Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế biển ở huyện kiên hải, tỉnh kiên giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.72 KB, 112 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta có vùng biển đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần
diện tích đất liền, bờ biển dài 3,260 km, khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ với
tổng diện tích 1.700km 2. Về đơn vị hành chính cả nước có 11 huyện đảo.
Biển có vị trí rất quan trọng, gắn bó mật thiết và ảnh hưởng to lớn đến sự
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phịng an ninh, bảo vệ mơi trường
của nước ta. Sau 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, việc khai
thác nguồn lực từ kinh tế biển đã được phát triển với tốc độ khá nhanh, sản
lượng tăng đáng kể, góp phần quan trọng vào tổng sản phẩm quốc dân và
tăng trưởng kinh tế.
Ngày 22-9-1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Từ
những quan điểm cơ bản của chỉ thị này, cùng với việc tiếp tục nhấn mạnh
chủ trương lớn của Đảng ta là xây dựng Việt Nam trở thành một nước mạnh
về biển, phát triển kinh tế xã hội vùng biển, hải đảo, ven biển phải gắn kết với
yêu cầu bảo vệ đất nước, có thể thấy rõ hơn chủ trương rất quan trọng là cần
đặt kinh tế biển trong tổng thể kinh tế cả nước, trong quan hệ tương tác với
các nước và trong xu thế hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Để tiếp tục phát huy các tiềm năng của biển trong thế kỷ XXI, Hội nghị
lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã thông qua Nghị quyết số
09-NQ/TW, ngày 09-2-2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”.
Để thực hiện Chiến lược biển thành công, điều hết sức quan trọng là
phải có NNL có chun mơn kỹ thuật. Có thể nói việc phát triển nguồn nhân
lực (NNL) đủ về số lượng và có chất lượng cao là yếu tố quyết định trong
việc thực hiện các quan điểm mục tiêu giải pháp chiến lược nhất là trong điều


2


kiện nước ta đã gia nhập WTO thì điều đó càng trở nên có ý nghĩa đặc biệt và
hết sức cấp thiết.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chương trình mang tính chất
chiến lược về đầu tư và phát triển con người của riêng mình hướng theo một
mục tiêu nhất định. Trong chiến lược phát triển con người của nước ta, chúng
ta coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự thành bại
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia là tuỳ thuộc vào
những quyết sách về đào tạo, sử dụng và phát huy nhân tố con người.
Trước đây, các nhân tố sản xuất truyền thống như số lượng đất đai, lao
động, vốn được coi là quan trọng nhất, song ngày nay đã có sự thay đổi thứ tự
ưu tiên. Chính chất lượng NNL mới là yếu tố cơ bản nhất của mọi quá trình,
bởi lẽ những yếu tố khác người ta vẫn có thể có được nếu có tri thức, song tri
thức chỉ xuất hiện thơng qua q trình giáo dục, đào tạo và hoạt động thực tế
trong đời sống kinh tế - xã hội; từ chính q trình sản xuất ra sản phẩm để
nuôi sống con người và làm giàu cho xã hội. Vì vậy, để có được tốc độ phát
triển cao, các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm tới việc nâng cao chất
lượng NNL. Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp,
công ty, các sản phẩm chủ yếu là cạnh tranh về tỷ lệ hàm lượng chất xám kết
tinh trong sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, nhờ nâng cao chất lượng NNL.
Do vậy, việc phát triển, nâng cao chất lượng NNL đối với các quốc gia
trên thế giới đã và đang trở thành vấn đề cấp bách có tầm chiến lược, là vấn
đề có tính chất sống cịn trong điều kiện tồn cầu hố kinh tế với trình độ
khoa học và cơng nghệ ngày càng cao và sự lan toả của kinh tế trí thức.
Việt Nam trong quá trình thực hiện Chiến lược biển, cần phải biết phát
huy những lợi thế hiện có. Một trong những điều kiện quan trọng nhất để phát
huy các lợi thế là nâng cao chất lượng NNL.
Huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang là một huyện đảo được thành lập
ngày 12-4-1983, trên cơ sở chia tách từ huyện An Biên cũ thành 2 Huyện An
Biên và Kiên Hải. Với diện tích tự nhiên 38,69 km 2 nếu kể cả mặt biển thì



3
rộng đến 7705 km2, gồm 4 xã, số dân 22.133 người, chủ yếu là người kinh,
dân tộc Khmer và Hoa chiến tỷ lệ nhỏ, khoảng 1%.
Huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang nằm trên vùng biển phía Tây Nam
của Tổ quốc. Kiên Hải có vị trí, địa lý, tiềm năng kinh tế và an ninh quốc
phòng quan trọng, là khu vực có trữ lượng lớn về nguồn lợi hải sản. Huyện có
điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi, song mặt bằng văn hố và trình độ dân
trí thấp, phân bố dân cư và NNL chưa phù hợp với yêu cầu của cơng nghiệp
hố, hiện đại hố và tiến trình thực hiện Chiến lược biển. Khả năng áp dụng
tiến bộ khoa học và cơng nghệ vào sản xuất cịn nhiều hạn chế.
Trong những năm qua, Kiên Hải đã có nhiều chính sách và biện pháp
để đa dạng ngành nghề, phát triển kinh tế. Sự đầu tư về vốn, kỹ thuật, công
nghệ để phát triển kinh tế là cần thiết, nhưng nếu NNL khơng đủ trình độ để
vận hành, sử dụng hết cơng năng của sự đầu tư này thì đến một lúc nào đó đây
chính là lực kiềm hãm sự phát triển kinh tế. Vì vậy, muốn phát triển huyện
đảo theo hướng ổn định, lâu dài, bền vững thì phải coi trọng phát triển NNL.
Đây là yêu cầu thiết yếu đối với sự phát triển kinh tế xã hội của một huyện. Vì
lực lượng lao động trên địa bàn hiện nay vẫn chủ yếu là lao động phổ thông,
thiếu chuyên môn kỹ thuật, thiếu khả năng làm chủ công nghệ mới, tính kỷ
luật của người lao động cịn lỏng lẻo.
Điều này đã được thể hiện trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện Kiên Hải lần thứ VII nhiệm kỳ 2010-2015: “Đời sống của một bộ phận
nhân dân còn nhiều khó khăn, lao động kỹ thuật được đào tạo chuyên môn
nghiệp vụ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lao động xã hội. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng yêu cầu; đội ngũ cán bộ cơ sở chưa đạt chuẩn
cịn nhiều; việc cụ thể hố và chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội còn hạn chế…”. Đây là vấn đề bức xúc địi hỏi các cấp,
các ngành phải rất quan tâm.
Để góp phần vào giải quyết vấn đề này, trong quá trình tiếp thu các tri

thức cao học chuyên ngành Kinh tế chính trị, tơi lựa chọn đề tài: “Nguồn


4
nhân lực trong phát triển kinh tế biển ở huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang”
để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ chun ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề NNL cho phát triển kinh tế biển huyện đảo Kiên Hải chưa có
một cơng trình nào nghiên cứu độc lập. Tuy vậy, cũng có một số cơng trình
nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này, như:
- “ Con người và nguồn lực con người trong phát triển” của Viện
Thông tin Khoa học xã hội (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995). Cơng
trình KHCN cấp Nhà nước KX - 07.
- “ Con người Việt Nam - Mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh
tế - xã hội” năm 1995, “ Phát triển NNL. Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn
nước ta” của PTS Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1996),
- TS. Đồn Văn Khải (2005), “ NNL con người trong quá trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố ở Việt Nam”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
- Tiến sĩ Vũ Bá Thể, Học viện Tài chính (2005), “ Phát huy NNL con
người để cơng nghiệp hố, hiện đại hố”, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
- Phạm Minh Hạc (1996), “ Vấn đề phát triển con người trong sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Cơng Tồn (Tạp chí Triết học 5/1998), “ Mấy suy nghĩ về phát
huy nguồn lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố”.
Gần đây, đã có một số bài báo bàn về yêu cầu cấp bách phải phát triển
NNL chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế. Chẳng hạn, “ Nâng chất lượng lao động: Cần một chiến lược
quốc gia” của Hồng Vân, đăng trên báo Người Lao Động, 14/12/2006; “ Nội
lực và ngoại lực trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam” của GS, TS

Trần Văn Thọ, đăng trên Tạp chí Thời đại mới, tháng 11/2004; “ Nguồn nhân
lực Việt Nam:Bất ổn cả chất và lượng” của Ngọc Bảo đăng trên


5
01/10/2009; “ Nguồn nhân lực Việt Nam thừa
mà vẫn thiếu” của Ngọc Hằng và Nhị Lê, đăng trên báo Dân trí, 01/10/2009;
“Nhân lực ở Việt Nam vừa thừa, vừa thiếu” Bản tin
Đại học Quốc Gia Hà Nội, 205/2008; “ Nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay”,
TT hỗ trợ đào tạo và cung ứng nhân lực, 22/6/2010; “ Về
nguồn nhân lực của Việt Nam trong năm 2010 và những năm sau”, của PGS,
TS Đức Vượng, 24/2/1010,…
Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu trên, chủ yếu là đề cập nhiều
đến NNL chất lượng cao cho các khu công nghiệp, các thành phố lớn, chưa có
cơng trình nào nghiên cứu NNL cho phát triển kinh tế biển ở huyện Kiên Hải,
tỉnh Kiên Giang dưới góc độ của ngành kinh tế chính trị. Vì vậy, việc lựa
chọn đề tài trên của học viên là mới, không trùng với các công trình và bài
viết đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Hệ thống hố những vấn đề lý luận và thực tiễn về NNL trong phát
triển kinh tế - xã hội làm cơ sở để đánh giá thực trạng phát triển nó ở huyện
đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng nguồn lực này đáp ứng yêu cầu trong phát triển kinh tế
biển của Quốc gia trên địa bàn.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích nói trên, đề tài tập trung vào những vấn đề sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về NNL như: khái niệm, các nhân tố ảnh hưởng
đến số lượng, chất lượng NNL; vai trò của NNL và yêu cầu về NNL trong
phát triển kinh tế biển.

- Phân tích và đánh giá thực trạng NNL trong phát triển kinh tế biển ở
huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang từ năm 2007 đến nay.
- Trên cơ sở những phân tích về lý luận và thực tiễn của địa phương,
luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển NNL đáp ứng yêu cầu


6
phát triển kinh tế biển ở huyện đảo Kiên Hải đến năm 2015 và tầm nhìn đến
năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài luận văn này lấy NNL trên các khía cạnh số lượng, cơ cấu và
chất lượng về chuyên mơn kỹ thuật, tính kỷ luật… chủ yếu là từ phía cung
đáp ứng cầu phục vụ phát triển kinh tế biển làm đối tượng nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Từ năm 2007, tức là năm triển khai thực hiện Nghị quyết
số 09-NQ/TW, ngày 09-2-2007“Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”.
Về không gian: trên địa bàn huyện đảo Kiên Hải tỉnh Kiên Giang.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài có mở rộng phạm vi khơng gian để nghiên
cứu kinh nghiệm của các địa phương khác trong nước mà huyện Kiên Hải có
thể tham khảo trong việc phát triển NNL.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá
khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đổi
mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là các phương
pháp của Kinh tế chính trị học; đồng thời, có sử dụng các phương pháp
nghiên cứu của kinh tế học, xã hội học để làm rõ đối tượng và nhiệm vụ
nghiên cứu.

6. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn làm rõ thêm về khái niệm, vai trò của NNL cho phát triển
kinh tế xã hội; đặc điểm NNL trong phát triển kinh tế biển trong điều kiện,
hoàn cảnh đặc thù của một huyện đảo. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng,


7
giải pháp thúc đẩy sự phát triển nguồn lực này đáp ứng yêu cầu thực hiện
Chiến lược biển ở huyện đảo Kiên Hải trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu đề tài cịn có thể làm tài liệu tham khảo bổ ích cho
việc hồn thiện và thực thi chính sách phát triển NNL trong phát triển kinh tế
biển trên một địa bàn cụ thể ở cực nam của Tổ quốc trong tình hình mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN CỦA VIỆT NAM
1.1. NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ BIỂN

1.1.1. Nguồn nhân lực và đặc điểm của nó
1.1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
NNL mà nịng cốt là đội ngũ tri thức là nhân tố trung tâm có vai trò
quyết định đối với sự tăng trưởng và phát triển của kinh tế. Việc nhận rõ nội
dung, đặc điểm của sự phát triển và sử dụng hiệu quả NNL là vấn đề lý luận
rất quan trọng.

Hiện nay, có nhiều định nghĩa về NNL. Theo Liên Hợp quốc thì “ NNL
là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo
của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”.
Theo cơ quan phát triển của Liên Hợp quốc UNDP, thì NNL là tổng thể
những nhân lực, những năng lực của con người được huy động vào quá trình
sản xuất. Ngân hàng thế giới cho rằng: NNL là tồn bộ vốn con người bao
gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp... của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây
nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật
chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên...
Ở nước ta, cho đến nay, thuật ngữ “Nguồn nhân lực” hay “Phát triển
nguồn nhân lực” được các nhà khoa học Việt Nam nêu khá nhiều trong các
cơng trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Nguồn là nơi phát sinh, nơi cung cấp. Nhân
lực là sức của con người, bao gồm: sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức
được vận dụng vào quá trình lao động của mỗi cá nhân (trí lực), những ham
muốn, hồi bão của bản thân người lao động hướng tới một mục đích xác định


9
(tâm lực). Nhân lực với ý nghĩa đầy đủ của nó bao gồm ba yếu tố có sự liên
hệ biện chứng với nhau, đó là thể lực, trí lực, tâm lực. NNL được hiểu là nơi
phát sinh, nơi cung cấp sức của con người trên đầy đủ các phương diện cho
lao động sản xuất.
Một số nhà khoa học tham gia đề tài, “ Con người Việt Nam - mục
tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà nước mã số KX - 07 do Giáo sư, Tiến sỹ khoa học Phạm
Minh Hạc làm chủ nhiệm thì cho rằng: “Nguồn nhân lực con người được
hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức
khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất”.
Theo các tác giả của cuốn “Nguồn lực và động lực phát triển trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do GS.

TSKH Lê Du Phong chủ biên thì “Nguồn lực con người được hiểu là tổng
hoà trong thể thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con người (thể lực,
trí lực, nhân cách) và tính năng động của con người. Tính thống nhất đó
được thể hiện ở q trình biến nguồn lực con người thành vốn con người”.
Tiến sỹ Đoàn Văn Khái lại cho rằng trong thực tế, khái niệm “ Nguồn
nhân lực” ngoài nghĩa rộng như “Nguồn lực con người”, thường còn hiểu
theo nghĩa hẹp là lực lượng lao động. Khái niệm “Tài nguyên con người”
được sử dụng với ý nghĩa nhấn mạnh phương diện khách thể của con người,
coi con người như một nguồn tài nguyên, một loại của cải quý giá cần được khai
thác hợp lý, có hiệu quả, nhất là tiềm năng trí tuệ, và cho rằng “Nguồn lực con
người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người
với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội”.
Bộ môn “Kinh tế phát triển” đưa ra khái niệm NNL một cách cụ thể
hơn: NNL là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia
lao động. NNL được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng, đó là tổng số những
người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của Nhà nước và thời


10
gian lao động có thể huy động từ họ; về chất lượng, trong đó là sức khoẻ và
trình chun mơn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn
lao động là tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham
gia lao động hoặc đang tích cực tìm việc làm. Cũng như NNL, nguồn lao
động được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Theo khái niệm này, có
một số người được tính là NNL, nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó
là: Những người khơng có việc làm nhưng khơng tích cực tìm việc làm tức là
những người khơng có nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ tuổi lao
động quy định nhưng đang đi học...
Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, với những nội hàm khác nhau,
trên phương diện kinh tế chính trị và để đáp ứng yêu cầu luận văn thì NNL

được hiểu là tổng thể số lượng và chất lượng con người với tổng hoà các tiêu
chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức - tinh thần truyền thống và
kinh nghiệm lao động tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã,
đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến
bộ xã hội.
Như vậy, nói đến nhân lực con người và vai trị của nó phải xem xét
con người với tư cách vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Là chủ thể bởi con người khai thác, sử dụng các nguồn lực
khác, hơn nữa còn tạo ra nguồn lực mới cho sự tồn tại và phát triển xã hội. Là
khách thể, con người trở thành đối tượng được khai thác, cả về trí lực và thể
lực cho mục tiêu phát triển xã hội. Với ý nghĩa đó, con người vừa là chủ thể,
vừa là khách thể, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của các quá trình phát triển
kinh tế-xã hội.
1.1.1.2. Đặc điểm nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
NNL biển đảo là một bộ phận không thể tách rời của cư dân và dân tộc
Việt Nam, là chủ thể của công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. NNL biển
đảo có những đặc điểm cơ bản sau:


11
Thứ nhất, về quy mơ.
NNL ở biển đảo có quy mô nhỏ, mật độ dân số thấp so với mật độ dân số
trung bình của cả nước. Riêng ở Kiên Hải thì dân số có mật độ cao hơn so với
bình quân cả nước (Kiên Hải là 865 người/km 2, cịn bình qn cả nước là 260
người/km2) nhưng ở biển đảo lại có tốc độ tăng dân số cao, ngồi việc tăng
dân số tự nhiên thì ở khu vực này dân số tăng về cơ học rất lớn. Đây vừa là
tiềm năng vừa là thách thức trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn này.
Thứ hai, về cơ cấu.
NNL biển đảo chịu tác động của cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu lao động

của từng vùng. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ phụ thuộc
vào định hướng xây dựng cơ cấu ngành và đã được Nhà nước quan tâm, có
những chính sách đầu tư phát triển. Hiện nay, quá trình cơ cấu lại lao động
theo ba nhóm ngành (nơng - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp - xây dựng và du
lịch, dịch vụ) ở biển đảo trong 3 nhóm ngành trên tỷ trọng trong nông - lâm ngư nghiệp luôn chiếm tỷ lệ cao. Tuy nhiên, để kinh tế biển phát triển thì
nhóm ngành cơng nghiệp - xây dựng và dịch vụ cần phải được điều chỉnh
theo hướng tăng lên tỷ trọng nhằm phù hợp với xu thế tình hình và phát triển
bền vững.
Thứ ba, về chất lượng nguồn nhân lực.
Về chất lượng NNL được biểu hiện ở trạng thái thể lực, trí lực, phong cách
làm việc: Trạng thái sức khoẻ, trình độ học vấn, nhân cách, lối sống, trình độ
chun mơn kỹ thuật, cơ cấu nghề nghiệp... Trong đó, thể lực là nền tảng, là
cơ sở để phát triển trí tuệ, là phương tiện để chuyển tải tri thức của con người
vào thực tiễn; trình độ học vấn là yếu tố quan trọng nhất vì nó khơng chỉ là cơ
sở để đào tạo kỹ năng nghề nghiệp mà còn là yếu tố hình thành nhân cách và
lối sống của mỗi con người. Tất cả các yếu tố đó tạo thành vốn con người,
vốn NNL.


12
Chất lượng NNL liên quan đến nhiều lĩnh vực như đảm bảo dinh dưỡng
chăm sóc sức khoẻ, giáo dục và đào tạo, lao động và việc làm gắn với tiến bộ
kỹ thuật, trả công lao động và các mối quan hệ xã hội khác. Như vậy, khi xem
xét chất lượng NNL không thể không xem xét những điều kiện phát triển con
người của đất nước. Theo ý nghĩa đó thì chất lượng NNL còn được thể hiện
gián tiếp qua chỉ số phát triển con người. Theo cơ quan phát triển Liên hiệp
quốc UNDP, thì sự phát triển nhân lực của các quốc gia có thể so sánh với
nhau bằng chỉ số phát triển con người (HDI). HDI là một chỉ tiêu tổng hợp, là
giá trị trung bình của 3 chỉ tiêu: tuổi thọ trung bình; trình độ giáo dục tính
tổng hợp theo tỷ lệ số người đi học tiểu học, trung học, sau trung học và tỷ lệ

biết chữ của người lớn; thu nhập bình quân đầu người.
Chất lượng NNL cao làm tăng năng suất lao động. Trong thời đại tiến bộ
kỹ thuật, một nước cần có thể đưa chất lượng NNL vượt trước trình độ phát
triển của cơ sở vật chất trong nước để sẵn sàng đón nhận tiến bộ kỹ thuật cơng nghệ, hịa nhập với trình độ phát triển của nhân loại.
Tình trạng thể lực của NNL ở biển đảo vẫn cịn kém, đặc biệt là tình
trạng thiếu dinh dưỡng cũng như điều kiện chăm sóc y tế còn nhiều hạn chế,
đội ngũ y bác sỹ vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng, cơ sở hạ tầng
chưa được đảm bảo, đời sống văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân dân còn
nghèo nàn và cịn nhiều bất cập.
Trình độ văn hóa của NNL ở biển đảo thấp, số lao động có trình độ học
vấn thấp cịn rất lớn, đây chính là khó khăn lớn trong khai thác tiềm năng giàu
có của địa phương cho phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao mức sống của
tầng lớp dân cư.
Nhìn chung, chất lượng NNL ở biển đảo là rất thấp, chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển kinh tế biển của địa phương đặc biệt là quá trình CNH,
HĐH. Mặc dù trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu
tư, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho phát triển NNL này, nhưng hiện nay


13
so với các vùng đồng bằng, trình độ học vấn NNL ở biển đảo cịn thấp, trình
độ chun mơn kỹ thuật, tay nghề thấp, lực lượng lao động tập trung chủ yếu
trong lĩnh vực nông nghiệp, ở nông thôn và hầu hết chưa qua đào tạo. Bên
cạnh đó, NNL ở biển đảo còn chịu ảnh hưởng nặng của những tư tưởng, tâm
lý, thói quen của người sản xuất nhỏ và các phong tục tập quán cũ, lạc hậu.
Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình phát triển NNL
của địa phương.
Thứ tư, về nguồn gốc nguồn nhân lực.
Dân số ở biển đảo thường rất thưa thớt, chủ yếu quần tụ ở các cụm dân
cư. Người dân ở đây chủ yếu từ các nơi trong đất liền ra làm ăn, sinh sống,

trình độ dân trí thấp, đời sống khó khăn.
Sự gia tăng dân số về tự nhiên là phổ biến. Trước ngày đất nước giải
phóng, đời sống kinh tế - xã hội còn rất lạc hậu và thấp kém, do vậy tỷ lệ sinh
cũng nhiều nhưng tỷ lệ tử cũng cao. Có nhiều nguyên nhân làm tỷ lệ tử vong
cao, nhưng có lẻ chính yếu nhất vẫn là do điều kiện tự nhiên trước đây còn
quá khắc nghiệt, gây ốm đau bệnh tật; trình độ kinh tế - xã hội thấp kém…
cũng ảnh hưởng nhất định đến sự gia tăng dân số tự nhiên ở địa bàn này. Từ
sau ngày giải phóng, nhất là những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã
dành sự quan tâm đối với sự phát triển biển đảo. Trong tình hình chung đó,
sức khỏe người dân cũng được chăm sóc tốt hơn, hạn chế tỷ lệ tử vong ở mức
thấp nhất, nâng cao tỷ lệ sinh. Đặc biệt là chính sách dân số kế hoạch hóa gia
đình đã thực sự xâm nhập và phát huy tác dụng tích cực tạo sự gia tăng dân số
tự nhiên trong vùng biển đảo một cách hợp lý.
Sự gia tăng dân số cơ học được tăng nhanh từ sau ngày thống nhất. Do
thực hiện chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà nước ta nhằm phân bố hợp
lý lực lượng lao động giữa các vùng trong cả nước, đã tạo được động lực xây
dựng phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phịng ở vùng biển đảo nói
riêng và của cả nước nói chung.


14
Thứ năm, về tập quán dân cư.
Hoạt động kinh tế chủ yếu là lĩnh vực khai thác và nuôi trồng thủy sản
và dựa trên phương thức sản xuất truyền thống kết hợp với việc trang bị máy
móc hiện đại (nhưng khơng đáng kể), ngồi ra, kinh tế vườn và nghề thủ công
cũng được người dân ngày càng quan tâm…
Ngư nghiệp phát triển kéo theo các nghề khác liên quan đến biển đó là
các nghề chế biến hải sản, các ngành nghề phục vụ cho đánh bắt như sửa
chữa, đóng tàu thuyền, may vá lưới, sản xuất nước đá... Hiện nay, nghề nuôi
trồng thủy sản đang được đầu tư phát triển và đem lại giá trị kinh tế cao cho

người dân.
Tín ngưỡng đặc trưng của vùng này là liên quan đến biển. Cuộc sống
mưu sinh trên biển với những nguy hiểm khơng ngờ nên người dân nơi đây đã
tìm cho mình một chỗ dựa về tinh thần để cầu mong cuộc sống an lành, yên
ổn, no ấm. Hệ thống tín ngưỡng biển đảo rất phong phú, bao gồm: tín ngưỡng
thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ cá ơng, tín ngưỡng thờ Bà - Cậu, tín ngưỡng thờ
Hồng thành bổn cảnh...
1.1.1.3. Vai trị của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế biển của
Việt Nam
- NNL là nhân tố quyết định việc tổ chức, sử dụng có hiệu quả các
NNL khác.
Khi phân tích các bộ phận cấu thành nguồn lực phát triển kinh tế, các
nguồn lực chủ yếu là nguồn lực con người mà trung tâm là nguồn lực lao
động, nguồn lực đất đai, nguồn lực tài nguyên thiên nhiên (rừng, biển, nguồn
nước, khoáng sản....), các nguồn lực tài chính, nguồn lực phi vật thể và khoa
học công nghệ. Trong cơ cấu các nguồn lực, mỗi nhóm nguồn lực có vị trí, vai
trị khác nhau, tùy vào thời đại, vào thực trạng và chiến lược phát triển kinh tế
của từng nơi. Tuy nhiên, nguồn lực lao động luôn là nhân tố quyết định việc
tái tạo, sử dụng, phát triển các nguồn lực còn lại.


15
Trong nền kinh tế cũng vậy, nguồn lực con người đều giữ vai trò quyết
định đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Trong nền kinh tế
kém phát triển, sản xuất cịn mang nặng tính tự nhiên, tự cấp, tự túc con người
tuy trình độ hiểu biết về mọi mặt, nhất là hiểu biết về thế giới tự nhiên còn hết
sức hạn chế, song vẫn là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển của nền
kinh tế.
Trong thế giới hiện đại, khi nền kinh tế của nhân loại đang dần chuyển
sang nền kinh tế tri thức và xu thế tồn cầu hóa đang diễn ra hết sức nhanh

chóng thì vai trị quyết định của NNL đối với phát triển lại càng rõ nét hơn.
Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây đã chỉ ra rằng, một nền kinh tế
muốn tăng trưởng nhanh và lợi ích cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản
là: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất
lượng NNL. Trong đó, yếu tố và cũng là động lực quan trong nhất của sự tăng
trưởng kinh tế bền vững chính là nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực
chất lượng cao, tức là những nhân lực được đầu tư phát triển, tạo lập kỹ năng,
kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo để trở thành “nguồn vốn
con người, vốn nhân lực”. Bởi vì, trong nền kinh tế tồn cầu hóa đầy biến
động và cạnh tranh quyết liệt, thì ưu thế cạnh tranh ln nghiêng về các quốc
gia có NNL chất lượng cao.
Khơng dựa trên nền tảng phát triển cao của nguồn lực lao động về thể
chất, trình độ văn hoá, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý và lịng nhiệt tình...thì
khơng thể sử dụng hợp lý các nguồn lực trên. Thậm chí thiếu NNL chất lượng
cao có thể làm lãng phí, cạn kiệt và huỷ hoại các nguồn lực khác. Trong nền
kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức, nguồn lực lao động chất lượng cao
là nhân tố quyết định.
Trong nền kinh tế thị trường ngày càng khẳng định vai trò quyết định
của nhân tố NNL. Đảng và Nhà nước ta khẳng định mục tiêu và động lực phát
triển kinh tế - xã hội là vì con người và do con người.


16
- NNL là lực lượng chủ lực bảo đảm gia tăng năng suất lao động thúc
đẩy tăng trưởng của kinh tế biển.
Nói đến tăng trưởng kinh tế, điều tất yếu ngoài những nguồn lực cơ
bản cho sự lớn lên, tăng lên về số lượng, chất lượng sản phẩm thì nguồn lực
con người không chỉ làm sống lại các yếu tố của q trình sản xuất mà cịn
sáng tạo ra những tư liệu lao động trong đó nhân tố cốt lõi là công cụ lao
động, những đối tượng lao động mới, những đối tượng lao động chưa từng có

trong tự nhiên. Từ đó, mà đảm bảo cho q trình tăng năng suất lao động,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế biển.
Nhấn mạnh vai trò của NNL đối với tăng trưởng kinh tế, Hội nghị lần
thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra nghị quyết về “Tiếp
tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hóa, hiện đại hóa…”.
Vai trị của NNL có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. NNL đã trở thành nhân
tố không chỉ quyết định đối với việc thực hiện thành công các mục tiêu kinh
tế cả trung và dài hạn, việc thiếu đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ cịn
trở thành lực cản đối với tiến trình đi tới những mục tiêu tăng trưởng kinh tế
cao và bền vững, việc thành công trong tăng trưởng kinh tế không chỉ phụ
thuộc vào nguồn tài nguyên, vào vốn vật chất, mà yếu tố ngày càng chiếm vị
trí quan trọng là con người và quản lý.
Khi phân tích các yếu tố của quá trình sản xuất và mối quan hệ giữa
chúng trong tiến trình tăng trưởng kinh tế giữa các yếu tố cơ bản có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Điều đặc biệt cần lưu ý là trong các nguồn lực nội sinh;
nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật thì
NNL được xem là năng lực nội sinh nhân tố đóng vai trị quyết định, chi phối
các nhân tố khác trong quá trình tăng trưởng. Sở dĩ như vậy, bởi so với các
nguồn lực khác thì đây là nguồn lực “sống” nó khơng chỉ làm sống lại các tư
liệu sản xuất mà còn sáng tạo ra các tư liệu lao động và đối tượng lao động


17
mới. Hơn thế với nguồn lực con người là trí tuệ chất xám nếu biết đào tạo, bồi
dưỡng và vun đắp thì nguồn lực con người là nguồn lực vơ tận, nó khơng có
giới hạn khơng bị cạn kiệt như các nguồn tài nguyên khác.
Ngay cả các nhân tố liên quan đến tăng trưởng kinh tế, khoa học công
nghệ, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị... đều xuất phát từ nguồn lực con người.
Nó là nguồn lực chính quyết định sự tăng trưởng bởi nguồn gốc của cải xã hội

là do con người tạo ra.
- NNL là nhân tố thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ và phát triển
kinh tế tri thức cho phát triển kinh tế biển.
Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào, con người đều là nhân tố trung
tâm của quá trình sản xuất. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn phát triển lịch sử nhận
thức về vai trò của nhân tố con người đối với tăng trưởng và phát triển lại khơng
hồn tồn giống nhau. Vào giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp,
người ta cho rằng, điều kiện tự nhiên thuận lợi chính là yếu tố quan trọng nhất
của sự phát triển. Hướng ưu tiên tìm kiếm các nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội thường nhằm vào sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên. Vai trò nhân tố
con người bị che lấp bởi các lợi thế tuyệt đối về điều kiện tự nhiên.
Bước vào giai đoạn tiếp theo của cuộc cách mạng này trong những năm
60, với những thành tựu nổi bật của khoa học và kỹ thuật khi đó, người ta tin
rằng có thể đạt được năng suất lao động cao và sự phát triển mạnh mẽ nhờ
vào q trình tự động hóa.
Vào những năm 90, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ bước
sang giai đoạn mới, việc áp dụng kỹ thuật tin học, các công nghệ thông tin và
những sản phẩm phần mềm tự động hóa làm cho q trình sản xuất mang tính
sáng tạo nhiều hơn. Người ta khơng chỉ sản xuất để thỏa mãn nhu cầu mà còn
tạo ra nhu cầu để sản xuất, chất lượng sản phẩm được coi trọng hơn số lượng,
hàm lượng trí tuệ và khoa học trong sản phẩm ngày càng tăng, đầu vào vật
chất ngày càng giảm.


18
Gần đây, người ta nói nhiều đến nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế
mà ở đó tri thức chiếm hàm lượng chủ yếu trong giá trị một sản phẩm. Tri
thức tức là các thành tựu khoa học, trở thành sản phẩm có giá trị kinh tế cao
hơn nhiều so với sản phẩm vật chất khác, tạo ra giá trị mới ngày càng chiếm
tỷ trọng lớn hơn trong GDP. Trong nền kinh tế tri thức, khả năng sáng tạo là
yếu tố quyết định sức cạnh tranh của mỗi quốc gia, mỗi khu vực. Để có được

nền kinh tế cần phải xây dựng hạ tầng cơ sở vững chắc để phát triển khoa học
công nghệ, đồng thời phải đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo. Hay nói
cách khác, phải đầu tư cho phát triển NNL. Các nước muốn phát triển kinh tế
tri thức cần phải đầu tư cho phát triển con người mà cốt lỗi là đầu tư phát triển
giáo dục, đào tạo, đặc biệt là đầu tư phát triển nhân tài.
- NNL là nhân tố quyết định việc nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm, của doanh nghiệp, của ngành vùng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển
theo hướng hiện đại.
Một quốc gia có NNL cao, có tiềm lực khoa học cơng nghệ mạnh sẽ là
quốc gia có sức cạnh tranh quốc tế cao. Điều này đã được nhiều tổ chức kinh
tế nghiên cứu và khẳng định. Điển hình trong số các tổ chức đó là diễn đàn
kinh tế thế giới (WEF). Trước năm 1999, tổ chức này đưa ra 8 tiêu chí để xác
định khả năng cạnh tranh của một quốc gia, trong đó năng lực sáng tạo cơng
nghệ chiếm trọng 1/8. Từ năm 2000 trở lại đây, tổ chức này khẳng định khoa
học cơng nghệ chiếm trọng 1/3 trong 3 nhóm tiêu chí xác định thứ bậc và
năng lực cạnh tranh của một quốc gia.
Trong kinh tế hàng hóa, mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối
đa hóa lợi nhuận. Muốn vậy, họ phải tìm đến sản xuất những mặt hàng có nhu
cầu lớn, tối đa hóa chi phí các yếu tố đầu vào, nâng cao chất lượng sản phẩm,
cải tiến hình thức, mẫu mã hàng hóa…những mục tiêu trên chỉ thực hiện khi
có NNL chất lượng với việc áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản
xuất kinh doanh. Việc áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất,


19
khơng chỉ tạo ra lợi thế cạnh tranh, mà cịn tạo ra nhiều loại sản phẩm mới, vì
thế quy mơ sản xuất của doanh nghiệp được mở rộng, sức cạnh tranh về hàng
hóa của doanh nghiệp tăng thêm.
Trong các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì NNL
trong làm chủ khoa học và cơng nghệ có vai trị đặc biệt quan trọng. Sở dĩ

như vậy vì sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ không chỉ đẩy
nhanh tốc độ phát triển của các ngành mà cịn làm cho phân cơng lao động xã
hội ngày càng trở nên sâu sắc và đưa đến phân chia các ngành thành nhiều
ngành nhỏ hơn, xuất hiện nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế mới. Mặt khác, dưới
tác động của NNL, của khoa học công nghệ, thu nhập người dân tăng lên làm
cho thay đổi cơ cấu tiêu dùng. Khi cơ cấu tiêu dùng thay đổi sẽ làm thay đổi
cơ cấu sản xuất của nền kinh tế. Từ đó, làm thay đổi cơ cấu, vị trí giữa các
ngành, hay thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng:
+ Tỷ trọng trong GDP của ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần, của
ngành nông nghiệp giảm dần.
+ Cơ cấu kinh tế trong nội bộ mỗi ngành cũng biến đổi theo hướng
ngày càng tăng nhanh, quy mô sản xuất ở các ngành có hàm lượng kỹ thuật,
cơng nghệ cao.
Sự phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển của Việt Nam trong những
năm qua đã có những chuyển biến đáng kể, các ngành và địa phương đã tích
cực xây dựng nhiều chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực liên
quan đến biển; quy mô kinh tế biển và vùng ven biển tăng lên, cơ cấu ngành
nghề có thay đổi cùng với sự xuất hiện ngành nghề mới, như: khai thác dầu
khí, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ... tuy nhiên, hiện tại kinh tế biển phát triển
chậm, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý và đang ở trình độ thấp, cơ sở hạ tầng
các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém, lạc hậu, những ngành nghề
kinh tế biển gắn với công nghệ hiện đại chưa được nghiên cứu và phát triển,
nhiều sản phẩm kém sức cạnh tranh, nhiều sản phẩm hải sản biển chất lượng


20
chưa cao...chính vì thế, phát triển NNL là làm cho chất và lượng NNL ngày
càng tăng, điều đó gắn với sự tất yếu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công
lại lao động xã hội. Hiện nay lực lượng lao động trong nông nghiệp ở biển
đảo đang chiếm tỷ trọng lớn, nhưng chất lượng, năng suất lao động rất thấp.

Vì vậy, phải đẩy nhanh việc nâng cao chất lượng NNL, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế biển gắn với công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm
của hàng hoá đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời, thơng qua phát
triển NNL mà tích cực tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phát triển nhanh chóng các ngành nghề phi nơng nghiệp, dựa vào thế mạnh
của từng vùng mà chú trọng phát triển ngành dịch vụ, du lịch sinh thái, cơng
nghiệp hố dầu, kinh tế hàng hải...để phát triển các ngành nghề thu hút lao
động, cần phát triển hệ thống giao thông và dịch vụ, tận dụng ưu thế ở vùng
nông thôn vừa giải quyết việc làm, vừa tăng nguồn thu cho xã hội, nâng cao
đời sống cho người lao động.
- NNL là nhân tố chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại trong
phát triển kinh tế biển.
Vùng biển, ven đảo, hải đảo Việt Nam nằm án ngự trên tuyến hàng hải
và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương, giữa Châu Á, Trung cận đơng với Trung Quốc, Nhật bản và các nước
trong khu vực.
Vùng biển, hải đảo Việt Nam là địa bàn thuận lợi trong việc tiếp nhận
vốn đầu tư, các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, các kinh nghiệm trong
quản lý các quốc gia khác. Đặc biệt, do nằm trên các tuyến hàng hải quan
trọng thông thương giữa các nước trên thế giới, từ vùng Ấn Độ Dương đến
Thái Bình Dương, đến Châu Âu, Trung Cận Đông với Đông Bắc á, và nhiều
nước khác trong khu vực Asean,... nên có vai trị như là “cầu nối” cực kỳ
quan trọng trong giao lưu văn hóa, kinh tế và xã hội với các nước trên thế
giới. Đặc biệt trong điều kiện mới khi chúng ta đang phát triển đi lên theo


21
hướng “mở cửa”, “hội nhập” thì nhiệm vụ này đối với phát triển kinh tế đất
nước, trong đó có kinh tế biển càng có ý nghĩa và tầm quan trọng lớn hơn.
Trong bối cảnh các nước trên thế giới và trong khu vực đang hướng

mạnh sự phát triển ra biển, Việt Nam khơng thể khơng có một chiến lược phát
triển kinh tế biển và vùng ven biển mang tính cách mạng; tập trung mọi
nguồn lực cho phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế đất nước với vai trò
động lực chủ yếu thuộc về các lĩnh vực kinh tế biển. Mặt khác việc phát triển
kinh tế biển cũng là cơ hội để chúng ta mở cửa, hội nhập sâu rộng và thiết
thực có hiệu quả hơn nữa, với việc xây dựng một nền kinh tế hướng ngoại, rút
ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực. Phát triển mạnh, bền
vững kinh tế biển và vùng ven biển còn là động lực thúc đẩy các vùng khác
của đất nước cùng phát triển.
Chính vì thế, để thúc đẩy, phát triển kinh tế đối ngoại trong phát triển
kinh tế biển thì NNL có vai trị rất quan trọng, là nhân tố chủ yếu.
Trong quá trình phát triển đất nước, với tiềm năng biển to lớn, Đảng và
Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế biển. Đến
nay, những kết quả bước đầu đã cho thấy kinh tế biển chiếm giữ ngành kinh tế
mũi nhọn và chủ lực của nền kinh tế cả nước. Kinh tế biển ngày càng giữ vai
trò quan trọng trong nền kinh tế, đã trở thành động lực thúc đẩy phát triển
công nghiệp, vì biển là cửa ngõ giao lưu với thế giới, tạo điều kiện cho công
tác xuất nhập khẩu hàng hố thuận lợi với chi phí thấp. Trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực như hiện nay thì biển ngày càng đóng vai trị
quan trọng trong việc tạo năng lực cạnh tranh của quốc gia. Đặc biệt, Đảng,
Nhà nước đã có nhiều chính sách phát huy mọi nguồn lực, nhất là NNL, lao
động lành nghề, lao động chất xám tạo ra nhiều sản phẩm có hàm lượng trí tuệ
cao đã góp phần tăng trưởng kinh tế, nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Mặc khác, NNL chất lượng có điều kiện nắm vững các kiến
thức về kinh tế thế giới, từ đó góp phần tích cực phát triển kinh tế đối ngoại.


22
- NNL là lực lượng cốt yếu trong việc giữ vững chủ quyền, an ninh trên
biển, bảo vệ lợi ích của quốc gia có biển.

Trong những năm đầu thế kỷ XXI, nhất là những năm gần đây, là thời
gian phản ảnh rõ nét việc chuyển từ ý tưởng thành hành động thực tế của
nhiều nước trên thế giới trong quá trình vươn ra biển nhằm khẳng định ưu thế,
cũng như tìm kiếm lợi ích trên vùng biển. Tình hình đó, làm cho việc tranh
chấp chủ quyền quốc gia, tranh chấp ảnh hưởng của các nước lớn trên biển
ngày càng phức tạp hơn.
Biển đơng, trong đó có vùng biển Việt Nam có vị trí địa kinh tế - địa
chính trị rất quan trọng. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã
chứng minh điều đó. Vì thế, nhiều nước trên thế giới đang đẩy mạnh các biện
pháp để tìm kiếm lợi ích trong khu vực này. Tình hình đó, khiến biển đơng trở
thành điểm “nóng” diễn ra những tranh chấp phức tạp, tìm ẩn những bất trắc
khó lường, đe doạ đến an ninh, chủ quyền của các nước trong đó có Việt Nam.
Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam
(7-1996) lần đầu tiên đã tập trung thời gian bàn về các lĩnh vực liên quan đến
biển, đặc biệt là các biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế biển gắn với bảo
vệ an ninh quốc phòng. Nghị quyết Đại hội VIII đã xác định “Vùng biển và
ven biển là địa bàn chiến lược về kinh tế và an ninh quốc phòng...khai thác
tối đa tiềm năng và các lợi thế của vùng biển và ven biển, kết hợp với an ninh
quốc phòng tạo thế và lực để phát triển mạnh kinh tế xã hội, bảo vệ và làm
chủ vùng biển của Tổ quốc”.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định “Phát triển kinh
tế biển theo một chiến lược tồn diện, có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa
nước ta trở thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với
bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế...”.
Thực hiện chủ trương trên, Đảng và Nhà nước ta chăm lo phát triển
NNL để đủ sức đẩy mạnh các hoạt động kinh tế như: thăm dị dầu khí, tài


23
nguyên nghiên cứu biển, đánh bắt, chế biến hải sản, du lịch...phải cùng với

tăng cường các hoạt động quân sự, nâng cao khả năng sẳn sàng chiến đấu,
năng lực quản lý bảo vệ vùng biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Nắm vững
và vận dụng đúng đắn đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng trong tình
hình mới, huy động sức mạnh tổng hợp của nền quốc phịng tồn dân và thế
trận an ninh nhân dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh biển đảo, bảo vệ vững
chắc chủ quyền quốc gia trên biển.
Phát triển NNL đủ sức tiến ra biển để khai thác và làm chủ biển, phấn
đấu nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ
vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần giữ vững
ổn định và phát triển đất nước đã và đang trở thành nhiệm vụ hết sức quan
trọng, cấp bách, là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân, toàn quân ta.
1.2. YÊU CẦU VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN

1.2.1. Yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trong phát
triển kinh tế biển
- Bảo đảm sự phù hợp giữa cung và cầu về số lượng và cơ cấu NNL
cho phát triển kinh tế biển trong từng giai đoạn nhất định.
Phát triển NNL là nhân tố rất quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên, với lực lượng lao động đơng nhưng chỉ với
lịng nhiệt tình và ý chí cách mạng thì chưa đủ. Trước u cầu nhiệm vụ phát
triển kinh tế địi hỏi phải có chiến lược đào tạo NNL, một lực lượng chưa
được chú trọng khai thác, sử dụng và chủ yếu còn ở dạng tiềm năng. Thực tế
hiện nay cho thấy, kinh tế biển ở Kiên Hải phát triển cịn chậm quy mơ nhỏ
bé. Tình trạng này do nhiều ngun nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là
NNL vừa thừa vừa thiếu, thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật,
đặc biệt đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý kinh tế và nhất là cán bộ
khoa học công nghệ còn thiếu và yếu. Mặt khác, thực tế trong những năm gần



24
đây chuyển dịch cơ cấu kinh tế cịn chậm, nơng nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng
lớn, lao động nông nghiệp vẫn lớn hơn các ngành khác nhưng lại tập trung lực
lượng có trình độ tay nghề thấp phần lớn chưa qua đào tạo. Do đó, mục tiêu
giảm dần tỷ trọng nơng nghiệp là một việc rất khó khăn đối với huyện. Vì vây,
việc đầu tư khai thác các ngành du lịch, dịch vụ, cơng nghiệp chế biến hàng
nơng, thủy sản có lợi thế là một yêu cầu tất yếu để từng bước dịch chuyển, cơ
cấu lại nguồn lao động nông nghiệp sang các ngành khác. Để thực hiện điều
đó, yêu cầu trước mắt là phải đào tạo lực lao động này, trong đó chú trọng lựa
chọn đào tạo lao động lành nghề có chun mơn kỹ thuật, phong cách lao
động cơng nghiệp.
- Nâng cao chất lượng NNL để nâng cao năng suất, hiệu quả và tính
bền vững trong phát triển kinh tế biển.
Phát triển kinh tế biển trong điều kiện chất lượng NNL thấp là rất khó,
chúng ta khơng thể khơng phát triển con người, không nâng đội ngũ những
người lao động lên tầng cao chất lượng mới. Đó là động lực mạnh mẽ nhất
giúp chúng ta phát triển kinh tế biển với năng suất, hiệu quả. Việc xây dựng
và phát triển NNL nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng, đủ sức đáp ứng và
đảm đương những đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển kinh tế biển là đòi
hỏi bức thiết.
Ngày nay, khi nhân loại đang sống trong bối cảnh quốc tế hóa đầy biến
động và hết sức phức tạp, sự phát triển công nghiệp một cách ồ ạt, sự khai
thác tài nguyên thiên nhiên ở tình trạng quá mức nhằm mục tiêu lợi nhuận
kinh tế cao ở những nước cơng nghiệp phát triển đã dẫn đến tình trạng ô
nhiễm môi trường sống và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên trên hành tinh, ảnh
hưởng xấu đến cuộc sống của nhân loại. Điều này khiến cho cộng đồng thới
giới đã phải nhận thức rằng, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với đảm bảo
môi sinh, môi trường cho con người.



25
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển sang kinh tế dựa chủ yếu vào tri
thức và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta ngày càng
nhận thức rõ hơn về vai trò quyết định của con người trong phát triển, đặc biệt
là NNL chất lượng cao. NNL chất lượng cao luôn là nguồn lực to lớn của sự
phát triển kinh tế - xã hội, là yếu tố vật chất quan trọng nhất, quyết định nhất
của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế xã hội, trực tiếp sử dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, công nghệ mới vào quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm có hàm
lượng trí tuệ cao, và do đó là một trong những yếu tố quyết định nhất để nâng
cao năng suất hiệu quả và tính bền vững trong phát triển kinh tế biển.
Nếu xem xét dưới gốc độ tính bền vững trong phát triển kinh tế biển
bao gồm tăng trưởng kinh tế, an toàn xã hội và bảo vệ mơi trường thì phát
triển vốn con người, vốn nhân lực, vừa là mục tiêu cuối cùng của quá trình
phát triển. Tuy nhiên, nguồn lực con người đó phải được phát triển và huy
động tối đa vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo có đủ việc làm,
tiến tới việc làm có năng suất và được tự do lựa chọn, tức là việc làm mang
tính nhân văn, trên cơ sở giải phóng mọi tiềm năng lao động, sử dụng có hiệu
quả năng lực xã hội của NNL, thì mới trở thành nguồn lực, động lực và là yếu
tố cơ bản nhất của sự phát triển bền vững.
- Kết hợp phát triển NNL cho phát triển kinh tế biển với các các yêu
cầu bảo đảm an ninh biển đảo, giữ vững chủ quyền quốc gia trên biển.
Xuất phát từ đặc điểm của vùng biển đảo là nơi giao thương phát triển
kinh tế, giao lưu văn hóa cũng là vùng có nhiều vấn đề phức tạp về quốc
phịng - an ninh. Đặc biệt thời gian gần đây, đã diễn ra những tranh chấp phức
tạp trên biển đông giữa một sơ nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.
Tập trung phát triển NNL đông về số lượng, mạnh về chất lượng để đủ sức
khai thác tối đa tiềm năng kinh tế biển, đồng thời kết hợp với bảo vệ và làm chủ
vùng biển của Tổ quốc. Tăng cường các tiềm lực quốc phòng theo hướng hiện
đại, cộng với phát triển NNL chất lượng có đủ điều kiện làm chủ khoa học quân



×