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Nhóm các cơng trình về hồn thiện chính sách:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Giải pháp hoàn thiện công tác
quản lý thuế ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay" của PGS.TS Nguyễn Thị
Bất làm chủ nhiệm; “Nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế ở Việt Nam trong
quá trình đổi mới”, Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, của tác giả
Trịnh Hoàng Cơ, Hà Nội, 2004; “Đồng bộ hố chính sách và quy trình quản
lý thu thuế trong điều kiện áp dụng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - Thực


4

trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế của Tạ Viết Thắng, Hà Nội,
năm 2004.
Ở đây, nhóm tác giả đã phân tích thực trạng cơng tác quản lý thuế và chỉ
ra được các nguyên nhân cũng như những giải pháp nhằm hồn thiện cơng tác
quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay phù hợp với chiến lược cải cách thuế đến
năm 2010. Trung nghiên cứu một cách chi tiết các giải pháp hồn thiện cơng
tác quản lý thuế trong quá trình đổi mới.
- “Quản lý và điều hành công tác thuế trong bối cảnh suy giảm kinh tế
trong nước và suy thối kinh tế tồn cầu”, tác giả Đặng Hạnh Thu, Tạp chí
Cộng Sản số 803 năm 2009. Tác giả đã đặt ra những vấn đề cần phải quan
tâm trong công tác quản lý và điều hành công tác thuế trong bối cảnh suy
thối kinh tế tồn cầu đã có những ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam khi
chúng ta đã tham gia vào WTO.
+ Nhóm các cơng trình về hồn thiện, nâng cao năng lực trong cơng
tác thuế:
“Hồn thiện quy trình quản lý thu thuế theo hướng hiện đại hoá ngành
Thuế ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thu Thuỷ, Hà
Nội, 2006; “Vận dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế trên địa bàn Tỉnh Phú
Thọ”, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế của Nguyễn Huy Hồng, 2007; “Cơ chế tự kê
khai, tự nộp thuế và những vấn đề đặt ra ở Việt Nam”, tác giả Nguyễn Văn
Hiệu, Nguyễn Việt Cường, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2007; “Hồn thiện cơng
tác kiểm tra thuế trong cơ chế tự khai, tự nộp thuế ở Việt Nam”, Luận văn
Thạc sĩ Kinh tế của Lê Thị Thu Hồng, 2008; “Quản lý thuế đối với khu vực
kinh tế tư nhân ở tỉnh Sơn La hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế của tác giả
Nguyễn Văn Hoan, Hà Nội, 2009.
Các tác giả đã tập trung nghiên cứu thực trạng các quy trình và cơng tác
quản lý thuế và đề ra các nhóm giải pháp nhằm thực hiện tốt các quy trình
quản lý thuế trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.



5
Tóm lại: Các đề tài, bài viết và cơng trình nghiên cứu trên đã khái quát
một số nội dung cơ bản của cơng tác thuế cũng như các quy trình quản lý
thuế, tập trung nghiên cứu việc xây dựng và ban hành luật thuế, tổ chức thực
hiện các luật thuế, tổ chức bộ máy quản lý thuế và đưa ra hệ thống các nhóm
giải pháp nghiên cứu hồn thiện hệ thống luật pháp về thuế nhưng chưa đề
cập sâu và có hệ thống đến tác động của thuế với phát triển kinh tế - xã hội ở
địa phương đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hóa có bổ sung, hồn thiện để làm
rõ một số vấn đề lý luận chung về thuế và vai trò, tác động của thuế đối với
phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, của địa phương. Trên cơ sở đó, phân
tích, đánh giá thực trạng tác động của thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh
Vĩnh Phúc, luận văn đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao vai trò, tác động
tích cực của thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích đề ra, luận văn thực hiện
các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá những nội dung lý luận cơ bản về thuế, làm rõ vai trò, tác
động của thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác thuế và ảnh hưởng của thuế
đối với phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn từ 2007 đến 2011.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát huy vai trò, tác động tích
cực của thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2015
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Là hệ thống thuế và công tác quản lý thuế
với phát triển kinh tế - xã hội ở Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian nghiên cứu: Địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Về thời gian: Giai đoạn từ 2007 đến 2011.



6
5. Cơ sở lý luận phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vấn đề thuế.
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử; phương pháp trừu tượng hóa khoa học của kinh tế chính trị, kết hợp các
phương pháp thống kê, phân tích so sánh.
Chương 1: Hệ thống hóa, phân tích có bổ sung khái quát các vấn đề lý
luận chung về thuế.
Chương 2: Sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu, kết hợp
sơ đồ, biểu đồ để minh họa.
Chương 3: Khái quát kết quả nghiên cứu hai chương, đề xuất tổng hợp
phương hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò của thuế đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở Vĩnh Phúc.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá và làm rõ hơn những nội dung liên quan đến vai trò của
thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội nói chung
- Đánh giá được thực trạng tác động của thuế đối với phát triển kinh tế xã hội tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đề xuất phương hướng và hệ thống giải pháp phát huy vai trò của
thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Vĩnh Phúc.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THUẾ
VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1.1. KHÁI QUÁT MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ

1.1.1. Khái niệm, bản chất, đặc trưng về thuế
1.1.1.1. Khái niệm về thuế
Thuế ra đời, tồn tại cùng với sự ra đời, tồn tại của Nhà nước và là công
cụ quan trọng mà bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng để thực thi chức năng,
nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên trong lịch sử, đứng trên các góc độ tiếp cận
khác nhau có rất nhiều các khái niệm, quan điểm về thuế mà chưa có được sự
thống nhất tuyệt đối:
Trong tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Gôta", C.Mác và Ph. Ăngghen
viết: "Thuế là cơ sở của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn giản tiện cho Kho
bạc thu được bằng tiền hay sản vật mà người dân phải đóng góp để dùng
vào mọi việc chi tiêu của Nhà nước" [28, tr.110].
Cũng theo C.Mác và Ph. Ăngghen thì: Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy
nhà nước, và: Để duy trì quyền lực cơng cộng, cần phải có sự đóng góp của
cơng dân cho Nhà nước, đó là thuế.
Ở đây, Nhà nước đã sử dụng thuế như là một cơng cụ để duy trì các
hoạt động và thực thi quyền lực của mình.
Theo V.I.Lênin, “Thuế là cái mà Nhà nước thu của dân nhưng không
bù lại” và “thuế cấu thành nên nguồn thu của Chính phủ, nó được lấy ra từ
sản phẩm của đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được
lấy ra từ tư bản hay thu nhập của người chịu thuế " [26, tr.133]
Trong khi đó, Philip E.Taylor cho rằng: "thuế là sự đóng góp cưỡng bách
của mỗi người cho Chính phủ để trang trải các chi phí vì quyền lợi chung mà
ít căn cứ vào các quyền lợi riêng được hưởng" [34, tr.101].


8
Vậy, ở đây thuế được hiểu là khoản nộp mà người dân có nghĩa vụ bắt
buộc phải nộp cho Nhà nước.

Trong cuốn “Tài chính cơng”, nhà kinh tế học Gaston Jeze đã đưa ra một
định nghĩa như sau “Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác
định, khơng hồn trả trực tiếp, do các cơng dân đóng góp cho Nhà nước thơng
qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà nước” [39, tr.23].
Ở Việt Nam, theo giáo sư Nghiêm Đằng: “Thuế là sự cung cấp tiền tài
trực tiếp, địi hỏi ở các cơng dân bằng biện pháp quyền lực, để tài trợ các gánh
nặng cơng cộng - sự cung cấp này có tính chất chung cục và khơng có đối
giá’’[40, tr.101].
Theo “Giáo trình thuế” của Học viện Tài chính thì: “Thuế là một khoản đóng
góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn
được pháp luật qui định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng” [40, tr.5].
Các quan niệm trên đây tuy cách diễn đạt khác nhau song đều thống nhất
những nội dung chính của thuế là:
(1). Thuế là biện pháp động viên của Nhà nước mang tính chất bắt buộc
đối với các tổ chức và mọi thành viên trong xã hội, gắn liền với quyền lực
chính trị của Nhà nước.
(2). Thuế là khoản đóng góp nghĩa vụ, bắt buộc mọi tổ chức và thành
viên trong xã hội phải nộp vào NSNN.
(3). Thuế là một bộ phận của cải từ khu vực tư chuyển vào khu vực cơng
nhằm trang trải những chi phí nuôi sống bộ máy Nhà nước và trang trải các
chi phí cơng cộng mang lại lợi ích chung cho cộng đồng.
(4). Thuế là một hình thức phân phối thu nhập được Nhà nước sử dụng để
động viên một phần thu nhập của các tổ chức và cá nhân trong xã hội vào NSNN.
Từ các khái niệm trên đây có thể thấy rằng:
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa
vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp


9
luật do Nhà nước ban hành, khơng mang tính chất đối giá và khơng hồn trả

trực tiếp cho đối tượng nộp thuế.
Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do
chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
1.1.1.2. Bản chất của thuế
Xét về mặt bản chất, thuế là một cơng cụ tài chính quan trọng mà Nhà
nước sử dụng để tái phân phối thu nhập quốc dân, qua đó nhà nước thực
hiện các chức năng của mình. Bản chất kinh tế - xã hội - chính trị của thuế
gắn bó và chịu sự chi phối bởi bản chất Nhà nước và của nền kinh tế. B ản
chất của thuế được thể hiện qua các khía cạnh sau:
- Một là, sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội
thành các giai cấp và sự xuất hiện của Nhà nước.
Sự xuất hiện Nhà nước địi hỏi cần phải có của cải vật chất cần thiết chi
cho hoạt động thường xuyên của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho Nhà
nước tồn tại, duy trì quyền lực và thực hiện chức năng quản lý xã hội của
mình. Ðể có được lượng của cải cần thiết, Nhà nước đã sử dụng quyền lực
của mình ban hành pháp luật, ấn định bắt buộc các thể nhân và pháp nhân
phải đóng góp cho Nhà nước một phần của cải mà họ làm ra, hình thành qũy
tiền tệ tập trung của Nhà nước. Ðồng thời với việc ấn định nghĩa vụ thu nộp
của cải vật chất đối với dân cư, Nhà nước đảm bảo việc thực hiện các nghĩa
vụ đó bằng bộ máy cuỡng chế của Nhà nước.
Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu để thuế
tồn tại và phát triển. Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất
yếu khách quan, thuế ra đời xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà
nước và sự tồn tại của thuế không tách rời quyền lực Nhà nước, thuế phản ánh
bản chất Nhà nước.
- Hai là, về bản chất giai cấp.
Có Nhà nước mới có thuế, nên thuế mang bản chất giai cấp rõ rệt, và
bản chất giai cấp của thuế do bản chất giai cấp của Nhà nước quyết định.



10
Bản chất giai cấp của thuế thể hiện rõ nhất ở mục đích, ý nghĩa của việc thu
nộp thuế:
Trong nền sản xuất phong kiến thuế để phục vụ cho thói sống xa hoa của
vua chúa quan lại của Nhà nước phong kiến.
Trong chủ nghĩa tư bản (CNTB), thuế nhằm mục đích ni dưỡng bộ
máy quyền lực, các cơng cụ bảo vệ cho nhà nước của giai cấp Tư sản.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), thuế được sử dụng nhằm đảm
bảo cho chi tiêu của Nhà nước vào các công việc chung, đảm bảo cho đất
nước phát triển bền vững, thoả mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày
càng cao cho mọi tầng lớp nhân dân.
- Ba là, về bản chất xã hội.
Tác động của thuế bao trùm mọi hoạt động kinh tế - xã hội (KT- XH)
của quốc gia, nên thuế là công cụ quản lý vĩ mơ tồn xã hội rất nhạy bén của
Nhà nước. Thông qua thuế, Nhà nước điều chỉnh các quan hệ phân phối và
phân phối lại thu nhập quốc dân nhằm giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập
giữa các tầng lớp xã hội, từng bước thực hiện công bằng xã hội. Nhà nước có
thể thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội bằng nhiều công cụ, trong đó thuế
là cơng cụ rất hữu hiệu, bởi vì thuế thu vào toàn dân, ảnh hưởng đến toàn dân.
- Bốn là, thuế do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành.
Ở các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành
qũy NSNN và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống KT-XH nên thẩm
quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều thuộc cơ quan lập pháp.
Ðây là nguyên tắc sớm được ghi nhận trong pháp luật của các nước. Chẳng
hạn ở nước Anh đạo Luật về dân quyền năm 1688 quy định: Cấm mọi sự thu
thuế để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước nếu không được Quốc hội chấp
thuận. Ở Pháp, Quốc hội Pháp quy định: Bất cứ một khoản thuế nào nếu
không được Quốc hội chấp thuận thì khơng được áp dụng. Hiến pháp của
nước Cộng hòa Pháp năm 1791 quy định Quốc hội Pháp có quyền biểu quyết
và định đoạt các Luật thuế.



11
Ở Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định: Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các
Luật thuế: "…quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế" [33, Điều 84].
Tuy vậy, do yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội
có thể giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ
một số loại thuế thông qua hình thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về
thuế. Ở nước ta trước cải cách chế độ thu NSNN, Luật thuế chỉ áp dụng đối
với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể và cá thể.
Ðể thực hiện chế độ thu NSNN phù hợp với cơ chế thị trường, phát huy vai
trò của các hình thức thu NSNN, cuộc cải cách chế độ thu NSNN được thực
hiện trên cơ sở Nghị quyết Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ IV năm 1989. Kết
qủa của cuộc cải cách này đưa đến việc áp dụng thống nhất chế độ thu thuế
đối với tất cả các thành phần kinh tế, khơng phân biệt hình thức sở hữu, hình
thức kinh doanh. Từ đây thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của NSNN
và chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn thu NSNN.
- Năm là, thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật
chất dưới hình thức giá trị giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.
Nhà nước thu thuế làm phát sinh quan hệ phân phối giữa Nhà nước với
các thể nhân và pháp nhân trong xã hội. Ðối tượng của quan hệ phân phối này
là của cải vật chất được biểu hiện dưới hình thức giá trị.
Sự tồn tại và phát triển của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử và
đặc điểm của các phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ
yếu ảnh hưởng đến vai trò, nội dung, đặc điểm của thuế. Do đó, cơ cấu và nội
dung của cả hệ thống pháp luật thuế và từng Luật thuế phải được nghiên cứu,
sửa đổi bổ sung, cải tiến và đổi mới kịp thời nhằm thích hợp với tình hình,
nhiệm vụ của từng giai đoạn. Ðồng thời phải tổ chức bộ máy phù hợp, đủ sức
đảm bảo thực hiện các quy định pháp luật về thuế đã được Nhà nước ban

hành trong từng thời kỳ.


12
1.1.1.3. Đặc trưng của thuế
- Thứ nhất, thuế mang tính bắt buộc: Thuế được thu để tạo quỹ NSNN
chi dùng cho việc chung, mọi công dân đủ điều kiện phải đóng thuế. Việc bỏ
ra một khoản tiền để đóng thuế khơng mang lại lợi ích trực tiếp cho người nộp
thuế nhưng họ vẫn phải nộp bởi nguồn thu từ thuế là nguồn thu chủ yếu của
NSNN, thiếu nguồn thu này Nhà nước khơng thể tồn tại. Vì vậy, Nhà nước sẽ
áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với công dân không thực hiện nghĩa vụ
nộp thuế. Bằng quyền lực của mình, Nhà nước đặt thành nghĩa vụ cho mọi
người phải đóng góp bắt buộc theo quy định của pháp luật, thuế là một trong
những nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong hiến pháp, là đạo
luật cơ bản của mỗi nước.
- Thứ hai, thuế mang tính khơng hồn trả trực tiếp: Khoản nộp về thuế
khơng có tính hồn trả và ngang giá trực tiếp, tạo điều kiện cho Nhà nước sử
dụng một cách linh hoạt, hiệu quả khoản thu tiền thuế thu được. Trước khi thu
thuế, Nhà nước không hứa hẹn cung ứng trực tiếp một dịch vụ công cộng nào
cho người nộp thuế. Sau khi nộp thuế, Nhà nước cũng khơng có sự bồi hồn
trực tiếp nào cho Người nộp thuế. Lợi ích từ việc nộp thuế sẽ được hồn trả
gián tiếp thơng qua các dịch vụ công cộng của Nhà nước cho cộng đồng xã
hội. Tuy nhiên, sự hồn trả này khơng có tính hồn ngun tuyệt đối bởi sự
hồn trả khơng mang tính chất đối ứng. Đây chính là điểm khác biệt giữa thuế
và các khoản phí, lệ phí bởi nó có tính chất đối ứng và trao đổi ngang bằng
giữa các khoản phải trả và lợi ích mà người nộp có thể nhận được.
- Thứ ba, thuế được quy định trước và được luật hố (Tính pháp lý cao).
Thuế ln gắn với quyền lực Nhà nước và là hai phạm trù không thể
tách rời: Nhà nước là chủ thể duy nhất đặt ra các khoản thuế và ngược lại thuế
là phương tiện vật chất chủ yếu để duy trì quyền lực Nhà nước.

Thuế là một cơng cụ tài chính có tính pháp lý cao. Chỉ có Quốc hội - cơ
quan thẩm quyền cao nhất trong bộ máy quyền lực của mỗi quốc gia có quyền


13
ban hành, sửa đổi và bãi bỏ các thứ thuế. Điều đó được quyết định bởi quyền
lực chính trị của Nhà nước. Thuế do cơ quan lập pháp ban hành theo những
quy trình, thủ tục quy định rất chặt chẽ. Vì vậy, trong luật thuế phải quy định
rõ phạm vi, hình thức, quy trình pháp lý liên quan đến nghĩa vụ nộp thuế.
1.1.2. Các yêu cầu cơ bản để xây dựng hệ thống thuế
1.1.2.1. Đảm bảo tính cơng bằng
Tất cả các luật thuế đều đưa ra điều kiện đối với đối tượng nộp thuế, bất
kỳ công dân nào đáp ứng các điều kiện này thì phải nộp thuế, khơng phân biệt
giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp…. Ngồi ra khi xây dựng các khoản thuế Nhà
nước chỉ nhằm vào các đối tượng có khả năng đóng thuế.
Tính cơng bằng của thuế thể hiện trên nguyên tắc công bằng ngang và
nguyên tắc công bằng dọc.
- Hệ thống thuế được gọi là công bằng theo chiều ngang, tức là: Nếu các
cá nhân có điều kiện về mọi mặt như nhau thì được đối xử ngang nhau trong
việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, tiêu chí này chỉ mang tính chất định
hướng vì có nhiều cách hiểu khác nhau và rất khó cụ thể hóa các tiêu thức để
xác định như thế nào là có điều kiện như nhau.
Trên thực tế, thường chỉ có thể vận dụng là: Nếu các cá nhân có cùng địa
vị pháp lý và đều tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội như sản xuất,
kinh doanh, chiếm hữu, tiêu dùng...thuộc các sự kiện làm phát sinh nghĩa vụ
nộp thuế được pháp luật qui định thì đều có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
- Hệ thống được coi là công bằng theo chiều dọc, tức là: Nếu người có
khả năng nộp thuế nhiều hơn thì phải nộp thuế nhiều hơn những người khác.
Trong thực tế, để áp dụng nguyên tắc này cần phải xác định rõ hai vấn
đề: tiêu thức xác định khả năng và mức độ nộp thuế cao hơn:

+ Về tiêu thức: Phổ biến hiện nay người ta dùng tiêu thức thu nhập hoặc
tiêu dùng nhận được để đánh giá khả năng nộp thuế. Mức độ nộp thuế cao
hơn được hiểu là tỷ lệ thuế tính trên tổng thu nhập của người nộp thuế cao
hơn nếu mức thu nhập mà họ nhận được cao hơn.


14
+ Về mức độ nộp thuế: Một hệ thống thuế có tính cơng bằng theo chiều
dọc sẽ được hiểu là một hệ thống thuế lũy tiến so với thu nhập nhằm hạn chế
bớt khoảng cách giàu nghèo và đảm bảo công bằng giữa các thành viên trong
xã hội.
Sự công bằng ngang thông thường hiện diện ngay trong mỗi sắc thuế và
được biểu hiện chủ yếu ở nội dung xác định phạm vi đối tượng nộp thuế, đối
tượng chịu thuế của mỗi loại thuế. Tuy nhiên, sự cơng bằng dọc ít khi thể hiện
đầy đủ trong một sắc thuế cụ thể do sứ mệnh của mỗi sắc thuế trong hệ thống
thuế có thể rất khác nhau. Vì vậy, tính cơng bằng chỉ được đánh giá một cách
đầy đủ ở góc độ tồn hệ thống mà khơng nên đánh giá riêng biệt đối với từng
sắc thuế riêng lẻ.
1.1.2.2. Đảm bảo tính hiệu quả về kinh tế
Hệ thống thuế phải đảm bảo tính hiệu quả xét trên các mặt sau đây:
Thứ nhất, thuế phải đảm bảo can thiệp một cách có hiệu quả vào nền
kinh tế theo những mục tiêu nhất định.
Xét trên phương diện kinh tế, việc đánh thuế của Chính phủ bao giờ
cũng ảnh hưởng đến nguồn lực của xã hội và chịu sự chi phối của hai tác nhân
có xu hướng vận động không đồng nhất là: Nhà nước và các yếu tố thị trường.
Tính hiệu quả kinh tế của thuế phải được xem xét trên hai góc độ:
Một là, phải giảm thiểu những tác động tiêu cực của thuế trong phân bổ
nguồn lực kinh tế đã đạt được hiệu quả dưới tác động của yếu tố thị trường.
Hai là, tăng cường vai trò của thuế đối với việc phân bố nguồn lực chưa
đạt được hiệu quả. Chẳng hạn thuế ô nhiễm môi trường vừa huy động thêm

nguồn vốn cho Nhà nước vừa nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực.
Thứ hai, công tác tổ chức thu thuế phải đảm bảo chi phí hành chính
giảm đến mức tối thiểu.
Trên thực tế, khi thu thuế bao giờ cũng phát sinh khoản chi phí, đó là chi
phí trực tiếp của cơ quan thuế (chi phí để thu thuế) và chi phí gián tiếp (chi


15
phí tuân thủ của đối tượng nộp thuế). Tính hiệu quả của thu thuế thể hiện:
Thuế thu được nhiều nhất trên cơ sở chi phí hành chính là thấp nhất. Các
khoản chi phí hành chính này phụ thuộc vào: tính phức tạp của hệ thống thuế
(các điều khoản miễn giảm; số lượng, mức độ phân biệt của thuế suất đối với
đối tượng nộp thuế cũng như cơ sở tính thuế...). Muốn giảm bớt chi phí hành
chính, hệ thống thuế phải đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng. Mặt khác, hệ thống
thuế có đơn giản, dễ hiểu thì việc quản lý, kiểm tra kiểm soát của Nhà nước
đối với người nộp thuế mới dễ dàng thuận lợi.
1.1.2.3. Đảm bảo phải đơn giản về thủ tục
Đối tượng thực hiện chính sách thuế là mọi tầng lớp dân cư và mọi cán
bộ quản lý, thu thuế và một số cán bộ thuộc ngành khác (kho bạc, ngân
hàng...). Do đó việc ban hành các nguyên tắc, chế độ, biện pháp để thực hiện
các luật thuế phải bảo đảm tính đơn giản, rõ ràng thơng qua việc thể chế hoá
bằng những quy định cụ thể trong từng văn bản pháp quy. Qua đó, mọi người
đều được biết, hiểu và thực hiện một cách thống nhất, khắc phục được cách
hiểu thế nào cũng được, làm thế nào cũng đúng, dễ tạo tuỳ tiện, tiêu cực trong
cách vận dụng.
Để việc hiểu và thực hiện các luật thuế được thống nhất giữa người nộp
thuế và người thu thuế, giữa các địa phương, mỗi sắc thuế đều phải có những
quy định thật rõ ràng, cụ thể, đẩy đủ về đối tượng đánh thuế, đối tượng nộp thuế,
căn cứ tính thuế, thuế suất, thuế biểu, phương pháp thu, nghĩa vụ kê khai, nộp
thuế, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan thuế, của cơ sở kinh doanh; điểm nào

có thể phát sinh hiểu lầm, cần phải giải thích đầy đủ. Với nội dung như trên, mỗi
công dân hoặc cơ sở sản xuất kinh doanh có thể biết được chắc chắn mình phải
nộp thuế gì, nộp bao nhiêu, nộp thuế thế nào và phải làm gì theo đúng quy định
trong từng luật thuế, cách tính thuế ra sao và từng người, từng đơn vị có thể tự
mình thực hiện được việc kiểm tra, tính thuế, kê khai và nộp thuế đầy đủ vào
Kho bạc Nhà nước theo hướng dẫn, quy định của cơ quan thuế.


16
1.1.2.4. Đảm bảo phải rõ ràng về đối tượng chịu thuế
Một hệ thống thuế rõ ràng và minh bạch trước hết phải chỉ rõ nghĩa vụ,
trách nhiệm, quyền của đối tượng nộp thuế và các đối tượng có liên quan.
Đồng thời phương pháp xác định mức thuế phải nộp phải đơn giản, dễ hiểu,
dễ tính tốn.
Sự minh bạch u cầu thuế phải được xây dựng theo một trình tự pháp
lý nghiêm ngặt, có cấu trúc nhất quán, khi thực hiện điều chỉnh, bổ sung,
sửa đổi các luật thuế phải có lộ trình được cơng bố rõ ràng, vừa đảm bảo
logíc vừa có tính kế thừa... có như vậy người thu thuế, người nộp thuế,
người chịu thuế mới có đủ điều kiện đối chiếu, tham khảo và thực thi tốt
nhất. Người thực thi phải dễ dàng thấy rõ nghĩa vụ cũng như quyền lợi về
thuế của mình, có như vậy mới thực sự đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, đơn giản
trong quản lý và thu nộp thuế.
Một chính sách thuế như vậy sẽ hạn chế được sự tùy tiện, kẽ hở trốn và
tránh thuế, đồng thời giảm chi phí hành chính thuế. Thực hiện đúng ngun
tắc này cịn tránh được tình trạng các cán bộ thu thuế lợi dụng “sự mập mờ”
mà nhũng nhiễu, tham ơ, lạm thu..., qua đó đối tượng nộp thuế cũng yên tâm
hoạt động kinh tế, phát huy tốt nhất tính cơng bằng và hiệu quả.
1.1.2.5. Đảm bảo phải linh hoạt trong áp dụng
Hệ thống thuế phải có tính linh hoạt, được thể hiện thơng qua khả năng
thích ứng một cách dễ dàng với những hồn cảnh kinh tế thay đổi. Một số

chính sách thuế có cơ chế ổn định tự động rất hữu hiệu đó là thuế thu nhập,
mức thuế thu nhập sẽ tự thay đổi mà khơng cần phải thay đổi chính bản thân
chính sách thuế. Thu nhập chịu thuế phụ thuộc vào thu nhập thực tế. Khi nền
kinh tế suy thoái, thu nhập thực tế giảm dần đến mức thuế phải nộp giảm, tạo
điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng
nhanh, thu nhập tăng nhiều thì thuế phải nộp cũng tự động tăng lên, nên có tác
dụng hạn chế nguy cơ lạm phát.


17
Tuy nhiên tính tự động điều chỉnh chưa thật sự tỏ ra hữu hiệu, nó chưa
có những tác động đủ mạnh trước sự biến động lớn của nền kinh tế. Vì vậy
trong những điều kiện nhất định Chính phủ buộc phải chủ động điều chỉnh
thuế và các loại lãi suất.
1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống thuế
1.1.3.1. Nhóm nhân tố kinh tế
Thuế là một phần thu nhập của nền kinh tế quốc dân được tập trung vào
NSNN, thuế luôn luôn gắn chặt với sản xuất kinh doanh và nguồn thu từ thuế
chỉ có thể ổ định trên cơ sở nền kinh tế được phát triển và hiệu quả. Do đó,
kinh tế là cơ sở của thuế.
Những yếu tố kinh tế thường tác động đến hệ thống thuế là mức độ tăng
trưởng của nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế, thu nhập bình quân đầu người,
giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị trường, sự biến động của Ngân sách...
Trước hết là thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của nền
kinh tế. Khi hoạt động SXKD đạt kết quả cao, khối lượng hàng hóa lưu thông
lớn, thu nhập của Doanh nghiệp (DN) và dân cư tăng lên thì khối lượng thuế
thu được cũng tăng theo, khi đó việc thu thuế cũng thuận lợi hơn. Ngược lại,
khi hoạt động SXKD không đảm bảo hiệu quả, thu nhập của DN và dân cư
giảm sút, khối lượng hàng hóa lưu chuyển giảm mạnh thì việc thu thuế cũng sẽ
gặp nhiều khó khăn, lượng thuế thu được vừa ít và khó thu. Trong khi đó, để

kích cầu sản xuất và tiêu dùng, Nhà nước cần phải tăng chi Ngân sách nên xuất
hiện tình trạng mất cân đối giữa thu và chi. Áp lực về Ngân sách càng làm cho
cơ quan thuế tận thu một cách triệt để các nguồn thu nhằm bù đắp lượng Ngân
sách thiếu hụt gây tâm lý bức xúc trong cộng đồng.
Tiếp theo đó là tiềm năng, thế mạnh của vùng, địa phương; cơ chế,
chính sách; tổ chức bộ máy… cũng có ảnh hưởng đáng kể đến việc thu
thuế và vai trò của thuế đối với sự phát triển KT - XH. Nếu địa phương có
tiềm năng, thế mạnh kinh tế lớn và việc tổ chức khai thác các tiềm năng đó


18
tốt thì sản xuất phát triển và số lượng thuế thu được cũng tăng, ngân sách
địa phương dồi dào, nhờ đó lại có thể tăng chi cho xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội thúc đẩy SXKD phát triển.
Cùng với đó, cơ chế chính sách, tổ chức bộ máy thu thuế thuận lợi,
thủ tục đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện sẽ có tác dụng khuyến khích các
chủ thể trong nền kinh tế hăng hái thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà
nước...
Ví dụ: Tỉnh Vĩnh Phúc (Vĩnh Phú cũ) trước khi tái lập tỉnh (1997) vẫn
luôn là một tỉnh nghèo, số thu thấp thường xuyên phải nhờ trợ cấp của Ngân
sách Trung ương do không phát huy được thế mạnh của tỉnh về Nông nghiệp,
dịch vụ, Công nghiệp khai thác, chế biến và Du lịch... Nhưng từ khi tách tỉnh
đến nay nhờ những cơ chế chính sách hợp lý trong thu hút đầu tư nước ngoài,
đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và phát huy các nguồn lực... đến nay
Vĩnh Phúc đã trở thành một trung những tỉnh phát triển mạnh về Công
nghiệp; số thu Ngân sách tăng mạnh vượt ngưỡng 10.000 tỷ; Kinh tế- xã hội
có những bước phát triển vượt bậc... tạo điều kiện cho tỉnh đầu tư phát triển
kinh tế, nâng cấp hạ tầng giao thông; chăm lo sức khỏe cộng đồng và thực
hiện các chính sách an sinh xã hội...
1.1.3.2. Nhóm nhân tố phi kinh tế

- Yếu tố chính trị: Bản thân thuế là do Nhà nước đặt ra, Nhà nước là một
tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, thi hành các
chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội, do đó hệ thống thuế
trước hết phải phục vụ cho các mục tiêu do Nhà nước đặt ra và phục vụ cho ý
đồ chính trị của giai cấp thống trị.
Thể chế chính trị của Nhà nước có ý nghĩa quyết định đến hệ thống thuế.
Nếu thể chế chính trị của Nhà nước tổ chức theo chế độ Nhà nước Liên bang
thì trong cơ cấu hệ thống thuế thường bao gồm các loại thuế trung ương và
thuế địa phương, thực hiện quản lý thuế theo cơ quan thu thuế trung ương và


19
cơ quan thuế địa phương riêng biệt nhau. Còn nếu thể chế chính trị của Nhà
nước tổ chức theo chế độ Nhà nước đơn nhất thì thường chỉ có một hệ thống
thuế thống nhất cho cả nước, quản lý thuế theo hệ thống ngành dọc thống nhất
từ trung ương đến địa phương.
Yếu tố chính trị có tác động quyết định đến chính sách thuế và quản lý
thuế cũng được thể hiện rõ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các chính
sách thuế cũng như thủ tục quản lý thuế phải sửa đổi lại cho phù hợp với các
cam kết quốc tế...
- Yếu tố xã hội: Tập quán, văn hoá, đặc điểm và điều kiện xã hội từng địa
phương… Hệ thống thuế được thực thi do các cơ quan quản lý và các tầng lớp
dân cư trong xã hội. Do đó các yếu tố xã hội như tâm lý tập quán của các tầng
lớp dân cư, truyền thống văn hoá, xã hội của dân tộc, kết cấu giai cấp trong xã
hội... đều tác động và ảnh hưởng nhất định đến hệ thống thuế
Về bản chất, thuế là một phần thu nhập xã hội được động viên vào
NSNN. Tập quán, văn hóa, đặc điểm và điều kiện xã hội từng địa phương
hình thành nên các lợi ích khác nhau, tuy nhiên mức đóng góp của các lợi
ích là khác nhau. Hơn nữa, nếu đóng thuế nhiều thì thu nhập để lại tiêu
dùng của tổ chức và cá nhân sẽ giảm, do đó các đối tượng phải nộp thuế

đều có động lực đấu tranh để giảm mức đóng góp của mình.
Nhà nước sử dụng thuế như một công cụ để thực thi chính sách xã hội
như miễn, giảm thuế cho vùng khó khăn; miễn, giảm thuế cho các nhà đầu
tư nếu đầu tư vào các vùng khó khăn, các ngành nghề phục vụ cộng đồng
hoặc được hưởng các chính sách trợ cấp xã hội; miễn giảm thuế thu nhập
cá nhân cho người lao đơng...
1.2. VAI TRỊ CỦA THUẾ VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1.2.1. Thuế là nguồn thu chủ yếu và lâu dài của ngân sách quốc gia
Nhà nước có thể huy động phương tiện vật chất đáp ứng cho nhu cầu chi
tiêu của mình bằng nhiều phương thức khác nhau như: phát hành tiền, phát


20
hành công trái, bán một phần tài sản quốc gia, hoạt động kinh tế, vận động
viện trợ từ nước ngoài, quyên góp của nhân dân và thu thuế. Tuy nhiên, thuế
là nguồn huy động chủ yếu, thường xuyên và hợp lý mà Nhà nước nào cũng
áp dụng. Ví dụ: Năm 2010 thuế chiếm 80% Tổng thu Ngân sách của Các Tiểu
vương quốc Ả rập thống nhất UAE; Ở Braxin thuế đóng góp 35% cho
GDP..Biện pháp này có nhiều ưu điểm: Thuế là cơng cụ phân phối lại có
phạm vi bao quát rộng lớn hơn đối với toàn bộ thể nhân, pháp nhân, mọi hoạt
động kinh tế; thuế sẽ góp phần đảm bảo sự công bằng trong san sẻ gánh nặng
chi tiêu công; đây là nguồn thu thường xuyên, ổn định, tập trung nhanh chóng
từ tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Hình thức cưỡng chế bằng
pháp luật kết hợp với kích thích vật chất thơng qua miễn, giảm có vai trị đẩy
mạnh năng suất, chất lượng hiệu quả, hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng.
Nguồn huy động tập trung thông qua thuế là một bộ phận chủ yếu của
tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong nước tạo ra. Nhờ đó một bộ
phận đáng kể thu nhập của xã hội được tập trung vào trong tay Nhà nước để
đảm bảo nhu cầu chi tiêu, giúp Nhà nước thực hiện các chức năng và nhiệm vụ

của mình. Đảm bảo nguồn thu từ thuế là mục tiêu quan trọng hàng đầu của
công tác quản lý thuế. Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là Nhà nước cần phải
tăng thu thuế bằng mọi giá. Một tỷ lệ thu thuế hợp lý và ổn định sẽ vừa kích
thích nền kinh tế phát triển, hiệu quả, vừa đảm bảo nguồn lực tài chính đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Nguồn thu thuế có thể từ 2 nguồn: Thu từ nội bộ của nền kinh tế và thu
từ bên ngoài thông qua hệ thống thuế đảm bảo nhu cầu chi chủ yếu của Nhà
nước cho việc duy trì bộ máy Nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố
an ninh, quốc phòng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động
đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập
trung nguồn tài chính vào NSNN từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày


21
càng tăng. Để đạt được nguồn thu kịp thời dồi dào, bền vững cần xem xét lại
tỷ lệ hợp lý giữa thuế trực thu và thuế gián thu. Các nước đang phát triển
thường chú ý đến thuế gián thu do tính ổn định của nó vì sự tiêu dùng của xã
hội là không bao giờ mất đi dù nền kinh tế bị khủng hoảng. Đồng thời, thuế
gián thu cũng dễ thu hơn thuế trực thu. Hiện nay các nước phát triển lại đánh
vào thuế trực thu nhiều hơn với một hệ thống quản lý và hành thu chặt chẽ.
Tuy nhiên, khi nhấn mạnh vai trị thuế là cơng cụ tạo nguồn thu chủ yếu
cho NSNN, cần phải chú trọng quan điểm thu thuế trên cơ sở không ngừng
bồi dưỡng và nâng cao nguồn thu.
Mọi số tiền thu thuế của Nhà nước, nói cho cùng, chính là một phần thu
nhập xã hội được trích vào tay Nhà nước bằng pháp luật, khi thu nhập xã hội
tăng lên là cơ sở vững chắc nhất để ổn định và tăng cường cho nguồn thu của
Nhà nước từ thuế. Nói cách khác, thơng qua thuế, một phần của tổng sản phẩm
xã hội được phân phối và tái phân phối vào NSNN để Nhà nước chi tiêu. Phần
này nhiều hay ít, tỷ lệ trích cao hay thấp có tác động ảnh hưởng đến thái độ làm

việc của người dân. Tác động này có thể tích cực hoặc tiêu cực: Nếu việc tái
phân phối thu nhập quốc dân của Nhà nước thông qua thuế hợp lý sẽ tạo động
lực tăng cường cơ sở thu thuế, qua đó tiền thuế thu được sẽ tăng và bền vững;
ngược lại, nếu Nhà nước thu quá mức về phần mình thì tác động thuế sẽ kìm
hãm ham muốn tạo thu nhập của người dân. Đồng thời, thuế bất hợp lý càng thơi
thúc họ trốn thuế và hệ quả của nó là phần thuế thu được sẽ bị giảm sút. Vì vậy,
để thuế thực hiện tốt vai trò này, cần chú ý đến khả năng chịu thuế của người nộp
thuế, có nghĩa là thuế không được vượt quá phần giá trị mới được sáng tạo ra
trong quá trình sản xuất. Các Mác cho rằng: Thuế khoá nặng nề và bộ máy hành
chính cồng kềnh, kém hiệu quả là hai khái niệm đồng nghĩa.
1.2.2. Thuế tham gia vào việc điều tiết kinh tế vĩ mô
Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm
vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế...Nhà nước chủ động phát


22
huy vai trị điều tiết đối với nền kinh tế.
Ngồi việc huy động nguồn thu cho NSNN, pháp luật thuế cịn có vai trị
quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Thông qua việc ban
hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hố và thực hiện chính
sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc qui định các
hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối
tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả
năng của người nộp thuế, sử dụng linh hoạt các ưu đãi và miễn, giảm thuế.
Trên cơ sở đó, Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo
chung, phù hợp lợi ích của xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường, khi can
thiệp trực tiếp của nhà nước vào kinh tế ngày càng hạn chế thì việc sử dụng
cơng cụ thuế như một biện pháp điều chỉnh vĩ mô mang lại hiệu quả cao. Vai
trò này xuất phát từ khả năng tái phân phối của cải làm thay đổi tương quan

lực lượng vật chất của đối tượng điều chỉnh trong nền kinh tế. Tác động vĩ mơ
nền kinh tế có thể biểu hiện ở những khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, thuế có thể được sử dụng như một cơng cụ nhạy bén góp phần
kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả, kích thích đầu tư tạo nền tảng cho sự phát
triển bền vững.
Theo các lý thuyết kinh tế, lạm phát có thể xuất phát từ nguyên nhân cầu
kéo hoặc chi phí đẩy. Trường hợp lạm phát do nguyên nhân cầu kéo làm giá
cả tăng cao, Nhà nước có thể dùng biện pháp điều chỉnh tăng thuế tiêu dùng
làm giảm bớt áp lực tăng cầu giả tạo, trên cơ sở đó điều chỉnh lại cân bằng
quan hệ cung cầu. Trường hợp ngược lại, nếu lạm phát nảy sinh từ nguyên
nhân chi phí đẩy thì việc giảm thuế đối với các yếu tố đầu vào là cần thiết
nhằm giảm nhẹ áp lực tăng chi phí và tạo điều kiện hạ giá bán sản phẩm, trên
cơ sở đó lập lại quan hệ cung cầu, ổn định giá cả thị trường.
Cũng theo lý thuyết kinh tế hiện đại, tự thân của nền kinh tế thị trường


23
có xu hướng phát triển theo chu kỳ gây ra những cuộc khủng hoảng nặng nề
sau mỗi chu kỳ phát triển. Thuế được coi là công cụ nhạy cảm để hạn chế sự
phát triển theo chu kỳ của nền kinh tế. Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển
quá nóng, Nhà nước có thể tăng thuế làm giảm bớt đầu tư tư nhân. Ngược lại,
trong điều kiện nền kinh tế lâm vào trì trệ, việc giảm thuế đầu tư sẽ góp phần
kích thích đầu tư, kích cầu tiêu dùng làm cho kinh tế phục hồi nhanh hơn.
Thứ hai, thuế là công cụ sắc bén được sử dụng nhằm đạt mục tiêu bảo hộ
sản xuất nội địa và duy trì, tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Việc mở cửa nền kinh tế đồng nghĩa với việc phải đối mặt với những rủi
ro cạnh tranh khốc liệt từ bên ngồi. Vì vậy, bất cứ nước nào tham gia hội
nhập đều phải thiết lập một hàng rào bảo hộ hợp lý và hợp pháp nhằm hạn chế
hoặc giảm bớt sự cạnh tranh bất lợi. Trong các công cụ bảo hộ (thuế và phi

thuế quan) thì thuế được coi là hàng rào bảo hộ linh hoạt và hiệu quả cao nhất
nhằm điều hòa áp lực cạnh tranh. Mức thuế cao đối với hàng nhập khẩu có tác
dụng giảm bớt hoặc triệt tiêu lợi thế giá cả giữa hàng nhập khẩu và hàng sản
xuất trong nước. Ngược lại, mức thuế thấp hoặc bằng không đối với hàng
nhập khẩu có tác dụng khuyến khích nhập khẩu những hàng hóa cần thiết bù
đắp thiếu hụt cho nền kinh tế đồng thời gây áp lực cần thiết nhằm nâng cao
sức cạnh tranh cho những ngành hàng nội địa tương tự.
Khi nền kinh tế đã hội nhập sâu, các công cụ bảo hộ mới như thuế chống
bán phá giá, thuế chống trợ cấp và thuế đối kháng có thể được sử dụng bổ sung
cho thuế trong việc bảo hộ nền sản xuất nội địa một cách hiệu quả. Ở cấp độ
cao hơn, hệ thống thuế hợp lý với mức thu vừa phải sẽ góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh của tồn bộ nền kinh tế thơng qua việc kích thích xuất
khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngồi cho phát triển kinh tế.
1.2.3. Thuế là công cụ tác động vào sự phân bổ nguồn lực trong xã hội
Việc áp dụng chính sách thuế phân biệt giữa các ngành, các lĩnh vực, các


24
khu vực, các vùng lãnh thổ khác nhau có tác dụng phân bổ nguồn lực, tạo ưu
thế tương đối cho những vùng, khu vực ngành nghề cần ưu tiên phát triển
nhằm duy trì hoặc lặp lại trạng thái phát triển hài hịa, cân đối của tồn bộ nền
kinh tế.
Với việc thiết kế và xây dựng hệ thống chính sách thuế có phân biệt
theo ngành, vùng khác nhau, Nhà nước có thể thúc đẩy phát triển nhiều
ngành nghề kinh tế mũi nhọn, then chốt và các vùng kinh tế trọng điểm,
góp phần khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Với hệ thống thuế rõ ràng, ổn định, các nhà đầu tư có thể xác định được
hiệu quả đầu tư vốn của mình sau khi đã hồn thành nghĩa vụ nộp thuế cho
Nhà nước. Họ sẽ so sánh, tính tốn và lựa chọn lĩnh vực đầu tư vào những
ngành, những vùng có lợi nhất. Một chính sách thuế nhiều ưu đãi sẽ thu hút

các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực cần ưu tiên, khuyến
khích như: sản xuất hàng xuất khẩu, thay thế hàng nhập khẩu cần thiết mà
trong nước chưa Sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ nhu cầu, đầu tư vào
những vùng có điều kiện tự nhiên, KT-XH khơng thuận lợi.
Việc áp dụng chính sách thuế phân biệt giữa các ngành, các khu vực có
tác động mạnh mẽ đến việc phân bổ lại nguồn lực trong nền kinh tế (vốn,
lực lượng lao động) song tác động đó chỉ có hiệu lực tốt nhất trong một thời
hạn thích hợp nhất định vì trong dài hạn, sự ưu đãi hay hạn chế của thuế với
các ngành, các khu vực sẽ bị san sẻ do sự di chuyển nhanh nhạy của vốn và
lực lượng lao động trong thị trường. Do đó, để phát huy được tốt vai trò của
thuế trong hướng dẫn đầu tư, phải xác định được thời gian ưu đãi, miễn
giảm thuế thích hợp nhất. Nếu thời gian ưu đãi quá ngắn, khó thu hút được
vốn đầu tư do các dự án chưa đủ thời gian vượt qua những khó khăn phải
đối đầu, hoạt động kinh doanh chưa đạt được tình trạng bình thường. Trong
bối cảnh đó, việc thực hiện nghĩa vụ thuế sẽ làm cho tình hình tài chính của
DN trở nên khó khăn. Ngược lại, nếu thời gian ưu đãi thuế quá dài thì sự


25
linh hoạt trong phân bổ nguồn lực của thị trường sẽ triệt tiêu sự ưu đãi đối
với khu vực cần khuyến khích, do ưu đãi đó đã san đều cho các khu vực
khác trong nền kinh tế. Mỗi sắc thuế sẽ tác động đến lợi ích của các chủ thể
đầu tư ở các khía cạnh khác nhau. Do đó, khơng thể đồng nhất một thời
gian miễn giảm thuế như nhau đối với tất cả các sắc thuế, các loại đối tượng
khác nhau. Thơng thường, các loại thuế trực thu có tác động thiết thực,
nhanh, mạnh đến lợi ích của các nhà đầu tư hơn thuế gián thu.
Trên cơ sở chiến lược và định hướng phát triển kinh tế, việc áp dụng
các sắc thuế với các mức thuế suất, thời gian ưu đãi thích hợp cùng những
quy định giám sát chặt chẽ, cụ thể, thuế luôn là công cụ hữu hiệu trong việc
phân bổ và điều chỉnh lại nguồn lực trong nền kinh tế, góp phần thực hiện

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng của Nhà nước trong từng thời kỳ
nhất định.
1.2.4. Thuế là công cụ để phân phối lại thu nhập giữa các cá nhân
trong xã hội
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã
hội và thu nhập quốc dân theo đường lối phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta. Hiện nay nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều,
kinh tế đối ngoại chuyển thành có vay có trả. Trước tiên, thuế là một cơng
cụ quan trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền
đề cho việc phát triển lâu dài.
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các
ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự
bình đẳng và cơng bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân
và pháp nhân.
Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của
pháp luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải


×