Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Nông nghiệp phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.71 KB, 134 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nơng nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng, là lĩnh vực
đảm bảo sự sinh tồn, phát triển của xã hội lồi người. Cho nên phát triển bền
vững lĩnh vực nơng nghiệp đang tạo nên tiền đề quan trọng có vai trò quyết
định đến mục tiêu phát triển bền vững chung.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 - 2010 “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và bảo
vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế xã hội gắn chặt với bảo vệ môi trường
thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Đồng thời, triển khai thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần 7 khố X về nơng nghiệp nơng dân, nơng thơn:
“xây dựng nền phát triển nơng nghiệp tồn diện theo hướng hiện đại, sản xuất
hàng hố có năng suất chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo
vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt cũng như lâu dài”.
Bình Phước là một tỉnh biên giới thuần nông thuộc khu vực Đông Nam
Bộ với đại bộ phận dân sinh sống ở khu vực nông thôn và hoạt động trong
lĩnh vực nơng nghiệp (diện tích đất nơng nghiệp là 629.559,43 ha trên tổng số
684.329,93 ha đất phục vụ sản xuất, kinh doanh, tức là đất phi nông nghiệp
chỉ có 54.870,50 ha [69]). Cùng với tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước, kinh tế Bình Phước cũng đang có sự chuyển biến mạnh mẽ, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Tỷ
trọng công nghiệp - xây dựng từ 3,89% (1997) tăng lên 18,50%, dịch vụ tăng
từ 20% lên 28% và nông - lâm nghiệp từ 72% giảm xuống cịn 53,5%. Giá trị
sản xuất cơng nghiệp tăng gấp 15 lần, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng hơn 3
lần, kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 8 lần. Thu nhập của nhân dân khơng ngừng
được nâng lên, GDP bình qn đầu người từ 2,2 triệu đồng năm 1997, tăng


2


lên 7,48 triệu đồng/năm 2006, bình quân mỗi năm tăng 14,57%. Mặc dù tỷ
trong nông nghiệp tăng chậm so với cơng nghiệp, dịch vụ nhưng lĩnh vực
nơng nghiệp Bình Phước vẫn đang giữ một vai trò quan trọng trong việc ổn
định sản xuất, đảm bảo các nhu cầu thiết yếu và góp phần cải thiện chất lượng
cuộc sống người dân, giải quyết việc làm, đóng góp cho ngân sách và với chủ
trương phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững đang góp phần to lớn vào
xây dựng Bình Phước phát triển bền vững, hiện đại trong tương lai.
Xuất phát từ những lý do nêu trên đề tài “Nông nghiệp phát triển bền
vững trên địa bàn Tỉnh Bình Phước” được lựa chọn làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học chuyên ngành kinh tế chính trị, mã số 60 31 01.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn có vai trị hết sức quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, nên được Đảng, Nhà nước các Bộ, ban, ngành
chức năng có liên quan luôn dành cho lĩnh vực này sự quan tâm sâu sắc, bên
cạnh đó với xuất phát điểm là nền nông nghiệp lạc hậu, manh mún nên nông
nghiệp cũng là lĩnh vực dành được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, viện
nghiên cứu và cũng là chủ đề được các sinh viên đại học, sau đại học lựa chọn
làm đề tài nghiên cứu chuyên sâu. Có thể, khái quát những nét cơ bản như sau:
+ Nghị quyết Trung ương 5 khố IX (tháng 2/2002) về đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn thời kỳ 2001- 2010.
+ Nghị quyết Trung ương 7 khoá X: về nông nghiệp, nông dân nông thôn.
+ Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình
nghị sự 21 của Việt Nam (ban hành kèm theo quyết định số 153/2004/QĐ-TTg
ngày 17 tháng 08 năm 2004 của Thủ tướng chính phủ)).
- Sách chuyên khảo, tham khảo, đề tài khoa học, luận văn, luận án có
thể nêu lên một số cơng trình tiêu biểu sau:
+ Cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp và nơng thơn ở Việt Nam,
con đường và bước đi. Đề tài KX-02-07 do GS-TS Nguyễn Kế Tuấn là chủ biên.



3
+ Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (2003) do PGS.TS
Nguyễn Sinh Cúc chủ biên, Nxb thống kê.
+ Nông nghiệp Việt Nam trong phát triển bền vững, Nxb Chính trị quốc
gia (2004) do TS Nguyễn Từ chủ biên.
+ Phát triển nông thôn bền vững, những vấn đề lý luận và kinh
nghiệm thế giới (2008) do TS Trần Ngọc Ngoan chủ biên, Nxb Khoa học
xã hội.
+ Nông nghiệp, nông dân, nông thôn hôm nay và mai sau (2008), Viện
chính sách và chiến lược nơng nghiệp phát triểnnơng thơn, của tác giả Đặng
Kim Sơn, Nxb Chính trị quốc gia.
+ Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong q trình
cơng nghiệp hóa (2008), Viện chính sách và chiến lược nông nghiệp phát triểnnông
thôn, của tác giả Đặng Kim Sơn, Nxb Chính trị quốc gia.
+ Xây dựng phát triển nông nghiệpbền vững ở Tỉnh Hải Dương hiện
nay (2009) của Thạc sỹ kinh tế Bùi Quang Toản.
Ngoài ra, cịn có những cơng trình, bài viết trên các báo, tạp chí chun
ngành như: Làm gì để phát triển tam nơng trong thời gian tới, Tạp chí Tun
giáo số 6/2008 của tác giả Nguyễn Sinh Cúc; Những giải pháp phát triển tam
nơng bền vững, Tạp chí Tun giáo, số 10/2008 của tác giả Nguyễn Sinh Cúc,
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nơng thơn hiện nay, của TS. Hồng Xn
Nghĩa, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội v.v…, nhìn chung
các cơng trình nghiên cứu về chủ đề này đã được công bố chủ yếu tập trung
vào giải quyết vấn đề cơ bản về nông nghiệp, nông thơn, nơng dân nói chung
hoặc nơng nghiệp, nơng thơn trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
hay trong hội nhập kinh tế quốc tế hoặc nông nghiệp phát triển hàng hóa;
hoặc tiếp cận vấn đề theo từng khía cạnh riêng biệt và theo thời gian, không
gian nhất định như lao động, việc làm, giải quyết việc làm trong quá trình
cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa, hoặc xóa đói giảm nghèo… Cho đến nay, chưa



4
có cơng trình nào đề cập vấn đề nơng nghiệp phát triển bền vững trên địa bàn
tỉnh Bình Phước một cách có hệ thống dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy,
đề tài nghiên cứu là hồn tồn mới và khơng bị trùng lắp với các cơng trình đã
cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về
nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững, làm cơ sở để phân tích thực
trạng phát triển nơng nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Phước; từ đó đề xuất
phương hướng, quan điểm và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển bền vững
nơng nghiệp của tỉnh Bình Phước.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ những vấn đề cơ bản trong lý luận về phát triển bền vững,
nông nghiệp phát triển bền vững và các yếu tố tác động đến nông nghiệp phát
triển bền vững.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số phương về nông nghiệp phát
triển bền vững để rút ra bài học cho tỉnh Bình Phước.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp ở tỉnh Bình
Phước trong những năm qua từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp
để nông nghiệp của tỉnh Bình Phước phát triển theo hướng bền vững.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu nông nghiệp phát
triển bền vững trên địa bàn tỉnh.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn, học viên chỉ tập trung nghiên cứu việc
phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Phước, chủ yếu trong giai
đoạn 2006 - 2010.



5
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam và các chủ
trương chính sách của Nhà nước Việt Nam. Đồng thời, tiếp thu những kết quả
của các cơng trình đã cơng bố có liên quan đến vấn đề mà tác giả nghiên cứu.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa trên cơ sở thực tiễn phát triển nông nghiệp của tỉnh Bình
Phước thời gian qua. Sử dụng các kết quả đã đạt được thể hiện qua các báo
cáo của Tỉnh uỷ và UBND Tỉnh, báo cáo chuyên đề có liên quan của các cơ
quan của Tỉnh để phục vụ cho việc nghiên cứu của đề tài.
5.3 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu của kinh tế
chính trị, đồng thời kết hợp với sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích
tổng hợp, so sánh và khảo sát, minh họa…
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa và làm rõ những quan điểm, quan niệm về phát triển
bền vững, đi sâu phân tích nơng nghiệp phát triển bền vững và những nhân tố
ảnh hưởng đến nông nghiệp phát triển bền vững trên địa bàn Tỉnh.
- Phân tích đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp của Tỉnh để làm
nổi bật những tồn tại, những vấn đề đang đặt ra trong phát triển nông nghiệp
theo hướng bền vững.
- Đề xuất phương hướng, mục tiêu và giải pháp chủ yếu phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Phước để góp phần xây dựng nơng
nghiệp tỉnh Bình Phước phát triển bền vững trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. NÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KHÁI NIỆM, ĐẶC
TRƯNG VÀ VAI TRÒ

1.1.1. Nhận thức chung về phát triển bền vững và nông nghiệp phát
triển bền vững
1.1.1.1. Khái niệm về phát triển bền vững
Để sinh tồn con người không ngừng khai thác nguồn lực tự nhiên và
không ngừng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất để tạo ra ngày
càng nhiều của cải, vật chất cho xã hội. Q trình đó đã gây nên những “tổn
thương” cho môi trường sinh thái như ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài
nguyên, hệ sinh thái bị mất cân đối nghiêm trọng, khí hậu thay đổi theo hướng
bất lợi cho sản xuất và cuộc sống, mặt khác trong quá trình sản xuất cũng như
trong cuộc sống xã hội đã thải ra những chất độc hại vượt xa q trình phân
hóa của nó…Hệ quả của những “tổn thương” là làm cho loài người phải đối
diện với nhiều hiểm họa như môi trường bị ô nhiễm, dịch bệnh tràn lan, lũ lụt,
hạn hán v.v…
Hiện thực trên, đòi hỏi con người phải xem xét lại hành vi của mình
trong quá trình tồn tại và phát triển, phải tìm ra cách thức phát triển kinh tế xã
hội một cách hài hòa vừa đảm bảo cuộc sống hiện tại vừa đảm bảo ổn định
cho tương lai; vừa phát triển kinh tế nhanh mạnh nhưng vẫn phải đảm bảo tốt
môi trường sinh thái, đảm bảo cơng bằng xã hội. Từ đó vấn đề phát triển bền
vững được nghiên cứu và trở thành định hướng phát triển của nhân loại.
Phát triển bền vững là một khái niệm xuất hiện trên cơ sở đúc rút kinh

nghiệm phát triển của các quốc gia trên thế giới. Cho đến nay còn tồn tại
nhiều quan niệm khác nhau về phát triển bền vững ở mỗi tổ chức khác nhau.


7
Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên thế giới (IUCN) đã
đưa ra quan niệm về phát triển bền vững lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn
phẩm “Chiến lược bảo tồn thế giới” với nội dung rất giản đơn như sau: sự
phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà cịn
phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi
trường sinh thái học.
Liên hợp Quốc thì cho rằng phát triển bền vững đó là một xã hội khơng
sử dụng các nguồn tài nguyên có thể tái tạo (đất, nước, sinh vật...) nhanh hơn
khả năng tự tái tạo của chúng; không sử dụng các nguồn tài ngun khơng thể
tái tạo (khống sản, nhiên liệu...) nhanh hơn quá trình tìm ra những loại thay
thế chúng; không thải ra môi trường những chất độc hại nhanh hơn q trình
hấp thụ, vơ hiệu chúng. Điều đó có nghĩa rằng, phát triển bền vững là một q
trình phát triển lâu dài, vừa đáp ứng nhu cầu hiện tại vừa đảm bảo lợi ích cho
tương lai.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio
de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển
bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi ) năm 2002 đã xác định:
phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài
hịa giữa ba mặt phát triển gồm phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế );
phát triển xã hội (nhất là thực hiên tiến bộ, công bằng xã hội, xóa đói giảm
nghèo và giải quyết việc làm ) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô
nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường, phòng chống cháy và chặt
phá rừng, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên ). Tiêu chí
để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt
tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên tiết

kiệm; bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống.
Tổng quan những nghiên cứu trên có thể hiểu phát triển bền vững là kiểu
phát triển vừa đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại, vừa không ảnh


8
hưởng xấu đến khả năng phát triển của các thế hệ tương lai; là sự phát triển kết
hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và môi trường sinh thái
nhằm làm cho cuộc sống của con người tốt đẹp hơn.
1.1.1.2. Nội dung của phát triển bền vững
Phát triển bền vững bao gồm ba nội dung cơ bản đó là: Phát triển bền
vững về kinh tế; Phát triển bền vững về xã hội và phát triển bền vững về tài
nguyên và môi trường.
- Phát triển bền vững về kinh tế:
Phát triển bền vững về kinh tế bao gồm nhiều nội dung, trước hết là sự tăng
trưởng cao và liên tục của nền kinh tế, đồng thời là quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tích cực. Xác lập được sự cân đối giữa tốc độ tăng trưởng kinh
tế với việc sử dụng các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công
nghệ, lao động... một cách có hiệu quả và trong sản xuất không thải ra những chất
độc hại gây ô nhiễm môi trường.
- Phát triển bền vững về xã hội:
Phát triển bền vững về xã hội trước hết thể hiện trong phân bố công
bằng các nguồn lực; sự công bằng trong tiếp cận các nguồn lực, các dịch vụ
xã hội của các doanh nghiệp và công dân được tôn trọng. Chế độ dân chủ,
công bằng, tiến bộ xã hội phải được chăm lo đầy đủ và toàn diện.
- Phát triển về bền vững về tài nguyên và môi trường
Phát triển bền vững về tài nguyên và môi trường là sự phát triển trong
đó các tài nguyên thiên nhiên tái tạo được sử dụng trong phạm vi cho phép và
có khả năng khôi phục về số lượng và chất lượng; các dạng tài nguyên không
tái tạo phải được sử dụng tiết kiệm và hợp lý nhất. Mơi trường tự nhiên

(khơng khí, đất nước, cảnh quan thiên nhiên...) và môi trường xã hội (Dân số,
chất lượng dân số, sức khỏe, môi trường sống lao động, học tập của con
người.....) nhìn chung khơng bị làm ơ nhiễm, suy thối và tổn hại. Các nguồn
phế thải độc hại từ sản xuất và cuộc sống được tái chế và xử lý kịp thời đảm
bảo môi trường luôn trong sạch.


9
Để đảm bảo phát triển bền vững, ba nội dung trên phải có sự phát triển
hài hịa, hợp lý, sự hài hòa và hợp lý trong phát triển bền vững thể hiện: kinh
tế có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định trong một thời gian dài tạo nhiều tiền đề
cho xã hội phát triển, bởi vì kinh tế phát triển cao và ổn định tất yếu kéo theo
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đến lượt chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực sẽ
dẫn đến cơ cấu ngành nghề thay đổi, xuất hiện ngành nghề mới, nhiều việc
làm mới dẫn đến thay đổi kết cấu dân cư, cung cấp các điều kiện vật chất và
cả tinh thần đầy đủ hơn để giải quyết các vấn đề xã hội như lao động, việc
làm, các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao... làm cho các vấn đề xã hội phát
triển hơn. Hay nói cách khác, trong ba nội dung của phát triển bền vững thì
phát triển kinh tế là nguồn gốc, là động lực; phát triển xã hội là mục tiêu và sự
phát triển môi trường là điều kiện của phát triển bền vững.
Như vậy, phát triển bền vững về kinh tế đã bao hàm cả phát triển bền
vững về xã hội. Tuy nhiên để phát triển kinh tế thì các yếu tố đầu vào cơ bản
của quá trình sản xuất ln phải được sử dụng có hiệu quả và tái tạo thường
xuyên, mà các yếu tố này chủ yếu tồn tại trong môi trường và chỉ được tái tạo
trong môi trường. Nếu môi trường không tốt lên mà xấu đi thì các yếu tố cơ bản
của quá trình sản xuất khơng thể sử dụng có hiệu quả và cũng không được tái
tạo.
1.1.1.3. Quan điểm phát triển bền vững của Đảng ta
Ở nước ta quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức rất
sớm và thể hiện trong nhiều chủ trương nghị quyết của Đảng. Mặt dù cách thể

hiện có khác nhau, nhưng đều mang nội dung của phát triển bền vững. Ngay
từ Đại hội III năm 1960, Đảng đã đặt mục tiêu “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên CNXH”. Đại hội IV thông qua chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội 1991 - 2000, nhấn mạnh “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và
cơng bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ mơi trường”. Năm 1991 Chính
phủ đã ban hành “Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững


10
giai đoạn 1991- 2000” (QĐ số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991), tạo tiền đề
cho quá trình phát triển bền vững ở nước ta. Đại hội VIII nêu bài học “Tăng
trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và cơng bằng xã hội, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ mơi trường sinh thái”. Chiến lược Phát triển
kinh tế - xã hội 2001-2010 thông qua tại Đại hội khẳng định “Phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Đại hội X nêu bài học về phát triển
nhanh và bền vững, trong đó ngồi các nội dung phát triển kinh tế, xã hội,
mơi trường cịn bổ sung yêu cầu phát triển toàn diện con người, thực hiện dân
chủ và xác định mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2006-2010 là “Phấn
đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn,
gắn với phát triển con người” [18].
Với nhận thức là một nền kinh tế tỷ trong nơng nghiệp cịn cao, nên
phát triển bền vững nông nghiệp được đặc biệt chú trọng. Bởi vậy, Nghị quyết
26-NQ/TW ra ngày 5-8-2008 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn được
thông qua tại Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã thể
hiện quyết tâm của Đảng ta trong việc đẩy mạnh đổi mới sản xuất nông
nghiệp, nông thôn và nông dân. Nghị quyết cũng đã chỉ rõ những hạn chế của
thực trạng sản xuất nông nghiệp “Nông nghiệp phát triển cịn kém bền vững, tốc
độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt
nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công

nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản
xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp”.
Theo đó, Nghị quyết 26 đã vạch ra mục tiêu “Xây dựng nền nơng nghiệp phát
triển tồn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng
suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an
ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài”; đồng thời, khẳng định “Cần


11
đẩy nhanh tiến độ quy hoạch sản xuất nông nghiệp trên cơ sở nhu cầu thị trường
và lợi thế từng vùng, sử dụng đất nơng nghiệp tiết kiệm, có hiệu quả, duy trì diện
tích đất lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia...”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục xác định rõ mục tiêu trong
nơng nghiệp phải: “Phát triển nơng nghiệp tồn diện theo hướng hiện đại,
hiệu quả, bền vững, phát huy lợi thế của nền nơng nghiệp nhiệt đới. Trên cơ
sở tích tụ đất đai, đẩy mạnh cơ giới hóa, áp dụng cơng nghệ hiện đại (nhất là
cơng nghệ sinh học); bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển kinh tế
hộ, trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp, vùng chun mơn hóa, khu
nơng nghiệp cơng nghệ cao, các tổ hợp sản xuất lớn”.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 2011-2020, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI cũng đã xác định rõ định hướng cụ thể:
Khuyến khích tập trung ruộng đất; phát triển trang trại, doanh nghiệp
nông nghiệp phù hợp về quy mô và điều kiện của từng vùng. Gắn kết
chặt chẽ, hài hòa lợi ích giữa người sản xuất, người chế biến và người
tiêu thụ, giữa việc áp dụng kỹ thuật và công nghệ với tổ chức sản xuất,
giữa phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới [25].
Như vậy, quan điểm phát triển nhanh và bền vững nói chung đã sớm được
Đảng và Nhà nước ta đặt ra với nội dung ngày càng hồn thiện và trở thành
đường lối, quan điểm, chính sách nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành

tiến trình phát triển đất nước trong nhiều thập kỷ qua. Để thực hiện mục tiêu phát
triển bền vững, nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng, nhiều văn bản quy
phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành và triển khai thực hiện; nhiều
chương trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến hành và thu được
những kết quả bước đầu; nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào
cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển đất nước.
1.1.2. Những vấn đề chung về nông nghiệp phát triển bền vững
1.1.2.1. Khái niệm và nội dung nông nghiệp phát triển bền vững
CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn là một vấn đề quan trọng


12
trong phát triển nền kinh tế quốc dân ở những quốc gia mà nơng nghiệp cịn
chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Ngoài vấn đề đảm bảo an ninh lương
thực, cung cấp hàng hóa cho xuất khẩu, nơng nghiệp phát triển bền vững cịn
góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng hiện đại, nâng cao cuộc sống
nông dân. Vì vậy, nơng nghiệp phát triển bền vững có một vai trò quan trọng,
trở thành mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước ta trong con đường đi lên
CNXH. Nhưng nhận thức về nông nghiệp phát triển bền vững vẫn còn nhiều ý
kiến khác nhau và chưa được quan tâm một cách thỏa đáng.
Ở đây cần phân biệt hai khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững và
nông nghiệp phát triển bền vững. Theo quan điểm của luận văn, phát triển
nông nghiệp bền vững là một khái niệm chỉ sự hành động, nói lên sự tác động
của con người dựa trên các quy luật khách quan, sử dụng lực lượng sản xuất
hiện đại trong một quan hệ sản xuất phù hợp nhằm làm cho nông nghiệp gia
tăng sản lượng sản phẩm sản xuất, cùng với đó là sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp theo hướng hiện đại, tiến bộ và nâng cao hiệu quả sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn. Nông
nghiệp phát triển bền vững phản ánh trạng thái của ngành nơng nghiệp ở một
trình độ phát triển nhất định, nó cịn là một quan hệ kinh tế phản ánh mối

quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người với con người ở một
ngành sản xuất cụ thể là nông nghiệp. Ở trạng thái bền vững, ngành nơng
nghiệp có sự tăng trưởng cao, ổn định cả về quy mơ lẫn tốc độ, có mối quan
hệ hài hòa giữa con người với tự nhiên, con người là một bộ phận của tự
nhiên, hoạt động theo các quy luật của tự nhiên, không chỉ khai thác mà cịn
duy trì bồi bổ tự nhiên. Như vậy, thực hiện phát triển nông nghiệp bền vững
nhằm hướng đến xây dựng một nền nơng nghiệp phát triển bền vững. Chính
vì vậy, nơng nghiệp phát triển bền vững là mục đích, là kết quả của q trình
phát triển nơng nghiệp theo hướng bền vững.
Từ những phân tích trên có thể hiểu khái niệm phát triển nông nghiệp


13
bền vững như sau: “nông nghiệp phát triển bền vững được hiểu là ngành
nông nghiệp phát triển với chất lượng cao, trong đó sử dụng hợp lý các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, giải quyết tốt các vấn đề xã hội gắn với bảo
vệ môi trường sinh thái trên cơ sở bảo đảm thỏa mãn các nhu cầu của con
người trong hiện tại và tương lai và được xã hội chấp nhận”.
Nội dung cụ thể của phát triển nông nghiệp bền vững thể hiện ở ba khía
cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường :
Về nội dung kinh tế: nông nghiệp phát triển bền vững là làm cho nền
nơng nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, gắn với chuyển dịch cơ cấu
cây trồng, vật nuôi theo hướng tiến bộ; việc ứng dụng những thành tựu khoa
học công nghệ mới vào sản xuất đem lại năng suất cao, bảo đảm chất lượng,
có giá trị kinh tế cao; sử dụng các nguồn lực như vốn, đất đai, nguồn nước,
khoa học công nghệ, lao động…. tiết kiệm, có hiệu quả; lực lương sản xuất và
quan hệ sản xuất luôn được củng cố và phát triển.
Về nội dung xã hội: nông nghiệp phát triển bền vững trước hết là làm cho
sự phân bố các nguồn lực sản xuất công bằng giữa ngành nông nghiệp với các
ngành khác. Nhà nước có chính sách trong việc đảm bảo an ninh lương thực, xóa

đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của nông dân đi đôi với phát triển văn hóa,
giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng kỷ thuật (điện, đường, trường, trạm,….),
phát triển các dịch vụ xã hội và tạo cho mọi người dân được tiếp cận bình đẳng
đối với loại hình dịch vụ này, thực hiện dân số kế hoạch hóa gia đình.v.v…
Bền vững về tài ngun, mơi trường trong nơng nghiệp phát triển bền
vững là làm cho tài nguyên được sử dụng hợp lý, hiệu quả; bảo vệ và tái tạo độ
màu mở của đất, bảo vệ môi trường nước, bảo vệ rừng; sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật, phân bón, thức ăn gia súc, các chế phẩm sinh học…trong sản xuất đúng
quy trình khơng làm tổn hại đến sức khỏe con người.
1.1.2.2. Đặc trưng của nông nghiệp phát triển bền vững
Nông nghiệp phát triển bền vững bao gồm những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, nông nghiệp phát triển bền vững là thực hiện hoạt động sản


14
xuất nông nghiệp hướng đến sự phù hợp trong hoạt động của con người với
các quy luật phát triển của tự nhiên, đảm bảo sự lành mạnh lâu dài của con
người và tự nhiên.
Muốn có sự phát triển bền vững không những chỉ trong nông nghiệp mà
trong tất cả các ngành khác đòi hỏi con người phải nhận thức được các quy luật
của thiên nhiên để định hướng chúng vào phục vụ sản xuất và cuộc sống.Hoạt
động của con người không thể đi ngược các quy luật của thiên nhiên, mà phải
tơn trọng nó, sử dụng nó phục vụ cho mục tiêu phát triển đã đề ra. Do đó, để
nơng nghiệp phát triển bền vững thì các chủ trương chính sách của nhà nước, của
các cơ quan có thẩm quyền phải được xây dựng trên cơ sở tôn trong các quy luật
vốn có của tự nhiên, cải tạo thiên nhiên theo hướng hòa nhập và bồi dưỡng tự
nhiên. Phải xem xét tồn bộ trong sự vận động của nó, khơng tách rời từng bộ
phận, phải suy nghĩ đến lợi ích tồn cục. Tấn cơng vào thiên nhiên, hủy hoại mơi
trường thiên nhiên vì những lợi ích ngắn hạn, trước mắt….là tự tấn cơng vào
chính sự sống của hơm nay và mai sau của mình và cộng đồng. Như vậy, nơng

nghiệp phát triển bền vững không thu hẹp trong phạm vi nơng nghiệp mà cịn
tham gia vào giải quyết ngững vấn đề lớn mang tính tồn cầu.
Thứ hai, nơng nghiệp phát triển bền vững là nhằm mục đích đưa hoạt
động sản xuất nông nghiệp đảm bảo tăng trưởng cao, ổn định dựa trên cơ sở
ứng dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ vào sản xuất.
Tăng trưởng là một yếu tố không thể thiếu trong phát triển bền vững nói
chung, trong thực hiện nơng nghiệp phát triển bền vững nói riêng. Nơng
nghiệp có tăng trưởng cao mới tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của cuộc sống, cung cấp nguyên liệu cho các ngành khác và cho xuất
khẩu. Nhưng tăng trưởng trong bền vững không phải dựa trên viêc tăng khai
thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các nguồn lực một cách quá mức mà
phải dựa vào việc ứng dụng các thành tựu mới về công nghệ sinh học, bảo
quản và chế biến, bảo vệ thực vật, phát triển nông nghiệp sinh thái…. Muốn


15
vậy phải đẩy mạnh CNH, HĐH trong sản xuất nông nghiệp để có năng suất,
chất lượng, hiệu quả mà vẫn đảm bảo nuôi dưỡng, tái tạo, phát triển các nguồn
lực cho sự phát triển lâu dài.
Thứ ba, nông nghiệp phát triển bền vững là nhằm làm cho việc sản
xuất nông nghiệp sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực nhưng vẫn
đảm bảo sự tăng trưởng.
Các nguồn lực chủ yếu cho việc phát triển nông nghiệp bền vững bao
gồm: vốn, sức lao động, đất đai, khoa học công nghệ. Sử dụng tiết kiệm, có
hiệu quả các nguồn lực thể hiện trước tiên ở chính sách đầu tư đúng hướng,
tập trung, không dàn trải và tăng cường quản lý không để tham nhũng, thất
thoát nguồn vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn theo hướng tỷ suất đầu
tư/đồng tăng trưởng giảm, nhưng vẫn đảm bảo tốc độ tăng trưởng. Đối với
sức lao động, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả chính là việc tổ chức, bố trí sản
xuất hợp lý, đảm bảo trong điều kiện lực lượng lao động trong nông nghiệp

giảm do tăng cường công nghiệp, dịch vụ và các ngành nghề khác nhưng
nông nghiệp vẫn phát triển. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực đất đai là
nâng cao hệ số sử dụng đất, thực hiện trên một đơn vị diện tích được quay
vịng sử dụng nhiều nhất và hiệu quả cao nhất nhưng khơng làm thối hóa, ô
nhiễm môi trường đất, giải quyết được mâu thuẫn giữa xu hướng đất cấu
tượng," bờ xôi ruộng mật" hai vụ lúa ăn chắc trong nông nghiệp bị thu hẹp do
phát triển công nghiệp, đô thị với vấn đề đảm bảo an ninh lương thực và tăng
trưởng trong nông nghiệp. Sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực khoa học
cơng nghệ là việc ứng dụng các thành tựu của nguồn lực này vào sản xuất tạo
ra năng suất, hiệu quả nhưng không lạm dụng,ảnh hưởng đến môi trường sinh
thái, sức khỏe con người, chống lại các quy luật của tự nhiên.
Thứ tư, nông nghiệp phát triển bền vững cũng nhằm mục tiêu làm cho
cơ cấu kinh tế hợp lý.
Nói đến cơ cấu kinh tế trong nơng nghiệp là nói đến cơ cấu giữa trồng


16
trọt và chăn nuôi. Trong trồng trọt lại phân ra cơ cấu giữa cây lương thực, cây
công nghiệp, cây rau màu. Trong chăn ni có cơ cấu giữa chăn ni gia súc,
gia cầm, thủy sản… Cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý là cơ cấu đảm bảo tỷ
trọng phù hợp giữa chăn nuôi và trồng trọt, giữa các loại cây trồng, giữa các
loại con… trên cơ sở lợi thế cạnh tranh và sự cân đối trong phát triển nông
nghiệp từng vùng, từng địa phương.
Thứ năm, nông nghiêp phát triển bền vững cũng nhằm đảm bảo một cách
lâu dài, ổn định công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện chất lượng cuộc
sống, tạo lập tiền đề vật chất cho xây dựng nông thôn mới.
Đây là đặc trưng rất quan trọng trong xây dựng nông nghiệp phát triển
bền vững vì nơng nghiệp là ngành sử dụng nhiều lao động, nhưng lao động
trong nơng nghiệp lại có tính thời vụ, thu nhập thấp, điều kiện sinh sống ở
nơng thơn khó khăn, cho nên hiện tượng bỏ nghề nơng đi tìm một cơng việc

khác có thu nhập cao hơn là một xu thế trong sự phát triển của xã hội, nhất là
thời kỳ phát triển cơng nghiệp. Vì thế, một đặc trưng rất quan trọng và cũng
là yêu cầu để xây dựng nông nghiệp phát triển bền vững là: vừa phải đảm bảo
việc làm cho người lao động nông nghiệp, vừa đảm bảo mức sống không quá
thấp so mức sống trung bình của cư dân đơ thị và thường xun được cải thiện;
vừa phải quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỷ thuật (điện,
đường, trường, trạm,…), kết cấu hạ tầng vă hóa - xã hội (các thiết chế văn hóa,
các điểm hoạt động văn hóa thể thao, các loại hình dịch vụ,…) ở nơng thơn cũng
như phải quan tâm tốt hơn, không quá chênh lệch với thành thị.
Thứ sáu, nơng nghiệp phát triển bền vững địi hỏi trình độ ngày càng
cao của người lao động trong lĩnh vực này.
Yêu cầu của một nền nông nghiệp bền vững là phát triển nông nghiệp
vừa đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế vừa đảm bảo mục tiêu ổn định xã
hội và bảo vệ mơi trường. Trong khi đó người lao động là chủ thể của quá
trình phát triển nơng nghiệp. Do đó, muốn có nơng nghiệp phát triển bền


17
vững, người lao động phải có trình độ kiến thức khoa học kỷ thuật, kiến
thức chính trị - xã hội, kiến thức bảo vệ môi trường nhất định. Những kiến
thức đó giúp cho họ ứng dụng vào trong sản xuất để phát triển nơng nghiệp
bền vững. Đến lượt nó, sự phát triển của nông nghiệp bền vững lại đặt ra
yêu cầu địi hỏi người lao động trình độ cao hơn.
1.1.2.3. Vai trị của nơng nghiệp trong phát triển bền vững
Với những nền kinh tế mà nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, thì nơng
nghiệp sẽ là ngành kinh tế có tầm quan trọng sống cịn, có vị trí trọng yếu
trong cơ cấu kinh tế quốc dân, đảm nhiệm an ninh lương thực cho quốc gia,
cung cấp cho xã hội nguồn lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu, cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất công nghiệp,
đồng thời là thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm cho cơng nghiệp và dịch vụ…

Do đó, khi được phát triển bền vững nơng nghiệp có những vai trị sau:
Thứ nhất, nơng nghiệp phát triển bền vững sẽ đảm bảo giải quyết vấn đề
an ninh lương thực, tăng nguồn hàng xuất khẩu thu nhiều ngoại tệ để đầu tư
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tích cực; giảm tính thuần nơng, thuần lương thực sang sản xuất
nơng nghiệp tồn diện, tăng sản xuất hàng hóa nhằm nâng cao hiệu quả cho
nơng nghiệp.
Vai trị đó thể hiện rõ qua những thành tựu“khá tồn diện và to lớn” mà
nơng nghiệp, nông thôn Việt Nam đạt được trong những năm vừa qua. Mức tăng
trưởng sản xuất duy trì ở mức 4,8% liên tục trong 10 năm. Nhiều lĩnh vực sản
xuất được mở rộng về diện tích cũng như tăng trưởng về sản lượng như gạo, cà
phê, chế biến thủy hải sản, tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn phục vụ cả tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu. Ví dụ như ngành lúa gạo, từ một nước nhập khẩu
gạo Việt Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Sản
lượng gạo tăng liên tục từ mức 16 triệu tấn/năm (1986) lên mức 19,2 triệu
tấn/năm (1990) và 38,9 triệu tấn/năm (2009), tăng gấp 2,4 lần sau hơn 20 năm


18
đổi mới. Tính riêng trong các năm 2008 và 2009, sản lượng và giá trị các loại
cây trồng, đặc biệt là những cây tạo nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu như: cà
phê tăng 40,4%, cao su tăng 37%, chè tăng 33,3% điều tăng 28,3% so với năm
2005. Tỷ trọng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP luôn chiếm
trên 30% trong giai đoạn 1986-1990 và giảm dần trong các giai đoạn tiếp sau
theo xu hướng tích cực, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế [39].
Nông nghiệp đã góp phần khơng nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu với giá
trị xuất khẩu tăng bình quân trên 10% năm. Nếu như năm 1995, kim ngạch
xuất khẩu hàng hóa nơng lâm thủy sản của khu vực nông nghiệp chỉ đạt 2,5 tỷ
USD thì đến cuối năm 2009, ước đạt 13,2 tỷ USD, cao gấp 5 lần so với năm
1995. Trong 24 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả nước thì nơng lâm thủy

sản đã đóng góp tới 11 mặt hàng, chiếm gần ½ số mặt hàng xuất khẩu của
Việt Nam trong đó có những mặt hàng được xem là hàng chủ lực như gạo, cà
phê, cao su, gỗ, với kim ngạch trên 1 tỷ USD [39]. Cùng với việc mở rộng thị
trường xuất khẩu, nhiều mặt hàng nông sản gia tăng thị phần và chiếm vị thế
cao trên thị trường thế giới, như hạt điều, hạt tiêu chiếm vị trí thứ nhất, lúa
gạo, cà phê đứng thứ hai, cao su đứng thứ tư, chè đứng thứ năm và thủy sản
đứng thứ bảy trong nhóm các nước sản xuất mặt hàng này.
Cơ cấu ngành nơng, lâm, thủy sản đã có chuyển dịch theo hướng tích
cực, giảm tính thuần nơng, thuần lương thực, mang tính tự cung, tự cấp sang
một nền nơng nghiệp đa dạng, mang tính sản xuất hàng hóa. Diện tích gieo
trồng các loại cây trồng mà sản phẩm tạo ra dành nhiều cho xuất khẩu hoặc
phục vụ trực tiếp cho người tiêu dùng trong nước đã tăng lên như diện tích
các loại cây rau, quả, cây cơng nghiệp ngắn ngày có hướng tăng nhẹ khoảng
2-4%/năm. Diện tích các cây lâu năm tăng gần 80 nghìn ha riêng trong năm
2009 do giá xuất khẩu một số nông sản này tăng. Những dịch chuyển này đã
tạo ra sự hình thành các vùng chuyên canh, đặc biệt là vùng sản xuất các loại
cây rau, quả xuất khẩu như vải, bưởi, sầu riêng, na, xoài, thanh long,… cùng


19
với sự hình thành các mơ hình sản xt hàng hóa nơng sản lớn.
Một nét mới trong phát triển nơng nghiệp là đã xuất hiện một số mơ hình
tổ chức sản xuất kiểu mới như kinh tế trang trại, cao su tiểu điền, cà phê nhân
dân, tổ hợp tác tự nguyện, hợp tác xã kiểu mới làm dịch vụ cho kinh tế hộ.
Tính đến năm 2009, cả nước đã có 135.437 trang trại, trong đó có 39.769
trang trại trồng cây hàng năm, 23.880 trang trại trông cây lâu năm, 20.809
trang trại chăn nuôi và 35.489 trang trại nuôi trồng thủy sản, tập trung nhiều
nhất ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Kinh tế hợp tác và hợp tác xã
dịch vụ trong nông nghiệp cũng là một nét mới đáng ghi nhận trong tổ chức
sản xuất nông nghiệp hiện nay [39].

Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đa dạng hóa và sản xuất hàng
hóa là điều kiện cơ bản thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và hiệu quả của
từng ngành cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững sẽ góp phần chuyển
biến tích cực về tư duy và lối sống của đại bộ phận nông dân và người dân nơng
thơn từ đó góp phần đắc lực phát triển toàn diện xã hội theo hướng bền vững.
Cùng với những chuyển biến về mặt kinh tế, trong phát triển bền vững xã
hội nơng thơn cũng có sự chuyển biến về tư duy và lối sống. So với trước đây,
người nông dân hiện nay năng động hơn, chủ động hơn, biết theo “tín hiệu của
thị trường” để điều chỉnh sản xuất với mong muốn tăng thu nhập, cải thiện
cuộc sống, xóa đói giảm nghèo.
Khu vực nơng nghiệp đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng
triệu lao động, tiếp tục là ngành chính tạo ra thu nhập cho người nghèo. Tính
đến cuối năm 2009, khu vực nơng nghiệp, nơng thơn có 15,57 triệu hộ gia
đình (chiếm 69,37% tổng số hộ gia đình của cả nước) và dân số là 60,41 triệu
người (chiếm 70,37% tổng số dân cả nước), có trên 24 triệu lao động đang làm
việc trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếm tỷ trọng gần 60% tổng số lao động
đang làm việc trong các khu vực kinh tế của cả nước [39]. Cho nên lao động


20
và việc làm cho khu vực nông thôn là một trong những vấn đề được quan tâm
giải quyết.Với nhiều biện pháp khác nhau như chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn, phát triển ngành nghề và làng nghề truyền thống, đa
dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh….đã làm cho số lao động
có cơng ăn, việc làm ngày càng tăng lên, thu nhập và đời sống của người nơng
dân ngày càng tốt hơn trước góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an
tồn xã hội, tình trạng mất ổn định ở một số vùng nơng thơn đã cơ bản được
xóa bỏ. Cơng tác tuyên truyền phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước được coi trọng, nhiều vấn đề dân quan tâm đã được

cơng khai hóa, dân chủ cơ sở ngày càng mở rộng và tiến bộ; đời sống tinh thần
của người dân nông thôn được cải thiện rõ rệt.
Thứ ba, nông nghiệp phát triển bền vững là phương thức cải thiện nông
thôn theo hướng hiện đại, trong đó vấn đề mơi trường sinh thái được coi
trọng, chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên và mơ hình nơng
nghiệp, nơng thơn được phát triển theo hướng gắn với xã hội công nghiệp và
văn minh đô thị.
Chỉ thị 36-CT/TW ngày 12 tháng 06 năm 1991 của Bộ chính trị Ban chấp
hành Trung ương Đảng khẳng định quan điểm phát triển bền vững, đã nhấn
mạnh: “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong
đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội của tất cả các cấp,
các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong những
năm qua bộ mặt nông thơn nước ta đã có những thay đổi to lớn, trong đó vấn
đề mơi trường đã được lãnh đạo các cấp, các ngành quan tâm tổ chức thực
hiện như vấn đề cung cấp nước sạch, giảm ô nhiễm môi trường do chất thải từ
sản xuất và cuộc sống, trồng rừng và bảo vệ rừng ….Có thể nói mơi trường
sinh thái ở nơng thơn, cho dù hiện nay vẫn cịn rất nhiều việc phải làm, nhưng


21
dù sao nó vẫn cịn trong lành và sạch hơn so với khu vực đơ thị. Chính vì vậy,
trong những năm gần đây đã xuất hiện ý tưởng cho rằng nơng nghiệp, nơng
thơn bên cạnh những vai trị truyền thống, nó cịn có vai trị rất quan trọng
trong việc thoả mãn nhu cầu mới xuất hiện chính từ xã hội công nghiệp và văn
minh đô thị, từ yêu cầu phát triển bền vững, từ yêu cầu lấy con người làm hạt
nhân, trung tâm của sự phát triển.
1.2. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH VÀ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NÔNG
NGHIỆP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG


1.2.1. Các yếu tố cấu thành nông nghiệp phát triển bền vững
1.2.1.1.Các yếu tố kinh tế trong cấu thành nơng nghiệp phát triển
bền vững
i/ Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
+ Trình độ phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Khoa học cơng nghệ ngày càng có vai trị to lớn và là nguyên nhân trực
tiếp của nhiều biến đổi trong sản xuất và trong đời sống. Trong nông nghiệp,
yếu tố khoa học cơng nghệ giữ vai trị rất quan trọng, quyết định đến vấn đề
năng suất, hiệu quả, bền vững. Bởi vì nơng nghiệp có một đặc điểm là chịu sự
tác động rất lớn của yếu tố thiên nhiên, kể cả sản xuất lẫn bảo quản, chế biến.
Mức độ lệ thuộc vào thiên nhiên là một tiêu chí đánh giá trình độ phát triển
trong nơng nghiệp. Trình độ phát triển trong nơng nghiệp ngày càng cao thì
mức độ lệ thuộc vào thiên nhiên cũng sẽ giảm dần. Một nền nơng nghiệp tự
nhiên (phụ thuộc hồn tồn vào thiên nhiên) là nền nơng nghiệp có trình độ phát
triển thấp, khơng bền vững và chịu tác động mù quán của các quy luật tự nhiên.
Sự phát triển đó khơng từ nội tại nền nơng nghiệp mà lệ thuộc hồn tồn vào yếu
tố bên ngoài (thiên nhiên). Sự phát triển và ứng dụng khoa học- công nghệ vào
sản xuất nông nghiệp giúp con người ngăn ngừa được những tai biến của thiên
nhiên, làm chủ được thiên nhiên, hạn chế sự lệ thuộc của nông nghiệp vào yếu tố
tự nhiên, cho phép phát triển nông nghiệp một cách chủ động, hiệu quả, tăng tính


22
ổn định, giữ được tốc độ phát triển theo hướng bền vững.
Nhưng để hiểu và đưa khoa học công nghệ vào sản xuất lại phụ thuộc
vào trình độ nhận thức, tay nghề, khả năng ứng dụng các thành tựu đó vào sản
xuất của người lao động; khả năng tổ chức phát triển khoa học công nghệ và
đưa khoa học công nghệ vào sản xuất của các nhà lãnh đạo quản lý. Vì vậy,
địi hỏi của việc phát triển nơng nghiệp bền vững là trình độ phát triển kỹ

năng khoa học công nghệ của người lao động và nhà quản lý càng cao….
+ Trình độ của người lao động và nhà quản lý dưới tác động của khoa
học và công nghệ là một yếu tố quan trọng của LLSX trong nền nơng nghiệp
phát triển bền vững.
Nói đến LLSX, thì yếu tố quan trọng hàng đầu là người lao động với kỹ
năng lao động của họ (bao gồm cả lao động trực tiếp và lao động tổ chức quản
lý), mà đối với nông nghiệp là người nông dân, những người lãnh đạo quản lý
hợp tác xã (HTX), lãnh đạo chỉ đạo sản xuất, lãnh đạo ứng dụng khoa học và
công nghệ vào sản xuất… Đây là chủ thể của quá trình phát triển, C.Mác đã viết
“lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân và người lao
động” [36, tr.42]. Lao động thuần túy, cơ bắp, khơng có kiến thức khoa học và
cơng nghệ chỉ thích ứng với nền nông nghiệp tự nhiên. Đây là nền nông nghiệp
phát triển không bền vững. Nông nghiệp phát triển bền vững phải dựa trên khoa
học và công nghệ phát triển cao. Nhưng để hiểu và đưa khoa học, công nghệ vào
sản xuất lại phụ thuộc vào trình độ nhận thức, tay nghề, khả năng ứng dụng các
thành tựu đó vào sản xuất của người lao động, khả năng tổ chức, phát triển khoa
học, công nghệ và chỉ đạo đưa khoa học, công nghệ vào sản xuất của các nhà
lãnh đạo, quản lý. Vì vậy, để nơng nghiệp phát triển bền vững địi hỏi trình độ
của người lao động và nhà quản lý ngày càng cao.
+ Kết cấu hạ tầng kỹ thuật nơng nghiệp nơng thơn cũng có ảnh hưởng rất
lớn đến việc nông nghiệp phát triển bền vững.
Kết cấu hạ tầng có thể hiểu là những tư liệu lao động cấu thành LLSX


23
trong nông nghiệp. Theo C.Mác, tư liệu lao động là một trong những tiêu thức
cơ bản để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. “Những thời đại kinh tế
khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản
xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” [35, tr.269]. Sự phát triển
kết cấu hạ tầng với tư cách là công cụ lao động giúp người lao động nông nghiệp

“nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh lao động của con người; với tư cách là
cơ sở vật chất phục vụ đời sống, thì sự phát triển kết cấu hạ tầng giúp người
nông dân- lực lượng lao động nông nghiệp yên tâm hơn với nơi cư trú của mình
là nơng thơn và ngành nghề đã gắn bó với họ. Sự lạc hậu, yếu kém của kết cấu
hạ tầng nông nghiệp sẽ cản trở sự phát triển nông nghiệp bền vững.
ii/ Quan hệ sản xuất
Trước hết là mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với
tài nguyên thiên nhiên (đất đai, nguồn nước…) và các nguồn lực khác được
giải quyết tốt. Quyền sở hữu là quyền thể hiện mối quan hệ giữa con người
với con người trong chiếm hữu, định đoạt về của cải trong xã hội. Quyền sử
dụng thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người trong việc thực hiện
quyền được khai thác, sử dụng của cải trong xã hội.
Trong nông nghiệp, quyền sở hữu thể hiện là quyền sở hữu đất đai,
quyền sử dụng được thể hiện là quyền sử dụng đất. Ở Việt Nam, thực hiện sự
nghiệp đổi mới, đã có sự tách bạch tương đối giữa hai quyền sở hữu và quyền
sử dụng. Trong đó, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước thống nhất quản
lý, nhưng nhà nước giao quyền sử dụng lâu dài cho hộ nông dân. Người nơng
dân được tồn quyền sử dụng, chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế,
tặng cho, thế chấp theo quy đinh của pháp luật trong thời hạn nhà nước giao
quyền sử dụng. Việc tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đã giải
quyết hai vấn đề cơ bản cho nơng nghiệp phát triển bền vững đó là: một là
quyền sở hữu đất đai vẫn thuộc về toàn dân, cho phép nhà nước có thể sử
dụng quyền này để can thiệp khi thấy quyền sử dụng được dùng không đúng


24
mục đích, ảnh hưởng đến phát triển bền vững của nông nghiệp; hai là người
nông dân với quyền sử dụng đất đai được pháp luật hóa, được làm chủ thật sự
đất đai cho phép người nông dân với những kinh nghiệm, kỹ năng vốn có
được tồn quyền khai thác nguồn lực đất đai cho phát triển nơng nghiệp tồn

diện để thu địa tơ chênh lệch hai. Chính sách này đã tạo bước đột phá trong
phát triển nông nghiệp ở nước ta, sản xuất lương thực từ chổ thiếu ăn phải
nhập khẩu sang xuất khẩu mỗi năm từ 3-4 triệu tấn gạo.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa hai quyền này, nếu nhận thức, sử dụng
không đúng sẽ ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp bền vững. Khi nhà nước
dùng quyền sở hữu can thiệp quá sâu, không hợp lý như: giao quyền sử dụng
trong thời hạn ngắn, không ổn định; thu hồi đất nơng nghiệp có năng suất cao
sử dụng vào mục đích khác như làm sân gơn, khu cơng nghiệp, khu dân cư …
dẫn đến người sử dụng không đồng thời khai thác và bồi dưỡng tiềm năng của
đất đai, giảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực (đất đai, rừng, nguồn nước…).
Nhưng nếu buông lỏng quản lý quyền sở hữu sẽ dẫn đến nhiều vi phạm trong
thực hiện quyền sử dụng như chuyển đổi mục đích sử dụng đất khơng đúng
quy định, quy hoạch làm giảm diện tích đất nông nghiệp ảnh hưởng đến an
ninh lương thực; khai thác tài nguyên bừa bải, gây ô nhiễm môi trường….
Do vậy, để nông nghiệp phát triển bền vững phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, sao cho lợi ích người nơng dân gắn chặt
chẽ với việc quản lý, sử dụng quyền sử dụng của mình, họ được tồn quyền khai
thác tư liệu sản xuất này theo quy định của pháp luật để phục vụ cho mục đích
của họ; Nhà nước bảo đảm bảo quyền sở hữu đất đai khơng cho sử dụng sai mục
đích, phải thực hiện giao đất, giao rừng ổn định lâu dài cho hộ nơng dân, cịn nhà
nước tăng cường quản lý để cho quyền sử dụng được phát huy tốt.
Thứ hai là: Các loại hình sở hữu trong nơng nghiệp phát triển đa dạng và
phù hợp.
Nông nghiệp là lĩnh vực đặc thù có trình độ phát triển của LLSX khơng


25
đồng đều và khá chậm so với các lĩnh vực khác, tương ứng với nó phải tồn tại
nhiều hình thức sở hữu thể hiện bằng nhiều thành phần kinh tế khác nhau:
kinh tế hộ gia đình cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế hợp tác xã, kinh tế nhà

nước (các nông, lâm trường quốc doanh), kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư
bản nhà nước.
Kinh tế hộ gia đình là kinh tế cá thể phù hợp với yêu cầu khai thác có hiệu
quả các tiềm năng về đất đai, vốn, sức lao động, và tay nghề cá nhân nhằm phát
triển sản xuất ở những nơi có trình độ sản xuất thấp, lạc hậu. Đó là những tổ
chức kinh tế của từng gia đình nơng dân khơng tham gia hợp tác xã mà hoạt
động sản xuất, kinh doanh dựa vào vốn, sức lao động của bản thân và gia đình.
Kinh tế tiểu chủ, trang trại giống như kinh tế hộ gia đình nhưng lớn hơn
về quy mơ, sức sản xuất. Có tích tụ, tập trung sản xuất, th mướn lao động,
theo hướng sản xuất TBCN.
Kinh tế hợp tác xã là tổ chức hợp tác của những người lao động liên kết
góp vốn, góp sức, hoạt động theo nguyên tắc “tự nguyện, dân chủ, bình đẳng,
cùng có lợi” để sản xuất kinh doanh nông nghiệp và các ngành nghề khác theo
hướng dẩn và được sự giúp đỡ, hỗ trợ của nhà nước.
Kinh tế nhà nước là các nông trường, lâm trường quốc doanh do nhà
nước quản lý và tổ chức sản xuất.
Kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước là những loại hình
doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn của tư nhân và vốn của nhà
nước hoạt động trong nông nghiệp.
Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là để đảm bảo phù hợp sự phát
triển không đều của LLSX trong nông nghiệp và phù hợp quy luật quan hệ
sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX nhằm
thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững. Ở Việt nam hiện nay, các nông lâm
trường quốc doanh kiểu cũ sản xuất không hiệu quả đã chuyển đổi theo hình
thức khốn, giao đất, giao rừng cho người lao động, nhà nước chỉ nắm vai trò


×