Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Du lịch ở huyện đảo phú quốc tỉnh kiên giang trong hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.8 KB, 102 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế- xã hội phổ biến. Hội
đồng lữ hành và Du lịch quốc tế đã công bố du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất
thế giới, vượt trên cả ngành sản xuất ôtô, thép, điện tử và nông nghiệp.
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu, một hiện tượng phổ biến trong
đời sống xã hội. Du lịch đóng vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế xã
hội. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn;
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi
thế và điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá, lịch sử,
đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc
tế, sớm đạt trình độ khu vực. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất,
hình thành các khu du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác liên kết
với các nước [5, tr.178].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Khuyến khích đầu tư
phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả du lịch, đa dạng hố sản phẩm và
các loại hình du lịch” [7, tr.202].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định: “Hình thành
một số trung tâm du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế…đa dạng hoá sản
phẩm và các loại hình du lịch, nâng cao chất lượng để đạt tiêu chuẩn quốc
tế” [8, tr.116- 117].
Du lịch là ngành kinh tế chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong thu nhập
quốc dân. Trong giai đoạn hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và bảo vệ vững chắc
độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì du lịch ngày càng
đóng vai trò quan trọng.



2
Kiên Giang là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) - phía
Tây Nam của Tổ quốc: phía Bắc giáp Vương quốc Campuchia; phía Nam giáp
tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu; phía Đơng và Đơng Nam giáp tỉnh An Giang, thành
phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang; phía Tây giáp Vịnh Thái Lan - một trong
những khu vực trọng điểm ưu tiên phát triển du lịch của Việt Nam. Tỉnh Kiên
Giang được thiên nhiên ưu đãi: Có rừng, có biển, có hải đảo có đồi núi, đồng
bằng, danh lam thắng cảnh đẹp và hệ sinh thái phong phú; tiềm năng kinh tế
tương đối đa dạng, đã tạo ra một lợi thế về du lịch rất lớn. Khu dự trữ sinh quyển
của tỉnh Kiên Giang được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển của thế
giới (năm 2006). Đó là điều kiện thuận lợi để tỉnh Kiên Giang đẩy mạnh phát
triển du lịch nói chung và huyện đảo Phú Quốc nói riêng. Với lợi thế tiềm năng
phong phú, bên cạnh mơi trường đầu tư và những chính sách ưu đãi về du lịch,
Kiên Giang ngày càng thu hút đông đảo các nhà đầu tư, các doanh nghiệp tham
gia đầu tư du lịch, đặc biệt là các dự án đầu tư du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cao
cấp tập trung chủ yếu ở huyện đảo Phú Quốc.
Huyện Phú Quốc: Có địa hình độc đáo gồm dãy núi nối liền chạy từ Bắc
xuống Nam đảo, có rừng nguyên sinh với hệ động thực vật phong phú, có
nhiều bãi tắm đẹp như Bãi Trường (dài 20 km), Bãi Cửa Lấp - Bà Kèo, Bãi
Sao, Bãi Đại, Bãi Hòn Thơm... và xung quanh cịn có 26 đảo lớn nhỏ khác
nhau. Theo chủ trương của Chính phủ đảo Phú Quốc được xây dựng thành
trung tâm du lịch nghỉ dưỡng quốc tế chất lượng cao. Phú Quốc và hai quần
đảo An Thới, Thổ Châu là vùng lý tưởng cho việc phát triển du lịch biển đảo
như: Tham quan, cấm trại, tắm biển, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, các loại
hình thể thao nước. Phú Quốc có truyền thống văn hố lâu đời và nhiều đặc
sản nổi tiếng, như: nước mắm phú Quốc, hồ tiêu, ngọc trai, rượu sim, cá trích,
nấm tràm... Chính từ sự phong phú, đa dạng của Phú Quốc, hàng năm khách
du lịch đến Phú Quốc tăng nhanh.
Năm du lịch quốc gia 2011 với chủ đề “Du lịch biển đảo”, xác định
được thế mạnh của mình, du lịch Kiên Giang nói chung và Phú Quốc nói



3
riêng có nhiều cơ hội thuận lợi cho cơng tác xúc tiến, quảng bá du lịch thông
qua việc tham gia các cuộc hội chợ, hội thảo trong và ngoài nước, quảng bá
trên các phương tiện truyền thông với các chương trình chuyên đề bằng các
chương trình tham quan đa dạng, với chất lượng dịch vụ không ngừng được
cải thiện, kết hợp cùng nhiều đặc sản hấp dẫn, ẩm thực lôi cuốn, sẽ là những
trải nghiệm tuyệt vời trong suốt cuộc hành trình của du khách
Tuy dịch vụ du lịch ở Phú Quốc đã được biết đến từ lâu nhưng trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế cần tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động để đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Mặt khác, đứng trước yêu cầu của
một ngành kinh tế mũi nhọn, du lịch Phú Quốc đã và đang bộc lộ những hạn chế,
yếu kém, bất cập như: Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch; chính sách đầu
tư và thu hút đầu tư cho du lịch; sự đa dạng và phong phú của các sản phẩm du
lịch hay chất lượng các dịch vụ cịn nhiều hạn chế, những hạn chế đó đã ảnh
hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng và phát triển ngành du lịch ở Phú Quốc. Đó
là những vấn đề cấp bách đặt ra đối với phát triển du lịch ở huyện Phú Quốc. Vì
vậy, sau khi được học tập chương trình cao học, chun ngành Kinh tế chính trị
tại Viện Kinh tế - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, tơi
chọn đề tài: “Du lịch ở huyện đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang trong hội nhập
quốc tế” làm luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Xung quanh vấn đề du lịch ở nước ta đã có nhiều cơng trình khoa học
và bài viết quan tâm nghiên cứu như:
- Trần Ngọc Tư (2000) “Phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Vĩnh Phúc tiềm năng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.
- “Cơ sở khoa học và giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam”
(2001), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước của Viện Nghiên cứu và
phát triển du lịch.



4
- Đoàn Thị Thanh Thuý (2005), “Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch
trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sỹ văn hoá học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Thái Viết Tường (2006), “Du lịch văn hoá ở tỉnh Quảng Nam”, Luận
văn thạc sỹ Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Văn Ảnh (2006), “Thị trường du lịch ở tỉnh Quảng Ninh”, Luận
văn thạc sỹ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Vũ Đình Quế, (2007) “Du lịch ở thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hoá”,
Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Lài, (2008), “Khai thác tiềm năng du lịch ở Quảng Bình”,
Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- PGS.TS Nguyễn Văn Thanh (2008), “Nghiên cứu và phát triển mơ
hình du lịch sinh thái theo hướng bền vững - Ví dụ tại Vườn Quốc gia Hồng
Liên”, Viện Đại học mở Hà Nội.
Tỉnh Kiên Giang có một số đề tài nghiên cứu du lịch:
“Khai thác tiềm năng du lịch đảo Phú Quốc Tỉnh Kiên Giang”, Luận
văn thạc sỹ kinh tế của Huỳnh Vĩnh Lạc (2005).
Ngồi ra, cịn có Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đảo Phú Quốc
tỉnh Kiên Giang thời kỳ 2006- 2020 của Thủ tướng Chính phủ, theo Quyết
định số 01/2007/QĐ- TTg; phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng
đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ, theo
Quyết định số 633/QĐ-TTg, ngày 05 tháng 11 năm 2010.
Các công trình nghiên cứu khoa học và các bài viết nêu trên, các tác giả
đã nghiên cứu, đề cập đến từng vấn đề lý luận và thực tiễn về thị trường du
lịch, về phát triển du lịch, về kinh tế du lịch, về một loại hình du lịch ở một
địa phương cụ thể; phân tích, đánh giá tình hình phát triển của du lịch Việt
Nam nói chung, tỉnh Kiên Giang nói riêng. Huyện Phú Quốc cho đến nay

chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách tổng thể về du lịch để


5
phát triển du lịch Phú Quốc trong hội nhập quốc tế, nhằm góp phần đưa Phú
Quốc thành trọng điểm du lịch của Quốc gia và thế giới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng cơ sở khoa học để đề xuất các phương hướng và giải pháp phát
triển du lịch ở huyện Phú Quốc đến 2030 một cách hiệu quả và bền vững.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn tập trung
giải quyết một số vấn đề sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận để phát triển du lịch, dịch vụ du lịch, sản
phẩm du lịch và vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của huyện.
- Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch Phú Quốc như:
các yếu tố khách quan, tiềm năng du lịch và hiện trạng phát triển du lịch…
- Đúc kết và rút kinh nghiệm phát triển du lịch tại của một số quốc gia
và địa phương có đặc thù giống Phú Quốc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là du lịch huyện đảo Phú Quốc trong quá trình
hội nhập quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quá trình phát triển du lịch ở huyện Phú Quốc từ
năm 2005 đến 2011.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; các văn kiện của Đảng bộ và các chính
sách, biện pháp của tỉnh Kiên Giang và huyện Phú Quốc. Mặt khác, có sự


6
chọn lọc, tham khảo, kế thừa các cơng trình khoa học đã cơng bố, các bài viết
có liên quan của nhiều tác giả về phát triển du lịch.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
làm phương pháp luận nghiên cứu; các phương pháp cơ bản của kinh tế chính
trị học như: Phương pháp trừu tượng hoá, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp thống kê, đánh giá và dự báo.
6. Những đóng góp của luận văn
Khái quát và hệ thống các cơ sở lý luận về phát triển du lịch dưới góc
độ kinh tế chính trị học.
Phân tích đánh giá các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến phát triển du
lịch huyện Phú Quốc trong hội nhập quốc tế.
Phân tích, đánh giá các yếu tố tiềm năng và hiện trạng ảnh hưởng đến
phát triển du lịch huyện Phú Quốc trong hội nhập quốc tế.
Đúc kết, rút kinh nghiệm phát triển du lịch ở Singapore, Thái Lan và
một số địa phương trong nước có đặc thù du lịch giống Phú Quốc.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Hệ thống được các khái niệm, lý luận cơ bản về du lịch, sản phẩm du
lịch, dịch vụ du lịch, thị trường du lịch và những nhân tố tác động đến phát
triển du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế. Giúp cho bản thân tác giả và địa
phương có sự nhìn nhận đúng về sự cần thiết phát triển ngành du lịch; tiềm
năng, hiện trạng ngành du lịch; cơ hội và thách thức cũng như định hướng
mục tiêu, giải pháp cơ bản để phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH BIỂN ĐẢO
TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH BIỂN ĐẢO TRONG
HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Ngày nay du lịch trở thành một hiện tượng kinh tế- xã hội phổ biến. Hội
đồng lữ hành du lịch quốc tế (World Travel and Tourism Council- WTTC) đã
công bố du lịch là ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên ngành sản xuất ôtô,
thép, điện tử và nông nghiệp. Đối với một số quốc gia, du lịch là ngành thu ngoại
tệ quan trọng nhất trong ngoại thương. Tại nhiều quốc gia khách du lịch là một
trong ba ngành kinh tế hàng đầu. Du lịch đã nhanh chóng trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới. Du lịch ngày nay là một đề tài hấp dẫn
và trở thành vấn đề kinh tế mang tính chất tồn cầu, nhiều nước đã lấy chỉ tiêu đi
du lịch của dân cư như là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng của cuộc sống.
Hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của loài
người. Theo kết quả điều tra của các nhà khảo cổ học đã tìm thấy di tích của
những người giống Homo Erectus ở Trung Quốc và Java (Indonesia), mà
giống người này theo lịch sử lồi người có nguồn gốc ở miền Đông và Nam
Châu Phi cách đây khoảng 1 triệu năm. Các chuyên gia cho rằng để di chuyển
được khoảng cách như vậy loài người bấy giờ phải mất khoảng 15.000 năm.
Theo tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) thì năm 2000 số lượng khách
du lịch tồn cầu là 698 triệu lượt người, thu nhập là 467 tỷ USD; năm 2002
lượng khách du lịch là 716,6 triệu lượt thu nhập là 474 tỷ USD; năm 2010
lượng khách là 1.006 triệu lượt và thu nhập là 900 tỷ USD.

1.1.1. Du lịch và du lịch biển đảo
1.1.1.1. Du lịch
Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và phát
triển với vận tốc nhanh, song cho đến nay khái niệm “du lịch” được hiểu rất


8
khác nhau tại các quốc gia và từ nhiều góc độ khác nhau. Đúng như GS,TS
Berneker- một chuyên gia hàng đầu về du lịch trên thế giới, đã nhận định: Đối
với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa. Tuy
chưa có sự thống nhất về khái niệm “du lịch” trên thế giới cũng như ở Việt
Nam, song dưới sự phát triển của ngành du lịch về mặt kinh tế xã hội cũng như
trong lĩnh vực đào tạo, việc nghiên cứu thảo luận để đi đến thống nhất khái niệm
“du lịch” cũng như những khái niệm khác về du lịch là một đòi hỏi cần thiết.
Hiện có những khái niệm về du lịch cơ bản sau:
Tại Anh (năm 1811), lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về du lịch như sau:
“Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của các cuộc
hành trình với mục đích giải trí. Ở đây giải trí là động cơ chính”.
Năm 1930, ơng Gusman người Thụy Sĩ định nghĩa: Du lịch là sự chinh
phục không gian của những người đến những địa điểm mà ở đó họ khơng có
chỗ cư trú thường xun.
Ơng Kuns, một người Thụy Sĩ khác cho rằng: Du lịch là hiện tượng
những người ở chỗ khác, ngoài nơi ở thường xuyên đi đến bằng các phương
tiện giao thông và sử dụng sản phẩm của các xí nghiệp du lịch.
Theo GS,TS Hunziker và Krapf hai người được coi là đặt nền móng
cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra định nghĩa như sau: Du lịch là tập hợp
các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu
trú của những người ngồi địa phương, nếu việc cư trú đó khơng thành cư trú
thường xun và khơng dính dáng đến hoạt động kiếm lời.
Đại hội lần thứ 5 của Hiệp hội quốc tế những nhà nghiên cứu khoa học

về du lịch đã chấp nhận định nghĩa này làm cơ sở cho môn khoa học du lịch.
Các tác giả đã thành công trong việc mở rộng và bao quát đầy đủ hơn hiện
tượng du lịch.
Định nghĩa về du lịch trong cuốn từ điển bách khoa quốc tế về du lịchLe Dictionnaire International du Tourisme do Viện Hàn lâm khoa học quốc tế


9
về du lịch xuất bản: Du lịch là các hoạt động tích cực của con người nhằm
thực hiện một dạng hành trình, là một cơng nghiệp liên kết nhằm thoả mãn
các nhu cầu của khách du lịch…du lịch là một cuộc hành trình mà một bên là
người khởi hành với mục đích đã chọn trước và một bên là những công cụ là
thoả mãn các nhu cầu của họ.
Định nghĩa về du lịch của trường đại học tổng hợp kinh tế thành phố
Varna, Bulgarie: Du lịch là một hiện tượng kinh tế- xã hội được lặp đi, lặp
lại đều đặn chính là sản xuất và trao đổi dịch vụ hàng hoá của các đơn vị
kinh tế riêng biệt, độc lập đó là các tổ chức, các xí nghiệp với cơ sở vật
chất kỹ thuật chuyên môn nhằm đảm bảo sự đi lại, lưu trú, ăn uống, nghỉ
ngơi với mục đích thoả mãn các nhu cầu cá thể về vật chất và tinh thần của
người lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên của họ để nghỉ ngơi, chữa bệnh,
giải trí (thuộc các nhu cầu về văn hố, chính trị, kinh tế…) mà khơng có
mục đích lao động kiếm lời.
Định nghĩa của Hiệp hội quốc tế về thống kê du lịch ở Otawa, Canada
diễn ra vào (6/1991): Du lịch là hoạt động của con người đi đến một nơi ngồi
mơi trường thường xuyên (nơi thường xuyên của mình) trong một khoảng
thời gian ít hơn khoảng thời gian được các tổ chức du lịch qui định trước, mục
đích của chuyến đi khơng phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong
phạm vi vùng tới thăm.
Trên cơ sở các định nghĩa về du lịch, Trường đại học kinh tế quốc dân
Hà Nội đưa ra định nghĩa về du lịch như sau:
Du lịch là ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức, hướng

dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ của những doanh
nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham
quan, giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác của khách du lịch. Các
hoạt động đó phải mang lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết
thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp [10, tr.16].


10
Tại điều 4 Luật du lịch Việt Nam, thuật ngữ “du lịch” được hiểu như
sau: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngồi
nơi cư trú thường xun của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm
hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
1.1.1.2. Du lịch biển đảo và các khái niệm liên quan
Biển là phần đại dương ít nhiều bị ngăn cách bởi lục địa, các đảo hoặc
vùng cao của đáy, có chế độ thuỷ văn riêng biệt. Tuỳ theo mức độ ngăn cách
với đại dương và đặc điểm chế độ thuỷ văn. Biển có thể được phân thành ba
nhóm: Biển nội địa (cịn gọi là biển kín), Biển ven bờ và Biển được bao quanh
bởi các đảo, Biển nội địa có chế độ thuỷ văn khác nhiều so với Đại dương; Biển
ven bờ có chế độ thuỷ văn khác rất ít so với Đại dương. Đơi khi Biển nội địa lại
phân thành Biển nội lục (Biển Trắng, Biển Bantich, Biển Đen) và Biển giữa các
lục địa (Biển Địa Trung Hải, Biển Caribê) [14, tr.206-207].
Đảo (island) là vùng đất nổi được bao bọc bởi nước xung quanh. Nếu
vùng đất đó được bao bọc bởi biển hoặc đại dương thì đó được gọi là hải đảo;
trong trường hợp là nước ngọt lục địa thì đó gọi là cù lao (islet- trên sông)
hoặc đảo (trên ao, hồ).
Các đảo trên sơng thường được hình thành từ q trình lắng động trầm
tích; các đảo trên ao, hồ thường được hình thành từ quá trình ngăn trữ lượng
nước làm ao, hồ.
Hải đảo có nguồn gốc lục địa, được hình thành trong q trình hoạt
động của các mảng lục địa là kết quả của hoạt động biển tiến, biển lùi của

hoạt động lắng động trầm tích từ các vật liệu có nguồn gốc lục địa và phát
triển trên thềm lục địa (continental island) có thể có nguồn gốc từ hoạt động
phun trào của núi lửa hoạt có nguồn gốc từ các rạn san hơ[17, tr.9].
Như vậy có thể thấy đảo có nguồn gốc phát sinh khác nhau và đây cũng
là yếu tố ảnh hưởng đến q trình hình thành và tính đa dạng của hệ sinh thái
tự nhiên của vùng nước trên đảo và quanh đảo.


11
Phụ thuộc vào khoảng cách so với bờ, các đảo có thể được chia thành
đảo ven bờ và đảo xa bờ.
Ở nước ta đảo ven bờ được xác định là các đảo nằm trong vùng nước
biển thuộc ven bờ có khoảng cách cách đường bờ gần nhất 24 hải lý (khoảng
50 km); các đảo nằm trong vùng nước có khoảng cách đường bờ gần nhất lớn
hơn 24 hải lý được xem là đảo xa bờ.
Du lịch biển đảo: Du lịch biển đảo là du lịch diễn ra trên đảo và vùng
nước biển quanh đảo. Hoạt động du lịch đảo được hỗ trợ bởi mối liên hệ với
du lịch trên đất liền thông qua các tours liên kết du lịch đảo với hệ thống các
tuyến, điểm du lịch trên đất liền[17, tr.14].
1.1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của du lịch biển đảo
Từ đặc trưng được xem là cơ bản nhất của đảo là tình trạng biệt lập của
vùng đất nổi trong mối liên hệ với lục địa đất hoặc đất liền bởi vùng nước
xung quanh đảo. Đây là yếu tố quan trọng để tạo cho đảo một thế giới riêng
với tất cả những cấu thành tự nhiên như lục địa đất liền và ít chịu ảnh hưởng
trực tiếp bởi q trình phát triển kinh tế - xã hội ở trên lục địa, đất liền.
Chính vì đặc trưng này mơi trường tự nhiên của đảo chủ yếu sẽ phụ
thuộc vào chính việc khai thác như thế nào.
Môi trường sinh thái tự nhiên của đảo, bao gồm môi trường của vùng
nước quanh đảo và môi trường trên đảo, thường rất nhạy cảm với những tác
động và mức độ nhạy cảm này phụ thuộc vào diện tích tự nhiên của đảo.

Trong cùng một điều kiện khí hậu, trữ lượng nước ngọt, yếu tố đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển của đảo, phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm
cấu trúc của địa hình, đặc điểm thổ nhưỡng, đá gốc và lớp phủ thực vật trên
đảo. Những đảo sườn dốc ra rìa đảo, lớp phủ thực vật kém phát triển thường
có trữ lượng nước ngọt rất hạn chế. Ngược lại những đảo có địa hình tương
đối bằng phẳng, lớp phủ thực vật phát triển và lớp phong hố dày thường có
trữ lượng nước ngọt cao.


12
Ở những đảo có diện tích lớn, ngồi trữ lượng nước ngầm, trữ lượng
nước ngọt chung của đảo còn phụ thuộc vào sự phát triển của hệ thống sông,
suối trên đảo.
Do đặc điểm vị trí địa lí và điều kiện địa hình nên sản phẩm du lịch biển
đảo có những nét đặc trưng riêng cần nghiên cứu trong quá trình phát triển:
Thứ nhất, sản phẩm du lịch biển đảo phát triển trên cơ sở nguồn tài
nguyên biển đảo là nguồn tài ngun có tính đa dạng sinh học lớn, mức độ
nhạy cảm của mơi trường cao. Vì vậy phát triển du lịch biển đảo phải quan
tâm đến yếu tố bền vững.
Thứ hai, việc tiếp cận đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất phục vụ du
lịch biển đảo gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là các đảo xa bờ. Vì vậy phát
triển du lịch biển đảo thường phải có sự liên kết chặt chẽ với các trung tâm
lưu trú dịch vụ trên bờ.
Thứ ba, các yếu tố khí hậu, thời tiết có ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ
chức hoạt động du lịch biển đảo.
Thứ tư, nguồn nhân lực phục vụ du lịch trên đảo thường hạn chế ít về
số lượng và kém về chất lượng.
Thứ năm, các hoạt động mang bản chất du lịch sinh thái trên các đảo
đang được phát triển và thu hút nhiều đối tượng khách du lịch. Các đối tượng
chính của loại hình du lịch này thường là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh

viên đây là những đối tượng thích mạo hiểm, thích khám phá. Các hoạt động
du lịch sinh thái cũng thường diễn ra quanh năm, ít chịu ảnh hưởng bởi tính
mùa vụ trong du lịch, đặc biệt là đảo ven bờ Phú Quốc do có diện tích lớn và
đa dạng sinh học.
1.1.2. Các loại hình đặc thù của du lịch biển đảo
Du lịch biển đảo có đặc trưng cơ bản là gắn liền với những đặc điểm
của biển và đảo do tài nguyên du lịch tự nhiên của biển và đảo qui định.
Thơng thường đó là loại hình du lịch tổng hợp do tài nguyên thiên tạo và nhân


13
tạo qui định. Nếu vùng biển nào có tài nguyên du lịch thiên nhiên thuận lợi do
các kiến tạo địa chất tạo ra như nhiều núi non, hang động đẹp, nhiều đảo nổi, đảo
chìm…có hệ thống thuỷ sinh phong phú, dáng đặc sắc có nhiều vịnh và chế độ
hải văn thuận lợi, như vịnh Hạ Long của Việt Nam thì sản phẩm du lịch đặc thù
tập trung vào tham quan, nghỉ dưỡng hoặc thể thao mạo hiểm. Nếu vùng biển
nào có thời tiết, khí hậu thuận lợi cho sức khoẻ, có biển rộng lớn, nước và cát
sạch sẽ, sự thay đổi thời tiết trong ngày không lớn thường sản phẩm du lịch đặc
thù là nghỉ dưỡng và hội nghị như vùng biển đảo Sô-chi của Liên bang Nga.
Thông thường du lịch biển đảo có các loại hình sản phẩm du lịch tổng
hợp sau:
Thứ nhất, du lịch nghỉ dưỡng- chữa bệnh trên biển đảo
Đây là một trong những sản phẩm du lịch nổi trội của biển đảo, do đảo
có chế độ về thời tiết như: Nhiệt độ, lượng mưa, gió, bức xạ nhiệt, độ ẩm…
rất thích hợp cho du lịch tắm và nghỉ dưỡng biển - chữa bệnh. Đối với du lịch
nghỉ dưỡng- chữa bệnh là sản phẩm quan trọng rất cần thiết để đáp ứng nhu
cầu thị trường. Việc phát triển sản phẩm du lịch này sẽ làm tăng đáng kể
lượng khách, tăng ngày lưu trú trung bình và mức chỉ tiêu của khách du lịch
khi đến khu du lịch biển đảo.
Nhu cầu chính làm nảy sinh hình thức du lịch này là sự cần thiết phải

nghỉ ngơi để phục hồi thể lực và tinh thần cho con người. Đây là loại hình du
lịch có tác dụng giải trí, phục hồi sức khoẻ làm cuộc sống thêm đa dạng và
giải thốt con người ra khỏi cơng việc hàng ngày.
Hiện tại nhu cầu du lịch, đặc biệt là du lịch ở vùng biển đảo ngày càng
được du khách ưa thích do điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phục hồi sức
khoẻ và kết hợp với nghỉ dưỡng giải trí.
Thứ hai, du lịch nghỉ dưỡng - hội nghị trên biển đảo
Với đặc điểm của biển đảo là điều kiện tự nhiên thiên nhiên và khí hậu
mát mẻ, phù hợp cho việc nghỉ dưỡng cùng với vị trí thuận lợi trong giao lưu


14
với các nước trong khu vực, việc phát triển sản phẩm du lịch này là rất quan
trọng, phù hợp với nhu cầu phát triển hiện tại du lịch nghỉ dưỡng kết hợp với
hội nghị của Ngành, Bộ, Chính phủ hoặc một cơ quan, đặc biệt là hội nghị của
các Nguyên thủ quốc gia trong vùng hoặc quốc tế. Sản phẩm du lịch này vừa
đảm bảo nghỉ dưỡng lại có điều kiện đảm bảo được bí mật, do đảo tồn tại độc
lập ngồi biển, dễ dàng kiểm sốt được du khách ra vào đảo trong thời kỳ
nhất định khi hội nghị diễn ra. Như vậy biển đảo là nơi phù hợp rất lý tưởng
cho việc tổ chức hội nghị kết hợp với du lịch nghỉ dưỡng.
Hiện nay loại hình du lịch nghỉ dưỡng- hội nghị diễn ra trên khu vực du
lịch biển đảo ngày càng có điều kiện thuận lợi hơn do điều kiện về cơ sở vật
chất, giao thông, thông tin liên lạc… phát triển.
Thứ ba, du lịch tham quan trên biển đảo
Biển đảo thường có nhiều thắng cảnh, cảnh quan thiên nhiên đẹp như:
Hang động, rừng, núi, bãi biển, rạn san hơ và các di tích văn hố lịch sử.
Những điều kiện cảnh quan thiên nhiên thuận lợi cho phát triển loại hình du
lịch tham quan trên biển đảo. Đây là loại hình du lịch rất được ưu chuộng của
tất cả các khách du lịch nội địa và quốc tế.
Thứ tư, du lịch thể thao mạo hiểm- khám phá trên biển đảo

Do đặc điểm về địa hình và chế độ thuỷ văn, khí hậu, tài nguyên nước
giúp cho du lịch biển đảo có những điều kiện phù hợp để tổ chức các sản
phẩm thể thao mạo hiểm như: Bơi thuyền, dù lượn, lướt ván, lặn biển, leo núi.
Đây là những sản phẩm cần nghiên cứu khai thác nhằm làm đa dạng hoá sản
phẩm du lịch của đảo nhằm thu hút sự quan tâm và thoả mãn sự tò mò, khám
phá của du khách đối với các môn thể thao và thiên nhiên nơi đây.
Thứ năm, du lịch văn hoá - tâm linh trên biển đảo
Đặc thù của biển đảo là các dạng địa hình đặc biệt như khe suối, thác
nước, bờ và bãi biển cùng với những di tích văn hoá, lịch sử, đời sống tâm
linh của người dân trên đảo… đã tạo nên những cảnh quan và nét văn hố có
giá trị và hấp dẫn khách du lịch.


15
Do đó mục đích chính của khách du lịch văn hoá là nhằm nâng cao hiểu
biết cho cá nhân về mọi lĩnh vực như: lịch sử, kiến trúc, kinh tế, hội hoạ, chế
độ xã hội, cùng các phong tục, tập quán của người dân sống trên đảo.
Du lịch văn hoá được phân thành 2 loại:
+ Du lịch văn hoá với mục đích cụ thể: Khách du lịch thể loại này
thường đi với mục đích đã định sẵn. Họ thường là cán bộ khoa học, sinh viên
hoặc các chuyên gia.
+ Du lịch văn hố với mục đích tổng hợp: Gồm đơng đảo những người
ham thích mở mang kiến thức về biển đảo và thoả mãn những tị mị của mình
về biển đảo.
Du lịch tâm linh: Là loại hình du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng
đặc biệt của những người theo các đạo giáo khác nhau, thông thường các khu
làng chày ở khu vực quanh đảo họ có đời sống tâm linh rất sâu sắc gắn liền
với đời sống hàng ngày của họ trên biển.
Thứ sáu, du lịch vui chơi giải trí
Đây là loại hình dịch vụ vui chơi giải trí khơng chỉ làm đa dạng sản

phẩm du lịch mà cịn mang lại hiệu quả kinh tế cao. Các hình thức vui chơi
giải trí sẽ hướng tới những hình thức vui chơi giải trí cao cấp như chơi golf,
casino, cá cược, đua ngựa, đua chó nhằm đáp ứng nhu cầu của các thị trường
trọng điểm và các thị trường tiềm năng có nhu cầu cao như Đài Loan, Hồng
Kơng, Bắc Âu, Mỹ.
Thứ bảy, du lịch săn bắn thú hoang dã
Với đặc điểm biển đảo thường có rừng, núi, đồi và đa dạng sinh học
nhiều thú rừng, những khu vực này thường xa khu dân cư sinh sống. Do đó
đây là điều kiện thuận lợi cho khai thác sản phẩm du lịch là săn bắn thú hoang
dã. Săn bắn thú hoang dã là sản phẩm du lịch cao cấp rất hấp dẫn du khách
nước ngồi, hiện nay có khả năng phát triển tốt với những tiềm năng và đặc
điểm trên đảo. Nếu khai thác đúng mức thì đây cũng là điều kiện vừa khai


16
thác vừa bảo tồn các loài động vật hoang dã trên đảo một cách hiệu quả và
thu hút một lượng khách và ngoại tệ lớn cho ngành du lịch.
Thứ tám, du lịch câu cá, câu mực trên biển
Với đặc thù biển đảo là đa dạng sinh học đặc biệt là các loài cá dưới biển nên
đây cũng là điều kiện thuận lợi để phát triển loại hình du lịch này. Hiện nay câu cá
- mực trên biển là sản phẩm du lịch rất được ưa chuộng đối với khách du lịch từ
những thị trường có khả năng chi trả cao như Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật…loại hình
này có khả năng phát triển ở trên các vùng biển giàu nguồn lợi thuỷ sản.
Thứ chín, du lịch tàu biển
Do đặc thù của du lịch biển đảo là hệ sinh thái biển rất phong phú, trong
lành, mát mẻ, đa dạng về tài nguyên sinh vật biển, nên du khách tham quan
thường muốn trải nghiệm trên biển để tận mắt ngắm nhìn cảnh đẹp thiên
nhiên, tận hưởng khơng khí trong lành của biển cả và thưởng thức những món
ăn ngon, tươi sống từ sản vật biển ngay khi ngư dân vừa đánh bắt.
Đây cũng là loại hình du lịch hấp dẫn khách du lịch khi tham quan biển

đảo, loại hình này thu hút khác có khả năng chi trả cao.
Thứ mười, du lịch cuối tuần
Do điều kiện về mơi trường, khí hậu thuận lợi và phong cảnh yên bình
của biển đảo nên khách du lịch quốc tế trong khu vực có khả năng chi trả cao
thường chọn loại hình du lịch này. Hiện tại loại hình du lịch này ở nước ta
chưa phát triển do điều kiện về cơ sở vật chất, nhưng trong tương lai với vị trí
địa lý thuận lợi cùng các lợi thế về các sản phẩm du lịch có thể phát triển loại
hình du lịch này. Khi có sân bay quốc tế trên đảo thì sản phẩm du lịch này
hồn tồn có thể phát triển tốt trên đảo, và nó sẽ tạo ra sức hấp dẫn cao đối
với du khách muốn tham quan đảo ngắn ngày.
Mười một, du lịch sinh thái
Do sự phong phú và đa dạng về hệ động thực vật của vùng biển đảo, khí
hậu thiên nhiên ơn hịa mát mẽ, khơng khí trong lành, có nhiều bãi biển, suối,
rừng, đây là tiềm năng lớn cho phát triển du lịch sinh thái.


17
1.2. VAI TRÒ CỦA DU LỊCH BIỂN ĐẢO TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Cách mạng khoa học công nghệ (KHCN) và tồn cầu hố là các q
trình kinh tế kỹ thuật năng động nhất đang diễn ra trên thế giới hiện nay. Để
thu được lợi ích hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới điều thực hiện chiến
lược kinh tế mở, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và tồn cầu.
Cùng với chính sách mở cửa hội nhập chung của đất nước, theo phương
châm chủ động hội nhập, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, du
lịch - một ngành kinh tế dịch vụ đã đẩy mạnh các hoạt động hợp tác cả song
phương và đa phương.
Thông qua hội nhập quốc tế, du lịch Việt Nam tranh thủ được nhiều sự
hợp tác, hỗ trợ phát triển trong đó tiếp thu được những ứng dụng KHCN hiện
đại vào ngành du lịch góp phần nâng cao hình ảnh, năng lực cạnh tranh của

du lịch Việt Nam trên trường quốc tế.
1.2.1. Phát triển du lịch biển đảo là một tất yếu kinh tế do hội nhập
quốc tế thúc đẩy
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội
của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị
trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn
ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến
trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện
đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống người dân của từng
quốc gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là chính sách lựa chọn của hầu hết các
quốc gia để phát triển.
Trong bối cảnh nước ta đang “tích cực, chủ động hội nhập quốc tế” theo
tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI vừa qua, việc xác định đúng ý
nghĩa, bản chất, nội hàm, xu hướng vận động cũng như hệ lụy của hội nhập
quốc tế là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chiến
lược, chính sách và các biện pháp cụ thể của nước ta trong quá trình hội nhập.


18
Trong tiến trình này, nội dung chủ yếu của hội nhập của ngành du lịch
đẩy mạnh phát triển du lịch, trong đó có du lịch biển đảo thu hút khách du lịch
quốc tế nhằm khuyến khích, tăng cường sản xuất và xuất khẩu tại chỗ, tăng
nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, tuyên truyền chính sách đối ngoại, mở rộng
giao lưu, hội nhập. Trong giai đoạn tới, du lịch Phú Quốc cần hướng tới
những thị trường trọng điểm có khả năng chi trả cao, du lịch dài ngày được
xác định trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, đảm bảo sự tăng trưởng
nhanh và ổn định về lượng khách quốc tế.
Ngày nay, với sự phát triển của KHCN, kinh doanh du lịch khơng cịn bị
giới hạn trong thị trường của một quốc gia mà vươn ra tầm quốc tế nhờ các
phương tiện giao thông, liên lạc hiện đại. Bên cạnh sự tác động to lớn của KHCN

đối với sự phát triển của du lịch, thì phục vụ khách du lịch là công cụ hữu hiệu để
học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu những tiến bộ KHCN thông qua sự giao lưu, tiếp
xúc giữa khách du lịch và người phục vụ du lịch và dân cư địa phương, từ đó có
thể lĩnh hội được những tri thức mới một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Đối với hoạt động du lịch nói chung, phát triển các loại hình du lịch
nói riêng, yếu tố hạ tầng kỹ thuật là yếu tố chủ quan có ý nghĩa rất quan trọng.
Thực tế cho thấy một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến sự
phát triển du lịch sinh thái biển đảo của Việt Nam là hệ thống hạ tầng kỹ
thuật, đặc biệt là hệ thống giao thơng, các cơng trình đầu mối. Do phát triển
chưa đáp ứng được yêu cầu đưa khách du lịch tiếp cận đến những khu vực có
tiềm năng du lịch sinh thái điển hình là các vùng núi và hệ thống các đảo ven
bờ nên ngành du lịch nước ta chưa phát triển được, đối với một số loại hình
du lịch mới như du lịch hội nghị, hội thảo, nghỉ dưỡng ở các vùng biển đảo có
điều kiện tự nhiên tốt và thuận lợi. Do đó muốn phát triển du lịch biển đảo đạt
hiệu quả trước hết phải phát triển KHCN và tiếp thu cơng nghệ.
Bởi lẽ cơng nghệ có ý nghĩa rất quan trọng đối với những loại hình vui
chơi giải trí hiện đại cần đến các thiết bị có hàm lượng cơng nghệ cao. Đối


19
với các nước đang phát triển việc ứng dụng công nghệ để phát triển loại hình
vui chơi giải trí hiện đại và hấp dẫn thường gặp trở ngại chủ yếu là vốn đầu tư
và khả năng chi trả của thị trường, đặt biệt là thị trường nội địa. Như vậy để
giải quyết vấn đề đối với những nước còn nghèo như Việt Nam thì việc điều
chỉnh chính sách phù hợp nhằm thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước
ngồi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thế giới ngày nay, các thành tựu KHCN hiện đại đã mang lại cho con
người nhiều thời gian nghỉ ngơi hơn, sự phát triển ồ ạt của q trình đơ thị
hố cũng như các q trình di dân tự do đã góp phần làm cho con người ngày
càng muốn tìm đến những miền đất lạ, những đất nước mà ở đó các giá trị

sinh cảnh tự nhiên ban tặng như biển, hải đảo… và các giá trị văn hố truyền
thống cịn được gìn giữ và bảo lưu ngun vẹn. Chính thực tế ấy đã chỉ ra
rằng du lịch biển đảo đang có sức hấp dẫn rất lớn đối với một bộ phận khá lớn
du khách trên thế giới.
1.2.2. Vai trò của du lịch biển đảo trong phát triển kinh tế biển
1.2.2.1. Kinh tế biển và vị trí của du lịch biển đảo trong phát triển
kinh tế biển
Các tỉnh có bờ biển dài thì việc phát triển kinh tế- xã hội của địa
phương, kinh tế biển có vị trí đặc biệt quan trọng, bởi lẽ nó quyết định
tốc độ tăng trưởng, giải quyết việc làm và nâng cao mức sống của dân cư
địa phương.
Kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt
động kinh tế diễn ra trên đất liền nhưng trực tiếp liên quan đến khai thác biển.
Do tính đặc thù của mơi trường biển, mọi hoạt động kinh tế biển đều
liên quan mật thiết và được quyết định từ trong đất liền, nên khơng thể nói về
kinh tế biển mà khơng tính tới những hoạt động kinh tế liên quan đến biển,
bao gồm: 1) Các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển: Kinh tế Hàng hải (Vận


20
tải biển và dịch vụ cảng biển); Hải sản (đánh bắt và ni trồng hải sản); khai
thác dầu khí ngồi khơi; Du lịch biển; Làm muối; Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ,
cứu nạn; Kinh tế đảo. 2) Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai
thác biển, tuy không phải diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế
này nhờ vào yếu tố biển hoặc trực tiếp phục vụ cho các hoạt động kinh tế biển
ở dải đất liền ven biển, gồm: Đóng và sửa chữa tàu biển; Cơng nghiệp chế
biến dầu, khí; Cơng nghiệp chế biến thuỷ, hải sản; Cung cấp dịch vụ biển;
Thông tin liên lạc biển; Nghiên cứu KHCN biển; Đào tạo nhân lực phục vụ
phát triển kinh tế biển; Điều tra cơ bản về tài ngun - mơi trường biển. Trong
đó du lịch biển đảo giữ vị trí quan trọng vì nó khơng chỉ tạo điều kiện để khai

thác tối đa nguồn lực và tài nguyên do thiên nhiên ban tặng, mà còn giúp bảo
tồn và phát triển được tài nguyên thiên nhiên nếu biết khai thác và bảo vệ tốt
các cảnh quan tự nhiên.
Việt Nam là một quốc gia ven biển có những ưu thế và vị trí chiến lược
đặc biệt quan trọng đối với khu vực và trên thế giới. Cùng với xu hướng gia
tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay, nguồn tài nguyên thiên
nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo được trên đất liền, sẽ bị cạn kiệt trong
vài ba thập kỷ tới. Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, các
lĩnh vực kinh tế liên quan đến biển sẽ ngày càng có vai trị quan trọng. Hơn
nữa, hướng phát triển ra biển còn là đòi hỏi bức thiết của chiến lược mở cửa
và hội nhập kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề đặt ra là,
trong tình hình phát triển kinh tế biển của nước ta chậm như hiện nay, nếu
không bắt kịp xu thế chung của thế giới, thì khơng chỉ hạn chế trong việc bảo
vệ và khai thác lợi thế của biển mà còn lại càng hạn chế khi vươn ra biển quốc
tế. Việt Nam là một quốc gia có biển, một nhân tố mà thế giới luôn xem như
một yếu tố địa lợi, chúng ta phải cần tăng cường hơn nữa những khả năng
vươn ra biển và xác định đây là động lực quan trọng thúc đẩy các vùng khác
trong đất liền phát triển.


21
1.2.2.2. Du lịch biển đảo trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh có
đặc thù biển đảo
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã
hội hố cao. Du lịch khơng chỉ mang lại lợi ích to lớn về mặt kinh tế, mà cịn
góp phần phát triển các mối quan hệ xã hội và đối ngoại. Vai trò của du lịch
biển đảo đối với phát triển kinh tế- xã hội địa phương thể hiện ở các mặt sau :
Thứ nhất, hoạt động du lịch chứa đựng bản sắc nhân văn, du lịch là hộ
chiếu đi đến hồ bình và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, trong khuôn
khổ quan hệ quốc tế và sự nghiệp tìm kiếm hồ bình, trên cơ sở công bằng và

tôn trọng nguyện vọng của các cá nhân và các dân tộc. Du lịch giữ vai trị của
một nhân tố tích cực lâu bền, giúp tăng cường kiến thức và sự hiểu biết lẫn
nhau, là cơ sở của sự tôn trọng và tin cậy các dân tộc trên toàn thế giới, (tuyên
bố Manila). Những sự trao đổi quốc tế tạo ra những cơ hội tốt hơn để hiểu về
những con người thật và cuộc sống của họ chứ không phải hiểu biết về những
bức tranh từng phần của xã hội nước ngồi thơng qua thơng tin đại chúng,
việc này giúp xoá bớt thành kiến giữa các dân tộc. Du lịch là con đẻ của hồ
bình, là phương tiện củng cố hồ bình, là phương tiện góp phần cân bằng cán
cân thanh toán quốc tế (tuyên bố OSAKA).
Thứ hai, du lịch biển đảo là ngành kinh tế tạo nguồn thu ngoại tệ to lớn
cho địa phương, thúc đẩy sự phát triển nhiều ngành kinh tế có liên quan. Tuy
nhiên một trong những yếu tố tạo nên sự phát triển bền vững của du lịch là
việc đóng góp phát triển kinh tế xã hội của các địa phương nơi có du lịch phát
triển. Chính vì vậy một trong những dấu hiệu nhận biết sự phát triển bền
vững trong hoạt động du lịch là mức đóng góp cho phát triển xã hội cho các
địa phương từ nguồn thu nhập từ hoạt động du lịch.
Thứ ba, tăng thu nhập và giải quyết việc làm:
Trong thực tế, du lịch phát triển đã góp phần tạo cơng ăn việc làm cho
người lao động trên tồn thế giới. Thực hiện phân cơng lao động xã hội, chuyển


22
dịch cơ cấu kinh tế. Theo số liệu của WTO toàn ngành Du lịch thế giới đã tạo ra
được trên 200 triệu chỗ làm việc, thu hút được 10,2% lực lượng lao động toàn
cầu. Dự kiến năm 2010 ngành du lịch sẽ tạo thêm 150 triệu chỗ làm, trong đó
có du lịch biển đảo.
Ở nước ta, hàng năm ngành Du lịch thu hút khoảng 300.000 lao động
trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp ngoài xã hội tham gia các hoạt động
dịch vụ phục vụ khách du lịch như: bán hàng lưu niệm, ăn uống giải khát,
dịch vụ chụp ảnh, vui chơi giải trí, cho thuê phao bơi, áo tắm, dịch vụ xe

ôm… tại các điểm tham quan, du lịch và các dịch vụ bán vé máy bay, tàu hoả
du lịch, nuôi trồng, chế biến thuỷ, hải sản, lương thực, thực phẩm....để đáp
ứng nhu cầu phục vụ khách du lịch.
Thứ tư, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc bản địa: Du lịch góp phần bảo
vệ và giữ gìn bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, nâng cao lòng yêu nước, yêu
thiên nhiên. Khi đi du lịch khách thường đề cập đến sự khao khát hiểu biết và
phát triển nhận thức về các nền văn hoá, nghệ thuật, nghề thủ công, tập quán
sinh hoạt của những dân tộc khác, những địa phương khác.
Du lịch có thể có ảnh hưởng quan trọng đến sự hiểu biết và đánh giá của
người dân ở khu vực này đối với những người ở khu vực khác. Nhiều quốc gia có
chính sách khuyến khích du lịch, đặc biệt du lịch nội địa vì họ cho rằng điều này
sẽ giúp cho các công dân hiểu biết và đánh giá đúng hơn về đất nước của mình,
đánh giá đúng các khía cạnh tích cực về mơi trường sinh sống của chính mình.
Có thể thấy, trong các chính sách tuyên truyền và quảng bá du lịch là
khuyến khích những người dân thành thị đi nghỉ ở các vùng thôn quê để hiểu
biết thêm về đời sống, sinh hoạt và cộng đồng ở các vùng nông thôn. Tương
tự như vậy, các tour du lịch thành phố trọn gói trong các ngày nghỉ lễ hoặc
cuối tuần nhằm mở mang sự hiểu biết và những kinh nghiệm về văn hố đơ
thị và cơng nghiệp cho những người sinh sống ở nông thôn.
Sự phát triển du lịch tác động đến các khía cạnh văn hố xã hội của nơi
đến. Ngược lại, du khách cũng bị ảnh hưởng bởi sự tương phản, sự khác biệt


23
về văn hoá, đời sống ở các nước các vùng họ đến thăm. Họ có thể so sánh và
đánh giá cao nền văn hoá và cuộc sống ở những nơi này mặc dù có thể xa lạ.
Cơ hội để hiểu biết và học hỏi các phong cách sống và phong tục tập quán của
dân tộc khác có thể là lợi ích to lớn đối với du khách.
Hơn hết, một trong những ưu điểm lớn của du lịch là khuyến khích
khơi phục những nét văn hoá bị mai một hoặc mất đi, làm phục hưng và duy

trì các loại hình nghệ thuật như âm nhạc, sản phẩm thủ công, các điệu múa
nghi lễ...; làm sống lại các phong tục dẫn đến việc bảo tồn các cơng trình văn
hố và tạo ra thị trường mới cho các tác phẩm nghệ thuật. Người dân địa
phương thường không nhận ra hoặc đôi lúc quên rằng văn hoá của họ đặc biệt
như thế nào? mang lại lợi ích gì cho cộng đồng địa phương? Khách du lịch
chính là người ngồi cuộc chỉ ra và nhắc nhở họ làm điều đó. Du lịch là cơng
cụ xác định bản lĩnh dân tộc, bản lĩnh văn hoá của mỗi quốc gia.
Đảo là một lãnh thổ nơi các hệ sinh thái tự nhiên cũng như các giá trị văn
hoá bản địa rất nhạy cảm, dễ bị biến đổi dưới tác động của các hoạt động phát
triển trong đó có du lịch. Nếu thiếu những biện pháp quản lý, hoạt động phát
triển du lịch sẽ có những tác động đáng kể đến các giá trị cảnh quan, sinh thái và
văn hố đảo. Để du lịch có thể phát triển bền vững những giá trị thiên nhiên và
văn hoá cần được phát huy, song cũng cần được bảo tồn một cách cẩn trọng.
Thứ năm, giữ gìn hệ sinh thái và bảo vệ mơi trường:
Nói đến phát triển du lịch đảo khơng có nghĩa là hoạt động du lịch chỉ
phát triển trên phần nổi của đảo mà phải bao gồm cả vùng nước quanh đảo,
đây cũng chính là lợi thế đặc thù của đảo trong phát triển du lịch. Việc kết hợp
hoài hoà tiềm năng du lịch trên đảo và vùng nước quanh đảo sẽ cho phép đa
dạng hoá các sản phẩm du lịch, tạo được sự hấp dẫn chung của du lịch đảo.
Do đó cần thiết phải bảo vệ mơi trường sinh thái thật trong sạch
1.2.2.3. Du lịch biển đảo trong thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế
của tỉnh
Trong hội nhập du lịch được xem như một ngành kinh tế mũi nhọn, trở
thành xu thế phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày nay làn sóng du


24
lịch đã lan ra khắp nơi, đòi hỏi ngành du lịch ln phải làm mới mình và hồn
thiện chất lượng các sản phẩm du lịch. Đối với từng địa phương, sự đa dạng
và độc đáo về tài nguyên là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy hoạt động du lịch

phát triển.
Xu thế tồn cầu hố đang lan rộng mạnh mẽ, mỗi quốc gia mỗi vùng
lãnh thổ muốn phát triển đều phải đẩy mạnh quan hệ giao lưu, hợp tác với
từng vùng khác để tận dụng lợi thế phát huy tiềm năng to lớn của mình. Do
vậy muốn phát triển nhanh và mạnh nền kinh tế nói chung, ngành du lịch nói
riêng, các địa phương, các vùng cần liên kết, hợp tác với nhau cùng phát triển.
Nhu cầu du lịch nói chung và du lịch đến các vùng biển, hải đảo trên
thế giới nói riêng ngày một tăng lên cho dù du lịch có những bước phát triển
thăng trầm do khủng hoảng kinh tế thế giới đang diễn ra hiện nay.
Hiện nay, nước ta là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt là
thành viên của WTO, là yếu tố thuận lợi cho cơ hội thu hút đầu tư, kinh
nghiệm, cơng nghệ phát triển du lịch nói chung và du lịch biển nói riêng. Từ
đó ta có thể : 1) Tạo ra các hình thức liên kết du lịch giữa các tỉnh của các
quốc gia trong khu vực, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm phát triển du lịch
như phát triển nhân lực, tiếp thị và quảng bá du lịch ; 2) Giao lưu và hội nhập
văn hoá giữa các quốc gia ; 3) Chuyển giao công nghệ phát triển ngành du
lịch của tỉnh. Đây là một yếu tố quan trọng đối với phát triển du lịch Phú
Quốc nhằm đưa du lịch phát triển theo hướng nền kinh tế dựa vào tri thức,
đồng thời sử dụng các tiến bộ KHCN vào công tác quản lý, đầu tư xây dựng
và kinh doanh du lịch. Tăng cường công tác đầu tư, ứng dụng, tiếp nhận
chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển du lịch.
Tăng cường công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý du
lịch bằng việc xây dựng hệ thống thông tin quản lý du lịch, kết nối thông tin
đối với vùng.
Tăng cường đầu tư và khuyến khích nghiên cứu công nghệ phục vụ cải
thiện môi trường như: Xử lý nước thải, rác thải tại các khu du lịch, ứng dụng


25
các tiến bộ trong việc sử dụng năng lượng sạch, khuyến khích phát triển nơng

nghiệp hữu cơ.
Học tập và ứng dụng các mơ hình cơng nghệ quản lý tiên tiến trong
phát triển du lịch.
Sự tăng trưởng của du lịch quốc tế đã không ngừng mở rộng việc giao
tiếp giữa nhân dân các nước. Du lịch là phương tiện hữu hiệu nhất trong việc
phân phối lại thu nhập giữa các nước và như vậy cũng góp phần cho sự phát
triển cân bằng hơn của nền kinh tế thế giới. Hơn thế nữa, du lịch thực chất là
một hoạt động tiếp xúc, thưởng thức và học hỏi từ thiên nhiên vô tận, các xã
hội và nền văn hố nước ngồi.
Thực tế đã cho thấy, các nước có ngành du lịch phát triển có cơ hội
giao lưu, học hỏi kinh nghiệm và tiếp thu KHCN nước ngoài nhanh hơn,
nhiều hơn. Sự phát triển của KHCN cao đã tạo cho hoạt động kinh doanh du
lịch của các nước khơng bị bó hẹp trong khơng gian nước mình mà vươn rộng
ra thềm lục địa, đại dương, bầu trời và điều đó đã làm cho hoạt động du lịch
phát triển ngày càng có xu thế chuyên mơn hố. Từ các sản phẩm du lịch lục
địa mang tính đặc thù như leo núi cao, khám phá sa mạc, nghiên cứu văn hoá,
thám hiểm rừng sâu, tham quan cơng xưởng, khám phá những phong cảnh
thần bí…đến sự ứng dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại để đi du
lịch và khám phá nghiên cứu đại dương, thưởng thức cảnh đẹp dưới đáy biển
và các trò chơi vận động dưới nước v. v. Tiếp đó là sự phát triển của kỹ thuật
vũ trụ và những phát minh mới của tàu vũ trụ sẽ dẫn đến các loại hình du lịch
như du ngoạn khơng gian, du lịch lên mặt trăng, thám hiểm bầu trời, chinh
phục vũ trụ... Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện
đại đã dẫn đến sự tồn cầu hố nền kinh tế du lịch nhanh hơn, phát triển mạnh
mẽ hơn.
Du lịch là hình thức quan trọng của việc truyền bá kỹ thuật và giao lưu
nghiên cứu khoa học. Trong du khách có rất nhiều nhà khoa học, học giả, kinh



×