Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Khu kinh tế cửa khẩu ở tỉnh an giang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.02 KB, 95 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 25 năm “đổi mới” nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu hết sức to lớn, trong đó khơng thể khơng đề cập đến sự đóng góp
quan trọng của kinh tế cửa khẩu (KTCK) - một nhân tố quan trọng trong
không gian kinh tế mở của nước ta thời hội nhập.
Ở Việt Nam, kinh tế cửa khẩu là một hoạt động có từ lâu, được hình
thành trong q khứ với các nước láng giềng, nhưng quy mô và tầm ảnh
hưởng to lớn của nó chỉ mới thể hiện rõ nét trong những năm gần đây, đặc
biệt từ khi nước ta hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Một điều dễ thấy là
muốn phát triển kinh tế, khơi dậy các tiềm năng (nhân lực, vị trí địa lí, tài
nguyên, thông tin …) phong phú của các tỉnh biên giới, thu hút các nguồn lực
(vốn, kĩ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản trị…) trong và ngoài nước, nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân vùng biên giới, rút ngắn khoảng cách
phát triển giữa các vùng miền trong nước ... con đường hiệu quả nhất và cần
làm là đẩy mạnh giao lưu cửa khẩu ở cả ba miền có chung đường biên giới
trên đất liền với Việt Nam là Trung Quốc, Lào và Campuchia.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, để
có thể hội nhập và phát triển nhanh thì vấn đề thu hút vốn đầu tư, nâng cao
hiệu quả đầu tư để phát triển bền vững là yêu cầu đặt ra cho từng địa phương.
Trong đó, vai trị của việc phát triển kinh tế mậu dịch hiện nay trên địa bàn ở
một số tỉnh có cửa khẩu biên giới là một trong những yếu tố quan trọng trong
thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và phát huy hiệu quả giao thương kinh tế
của các tỉnh biên giới nói riêng nhằm đóng góp tích cực vào việc phát triển
kinh tế thương mại chung của cả nước.
Bên cạnh đó, dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ, sự phát triển của kinh tế tri thức và phân công lao động xã hội



2
mang tính quốc tế sâu rộng. Trên cơ sở đó, xuất phát từ tiềm năng và nhu cầu
phát triển nền kinh tế của nước mình, tất yếu các quốc gia đều phải tham gia
vào việc xây dựng và phát triển kinh tế khu vực và quốc tế.
Với tính tất yếu đó, Việt Nam đã và đang từng bước xây dựng một số khu
kinh tế và khu thương mại mang tính đặc thù như: các khu chế xuất, các khu
kinh tế cửa khẩu biên giới và khu khuyến khích phát triển kinh tế thương mại.
Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước trong khu
vực, các hành lang kinh tế Đơng - Tây đã dần được hình thành, nhằm tạo sự
gắn kết kinh tế các nước trong tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS) với nhau
và với các nước ASEAN. Thực tế q trình đó, các khu kinh tế cửa khẩu trong
cả nước đã có sự phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
tăng trưởng nền kinh tế nước ta.
Nhằm phát huy kết quả thí điểm đạt được ở một số tỉnh và để thống
nhất chỉ đạo việc xây dựng và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu và khu
khuyến khích phát triển kinh tế thương mại, ngày 19 tháng 4 năm 2001 Thủ
tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg về chính sách đối với
khu kinh tế cửa khẩu biên giới.
Các khu kinh tế cửa khẩu làm thí điểm những năm trước đây theo các
quyết định riêng của Chính phủ đã khơi dậy được tiềm năng sẵn có của những
địa phương có biên giới. Sự hình thành các khu kinh tế cửa khẩu và khu
khuyến khích phát triển thương mại đã thực sự bước đầu đem lại những lợi
ích khơng nhỏ cho nhiều tỉnh khó khăn, nay có vị thế vượt hơn so với trước.
Lượng hàng hố lưu thơng qua khu kinh tế cửa khẩu và khu thương mại ngày
càng nhiều và đa dạng nhiều chủng loại. Tuy nhiên, bên cạnh đó do việc “áp
dụng thí điểm” trong một thời gian dài nên những lợi thế của cửa khẩu bị
giảm, đã không phát huy hết những tác dụng trong việc đẩy mạnh hoạt động
trao đổi với các nước mà trước hết là với các nước láng giềng.
An Giang là một tỉnh nông nghiệp nằm trong khu vực đồng bằng sông
Cửu Long, có đường biên giới dài 98 km, với hai cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên



3
và Vĩnh Xương, một cửa khẩu quốc gia Khánh Bình và nhiều cửa khẩu nhỏ
giáp với nước bạn Campuchia. Do vậy, các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh luôn
giữ vị trí quan trọng trong việc giao thương giữa các tỉnh Đồng bằng sông
Cửu Long với Vương quốc Campuchia, hơn nữa đây cịn là cửa ngõ để hàng
hố trong nước tiếp cận với thị trường các nước trong khu vực ASEAN. Từ
năm 2006 đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá qua các cửa khẩu của
tỉnh liên tục tăng và chiếm 65 - 70% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Cụ thể năm 2006 đạt 600 triệu USD, năm 2007 đạt 700 triệu USD, năm 2008
đạt 930 triệu USD, (riêng năm 2009 do khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới
nên chỉ đạt khoảng 712 triệu USD), năm 2010 đạt gần 950 triệu USD, năm
2011 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 1.153,4 triệu USD tăng 21% so với
cùng kỳ năm 2010 (Ban quản lý các khu kinh tế cửa khẩu tỉnh An Giang).
Bên cạnh đó, việc triển khai chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu đã tạo
điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động văn hoá - xã hội, cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân trên địa bàn. Đến nay, đã trực tiếp giải
quyết việc làm cho trên 600 lao động, dự kiến khi khu thương mại Tịnh Biên
được lấp đầy sẽ giải quyết việc làm cho trên 2000 lao động (Ban quản lý các
khu kinh tế cửa khẩu tỉnh An Giang 2010); các dịch vụ phụ trợ như nhà hàng,
khách sạn, vận chuyển hàng hoá …dần phát triển và ngày càng sơi động. Qua
đó, góp phần ổn định tình hình chính trị, an ninh, trật tự khu vực biên giới và
thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị, hồ bình, cùng phát triển giữa nhân dân
An Giang với nhân dân các tỉnh có chung đường biên giới nói riêng, giữa dân
tộc Việt Nam và dân tộc Campuchia nói chung.
Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển do:
nguồn vốn đầu tư cịn hạn chế, cơng tác đền bù tạo quỹ đất chưa nhiều, tiến
độ thực hiện xây dựng chậm, kết cấu hạ tầng còn yếu kém và thiếu đồng bộ;
việc thu hút các nguồn vốn đầu tư cho phát triển khu kinh tế cửa khẩu còn hạn

chế, chưa thu hút được nguồn vốn trong dân cư, vốn của các nhà đầu tư trong


4
và ngồi nước do chưa hình thành được cơ chế chính sách đặc thù, hoạt động
xúc tiến thương mại chưa đáp ứng được yêu cầu, phần lớn các doanh nghiệp
xuất, nhập khẩu chưa chủ động tiếp nhận việc khai thác thơng tin. Xuất phát
từ tình đó, tơi chọn đề tài “Khu kinh tế Cửa khẩu ở tỉnh An Giang trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” để viết luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên cơ sở đó, cùng với các cấp, các ngành quyết tâm triển khai thực
hiện Quyết định số 273/2005/QĐ - TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính
phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 53/2001/QĐ - TTg
ngày 19/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với khu kinh tế cửa
khẩu, đã có một số nhà nghiên cứu, quản lý, báo chí viết bài xung quanh vấn đề
này, tiêu biểu như:
- Tác động kinh tế - xã hội của mở cửa biên giới của TS Trịnh Tấn Đạt,
TS Vũ Tuấn Anh, TS Hồng Cơng Hồn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Hồng Tuyết Minh và nhóm nghiên cứu (2004) qua đề tài “Các giải
pháp quản lý nhà nước về thương mại tại khu thương mại tự do và khu kinh tế
cửa khẩu của nước ta” từ năm 1996 - 2004 đã làm rõ một số vấn đề lý luận về
quản lý nhà nước về thương mại tại các khu kinh tế cửa khẩu và khu thương
mại; chủ yếu dựa trên số liệu thứ cấp đánh giá thực trạng và từ đó đề xuất các
giải pháp quản lý nhà nước về thương mại tại các khu kinh tế cửa khẩu và khu
thương mại. Tuy nhiên, đề tài này không nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng
đến các quyết định đầu tư của các doanh nghiệp vào các khu kinh tế Cửa khẩu
và đánh giá thực trạng môi trường hoạt động đầu tư kinh doanh của các doanh
nghiệp trong khu kinh tế Cửa khẩu.
- Hoàng Thế Anh (2005) trong đề tài “Một số giải pháp phát triển các
khu kinh tế cửa khẩu đối với phát triển kinh tế xã hội vùng Đông Bắc” đã

nghiên cứu tập trung vào thực trạng về các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông
Bắc Việt Nam từ đó định hướng đưa ra các giải pháp phát triển khu kinh tế


5
cửa khẩu vùng Đông Bắc. Tuy nhiên, đề tài cũng không nghiên cứu các yếu tố
ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư của các doanh nghiệp vào khu kinh tế
Biên mậu và đánh giá thực môi trường hoạt động đầu tư kinh doanh của các
doanh nghiệp trong Khu kinh tế Cửa khẩu của vùng.
- Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời
sống kinh tế - xã hội của Tỉnh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Nguyễn Thị
Thanh Huyền, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005.
Tác giả đã nêu lên cơ sở khoa học hình thành và phát triển khu kinh tế
cửa khẩu Lào Cai; đánh giá thực trạng của q trình phát triển; những tác
động tích cực và hạn chế của khu kinh tế cửa khẩu đến đời sống kinh tế - xã hội
của tỉnh Lào Cai. Qua đó, đã đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu
nhằm thúc đẩy phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai trong giai đoạn mới. Tác
giả đã công phu nghiên cứu đưa ra các giải pháp có tính khả thi, có ý nghĩa thực
tiễn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai.
- Khu kinh tế - quốc phòng trên địa bàn Tây Bắc nước ta hiện nay của
Trần Thanh Quang, 2006.
Đề tài đã nêu nhận thức chung, đánh giá thực trạng, sự tác động của
phát triển khu kinh tế - quốc phòng đến đời sống kinh tế - xã hội của vùng
Tây Bắc nước ta, đồng thời vạch ra phương hướng và một số giải pháp để
thúc đẩy sự phát triển khu kinh tế - quốc phòng trong thời gian tới.
- "Phát triển các khu kinh tế cửa khẩu" của Đặng Nguyễn, Thời báo
Kinh tế, số 109 (6), 2007.
Tác giả đã đánh giá tình hình các khu kinh tế cửa khẩu Việt Nam nằm
tại các vùng tiếp giáp với 3 nước láng giềng Trung Quốc, Lào và Campuchia.
Và nhận định: Từ việc áp dụng các chính sách thí điểm trước đây, đặc biệt là

Quyết định 53/2001/QĐ-TTg, các khu kinh tế cửa khẩu đã có những tác dụng
tích cực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh cũng như của cả nước. Bên cạnh đó, tác giả còn nhận định: Hạn chế lớn


6
nhất của các khu kinh tế cửa khẩu hiện nay là do vị trí của các khu kinh tế cửa
khẩu Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia ở xa các trung tâm kinh tế và hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn kém, đòi hỏi nhu cầu đầu tư lớn.
- Thuốc nào cho hội chứng kinh tế cửa khẩu của Lâm Chí Cơng và
Hồng Thuỷ, Báo Lao động, số 104 (4), 2007.
Bài viết kiến nghị: Trung ương cần sớm tổng kết mơ hình kinh tế cửa
khẩu, để từ đó lập lại bản đồ các khu kinh tế cửa khẩu toàn quốc một cách
hợp lý, trên cơ sở đó xác định những khu kinh tế cửa khẩu nào là quan trọng,
có hướng phát triển tốt để tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ phát triển;
hạn chế đầu tư dàn trải, chia đều như hiện nay.
Tuy nhiên, do giới hạn lịch sử và đến nay chưa có một đề tài nào
nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống về "Khu kinh tế cửa khẩu ở An
Giang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", để qua đó đề xuất những giải
pháp phát triển khu kinh tế cửa khẩu quốc tế ở An Giang nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh, khu vực và cả nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Nhằm hệ thống hoá các vấn đề lý luận chung về khu kinh tế cửa khẩu
để trên cơ sở đó phân tích thực trạng các hoạt động của khu kinh tế cửa khẩu
của tỉnh An Giang. Đồng thời, đề xuất các định hướng phát triển hoạt động
của các khu kinh tế cửa khẩu ở An Giang trong thời gian tới .
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về khu kinh tế cửa khẩu như:
khái niệm, q trình hình thành, đặc điểm, vai trị, các hoạt động ở khu kinh tế

cửa khẩu; cơ hội và thách thức ở các khu kinh tế cửa khẩu trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Khảo sát, phân tích thực trạng mơi trường hoạt động của các khu kinh
tế cửa khẩu ở tỉnh An Giang, chủ yếu tập trung trên 3 lĩnh vực: thương mại dịch vụ; đầu tư và du lịch.


7
- Trình bày phương hướng và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm góp
phần thúc đẩy phát triển các hoạt động ở khu kinh tế cửa khẩu trong tỉnh An
Giang đến năm 2020.
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đề tài nghiên cứu các khu kinh tế cửa khẩu tỉnh An Giang qua khảo sát
nghiên cứu 3 khu kinh tế cửa khẩu trọng điểm: Khánh Bình, Vĩnh Xương,
Tịnh Biên trên các vấn đề: đầu tư hạ tầng kinh tế - kỹ thuật; hoạt động kinh tế
thương mại - dịch vụ; du lịch và cơ chế, chính sách vận hành ở khu kinh tế
cửa khẩu.
Thời gian khảo sát nghiên cứu thực trạng các khu kinh tế cửa khẩu An
Giang từ năm 2006 - 2011.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài áp dụng phương pháp nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa Mác
- Lênin; kết hợp logíc với lịch sử. Đặc biệt là các phương pháp nghiên cứu
kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp;
thống kê, so sánh và một số mơ hình....
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


8

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ KHU KINH TẾ CỬA KHẨU
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM KHU KINH TẾ CỬA KHẨU

1.1.1. Khái niệm khu kinh tế cửa khẩu
1.1.1.1. Khái niệm cửa khẩu:
Cửa khẩu được hiểu là cửa ngõ quốc gia, tại đó người, phương tiện
vận tải, hàng hoá được phép xuất nhập khẩu, quá cảnh, chuyển khẩu.
Theo các hiệp định của Việt Nam với Trung quốc, Lào và Campuchia
đã xác định có 9 cửa khẩu quốc tế và theo số liệu của Ban Biên giới Chính
phủ, có 23 cửa khẩu quốc gia. Ngồi các cửa khẩu quốc tế, quốc gia cịn có
trên 40 cửa khẩu địa phương. Một số cửa khẩu quốc gia đang được xem xét
nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế và một số cửa khẩu địa phương đang được
xem xét nâng cấp thành cửa khẩu quốc gia.
Các cửa khẩu phía Bắc nằm trên địa bàn vùng núi, gần các tuyến giao
thông huyết mạch nối liền Việt Nam với Trung Quốc. Các cửa khẩu giáp với
Lào cũng có địa hình tương tự như với Trung Quốc. Các cửa khẩu với
Campuchia chia làm 2 loại hình: Loại hình cửa khẩu vùng núi nằm trên địa bàn
các tỉnh Gia Lai, Lâm Đồng, Bình Phước, Tây Ninh; các cửa khẩu khác từ đến
Kiên Giang, Đồng Tháp và An Giang nằm trên vùng đồng bằng, ngập nước về
mùa mưa.
Căn cứ vào đặc điểm và tính chất địa lý, cửa khẩu được phân ra các
loại: cửa khẩu đường bộ, cửa khẩu đường sắt, cửa khẩu đường sông và cửa
khẩu bưu điện quốc tế.
Căn cứ vào quy mô của các cửa khẩu, phân ra: Cửa khẩu chính, gồm
cửa khẩu quốc tế và cửa khẩu quốc gia; cửa khẩu phụ (cửa khẩu tiểu ngạch).
Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu mới được dùng ở Việt Nam trong một
số năm gần đây khi quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam và Trung Quốc



9
đã có những bước phát triển mới, địi hỏi phải có mơ hình kinh tế phù hợp
nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh kinh tế của hai nước thông qua
các cửa khẩu biên giới. Bên cạnh đó Việt Nam cịn có biên giới với Lào và
Campuchia, tuy là hai quốc gia nhỏ, cịn khó khăn về kinh tế, nhưng lại có vị
trí hết sức quan trọng là nằm trong tiểu vùng sông Mê Kông. Giữa các quốc
gia thuộc tiểu vùng sơng Mê Kơng đang có nhiều dự án xây dựng cầu,
đường thúc đẩy phát triển kinh tế theo tuyến hành lang Đơng - Tây trên cơ
sở dịng chảy tự nhiên của sông Mê Kông. Tất cả các điều kiện thuận lợi
trên chỉ có thể phát huy tốt nếu có các mơ hình kinh tế tương ứng thích
hợp, trong đó không thể không kể đến tầm quan trọng của khu kinh tế cửa
khẩu.
Trong lịch sử, cịn có những hình thức quan hệ kinh tế song phương
hoặc đa phương giữa các quốc gia có đường biên giới chung, hoặc giữa các
quốc gia trong khu vực. Các hình thức liên kết kinh tế này, với những cấp độ
khác nhau về nội dung, u cầu, hình thức, quy định..v.v. mà có cách gọi khác
nhau như: khu kinh tế thương mại tự do; liên minh thuế quan; thị trường chung;
liên minh kinh tế; liên minh tiền tệ. Ngoài ra, ở những vùng, địa phương có
những điều kiện tự nhiên, kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội khác nhau đã xuất
hiện nhiều hình thức, mơ hình liên kết kinh tế cụ thể, bao gồm:
+ Các vùng tăng trưởng kinh tế, là hình thức hợp tác kinh tế giữa các
vùng nằm kề nhau về địa lý của các nước láng giềng, thậm chí ở một số địa
phương cùng một quốc gia, cho phép khai thác những thế mạnh và hỗ trợ lẫn
nhau nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh hơn về thời gian, thấp hơn về chi
phí. Hơn nữa, chúng cịn cho phép tận dụng những ưu điểm, bổ sung lẫn nhau
trong mỗi thành viên để đạt hiệu quả kinh tế với quy mô lớn.
+ Các thoả thuận về thương mại miễn thuế giữa các quốc gia, thực hiện
các quy định miễn trừ thuế quan cho một số loại hàng hoá được trao đổi giữa
các thành viên, là cơ sở để phát triển tới hình thức liên kết kinh tế cao hơn, đó



10
là liên minh thuế quan. Hình thức này đã được phát triển ở một số nước như
Trung Quốc, Ấn Độ, Nê Pan, …
+ Các đặc khu kinh tế như khu công nghiệp, khu chế xuất… được áp dụng
ở một số nước: Trung Quốc, các nước ASEAN trong vài thập kỷ gần đây.
Như vậy, từ tính chất đa dạng trong các loại hình và yếu tố quyết định đến
sự lựa chọn một hình thức cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, những
điều kiện cần và đủ để quyết định những loại hình phù hợp, có hiệu quả. Thơng
qua các hình thức, các cấp độ phát triển khác nhau của liên kết kinh tế, căn cứ theo
đặc điểm của một loại hình kinh tế cửa khẩu cho phép áp dụng những chính sách
riêng trong một phạm vi khơng gian, thời gian xác định mà ở đó đã có giao lưu
kinh tế biên giới phát triển sẽ hình thành khu kinh tế cửa khẩu.
1.1.1.2. Khái niệm khu kinh tế cửa khẩu
Khu kinh tế cửa khẩu là khu vực kinh tế đặc biệt nằm dọc đường biên
thuộc địa bàn các tỉnh biên giới, được xác định ranh giới, được Nhà nước ưu
tiên khuyến khích đầu tư và được hưởng các chính sách ưu đãi đặc biệt về
thuê đất, thuế, tín dụng, đầu tư, đăng ký kinh doanh, ưu đãi buôn bán biên
giới, là một không gian kinh tế xác định, gắn với cửa khẩu, có cư dân hoặc
khơng có cư dân sinh sống và thực hiện những cơ chế chính sách phát triển
riêng, phù hợp với đặc điểm ở đó nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao
hơn do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Hay khu
kinh tế cửa khẩu có thể được hiểu là một vùng lãnh thổ bao gồm một hoặc
một số cửa khẩu biên giới được Chính phủ cho áp dụng một số chính sách ưu
đãi, khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội nhằm tăng cường giao lưu kinh tế
với các nước, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và đầu tư chuyển đổi cơ
cấu kinh tế các địa phương có cửa khẩu.
Cho đến nay, đã có nhiều cơ sở lý thuyết liên quan đến kinh tế cửa khẩu
được đề cập, đúc kết. Nhưng Khái niệm khu kinh tế cửa khẩu vẫn chưa có sự

thống nhất cao từ các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước vì tuỳ thuộc vào
điều kiện hình thành và phát triển đặc thù của nước mình.


11
Có thể khái quát tóm tắt về khu kinh tế cửa khẩu như sau: Khu kinh tế
cửa khẩu là một không gian kinh tế xác định, gắn với cửa khẩu có dân cư sinh
sống và được áp dụng những cơ chế, chính sách phát triển đặc thù, phù hợp
với đặc điểm từng địa phương sở tại nhằm mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội
cao nhất dựa trên việc quy hoạch, khai thác, sử dụng, phát triển bền vững các
nguồn lực, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
1.1.2. Lịch sử phát triển và đặc điểm của khu
kinh tế cửa khẩu Việt Nam
1.1.2.1. Lịch sử phát triển khu kinh tế cửa khẩu Việt Nam
Khu kinh tế cửa khẩu là những khu vực biên cương của mỗi quốc gia,
có ranh giới địa lý xác định thuộc lãnh thổ và chủ quyền của mỗi quốc gia
với các khu chức năng có mơi trường đầu tư, kinh doanh ưu đãi cũng như hạ
tầng kinh tế - xã hội, các chính sách và cơ chế quản lý thuận lợi cho hoạt động
thương mại và du lịch.
Ngày 18 tháng 9 năm 1996, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 675/1996/QĐ - TTg về việc áp dụng một số cơ chế chính sách tại khu kinh
tế cửa khẩu Móng Cái, đặt dấu đầu tiên cho việc hình thành và phát triển về
mặt lý luận cũng như thực tiễn của các khu kinh tế cửa khẩu ở nước ta. Sau
hơn 15 năm kể từ khi thành lập, cả nước đã hình thành 25 khu kinh tế cửa
khẩu trên các tuyến biên giới Trung Quốc - Lào - Campuchia, đã tạo điều kiện
thuận lợi về giao thương với các nước có chung đường biên giới, khai thác
tiềm năng và lợi thế của các vùng biên phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã
hội chung đối với các tỉnh có đường biên giới trong nước.
Sự hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu ở nước ta trải qua hai
giai đoạn:

Giai đoạn I: Từ năm 1996 - 2001 là giai đoạn thí điểm thành lập một số
Khu kinh tế cửa khẩu. Trong giai đoạn này mỗi khu kinh tế cửa khẩu đều hoạt
động trên cơ sở pháp lý riêng được Thủ tướng Chính phủ quyết định.


12
Giai đoạn II: từ năm 2001 đến nay là giai đoạn mở rộng phát triển các
khu kinh tế cửa khẩu và hồn thiện cơ chế chính sách. Trong năm 2001, Thủ
tướng Chính phủ đã hành Quyết định số 53/2001/QĐ - TTg ngày 24 tháng 1
năm 2001 về chính sách đối với các khu kinh tế cửa khẩu, được sửa đổi và bổ
sung bằng Quyết định số 273/2005/QĐ - TTg ngày 31 tháng 10 năm 2005 đã
tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho các khu kinh tế cửa khẩu thực sự phát triển
về chiều rộng lẫn chiều sâu, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội
chung của các tỉnh vùng biên.
Trong những năm qua, các khu kinh tế cửa khẩu đã tạo khả năng mở
rộng hợp tác quốc tế, tạo môi trường an ninh thuận lợi hơn trong hợp tác kinh
tế - thương mại, trao đổi thông tin, văn hoá, xã hội ... giữa Việt Nam với các
nước láng giềng. Các khu kinh tế cửa khẩu đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động và nâng cao dân trí cho
đồng bào vùng biên, cơ sở hạ tầng được đầu tư nâng cấp, đời sống văn hoá
tinh thần từng bước được cải thiện nên đã tạo được bộ mặt mới cho các tỉnh
có đường biên giới.
Với 25 tỉnh biên giới chạy dài từ Bắc vào Nam và khoảng 100 cửa khẩu
quốc tế, cửa khẩu chính và cửa khẩu phụ, kinh tế cửa khẩu ngày càng giữ vị
trí và vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam.
- Một là, các khu kinh tế cửa khẩu ở khu vực biên giới Việt Nam Trung Quốc
Đến năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định phê duyệt thành
lập 8 khu kinh tế cửa khẩu ở khu vực biên giới Việt Nam - Trung Quốc với
tổng diện tích là 1.342 km2, dân số khoảng 143,4 nghìn người, chiếm 3%
diện tích và 3,7% dân số các tỉnh biên giới Việt - Trung. Việc phát triển và

phân bố các khu kinh tế cửa khẩu ở khu vực này tương đối hợp lý và có một
số khu kinh tế cửa khẩu đã phát huy có hiệu quả, chẳng như khu kinh tế cửa
khẩu Móng Cái, Lào Cai, Lạng Sơn.


13
Các khu kinh tế cửa khẩu ở khu vực này là đầu mối giao lưu quan
trọng giữa Việt Nam và Trung Quốc, trong đó khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai,
Lạng Sơn, Móng Cái là điểm quan trọng nhất trong tồn tuyến biên giới phía
Bắc của Việt Nam và Trung Quốc. Đến năm 2007, 8 khu kinh tế cửa khẩu này
đóng góp khoảng 85,4% thu ngân sách, 80% thu thuế xuất - nhập khẩu, 59,8%
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của 23 khu kinh tế cửa khẩu cả nước.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Du lịch, hoạt động thương mại,
dịch vụ và du lịch phát triển nhanh ở tuyến biên giới Việt - Trung, lượng
khách xuất, nhập cảnh chiếm 90% so với toàn tuyến. Các khu kinh tế cửa
khẩu này phát triển theo hướng phát huy ưu thế của thương mại và du lịch,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh có khu kinh tế cửa khẩu cũng
như của các tỉnh bên trong nội địa.
Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu qua các khu kinh tế cửa khẩu năm
2006 đạt khoảng 2,1 tỷ USD (khoảng 59,8% kim ngạch xuất, nhập khẩu
qua các khu kinh tế cửa khẩu của cả nước), trong đó giá trị xuất khẩu 1 tỷ
USD, nhập khẩu 1,1 tỷ USD. Các khu kinh tế cửa khẩu ở khu vực này
chiếm tới 85,4% (khoảng 4.648 tỷ đồng tổng thu ngân sách nhà nước năm
2006) của các khu kinh tế cửa khẩu cả nước. Trong đó thu thuế xuất nhập
khẩu năm 2006 đạt trên 1.200 tỷ đồng (chiếm 80% tổng thu ngân sách qua
các khu kinh tế cửa khẩu cả nước) gồm cả thuế và phí xuất nhập khẩu hàng
hố. Các khu kinh tế cửa khẩu ở khu vực này thu hút tới 4.928,5 tỷ đồng
với nhiều nguồn vốn khác nhau (khoảng 86,8% tổng vốn đầu tư vào các
khu kinh tế cửa khẩu cả nước).
Với lợi thế về phát triển sớm và sự hình thành các khu kinh tế cửa

khẩu ở đây đều có mạng giao thông kết nối với hậu phương qua các trục quốc
lộ liên vùng như khu kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn được nối với Hà Nội và các
nơi khác qua quốc lộ 1, khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái với các nơi khác qua
quốc lộ 18, khu kinh cửa khẩu Lào Cai qua các nơi khác qua quốc lộ 70. Tại


14
các khu kinh tế cửa khẩu có cửa khẩu quốc tế như Lào Cai, Móng Cái và
Lạng Sơn, việc đầu tư kết cấu hạ tầng bên trong khu kinh tế cửa khẩu theo
quy hoạch đã được quan tâm và đang dần hình thành rõ các phân khu chức
năng chủ yếu: khu thương mại, khu du lịch, khu công nghiệp, khu văn hố vui
chơi, giải trí. Nhiều cơng trình thiết yếu đã được đầu tư như: khu kiểm hoá
cửa khẩu, các trạm kiểm dịch, bãi đỗ xe, khu thương mại, các cơng trình hạ
tầng cơng nghệ thơng tin, mạng Internet dùng chung, sàn giao dịch thương mại
điện tử, cổng giao tiếp điện tử được hình thành và phục vụ trực tiếp cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả công tác của các cấp, các
ngành, cải thiện đời sống nhân dân, làm thay đổi hẳn bộ mặt khu kinh tế cửa
khẩu và có tác dụng lan toả thúc đẩy các vùng lân cận phát triển.
- Hai là, các khu kinh tế cửa khẩu ở khu vực biên giới Việt Nam - Lào
Ở khu vực biên giới Việt Nam - Lào, đến năm 2007, Thủ tướng Chính
phủ đã quyết định phê duyệt thành lập 7 khu kinh tế cửa khẩu với diện tích là
2.198 km2, dân số khoảng 155 nghìn người, chiếm 2,5% về diện tích và 1,2%
về dân số các tỉnh biên giới Việt - Lào.
Nhìn chung hoạt động giao thương qua các khu kinh tế cửa khẩu ở
khu vực này phát triển chậm hơn so với các khu kinh tế cửa khẩu ở khu vực
biên giới Việt - Trung. Một phần do các tỉnh phía bên nước láng giềng kinh tế
còn chậm phát triển, thị trường hàng hoá nhỏ hơn. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2006 chỉ đạt 204 triệu USD (khoảng 5,8% kim ngạch xuất
nhập khẩu qua các khu kinh tế cửa khẩu của cả nước), trong đó giá trị xuất
khẩu 70 triệu USD, nhập khẩu 134 triệu USD. Thu ngân sách ở khu vực này
năm 2006 khoảng 466 tỷ đồng, bằng khoảng 10% của các khu kinh tế cửa

khẩu khu vực biên giới Việt - Trung, (8,6% tổng thu ngân sách nhà nước của
các khu kinh tế cửa khẩu cả nước). Thu thuế xuất nhập, nhập khẩu năm 2006
khoảng 9,8% tổng thu ngân sách qua các khu kinh tế cửa khẩu cả nước, gồm
cả thuế xuất - nhập khẩu hàng hoá và phí xuất - nhập khẩu. Hoạt động kinh tế


15
cửa khẩu tại các khu kinh tế cửa khẩu ở khu vực này đáng kể nhất là 3 khu
kinh tế cửa khẩu Lao Bảo, Cầu Treo và Bờ Y.
- Ba là, các khu kinh tế cửa khẩu ở khu vực biên giới Việt
Nam - Campuchia
Trên khu vực cửa khẩu này, đến năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã
quyết định phê duyệt thành lập 8 khu kinh tế cửa khẩu. Tổng diện tích 8 khu
kinh tế cửa khẩu này là 6.677 km2, dân số khoảng 1.455 nghìn người, chiếm
2,7% về diện tích và 5,2% về dân số các tỉnh biên giới Việt Nam Campuchia. Các khu kinh tế cửa khẩu ở đây đóng góp 34,4% kim ngạch xuất
nhập khẩu, 6% thu ngân sách và 10,2% thuế xuất nhập khẩu của 23 khu kinh
tế cửa khẩu cả nước.
Các khu kinh tế cửa khẩu trên tuyến biên giới phía Tây Nam chịu ảnh
hưởng trực tiếp của quan hệ chính trị, kinh tế - xã hội giữa Việt Nam và
Campuchia và phát huy tốt tiềm năng đối với sự phát triển thương mại và du lịch
cửa khẩu. Trong 8 khu kinh tế cửa khẩu này hiện chỉ có khu kinh tế cửa khẩu
Mộc Bài ở Tây Ninh và Tịnh Biên ở An Giang hoạt động giao thương tấp nập
hơn, còn các khu kinh tế cửa khẩu khác như khu kinh tế cửa khẩu đường 19 ở
Gia Lai, Bonuê ở Bình Phước, Xa Mát ở Tây Ninh, Khánh Bình ở An Giang và
Xà Xía ở Kiên Giang hoạt động kinh tế và giao thương còn ít, do kết cấu hạ tầng
của khu kinh tế cửa khẩu ở những nơi này đang trong giai đoạn xây dựng.
Hoạt động giao thương qua các khu kinh tế cửa khẩu ở khu vực này
phát triển chậm hơn so với các kinh tế cửa khẩu ở khu vực biên giới Việt Trung. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu qua các khu kinh tế cửa khẩu năm
2006 là 1.208 triệu USD, trong đó giá xuất khẩu 995 triệu USD, nhập khẩu
213 triệu USD. Thu ngân sách qua các khu kinh tế cửa khẩu ở khu vực này

năm 2006 khoảng 326 tỷ đồng (thấp nhất trong 3 khu vực biên giới), bằng
khoảng 6% tổng thu ngân sách nhà nước năm 2006 của các khu kinh tế cửa


16
khẩu cả nước. Thu thuế xuất - nhập khẩu năm 2006 khoảng 10,2% tổng thu
ngân sách qua các khu kinh tế cửa khẩu cả nước, gồm cả thuế và phí xuất nhập khẩu hàng hoá.
Ngày 25 tháng 4 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
52/2008/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “ Quy hoạch phát triển các khu kinh
tế cửa khẩu của Việt Nam đến năm 2020 ”. Theo Quyết định này, từ nay đến
năm 2020 sẽ hình thành thêm 7 khu kinh tế cửa khẩu, nâng tổng số khu kinh tế
cửa khẩu từ 23 khu lên 30 khu, trong đó tập trung xây dựng đồng bộ về kết cấu
hạ tầng và mơ hình tổ chức quản lý, cơ chế chính sách cho khoảng 9 - 10 khu
kinh tế cửa khẩu hoạt động có hiệu quả để đạt mục tiêu 36 - 37 tỷ USD hàng
hoá, dịch vụ và xuất nhập khẩu qua biên giới Việt Nam với các nước láng giềng.
Cả nước có 26 tỉnh có biên giới giáp với Trung Quốc, Lào và Campuchia
với đường biên giới dài khoảng 4.600km. Trong đó: có 08 tỉnh có biên giới giáp
Trung Quốc (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu, Điện
Biên, Sơn La, Lào Cai) với tổng chiều dài 1.400km; 08 tỉnh có đường biên giới
giáp Lào (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên
Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng) với tổng chiều dài khoảng 2.100km; 10 tỉnh có
đường biên giới giáp với CampuChia (Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nơng,
Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, Kiên Giang, An Giang) với tổng
chiều dài khoảng 1.100km.
Trên 25 tỉnh biên giới này, đến năm 2006 có 97 cửa khẩu quốc tế, cửa
khẩu chính và cửa khẩu phụ được hình thành. Trong đó khu vực biên giới
giáp với Trung Quốc có 4 cửa khẩu quốc tế, 9 cửa khẩu chính, 14 cửa khẩu
phụ; khu vực biên giới giáp với Lào có 7 cửa khẩu quốc tế, 8 cửa khẩu chính,
14 cửa khẩu phụ; khu vực biên giới giáp với Campuchia có 7 cửa khẩu quốc
tế, 8 cửa khẩu chính, 21 cửa khẩu phụ.

Trong những năm qua, các thành tựu trong phát triển kinh tế tại các khu
kinh tế cửa khẩu đã mang lại những tác động đáng kể và đã thúc đẩy các tỉnh


17
có biên giới phát triển kinh tế mạnh hơn so với trước. Như vậy, sẽ làm cho số
lượng khu kinh tế cửa khẩu sẽ tăng nhanh theo nhu cầu giao thương kinh tế
qua biên giới tại các địa phương; đẩy mạnh phát triển các ngành thương mại,
dịch vụ, du lịch, cơng nghiệp.
Nhìn lại kim ngạch thương mại 2 chiều, năm 2010 đạt hơn 5,4 tỷ USD
(trong đó xuất khẩu đạt 2,93 tỷ USD, tăng gấp 3 lần so với năm 2005 và nhập
khẩu đạt 2,51 tỷ USD, tăng gấp hơn 3 lần so với năm 2005). Giai đoạn 2006
-2010, tăng trưởng xuất nhập khẩu qua khu kinh tế cửa khẩu đều đạt trên 25%
cao hơn nhiều so với tăng trưởng xuất nhập khẩu chung của cả nước.
Về thu hút đầu tư, khu kinh tế cửa khẩu cả nước hiện thu hút được
khoảng gần 70 dự án FDI với tổng vốn đầu tư lên tới hơn 700 triệu USD và
khoảng 500 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư gần 40 nghìn tỷ đồng.
Tuy nhiên, do tình trạng đầu tư không đều, chỉ tập trung tại 3 tuyến biên giới với
Trung Quốc (Móng Cái, Đồng Đăng - Lạng Sơn, Lào Cai), Lào (Lao Bảo, Cầu
Treo), Campuchia (Mộc Bài - Tây Ninh, Tịnh Biên - An Giang).
Bên cạnh đó, mơ hình khu kinh tế cửa khẩu tại các tỉnh cũng bộc lộ
những hạn chế nhất định. Đơn cử về hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng, do nguồn
thu không được giữ lại tại địa phương lên một số khu kinh tế cửa khẩu đã bị
ngay chính quyền nơi đó bỏ bê, khơng quan tâm khiến hạ tầng xuống cấp.
Những chính sách khuyến khích đầu tư vào các khu kinh tế cửa khẩu cũng
gặp nhiều khó khăn, bởi khơng phải địa phương nào cũng có những ưu đãi
đúng mức và cách làm hiệu quả.
1.1.2.2. Đặc điểm và mơ hình khu kinh tế cửa khẩu trong hội nhập
kinh tế quốc tế
* Đặc điểm của khu kinh tế cửa khẩu

- Được thành lập do quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính
phủ và được hưởng một chế độ ưu đãi do Chính phủ và chính quyền địa
phương và có một khơng gian kinh tế hay một vị trí xác định. Ngồi ra, các
hình thức kinh tế này đều nhằm mục đích nâng cao hiệu quả, thúc đẩy phát


18
triển kinh tế khu vực, vùng, địa phương thông qua việc phát huy đặc điểm hoạt
động của từng loại hình này đối với vùng, địa phương hay kinh tế cả nước.
- Vị trí và điều kiện hình thành khu kinh tế cửa khẩu: Để thành lập khu
khu kinh tế cửa khẩu, trước hết phải gắn với vị trí cửa khẩu. Đây là hình thức có
dân hoặc khơng có dân sinh sống, có các doanh nghiệp trong và ngồi nước.
Mục đích thành lập khu kinh tế cửa khẩu nhằm ưu tiên phát triển thương mại,
dịch vụ, du lịch ... Trong đó, quan trọng nhất là hoạt động thương mại, dịch vụ
bao gồm: hoạt động xuất nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, vận chuyển hàng hóa quá
cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế ... Như vậy, nguồn hàng hóa trao đổi
ở đây có thể là tại chỗ, hoặc từ nơi khác đưa đến, khác với khu công nghiệp và
khu chế xuất. Do đó, chính sách ưu tiên cũng khác nhau, phù hợp với đặc thù
của vùng, địa phương nơi có các loại hình này được thành lập.
- Đặc trưng cơ bản chung của khu kinh tế cửa khẩu: Các khu kinh tế
cửa khẩu cách xa trung tâm chính trị của nước mình; dân cư ở các nước láng
giềng có sự tương đồng về văn hóa, truyền thống, tín ngưỡng, tơn giáo; có sự
khác biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội - môi trường và chất lượng
cuộc sống; hợp tác và cạnh tranh và giao lưu kinh tế chủ yếu dựa trên nguyên
tắc tôn trọng chủ quyền của nhau và bình đẳng cùng có lợi.
Nhìn chung, khu kinh tế cửa khẩu từ lâu đã đóng góp vai trị khơng nhỏ
trong phát triển kinh tế của đất nước, nó tác động đến mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội cả nước nói chung và các tỉnh biên giới nói riêng. Tuy
nhiên, những vai trị được thể hiện rõ nét và mang tính phổ quát nhất là: tạo
điều kiện phát huy tiềm năng, ưu thế biên giới; góp phần mở rộng giao lưu

bn bán, mở rộng thị trường, tìm đầu ra cho sản phẩm, tăng kim ngạch xuất
khẩu, tạo lợi thế cạnh tranh trước mắt và lâu dài cho các sản phẩm, ngành chủ
lực; xây dựng các hệ thống, mạng lưới phân phối, mở rộng và cung cấp các
dịch vụ đi kèm; nâng cao dân trí, cải thiện chất lượng cuộc sống cho các địa
phương và các khu vực lân cận; hạ tầng cơ sở vật chất kĩ thuật được từng


19
bước cải thiện đáng kể, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế các địa phương
có khu vực biên giới ... Có thể nhận thấy, khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam ra
đời phù hợp với quan điểm đổi mới mở cửa hội nhập nền kinh tế thế giới của
Đảng và Nhà nước trong những năm trở lại đây.
* Một số mơ hình và động thái vận hành của các khu
kinh tế cửa khẩu
Tại các khu kinh tế cửa khẩu, do đặc điểm đặc trưng của nó, đặt lên
hàng đầu là các hoạt động thương mại - dịch vụ và du lịch, gắn với các cửa khẩu
và chịu tác động mạnh của các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế cũng như chính
sách biên mậu trong và ngồi nước. Nguồn hàng hoá, dịch vụ,… tại chỗ hay từ
nơi khác đến đóng vai trị rất quan trọng để đảm bảo hoạt động và vận hành có
hiệu quả. Đồng thời, trong q trình hoạt động của mình, các chính sách quản lí,
điều hành liên quan rất nhiều đến các thơng lệ quy luật chung của quốc tế, vấn
đề chủ quyền và an ninh biên giới, các hiệp định thoả thuận chung giữa các nước
có chung đường biên thơng qua thực tế tại các cửa khẩu, các tuyến lực … Vì
vậy, tùy vào điều kiện từng nơi, từng vùng và trình độ tổ chức, quy mô phát triển
(cửa khẩu quốc tế, quốc gia, cửa khẩu phụ …) sẽ hình thành các mơ hình kinh tế
cửa khẩu khác nhau. Mỗi mơ hình ứng với một giai đoạn phát triển riêng biệt
theo xu hướng phát triển từ đối ứng sang đối trọng, từ thế bị động sang chủ động
sao cho phát huy hết những lợi thế cạnh tranh tĩnh và động của quốc gia trong
quá trình hội nhập và phát triển. Hiện nay, ở một số quốc gia trên thế giới thường
sử dụng một số mơ hình sau:

Hình 1.1: Một số mơ hình khu kinh tế cửa khẩu


20

Hình 1.1.a: Mơ hình đường thẳng

Hình 1.1.b: Mơ hình quạt giao ở cán

Hình 1.1.c: Mơ hình quạt giao ở cánh
Khu kinh tế cửa khẩu:
Đường giao thơng đơ thị:

Hình 1.1.d: Mơ hình lan tỏa
Đường biên giới:
Khu cơng nghiệp:

** Mơ hình khơng gian
- Các khu kinh tế cửa khẩu đều có đặc điểm chung về hành chính là nơi
tiếp giáp hai hay nhiều quốc gia, có vị trí địa lý riêng trên đất liền, biển, sông,
… nằm trong tài liệu phân chia biên giới theo hiệp định và được Nhà nước ở
từng quốc gia cho áp đặt một số chính sách riêng.
- Ngun tắc chung của mơ hình khơng gian.


21
+ Tôn trọng chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, thủy, thềm lục địa, vùng trời
theo hiệp định đã ký và các quy ước quốc tế.
+ Các hoạt động ở khu vực biên giới phải xét đến yếu tố địa lý, tự nhiên để
khơng làm tổn hại đến lợi ích các bên về các mặt, chú ý đến lĩnh vực môi trường.

+ Bảo đảm sự phối hợp tốt nhất các yếu tố tự nhiên để các bên cùng có lợi.
+ Cần có sự bàn bạc cụ thể khi triển khai các hoạt động trong khu vực
nhằm tạo ra sự hợp tác các nguồn lực của các bên.
+ Tìm kiếm các yếu tố tương đồng và hướng tới các vị trí mà ở đó có
mối liên hệ tốt trong nội địa để bù đắp các thiếu hụt về nguồn lực, về trao đổi
hàng hố.
+ Tránh các vị trí bất lợi, vị trí để tội phạm hoạt động có thể xảy ra
tranh chấp, lấn chiếm vị trí dễ nẩy sinh các mâu thuẫn.
** Mơ hình một khu kinh tế cửa khẩu
- Là mơ hình căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế của mỗi nước, khả
năng giao lưu với nước thứ ba nhờ hệ thống giao thông như đường bộ, sân
bay, bến cảng, đường thuỷ; dựa trên các điều kiện tự nhiên thuận lợi mà các
nước sẽ bố trí các cặp cửa khẩu quốc tế, quốc gia và địa phương.
- Mơ hình này được dựa trên một số các nguyên tắc như: thuận lợi cho
việc kiểm soát các phương tiện, người và hàng hố qua lại, trong đó cần có sự
phối hợp hỗ trợ về các tiện ích cơng cộng như điện, nước, chiếu sáng, cây
xanh, mơi trường ... Ngồi ra, cần có dịch vụ tốt cho sự lưu trú đối với người
cũng như của hàng hoá và các phương tiện quá cảnh
** Mơ hình thể chế
- Ngun tắc chung:
+ Tơn trọng luật pháp quốc tế, các hiệp định thoả thuận, quốc gia, khu
vực trên cơ sở bảo đảm hồ bình, phát triển và cùng có lợi.
+ Bảo vệ mơi trường và phát triển bền vững.


22
+ Chủ động thông báo cho nhau cùng hợp tác, thiện chí giải quyết
những vướng mắc dựa trên sự tơn trọng, truyền thống và tập quán, bản sắc
văn hoá của mỗi dân tộc.
+ Tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và dân

chúng làm ăn.
+ Phân cấp giải quyết các vấn đề phát sinh thường xuyên cho các cấp
chính quyền khu vực theo nguyên tắc đối xứng.
- Giữa các quốc gia có chung biên giới cần có sự trao đổi thơng tin một
cách thường xun về tình hình xây dựng cơ chế, chính sách phát triển khu
kinh tế cửa khẩu của mỗi nước, để cùng phối hợp điều chỉnh cùng thực hiện
cho phù hợp.
Những nội dung mà các bên cùng quan tâm như:
+ Khảo sát thực tế nguồn lực trong khu vực quy ước như điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội, văn hoá, dân tộc và tập quán, các ưu thế và các hạn chế.
+ Những vấn đề cơ chế chính sách chung về đường lối, chủ trương,
chính sách, những văn bản pháp lý, các hiệp định, mơ hình thể chế tại các khu
vực cửa khẩu.
+ Các chính sách cụ thể trong hoạt động xuất - nhập khẩu, các biểu
thuế, thủ tục hải quan, xuất nhập cảnh đối với người và phương tiện; những
văn bản quy định về đầu tư nước ngoài vào khu vực này, cũng như các biện
pháp đảm bảo an ninh, trật tự và các biện pháp bảo vệ môi trường cho sự phát
triển kinh tế cửa khẩu.
+ Các văn kiện thoả thuận dự kiến đưa vào trao đổi và phân cấp hợp
tác. Các dự án đầu tư hỗn hợp và danh sách các đối tượng trực tiếp tham gia.
- Vùng giao thoa các chính sách khuyến khích.
Các khu kinh tế cửa khẩu thuộc khu vực hành chính đến cấp cơ sở (xã,
phường, thơn, tổ dân phố...) được chính quyền, trung ương phân cấp quản lý
theo hướng khuyến khích phát triển hơn các vùng khác nhưng không phải khu


23
hành chính riêng như các đặc khu kinh tế. Vì vậy, khu kinh tế cửa khẩu là
vùng giao thoa chính sách.
- Một cửa áp dụng cho hình thức phân cấp quản lý:

+ Một trong những vấn đề được quan tâm và lo ngại đó là vấn đề trong
việc ra vào khu kinh tế cửa khẩu và xuất nhập cảnh. Cần phải có sự cơng khai
và thống nhất chung trong các đơn vị làm dịch vụ để thu lệ phí.
+ Các khu kinh tế cửa khẩu có nhiều hình thức và phân cấp quản lý
khác nhau nhưng đều áp dụng theo một nguyên tác chung đó là nguyên tắc
một cửa dành cho các hoạt động đầu tư và thương mại.
- Cửa khẩu độc lập, hình thành theo điều ước quốc tế mà Chính phủ
nước sở tại phê chuẩn giao cho ngành hải quan quản lý các quy chế riêng.
- Khu thương mại tự do trong đó có khu cơng nghiệp tự do cấp tỉnh
hoặc cấp quốc gia, khu vực này không có cư dân, hàng hố vào được miễn
thuế, việc chuyển đổi hàng hố như thay đổi nhãn hiệu, bao bì, lắp ráp …
không chịu sự giám sát của hải quan và khi tái xuất hoặc nhập khẩu phải lập
sổ sách chịu sự giám sát và phải nộp thuế.
- Khu kinh tế cửa khẩu cấp tỉnh trong đó khu thương mại tự do như
trên, có dân cư và có đặc quyền riêng về đầu tư và thương mại, ở vùng thuận
lợi có sân bay, bến cảng có thể hình thành đặc khu kinh tế với vùng lãnh thổ
rộng, thiết chế hành chính riêng.
** Mơ hình kinh tế cửa khẩu khơng có dân
- Cửa khẩu mỗi nước có bốn cửa: Xu hướng tự do hoá thương mại;
hàng hoá trong danh mục thoả thuận được tự do vào khu; chỉ thu phí và phía
bên kia miễn thuế nhập khẩu; chỉ kiểm sốt hàng hoá xuất ra khỏi khu để vào
nội địa việc này phụ thuộc chính sách của mỗi nước.
- Thu phí theo danh mục niêm yết đối với hàng hoá từ nội địa vào khu
và từ phía bên kia nhập vào khu.


24
- Quy định loại hàng hoá sản xuất kinh doanh trong khu được miễn
kiểm sốt của hải quan, khơng phải chịu bất kỳ loại thuế nào nhưng phải trả
tiền thuế đất và các dịch vụ theo mức cao hơn nội địa, chịu thuế xuất khi xuất

khỏi khu vào nội địa; kê khai nộp phí khi xuất sang bên kia.
- Có bốn cửa thì chỉ có một cửa thu thuế và ba cửa thu phí. Thu lệ phí
vào một lần trong đó có lệ phí sử dụng các tiện ích cơng cộng trong khu
không phải trả tiền như bãi đỗ xe trong ngày, vệ sinh công cộng cho cá nhân,
bảo đảm an ninh trật tự … và được miễn thuế, lệ phí khi mang hàng hố theo
cá nhân về nội địa và khi xuất cảnh.
** Mơ hình đường thẳng
Mơ hình đường thẳng được hình thành dựa trên cơ sở các tuyến giao
thơng đường bộ hoặc đường sơng, kèm theo đó là phát triển các khu công
nghiệp, đô thị, cảng biển, kho quan ngoại,… ở mỗi bên với một cự li hợp lí.
Do đó, mơ hình này thường hình thành và phát triển dựa trên các tuyến đường
mòn biên giới, các chợ phiên hay chợ vùng ven tại chỗ với phạm vi khơng gian
hẹp. Mơ hình này có ưu điểm là giảm sự tập trung cao về biên giới, phát huy thế
mạnh mạng lưới giao thơng để vận hành hàng hố xuất nhập khẩu. Đây là mơ
hình cơ sở để hình thành các mơ hình khác, có thể thấy ở hầu hết các cửa khẩu
có quy mơ nhỏ, mới thành lập ở nước ta (các cửa khẩu phụ, địa phương).
** Mơ hình quạt giao nhau ở cán
Là mơ hình dựa trên cơ sở hai bên đã có hàng loạt các đơ thị, các khu
công nghiệp, các vùng sản xuất nông nghiệp, hệ thống các kho quan ngoại,
chợ … có khoảng cách tương đối gần với đường biên, khoảng cách này được
hình thành một cách tự nhiên hay do quy ước của hai nước láng giềng. Mọi
việc giao lưu, vận chuyển hàng hoá được vận chuyển theo đường giao thông
gần nhất. Kết quả là mơ hình có tính tập trung cao về thương mại.
** Mơ hình quạt giao nhau ở rìa cánh
Ngược với mơ hình trên, mơ hình quạt giao nhau ở rìa cánh được hình
thành trên cơ sở tập trung cao độ các phân khu chức năng (đô thị, công


25
nghiệp, thương mại, dịch vụ,…), mức độ tập trung hàng hoá cao, phân tán ở

nhiều cặp chợ biên giới gần nhau, địa hình phân bổ thuận lợi, điều kiện
thương mại, dịch vụ cơ bản hồn thiện, đơng dân cư sinh sống và sản xuất,…
Mơ hình này xuất hiện nhiều ở các nước phát triển với mức độ tập trung cao,
tạo thành dải các đô thị, các trung tâm công nghiệp lớn với kim ngạch trao đổi
thương mại song phương chiếm từ 20 đến 40% tổng thu nhập quốc nội.
** Mô hình lan toả
Mơ hình này được xây dựng trên cơ sở tập quán sinh hoạt của dân cư,
thích hợp với các cặp chợ, thị trấn ven đường biên giới. Ưu thế của mơ hình này
chính là tận dụng được các điều kiện tự nhiên, hạ tầng cơ sở kĩ thuật sẵn có và
thường có sự hợp tác giữa các bên cùng xây dựng chung một hay nhiều Khu
kinh tế cửa khẩu và cùng nhau quản lí tạo nên sức mạnh tổng hợp trên diện rộng.
** Mơ hình chiến lược phát triển các khu kinh tế cửa khẩu biên giới
từ đối ứng sang đối trọng
Một trong những nét đặc thù của khu kinh tế cửa khẩu là tính đối ứng,
hay nói một cách khác hơn là sự phản hồi từ một phía bằng chính sách đối
ứng. Chính sách này thường bị hạn chế bởi tính bị động (thụ động) trong mọi
hoạt động kinh tế cửa khẩu, nhất là khi chính sách đối ứng bộc lộ nhiều thiếu
sót, hạn chế. Xu hướng phát triển tất yếu của các khu kinh tế cửa khẩu chuyển
từ động thái bị động sang chủ động, tương ứng với xu thế phát triển khách
quan từ đối ứng sang đối trọng, như:
- Chính sách nước láng giềng
- Chính sách quốc gia
- Quy định địa phương
Xu thế trên có thể tóm tắt qua mơ hình q độ đối ứng sang đối trọng
với quy mơ, khối lượng hàng hố, vốn … phạm vi ảnh hưởng ngày càng lớn
cả về hai phía. Đặc trưng của giai đoạn này là chính sách đối ứng, theo thời
gian mạnh dần lên, tác động ngược lại nhưng tất nhiên mức độ, phạm vi ảnh



×