Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh cà mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.86 KB, 113 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một nước nơng nghiệp lạc hậu, do đó, ngay từ rất sớm vấn đề phát
triển nông nghiệp được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Đặc biệt, khi lựa
chọn khâu đột phá trong thời kỳ đầu đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng, chủ trương: “Phải thật sự tập trung sức người, sức của vào
việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu” [18, tr.64].
Khi đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới, trước yêu cầu phải rút
ngắn thời gian tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa so với các nước đi trước,
phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
đã ra Nghị quyết về: “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp,
nơng thơn thời kỳ 2001 - 2010”. Đến Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X đã ra Nghị quyết về “Nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn”.
Điều đó cho thấy, phát triển nơng nghiệp và kinh tế nơng thơn có ý
nghĩa to lớn trong việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, là
cơ sở đảm bảo ổn định tình hình chính trị, xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, chính sách phát triển nơng nghiệp khơng phải thúc đẩy tăng
trưởng bằng mọi giá. Sự lựa chọn của thế giới ngày nay là phát triển nông
nghiệp bền vững, theo nghĩa “sự phát triển đáp ứng những yêu cầu của hiện
tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai
sau” (Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển - WCED).
Nhận thức được tầm quan trọng đối với phát triển nông nghiệp bền
vững ở tỉnh Cà Mau, trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền của tỉnh đã
đặt mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở vị trí trọng tâm
trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Với vị trí địa lý là một bán đảo, có


2


ba mặt tiếp giáp biển, là tỉnh cuối cùng của cực nam tổ quốc, là một trong
mười ba tỉnh, thành khu vực ĐBSCL. Cà Mau có lợi thế là vùng đất mới, có
địa hình bằng phẳng, sơng rạch chằng chịt, trong đó có nhiều sơng lớn dẫn
phù sa bồi đắp sâu vào trong đất liền, hầu hết các sông lớn đều tiếp giáp với
biển, nên độ nhiễm mặn của đất khá cao. Sơng ở Cà Mau phần lớn chỉ có
nước ngọt vào mùa mưa, nhưng do chính quyền địa phương và nhân dân chủ
động ngăn mặn, giữ ngọt nên trồng được lúa nước, đa dạng hóa cơ cấu vật
ni, cây trồng. Tuy nhiên, thủy sản vẫn là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh;
ngành trồng trọt có bước phát triển ổn định. Cạnh đó, lâm nghiệp Cà Mau bao
gồm rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm ngập úng phèn. Rừng ngập nước
Cà Mau nổi tiếng thế giới và đã được UNESCO công nhận là “Khu dự trữ
sinh quyển thế giới”. Như vậy, thiên nhiên cũng đã ban tặng cho vùng đất cực
nam này những điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp bền vững.
Thực tiễn phát triển nông nghiệp của Cà Mau trong những năm qua
cũng đã cho thấy những khó khăn, hạn chế, sau: hạ tầng KT-KT phục vụ sản
xuất nơng nghiệp cịn thấp kém, sản xuất cịn nhỏ lẻ, thiếu tính hợp tác trong
sản xuất, chịu nhiều ảnh hưởng của thời tiết, đầu ra cho nông sản thiếu ổn
định. Tình hình dịch bệnh ở tơm và gia cầm, gia súc diễn biến phức tạp,
chưa được khống chế triệt để; doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nơng nghiệp
cịn ít, chủ yếu đầu tư vào cơng nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu. Trình độ
lao động của địa phương còn thấp, rất hạn chế trong ứng dụng KH - CN vào
sản xuất, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Trong thực tế, việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngư - nông - lâm nghiệp diễn ra với tốc độ khá nhanh,
nhưng yếu tố tự phát không theo quy hoạch của chính quyền địa phương cịn
phổ biến, tác động tiêu cực đến môi trường, sinh thái, làm giảm sút đa dạng
gen, tình trạng lãng phí nguồn tài ngun cịn phổ biến, do đó, có thể nói,
q trình phát triển sản xuất ngư - nông - lâm nghiệp ở Cà Mau là chưa thật
sự bền vững.



3
Vì vậy, vấn đề phát triển nơng nghiệp bền vững ở tỉnh Cà Mau hiện nay
không chỉ là vấn đề lớn đặt ra đối với địa phương mà còn là vấn đề lớn của toàn
xã hội. Việc nghiên cứu vấn đề phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Cà Mau
nhằm góp phần cùng với địa phương tìm ra hướng giải quyết cho vấn đề này là
nội dung có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Phát triển nông
nghiệp bền vững ở tỉnh Cà Mau” làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Kinh
tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Vấn đề nơng nghiệp, nơng thơn, nơng dân có vai trò đặc biệt trong
nền kinh tế quốc dân, nên được Đảng, Nhà nước, các ban, ngành, địa phương
rất quan tâm. Những năm qua, có nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và đã
cho ra đời nhiều cơng trình có liên quan đến nội dung nêu trên.
Về chủ trương, nghị quyết của đảng và Nhà nước.
- Nghị quyết Đại hội Đảng các khóa: VI, VII, VIII, IX, X, XI.
- Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương, khóa IX,
Nxb. CTQG, 2002 “Về đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn thời kỳ 2001 - 2010”.
- Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương, khóa X,
Nxb, CTQG, 2008 “ Về nơng nghiệp, nông dân, nông thôn”.
- Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21
của Việt Nam) của Chính phủ.
- Quyết định số 491/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ “Về việc ban
hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới”.
Đây là những chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà
nước đã ban hành trong những năm gần đây, là cơ sở cho việc hoạch định
chính sách phát triển nơng nghiệp, nơng thơn của cả nước nói chung, của tỉnh
Cà Mau nói riêng. Trước yêu cầu mới, định hướng của Đảng và Nhà nước ta
về chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn đã tạo tiền đề rất quan trọng



4
cho một giai đoạn phát triển tiếp theo, đảm bảo cho quá trình thực hiện CNHHĐH đất nước, phấn đấu đưa nền nông nghiệp nước ta phát triển ngang tầm
với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.
Về các cơng trình nghiên cứu
- “Nơng nghiệp Việt nam trong phát triển bền vững” Nxb. CTQG,
2004 do TS Nguyễn Từ chủ biên.
- “Vượt thách thức, mở thời cơ cho phát triển bền vững” do TS Đinh
Văn Ân và Hoàng Văn Hịa đồng chủ biên. Nxb Tài chính, HN, 2009.
- "Ảnh hưởng của chính sách nơng nghiệp nơng thơn Việt Nam trong
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”. PGS.TS Ngơ Đức Cát, trường Đại
học Kinh tế quốc dân.
- “Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam - những vấn đề đặt ra và giải
pháp”. GS.TS Lê Hữu Nghĩa, năm 2008.
- "Nơng nghiệp và nơng dân Việt Nam phải làm gì để hội nhập kinh tế
quốc tế”, GS.TS Võ Tòng Xuân, năm 2008.
- "Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nông
nghiệp Việt Nam”, TS Nguyễn Từ (chủ biên), Nxb. CTQG, HN, 2008.
Những cơng trình, bài viết của các nhà khoa học được in ấn, đăng tải
trên đã đề cập, nghiên cứu trên nhiều góc độ khác nhau; phân tích một cách
sâu sắc về lý luận và thực tiễn trên các mặt: khái niệm, đặc điểm, tính quy luật
của xu hướng phát triển nơng nghiệp bền vững và những giải pháp để thúc
đẩy nông nghiệp, nông thơn phát triển. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào
nghiên cứu về thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp phát triển nông
nghiệp bền vững ở tỉnh Cà Mau.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển nông nghiệp
bền vững ở tỉnh Cà Mau trên các góc độ: Phát triển kinh tế, ổn định xã hội,

đảm bảo tài nguyên, môi trường.


5
- Đề xuất quan điểm, định hướng, những giải pháp và kiến nghị phát
triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Cà Mau.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ lý luận cơ bản về phát triển bền vững, phát triển nông nghiệp
bền vững và những yếu tố tác động đến phát triển nông nghiệp bền vững.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nơng nghiệp ở tỉnh Cà Mau, giai đoạn
2001 - 2011, tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển nông nghiệp bền
vững ở tỉnh Cà Mau. Nghiên cứu phát triển nông nghiệp và các yếu tố tác
động đến phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Cà Mau, bao gồm: các yếu
tố kinh tế, các yếu tố xã hội và các yếu tố môi trường.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu phát triển nông nghiệp bền vững giới hạn trong
phạm vi tỉnh Cà Mau, giai đoạn 2001 - 2011 và định hướng phát triển đến 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời tiếp
thu những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về phát triển nông nghiệp
bền vững.
- Đồng thời, luận văn dựa trên cơ sở thực tiễn phát triển nông nghiệp
tỉnh Cà Mau thời gian qua: quá trình quy hoạch tổng thể của tỉnh; báo cáo về
tình hình phát triển KT - XH tỉnh Cà Mau, giai đoạn 2001 - 2011; báo cáo về
kết quả thực hiện an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm ở

nông thôn; về quy hoạch đất đai, bảo vệ môi trường và những báo cáo có
liên quan khác.


6
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử Mác-Lênin để nghiên cứu, rút ra các kết luận. Ngồi ra cịn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: Khảo sát, điều tra nghiên cứu
thực tế, phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn…
6. Ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nơng
nghiệp bền vững nói chung. Đồng thời, cung cấp bức tranh tổng thể về thực
trạng, thành tựu, hạn chế… cũng như các quan điểm, giải pháp có tính khả thi
nhằm phát triển nông nghiệp bền vững của tỉnh Cà Mau đến năm 2015 và
định hướng 2020.
- Những số liệu, nhận định và các kết luận của luận văn sẽ là luận cứ
khoa học cho các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan tham mưu của Tỉnh
ủy và UBND tỉnh Cà Mau nghiên cứu, vận dụng góp phần giải quyết vấn đề
nông nghiệp, nông dân và nông thôn đang bức xúc diễn ra ở Cà Mau nói riêng
và cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG

1.1. KHÁI NIỆM, NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ TIÊU CHÍ CỦA PHÁT TRIỂN
NƠNG NGHIỆP BỀN VỮNG

1.1.1. Khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững
1.1.1.1. Khái niệm về nông nghiệp
Trong lịch sử xã hội lồi người, nơng nghiệp giữ vai trị rất quan trọng
và có lịch sử từ rất lâu đời, cùng với việc con người từ bỏ phương thức săn
bắn, hái lượm để tồn tại thì các hoạt động nơng nghiệp theo đó cũng xuất
hiện. Vì thế, nơng nghiệp bao giờ cũng được nói đến như một ngành kinh tế
truyền thống. Nông nghiệp hiểu theo nghĩa hẹp, gồm có ngành trồng trọt, ngành
chăn ni và ngành dịch vụ trong nơng nghiệp. Cịn hiểu theo nghĩa rộng, nơng
nghiệp cịn bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thủy sản [2, tr.26].
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản, giữ vai trò to lớn trong
phát triển kinh tế ở hầu hết các nước, nhất là các nước đang phát triển. Các
nước này do nền kinh tế còn lạc hậu, đại bộ phận dân cư sống bằng nghề
nông, nông nghiệp còn phổ biến và chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nền kinh
tế, cho nên nông nghiệp luôn giữ vai trò quan trọng, vừa là cơ sở đảm bảo cho
đời sống xã hội, vừa là nền tảng cho sự ổn định và phát triển của đất nước.
Ngay cả ở những nước phát triển, mặc dầu tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu
nền kinh tế rất nhỏ, nhưng sản lượng nơng nghiệp và chất lượng hàng hóa
khơng ngừng tăng lên. Trong hiện tại và tương lai các ngành công nghiệp,
thương mại, dịch vụ có thể phát triển ở trình độ cao, KH - KT và công nghệ
tiến bộ không ngừng, song trong mọi hoàn cảnh lương thực, thực phẩm vẫn
mãi giữ vai trò thiết yếu đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Nông nghiệp là một ngành kinh tế truyền thống, song cũng rất đặc thù
vì đây là ngành kinh tế mà đối tượng của nó là đất đai - một loại tư liệu sản


8
xuất đặc biệt. Đồng thời, xét về mặt kinh tế nơng nghiệp khơng chỉ ni sống

con người mà cịn là nhân tố bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội “phi nơng
bất ổn”. Do đó, khi nghiên cứu khái niệm nông nghiệp cần chú ý đến một số
đặc điểm sau:
- Đặc điểm kinh tế của sản xuất nông nghiệp
Thứ nhất, đối tượng của sản xuất nông nghiệp: đất đai, cây trồng, vật
nuôi, con giống… chịu tác động của mơi trường sống để sinh sản và phát
triển. Mỗi lồi, để tồn tại và phát triển có yêu cầu riêng về điều kiện sống với
các quy định nghiêm ngặt của tác động ngoại cảnh theo quy luật riêng của
chúng. Dưới tác động của con người, nhất là khi người sản xuất nông nghiệp
biết vận dụng kinh nghiệm, khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo ra sự biến đổi
về năng suất, chất lượng theo mong muốn. Tuy nhiên, trong thực tế khơng
hồn tồn như thế, do tác động của ngoại cảnh vào sản xuất có khi mang lại
kết quả khơng như mong đợi cho người sản xuất, nhất là trước những biến đổi
khó lường về thời tiết, khí hậu và tác động của con người làm thay đổi môi
trường, gây ra thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai, đất đai trong sản xuất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt
của nền kinh tế. Nếu như trong sản xuất công nghiệp, đất đai chỉ là mặt bằng
xây dựng, là nhà kho, phân xưởng, bến bãi…, thì trong nơng nghiệp, đất đai là
điều kiện, là phương tiện để lao động tác động tạo ra của cải vật chất. Trên
cùng một diện tích đất, với độ phì nhiêu của đất, với tác động của con người,
đất đai có thể tạo ra giá trị gia tăng và nâng cao chất lượng của hàng hóa nơng
sản. Mặt khác đây là loại tư liệu sản xuất mà tự nhiên ban tặng, con người
không sản xuất ra được, con người chỉ có cơng bảo vệ, khai phá, làm màu mỡ
nó. Đương nhiên, trong thực tế, độ phì nhiêu của đất là có giới hạn, cho nên
con người cần biết khai thác đúng mức, tuân thủ quy luật tự nhiên để có thể
làm tăng độ phì nhiêu của đất, đảm bảo khai thác lâu dài mà vẫn mang lại
hiệu quả và năng suất cao.


9

Thứ ba, sản xuất nơng nghiệp ln mang tính thời vụ, đây là quá
trình sản xuất tự nhiên, đồng thời cũng là q trình sản xuất kinh tế trong
nơng nghiệp. Ngày nay, trước sự phát triển của KH - KT, con người đã
biết tìm cách làm thay đổi quá trình sản xuất tự nhiên theo thời vụ, đó là
những ứng dụng nhằm thâm canh, tăng vụ, xen vụ, tăng nhanh vòng quay
của đất, lai tạo giống mới và cải biến những yếu tố đầu vào của chu trình
sản xuất theo mong muốn chủ quan của con người nhằm đạt kết quả cao
nhất, nhanh nhất.
Thứ tư, sản xuất nông nghiệp được phân bố trên phạm vi rộng lớn, vừa
mang đặc điểm chung, vừa mang những đặc điểm khu vực do điều kiện địa lý,
môi trường, tập quán, thổ nhưỡng… Mặt khác, do điều kiện tự nhiên phân bổ
không đều giữa các vùng, miền và có sự khác nhau về trình độ sản xuất, điều
kiện canh tác cho nên sản xuất mang tính khu vực. Vì thế, trong quản lý cần
thiết phải có sự điều chỉnh, quy hoạch, phân bổ các nguồn lực để đảm bảo
một nền nơng nghiệp phát triển tồn diện và đồng bộ [13, tr.51-52].
- Đặc điểm xã hội của sản xuất nông nghiệp
Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp mang tính cộng đồng và tính tự quản.
Từ các nền nơng nghiệp của các quốc gia trên thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng cho thấy yếu tố xã hội trong sản xuất nơng nghiệp biểu
hiện tính cộng đồng cao, tính tự quản và khu biệt được thể hiện rõ nét. Đối
với nước ta, đó là sự cố kết mang tính cộng đồng về mặt dân cư, lãnh thổ
làng, xã nơng thơn, là một cộng đồng về văn hóa - xã hội với các thiết chế,
phong tục, tập quán chặt chẽ, với các giá trị và chuẩn mực chung trong sinh
hoạt cộng đồng. Dân cư - lãnh thổ làng xã ở Việt Nam, xét cho cùng đó là một
tổ chức hành chính nhà nước với tính tự quản cao, với một bộ máy quản lý
hành chính theo quy định của Nhà nước, đồng thời có cả thiết chế và hương
ước nhất định.


10

Thứ hai, ý thức xã hội xuất phát từ nền sản xuất nơng nghiệp nhỏ,
mang tính tự cung, tự cấp, thích ứng với điều kiện địa lý tự nhiên là đặc điểm
xã hội nổi bật trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta.
Quy mơ, hình thức sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp nước hiện nay
chủ yếu thông qua hộ gia đình. Theo đó, đất đai bị phân chia manh mún, tổ
chức sản xuất và phân công lao động theo nơng hộ, những hộ gia đình có
nhiều đất thì th mướn lao động từ các hộ thiếu đất hoặc không có đất canh
tác. Một bộ phận khơng nhỏ nơng dân chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền
thống, tập quán, thói quen, vùng, miền để tiến hành canh tác nông nghiệp. Do
năng suất thấp cùng với bão, lũ thường xuyên nên đời sống địi hỏi phải tiết
kiệm “tích cốc phịng cơ” và tiết kiệm trở thành một phạm trù đạo đức, một
cách thức để duy trì và ổn định đời sống cư dân.
Mặt khác, trong nơng nghiệp, thì lúa gạo là nền tảng, vừa đảm bảo đời
sống xã hội, vừa tạo cơ sở cho ngành nghề khác phát triển. Đã từ lâu đời, nhu
cầu sử dụng lúa gạo là tập quán tiêu dùng của đại bộ phận dân cư, sản xuất lúa
gạo đã trở thành phương thức sản xuất và sinh sống, có ý nghĩa sinh tồn, thành
tư tưởng, tình cảm, ý thức và khát vọng về sự giàu có, sung túc của cư dân.
Sau nữa, do trình độ sản xuất còn lạc hậu, nên phần lớn các hoạt động
sản xuất, sinh hoạt của dân cư đều lệ thuộc vào tự nhiên để sinh tồn và phát
triển. Qua đó, con người thích ứng và ứng phó với những tác động bất lợi của
tự nhiên đảm bảo cho cuộc sống hài hòa. Nhờ có tri thức truyền thống và kinh
nghiệm tích lũy được, con người đã biết áp dụng vào sản xuất và đời sống sao
cho thuận lợi, q trình đó tạo thành phong tục, tập quán, văn hóa, tư tưởng,
đạo đức, tín ngưỡng, là tình cảm của mỗi người với q hương, cộng đồng.
Song, do xuất phát từ nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, phụ thuộc nhiều vào tự
nhiên, thường xuyên bị bão lũ…Vì thế tư tưởng tư hữu nhỏ, sản xuất nhỏ để
lại dấu ấn đậm nét trong tư tưởng, tình cảm của người nơng dân và đây yếu tố
quan trọng cần phải tính đến khi phát triển nơng nghiệp bền vững



11
1.1.1.2. Khái niệm phát triển bền vững
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi
trường từ những năm đầu của thập niên 70, của thế kỷ XX. Đến năm 1980
trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn
Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn
giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh
tế mà cịn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến
môi trường sinh thái học” [2, tr.44].
Đến năm 1987, nhờ Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our
Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay
là Ủy ban Brundtland) phát triển bền vững được định nghĩa: " là sự phát triển
có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại
đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai...”.
Sau đó, năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia Hội nghị về
Môi trường và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái niệm này, và
đã gửi đi một thông điệp rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính phủ về sự cấp
bách trong việc đẩy mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo
vệ môi trường.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững
(còn gọi là Hội nghị Rio +10 hay Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg) nhóm
họp tại Johannesburg, Cộng hịa Nam Phi với sự tham gia của các nhà lãnh
đạo cũng như các chuyên gia về KT-XH và môi trường của gần 200 quốc gia
trên thế giới. Hội nghị đã xác định phát triển bền vững là quá trình phát triển
có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển: Phát
triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế); phát triển xã hội (nhất là thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo
vệ mơi trường (nhất là xử lý, khắc phục tình trạng ơ nhiễm, phục hồi và cải
thiện mơi trường, phịng chống cháy và chặt phá rừng, khai thác hợp lý và sử
dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).



12
Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là tăng trưởng kinh tế ổn
định, thực hiện tốt về tiến bộ và công bằng xã hội, khai thác hợp lý, sử dụng
tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường
sống. Như vậy, phát triển bền vững là sự phát triển trong mối liên hệ gắn kết
chặt chẽ thực hiện 3 nhóm mục tiêu lớn: Mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội,
mục tiêu mơi trường.
Trên ý nghĩa đó, Phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự tăng
trưởng nhanh, ổn định, có chất lượng và hiệu quả, với cơ cấu kinh tế hợp lý,
đồng bộ, đáp ứng được yêu cầu phát triển mới và nguyện vọng của nhân
dân. Kinh tế đóng vai trị khơng thể thiếu trong phát triển bền vững. Nó địi
hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế, trong đó cơ hội để tiếp xúc với
những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng
những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ
một cách bình đẳng. Khẳng định sự tồn tại cũng như phát triển của bất cứ
ngành kinh doanh, sản xuất nào cũng được dựa trên những nguyên tắc, đạo
lý cơ bản. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho
tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong
một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những
quyền cơ bản của con người.
Phát triển bền vững về xã hội là đạt được kết quả cao trong tiến bộ và
cơng bằng xã hội. Mọi người được bình đẳng về chăm sóc sức khỏe, học
hành, lao động, việc làm, thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Cần tạo
điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả
mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp
nhận được.
Phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết
kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con

người nhằm mục đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một


13
giới hạn nhất định cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con
người và các sinh vật sống trên trái đất.
1.1.1.3. Khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững
Hiện nay có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về phát triển nông
nghiệp bền vững. Theo FAO đưa ra khái niệm về phát triển nông nghiệp bền
vững (1992) như sau:
Phát triển nông nghiệp bền vững là sự quản lý và bảo tồn sự thay
đổi về tổ chức và kỹ thuật nhằm đảm bảo sự thỏa mãn ngày càng
tăng của con người cả trong hiện tại và mai sau, sẽ không làm giảm
cấp tài nguyên phù hợp với kỹ thuật và công nghệ. Sự phát triển
như vậy của nền nông nghiệp sẽ không làm tổn hại đến môi trường,
không làm giảm cấp tài nguyên phù hợp với kỹ thuật và cơng nghệ,
có hiệu quả kinh tế được xã hội chấp nhận [35, tr.38].
Trên ý nghĩa đó, nội hàm của khái niệm phát triển nông nghiệp bền
vững được thể hiện ở ba khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường.
Thứ nhất, về nội dung kinh tế. Phát triển nơng nghiệp bền vững thể
hiện ở chỗ: duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn ngành cao, toàn diện,
ổn định, trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành theo hướng tích
cực, tiến bộ; huy động tối đa các nguồn lực, chọn lựa mơ hình tăng trưởng
thích hợp cho năng suất và hiệu quả tốt, phù hợp với điều kiện của mỗi quốc
gia, vùng kinh tế và từng địa phương.
Thứ hai, về nội dung xã hội. Phát triển nông nghiệp bền vững thể hiện
qua phát triển kinh tế gắn với ổn định, công bằng và tiến bộ về mặt xã hội.
Thực hiện có hiệu quả cơng tác xóa đói giảm nghèo, các chương trình phúc
lợi, an sinh xã hội được đảm bảo, chuyển đổi ngành nghề, tạo việc làm, tăng
thu nhập cho người dân; thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo dục, văn

hóa, y tế, môi trường sống được cải thiện, các giá trị đời sống tinh thần ngày
được nâng cao hơn.


14
Thứ ba, về nội dung môi trường. Phát triển nông nghiệp bền vững là
khả năng ngăn chặn tình trạng ơ nhiễm mơi trường, suy thối đất đai, tài
ngun, thiên nhiên, môi trường nước sinh hoạt và nước phục vụ cho sản
xuất; chống suy thối rừng, bảo vệ mơi trường biển, ven biển, bảo vệ đa dạng
sinh học, phòng tránh thiên tai, ứng phó kịp thời và có hiệu quả với biến đổi
khí hậu và nước biển dâng.
Có thể thấy, sự phát triển nông nghiệp bền vững vừa đảm bảo thỏa mãn
nhu cầu hiện tại ngày càng tăng về sản phẩm nông nghiệp vừa không giảm
khả năng đáp ứng những nhu cầu đó trong tương lai. Cạnh đó, việc tăng năng
suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp phải đảm bảo việc giữ gìn tài nguyên
thiên nhiên, phát triển theo hướng thân thiện với môi trường, thực hiện chiến
lược kinh tế xanh [35, tr.88-89].
1.1.2. Những nhân tố tác động đến phát triển nông
nghiệp bền vững
1.1.2.1. Các nhân tố địa lý tự nhiên
Các nhân tố địa lý tự nhiên là tiền đề cơ bản để phát triển và phân bố
nông nghiệp. Mỗi loại cây trồng, vật ni chỉ có thể sinh trưởng và phát triển
trong những điều kiện tự nhiên nhất định. Các điều kiện tự nhiên quan trọng
hàng đầu là đất, nước và khí hậu. Chúng sẽ quyết định khả năng ni trồng
các loại cây, con cụ thể trên từng lãnh thổ, khả năng áp dụng các quy trình sản
xuất nơng nghiệp, đồng thời có ảnh hưởng lớn đến năng suất cây trồng, vật
ni, theo đó:
- Đất đai là cơ sở đầu tiên, quan trọng nhất để tiến hành các hoạt động
sản xuất nơng nghiệp (trồng trọt, chăn ni..)
Quỹ đất, tính chất đất và độ phì của đất có ảnh hưởng đến quy mô, cơ

cấu, năng suất và sự phân bố cây trồng, vật nuôi. Đất nào, cây ấy. Kinh
nghiệm dân gian đã chỉ rõ vai trò của đất đối với sự phát triển và phân bố
nông nghiệp.


15
Nguồn tài nguyên đất nông nghiệp rất hạn chế, chỉ chiếm một diện tích
nhỏ (khoảng 12% diện tích so với diện tích đất tự nhiên thế giới), trong khi số
dân vẫn khơng ngừng tăng lên. Tuy diện tích đất hoang hố cịn nhiều, nhưng
việc khai hoang, mở rộng diện tích đất nơng nghiệp rất khó khăn, địi hỏi
nhiều cơng sức và tiền của. Đó là chưa kể đến việc mất đất do nhiều ngun
nhân như xói mịn, rửa trơi, nhiễm mặn và chuyển đổi mục đích sử dụng. Vì
vậy, con người cần phải sử dụng hợp lý diện tích đất nơng nghiệp hiện có và
bảo vệ độ phì nhiêu của đất.
- Khí hậu và nguồn nước có ảnh hưởng mạnh mẽ tới việc xác định cơ
cấu cây trồng, thời vụ, khả năng xen canh, tăng vụ và hiệu quả sản xuất nông
nghiệp ở từng vùng, từng địa phương.
Sự phân chia các đới trồng trọt chính trên thế giới như nhiệt đới, cận
nhiệt, ôn đới và cận cực liên quan tới sự phân đới khí hậu. Sự phân mùa của
khí hậu quy định tính mùa vụ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Các điều kiện thời tiết có tác dụng kìm hãm hay thúc đẩy sự phát sinh
và lan tràn dịch bệnh cho vật ni, các sâu bệnh có hại cho cây trồng. Những
tai biến thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán, bão… gây thiệt hại nghiêm trọng cho
sản xuất nơng nghiệp. Chính điều này làm cho ngành nơng nghiệp có tính bấp
bênh, khơng ổn định.
- Sinh vật với các loài cây con, đồng cỏ và nguồn thức ăn tự nhiên là cơ
sở để thuần dưỡng, tạo nên các giống cây trồng và vật nuôi, cơ sở thức ăn tự
nhiên cho gia súc và tạo điều kiện cho phát triển chăn nuôi.
1.1.2.2. Các nhân tố kinh tế - xã hội
Các nhân tố KT - XH có ảnh hưởng quan trọng tới phát triển và phân

bố nông nghiệp, cụ thể:
- Dân cư và nguồn lao động ảnh hưởng tới hoạt động nông nghiệp ở
hai mặt: vừa là lực lượng sản xuất trực tiếp vừa là nguồn tiêu thụ các nông
sản. Các cây trồng và vật ni cần nhiều cơng chăm sóc đều phải phân bố ở
những nơi đơng dân, có nhiều lao động. Đồng thời, truyền thống sản xuất, tập


16
quán ăn uống của các dân tộc có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phân bố cây
trồng, vật nuôi.
- Các quan hệ sở hữu ruộng đất có ảnh hưởng rất lớn tới con đường
phát triển nơng nghiệp và các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp. Việc
thay đổi quan hệ sở hữu ruộng đất ở mỗi quốc gia thường gây ra những tác
động rất lớn tới phát triển nông nghiệp.
- Tiến bộ KH - KT thể hiện trước tiên và tập trung ở các biện pháp cơ
giới hoá (sử dụng máy móc trong các khâu làm đất, chăm sóc và thu hoạch),
thuỷ lợi hoá (xây dựng hệ thống kênh tưới tiêu, hoặc áp dụng tưới tiêu theo
khoa học), hóa học hoá (sử dụng rộng rãi phân hoá học, thuốc trừ sâu, diệt cỏ,
chất kích thích cây trồng…), điện khí hố (sử dụng điện trong nơng nghiệp),
thực hiện cuộc cách mạng xanh (tạo ra và sử dụng các giống mới có năng suất
cao) và áp dụng cơng nghệ sinh học (lai giống, biến đổi gen, cấy mô…) đã
giúp con người hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực của điều kiện tự
nhiên, chủ động hơn trong hoạt động nông nghiệp, nâng cao năng suất, sản
lượng và chất lượng cây trồng, vật ni
- Thị trường có tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp thông qua
sự vận động của giá cả nơng sản. Thị trường cịn có tác dụng điều tiết đối với
sự hình thành và phát triển các vùng chun canh, chun mơn hố nơng
nghiệp. Xung quanh các thành phố, các trung tâm công nghiệp lớn ở nhiều
nước trên thế giới đều hình thành vành đai nơng nghiệp ngoại thành với hướng
chun mơn hố sản xuất rau, thịt, sữa, trứng cung cấp cho nhu cầu của dân cư.

Ngoài ra, đường lối chính sách phát triển kinh tế nói chung, phát triển
nơng nghiệp nói riêng cũng có ảnh hưởng lớn đến sản xuất, phát triển nông
nghiệp bền vững [53, tr.105].
1.2. VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG THEO VĂN KIỆN
CỦA ĐẢNG

1.2.1. Quan điểm của Đảng ta về phát triển nông nghiệp
bền vững


17
Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ ý nghĩa to lớn và sự cần thiết
phát triển nông nghiệp bền vững, nhất là khi đất nước bước vào thời kỳ đổi
mới, mở đầu là Đại hội Đảng lần VI, 1986.
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước cực kỳ khó khăn, rơi xuống đáy
khủng hoảng. Đại hội VI của Đảng đặc biệt chú trọng vấn đề nông nghiệp:
Nhiệm vụ đặt ra là phải đạt cho được mục tiêu bảo đảm nhu cầu
ăn của toàn xã hội và bước đầu có dự trữ. Vấn đề lương thực phải
được giải quyết một cách toàn diện, từ sản xuất, chế biến đến
phân phối và tiêu dùng, gắn việc bố trí cơ cấu lương thực với việc
cải tiến cơ cấu và nâng cao chất lượng bữa ăn phù hợp với đặc
điểm từng vùng [18, tr.74].
Sau đó, Đại hội VII của Đảng đã đề cập đến nội hàm của phát triển
nông nghiệp bền vững một cách rõ ràng hơn: “Phát triển nông - lâm - ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội” [19, tr.63].
Trên nền tảng tư tưởng về phát triển nông nghiệp bền vững của Đại hội
VII, Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ phát triển nông nghiệp, theo hướng: “Phát
triển nơng nghiệp tồn diện hướng vào bảo đảm an tồn lương thực quốc gia
trong mọi tình huống, tăng nhanh nguồn thực phẩm và rau quả, cải thiện chất

lượng bữa ăn, giảm suy dinh dưỡng. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh
tế nơng thơn có hiệu quả” [20, tr.174].
Đến Đại hội IX của Đảng tập trung nhấn mạnh đến q trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp và đã đặt vai trò của KH - CN ở tầm chiến
lược trong q trình phát triển:
Chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh phù
hợp với tiềm năng và lợi thế về khí hậu, đất đai và lao động của
từng vùng, từng địa phương. Ứng dụng nhanh chóng thành tựu


18
khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhất là ứng dụng cơng nghệ
sinh học [21, tr.276].
Tổng kết tồn diện 20 năm đổi mới đất nước, Đại hội X của Đảng đã
xác định vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thơn mang tính chiến lược trong
sự phát triển kinh tế, như vậy trong thực tế nội hàm của sự phát triển nông
nghiệp bền vững đã được Đảng khẳng định:
Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và
nơng thơn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải ln ln coi
trọng đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn hướng tới xây dựng một nền nơng nghiệp hàng hóa lớn, đa
dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả
năng cạnh tranh cao; tạo điều kiện từng bước hình thành nền nông
nghiệp sạch [23, tr.191].
Tại Đại hội XI, một lần nữa Đảng ta chú trọng đến việc phát triển nền
nơng nghiệp nhiệt đới và giải quyết hồn thiện một bước vấn đề đất đai:
Phát triển nơng nghiệp tồn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền
vững, phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới. Trên cơ sở tích
tụ đất đai, đẩy mạnh cơ giới hóa, áp dụng công nghệ hiện đại… Thực

hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ sự liên kết “bốn nhà” (nhà nông, nhà
khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước) và phát triển công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn [25, tr.196-197].
Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn qua các kỳ Đại hội của
Đảng đã được giải quyết một cách đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Có thể thấy, q trình đó có mối liên hệ mật thiết, trong đó
nơng dân là chủ thể của sự phát triển, xây dựng nông thôn mới, cịn quy hoạch
nơng nghiệp là khâu căn bản và hiện đại hóa nơng nghiệp là then chốt.
Tóm lại, quan điểm của Đảng ta qua các kỳ Đại hội về phát triển nông
nghiệp bền vững được thể hiện qua tư tưởng lớn sau:


19
Một là, phát triển nông nghiệp bền vững là nhiệm vụ hàng đầu, nên
cần phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ, gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ
đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn.
Quan điểm này khẳng định vai trị quan trọng và có ý nghĩa quyết định của
nơng nghiệp trong tiến trình phát triển đất nước và xác định rõ một nhiệm vụ
cơ bản của q trình phát triển cơng nghiệp, dịch vụ là phải hướng vào phục
vụ phát triển nơng nghiệp. Vì thế, phải ưu tiên đầu tư thích đáng cho phát
triển nông nghiệp. Đây là nhu cầu khách quan, tất yếu khi nền kinh tế nước ta
cơ bản là nước nông nghiệp, phần lớn cư dân sống ở nông thôn [22, tr.94]
Hai là, Đảng ta xác định phát triển nông nghiệp bền vững là ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nguồn lực con người; ứng dụng rộng
rãi thành tựu KH - CN; phát triển lợi thế kinh tế vùng và bảo vệ môi trường
sinh thái.
Vấn đề lớn nhất đang đặt ra để phát triển nông nghiệp bền vững là cần phải
có một lực lượng sản xuất phát triển. Việc ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất,
chú trọng phát triển nguồn lực con người, ứng dụng rộng rãi KH - CN, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa quy mơ lớn trở thành một yêu

cầu khách quan, một nhiệm vụ trung tâm để đảm bảo phát triển nông nghiệp bền
vững. Tất nhiên, để nông nghiệp phát triển bền vững cần phải bảo vệ và cải thiện
môi trường sinh thái, phát triển kinh tế gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, vừa
chăm lo hiện tại nhưng bảo đảm cho phát triển bền vững lâu dài [22, tr.95].
Ba là, phát triển nông nghiệp bền vững dựa vào nội lực là chính, đồng
thời tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài, phát huy tiềm năng của các
thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế Nhà nước giữ vai trị chủ đạo, cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc; phát triển mạnh mẽ
kinh tế hộ sản xuất hàng hóa các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở nông thôn. Mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, lấy nội lực là


20
chính, nhưng phải tranh thủ tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ
bên ngồi [24, tr.123-124].
Bốn là, phát triển nông nghiệp bền vững là kết hợp chặt chẽ các vấn đề
kinh tế và xã hội, giải quyết tốt việc làm, xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội
và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của người dân
nơng thơn, nhất là đồng bào các dân tộc, vùng sâu, giữ gìn và phát huy truyền
thống văn hóa và thuần phong mỹ tục. Quan điểm này xuất phát từ đòi hỏi
bức xúc của xã hội nông thôn hiện nay cần phải được quan tâm giải quyết.
Hiện nay lao động nông thôn chiếm hơn 1/3 dân số cả nước, hàng năm được
bổ sung gần một triệu người, nhưng tỷ lệ thời gian sử dụng lao động trung
bình khoảng 75%; phần đơng người nghèo tập trung sống ở nông thôn, điều
kiện để được hưởng các dịch vụ chăm sóc y tế, giáo dục, hưởng thụ văn hóa ở
mức thấp. Mặt khác, từ yêu cầu của xây dựng, phát triển nông nghiệp bền
vững phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với việc giải quyết các vấn
đề xã hội nhằm đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới [24, tr.124].
Năm là, phát triển nông nghiệp bền vững phải đảm bảo tiềm lực quốc
phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân, thể hiện trong chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch, dự án phát triển KT - XH của đất nước, của các ngành và từng
địa phương. Đầu tư phát triển KT - XH, ổn định dân cư các vùng xung yếu, vùng
biên giới, biển đảo, cửa khẩu, những nơi có chiến lược quốc phòng. Kết hợp chặt
chẽ giữa kinh tế với quốc phòng và an ninh, giữa quốc phòng và an ninh với
kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển KT - XH, kết hợp
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [24, tr.125].
1.2.2. Quan điểm của Đảng ta về mục tiêu phát triển
nông nghiệp bền vững
1.2.2.1. Mục tiêu lâu dài
Không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của cư dân nông
thôn một cách hài hịa giữa các vùng. Nơng dân được đào tạo có trình độ sản


21
xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị,
đóng vai trị làm chủ của nông thôn mới.
Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại,
bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả
năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước
mắt và lâu dài.
Xây dựng nơng thơn mới có kết cấu hạ tầng KT - XH hiện đại; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn
định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, mơi trường sinh
thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng
được tăng cường.
Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nơng dân - trí
thức vững mạnh, tạo nền tảng KT - XH và chính trị vững chắc cho sự nghiệp
CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN [24, tr.125].
1.2.2.2. Mục tiêu trước mắt

Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông
thôn và nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn, nhất là ở các vùng cịn
nhiều khó khăn.
Tăng cường nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ KH - CN, tạo bước đột
phá trong đào tạo nguồn nhân lực.
Tăng cường công tác XĐGN, đặc biệt là ở các huyện nghèo, xã nghèo,
tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở
nơng thơn.
Tùy vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, tình hình KT - XH mỗi
thời điểm mà xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng nông
-lâm - thủy sản; tốc độ tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; lao


22
động nơng nghiệp, tạo việc làm, XĐGN, xóa nhà tạm, độ che phủ rừng… cho
thích hợp [24, tr.28].
1.2.3. Quan điểm của Đảng ta về vai trị của phát triển nơng nghiệp
bền vững
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta ln đánh giá vai trị quan
trọng và to lớn của nông nghiệp cũng như phát triển nông nghiệp bền vững,
theo đó Đảng ta xác định:
Thứ nhất, nền nơng nghiệp phát triển bền vững sẽ nền tảng cung cấp
lương thực, thực phẩm ổn định và phát triển đời sống xã hội.
Từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986, nông
nghiệp đã được xác định là mặt trận kinh tế hàng đầu và mặc dù, lúc đó Đảng
ta chưa đề cập đến khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững. Song ý tưởng
của nội hàm này đã được thể hiện ở chủ trương thực hiện 03 chương trình
mục tiêu: lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, Đảng ta
nhấn mạnh:

Chúng ta tập trung cho mục tiêu số một là sản xuất lương thực và
thực phẩm, đồng thời ra sức mở mang cây công nghiệp, nhất là
cây công nghiệp ngắn ngày, đi liền với xây dựng đồng bộ công
nghiệp chế biến, phát triển mạnh các ngành nghề, gắn lao động
với đất đai, rừng, biển, nhằm khai thác đến mức cao nhất những
tiềm năng đó [18, tr.132].
Nhờ vậy, nơng nghiệp và nơng thơn Việt Nam đã có những bước tiến
mạnh mẽ. Nông nghiệp không chỉ đảm bảo đủ cung cấp lương thực thực
phẩm cho người dân trong nước mà cịn xuất khẩu số lượng lớn nơng, lâm,
thủy sản. Từ chỗ thiếu đói và khủng hoảng lương thực, Việt Nam đã vươn lên
đủ ăn và trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo.
Thứ hai, phát triển nông nghiệp bền vững là nguồn cung cấp da dạng
nguyên liệu cho sự phát triển công nghiệp.


23
Nguyên liệu từ nông nghiệp là đầu vào quan trọng cho sự phát triển của
các ngành công nghiệp chế biến nơng sản cho giai đoạn đầu của q trình
CNH ở nước ta. Với đặc điểm là một nước phát triển đi lên từ nông nghiệp là
chủ yếu, Đảng ta sớm thấy rõ vai trị của nơng nghiệp khơng chỉ đảm bảo cho
an ninh lương thực quốc gia mà còn là ngun liệu chủ yếu để tiến hành cơng
nghiệp hóa nơng nghiệp. “Mở rộng diện tích, áp dụng cơng nghệ cao để tăng
năng suất, chất lượng các loại rau, màu, cây ăn quả, cây cơng nghiệp có lợi
thế. Phát triển nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán
công nghiệp với công nghệ tiên tiến” [25, tr.196].
Thứ ba, phát triển nông nghiệp bền vững làm tăng giá trị xuất khẩu,
cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Là một nước đang phát triển như nước ta, có nhu cầu rất lớn về ngoại tệ
để nhập khẩu máy móc, vật tư, thiết bị, nguyên liệu mà chưa sản xuất được
trong nước. Một phần nhu cầu ngoại tệ đó, có thể có được thơng qua xuất

khẩu nông sản. Nếu nông nghiệp phát triển bền vững - theo ý nghĩa đa dạng
hóa cơ cấu cây trồng vật ni, thâm canh, tăng năng suất… thì Nơng sản sẽ là
nguồn hàng hóa đa dạng, phong phú, dồi dào để phát triển ngành ngoại
thương. Quá trình phát triển của nước ta thời gian qua, cho thấy, vốn tích lũy
từ những ngành nơng nghiệp tạo ra hàng hóa xuất khẩu có vai trị rất lớn để
thúc đẩy tồn bộ nền kinh tế phát triển.
Đẩy mạnh xuất khẩu, chủ động về nhập khẩu, kiềm chế và thu hẹp
dần nhập siêu. Tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm chế biến
có giá trị tăng thêm cao, giàu hàm lượng cơng nghệ, có sức cạnh
tranh, tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực mới, hạn chế và tiến
tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản chưa qua
chế biến [23, tr.205].
Mặt khác, Nông nghiệp và nông thôn là thị trường rộng lớn và chủ yếu
của sản phẩm trong nước. Việc tiêu dùng của người nông dân và dân cư nơng
thơn đối với hàng hóa cơng nghiệp, hàng hóa tiêu dùng (Vải, đồ gỗ, vật dụng


24
gia đình, vật liệu xây dựng), hàng hóa tư liệu sản xuất (phân bón, thuốc trừ
sâu, nơng cụ, trang thiết bị, dụng cụ máy móc) là điển hình cho sự đóng góp
về mặt thị trường của ngành nơng nghiệp đối với q trình phát triển kinh tế.
Sự đóng góp này cũng bao gồm cả việc bán lương thực, thực phẩm và nông
sản nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác. Đảng ta chủ trương: “Phát triển
nơng nghiệp tồn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, phát huy lợi
thế của nền nông nghiệp nhiệt đới” [25, tr.195].
1.2.4. Quan điểm của Đảng ta về nội dung của phát triển nông
nghiệp bền vững
1.2.4.1. Phát triển nông nghiệp bền vững dựa trên cơ sở phát triển
lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
- Về chủ trương: Bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, nâng cao hiệu

quả sản xuất lúa gạo trên cơ sở hình thành các vùng sản xuất lúa chất lượng
cao, giá thành hạ, gắn với chế biến và tiêu thụ. Phát triển sản xuất và chế biến
các loại nơng sản xuất khẩu có lợi thế của từng vùng, với qui mô hợp lý; tập
trung nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh trên thị trường
trong nước và quốc tế. Đối với những mặt hàng đang cịn nhập, như: ngơ, đậu
tương, thuốc lá, dầu ăn, sữa, bột giấy… Nhưng nước ta có điều kiện sản xuất
có hiệu quả cần bố trí sản xuất hợp lý ở các vùng để từng bước thay thế nhập
khẩu [25, tr.196].
- Đối với cây lương thực: Xây dựng các vùng sản xuất lúa gạo ở
ĐBSCL và đồng bằng Sông Hồng; vùng ngô ở Đông Nam bộ, Tây nguyên,
Trung du, Miền núi phía bắc, nhằm tạo ra vùng sản xuất lương thực tập trung
có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao trên cơ sở áp dụng
những thành tựu mới của KH - CN, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ
bảo quản, công nghiệp chế biến và nhu cầu thị trường. Đối với một số địa
phương miền núi dân cư phân tán, sản xuất hàng hóa chưa phát triển, kết cấu
hạ tầng yếu kém, điều kiện vận chuyển, cung ứng lương thực gặp nhiều khó


25
khăn nhưng có điều kiện sản xuất lương thực thì Nhà nước ưu tiên đầu tư thủy
lợi nhỏ, hỗ trợ giống, kỹ thuật, bảo đảm ổn định đời sống [21, tr.277].
- Đối với cây cơng nghiệp, rau quả: Hình thành các vùng sản xuất các
loại cây công nghiệp, rau, hoa quả; ứng dụng công nghệ sinh học trong việc
chọn, tạo, nhân giống kết hợp với nhập khẩu giống và công nghệ để sản xuất
giống có năng suất, chất lượng cao; thực hiện cơ giới hóa các khâu sản xuất,
thu hoạch, bảo quản, trước hết là các khâu lao động nặng nhọc, độc hại, thời
vụ khẩn trương, phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến gắn với vùng
nguyên liệu [21, tr.278].
- Đối với ngành chăn ni: Khuyến khích phát triển chăn ni theo
hướng cơng nghiệp, chủ yếu theo hình thức trang trại với quy mơ phù hợp,

hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, an tồn dịch bệnh. Nâng cấp
và đầu tư xây dựng mới các cơ sở giết mổ, chế biến sản phẩm chăn ni có
trang bị hiện đại đạt yêu cầu chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, phục vụ
nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Nhà nước ưu tiên đầu tư và có chính sách
khuyến khích áp dụng cơng nghệ hiện đại trong sản xuất giống, thức ăn công
nghiệp, thú y và kiểm tra chất lượng sản phẩm, đảm bảo chủ động khống chế
dịch bệnh trên phạm vi tồn quốc. Cơng nghệ giết mổ, chế biến thịt, sữa bảo
đảm yêu cầu an toàn thực phẩm [23, tr.191].
- Đối với ngành lâm nghiệp: Tập trung bảo vệ vốn rừng hiện có và làm
giàu rừng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Tiến hành quy hoạch để
hình thành các vùng nguyên liệu gắn với các cơ sở chế biến; ứng dụng công
nghệ nuôi cấy mô, hom và những phương pháp nhân giống tiên tiến khác;
cung ứng đủ giống có chất lượng cho trồng rừng. Có chính sách để người
trồng, chăm sóc rừng bảo đảm cuộc sống và làm giàu từ nghề rừng; khuyến
khích các hộ nơng dân, các lâm trường mua máy móc thiết bị, thực hiện cơ
giới hóa các khâu trồng, khai thác, vận chuyển và chế biến gỗ, lâm sản; phát


×