1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch được mệnh danh là ngành “cơng nghiệp khơng khói” nhưng lợi
ích của nó mang lại là vơ cùng to lớn. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp quan
trọng, có tính liên ngành, liên vùng và có tính xã hội hố cao. Du lịch đóng góp
vào tăng trưởng kinh tế của đất nước, du lịch mang đến công ăn việc làm cho
người dân, là phương tiện quảng bá hình ảnh đất nước mạnh mẽ nhất và còn là
sự xuất khẩu hàng hoá tại chỗ nhanh nhất và hiệu quả nhất.
Văn kiện đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định
nhiệm vụ: “Phát triển các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng,
thương mại, du lịch và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao… Xây dựng một số
trung tâm du lịch lớn trong nước, gắn kết có hiệu quả với các trung tâm du
lịch lớn của các nước trong khu vực” [14,tr.198].
Hiện nay, Việt Nam đang chú trọng vào việc phát triển ngành kinh tế
đầy tiềm năng này, Việt Nam đã đưa du lịch vào ngành kinh tế mũi nhọn để
đầu tư phát triển trong định hướng phát triển của đất nước; trong đó Thừa
Thiên Huế là một trong những khu vực được đầu tư trọng điểm.
Trong quá trình hoạt động du lịch, thực tế chỉ ra rằng, ngồi tiếp cận mơi
trường, phải có tiếp cận cộng đồng mới đảm bảo cho một sự phát triển lâu dài.
Dựa trên quan điểm này, Micheal M. Coltman đã định nghĩa như sau: “Du
lịch là sự kết hợp và tương tác của bốn nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ
du khách bao gồm: khách du lịch, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân và
chính quyền nơi đón khách du lịch” [20, tr.10].
Sơ đồ 1.1: Các chủ thể kinh tế trong ngành du lịch
Du khách
Nhà cung ứng
dịch vụ du lịch
Dân cư sở tại
Chính quyền địa
phương nơi đón du
khách
2
Du lịch những năm qua ln đóng góp phần mình vào sự phát triển
chung của nền kinh tế tỉnh Thừa Thiên Huế. Doanh thu từ du lịch hàng năm
ngày càng tăng qua các năm, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
Hơn thế nữa, du lịch cịn đóng góp cho người dân cơng ăn việc làm và giúp
nâng cao đời sống cộng đồng và phát triển xã hội.
Thừa Thiên Huế được biết đến là một trung tâm văn hoá du lịch quan
trọng của cả nước, với nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng có sức
hấp dẫn mạnh mẽ đối với khách du lịch trong và ngoài nước. Huế là cố đơ
duy nhất ở Việt Nam cịn bảo tồn gần như nguyên vẹn một tổng thể kiến trúc
kinh đô cung điện, đền đài, lăng tẩm... của triều đại phong kiến cuối cùng, đã
được UNESCO công nhận là "Di sản văn hố thế giới". Ngồi ra, Huế cịn nổi
tiếng về những khu nhà vườn độc đáo, có nét văn hố ẩm thực, có lễ hội văn
hố cổ truyền, các loại hình âm nhạc truyền thống mà nổi bật là Nhã nhạc
cung đình Huế - Kiệt tác di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu của Việt
Nam được UNESCO công nhận.
Đặc biệt, Festival Huế - một lễ hội văn hố lớn của quốc gia và có tầm
quốc tế đã thể hiện được những nét văn hoá đặc sắc của Việt Nam và các quốc
gia tham gia lễ hội, việc xây dựng Huế là "thành phố Festival" thực sự trở thành
một sự kiện văn hoá quan trọng thu hút du khách trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế
vẫn chưa có một cơ chế thống nhất giải quyết mối quan hệ kinh tế giữa các
chủ thể tham gia ngành du lịch của tỉnh. Tình trạng khơng thống nhất về lợi
ích kinh tế, thậm chí xung đột lợi ích kinh tế giữa các chủ thể phần nào làm
chậm tiến trình phát triển du lịch của tỉnh. Mỗi chủ thể khi chạy theo lợi ích
kinh tế của mình có thể khơng quan tâm hoặc gây thiệt hại về lợi ích kinh tế
của chủ thể khác.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tơi chọn đề tài: “Lợi ích kinh tế của các chủ
thể trong ngành du lịch ở Thừa Thiên Huế” làm nội dung nghiên cứu trong
luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị của mình.
3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế là một vấn đề nhạy cảm, đã thu
hút được sự chú ý không chỉ của các nhà triết học, xã hội học mà cịn được các
nhà chính trị học, kinh tế học và các nhà quản lý kinh tế quan tâm nghiên cứu.
Về các cơng trình khoa học trong hội thảo, sách xuất bản, các bài viết
trên báo, tạp chí khoa học có:
“Về lợi ích kinh tế”, Nhiều tác giả, Nhà xuất bản Thông tin lý luận, Hà
Nội, 1982 đã trình bày được sự thống nhất giữa ba lợi ích kinh tế (lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; vai trò của lợi ích kinh tế và những hình
thức kinh tế thực hiện sự kết hợp các lợi ích kinh tế; phương hướng kết hợp
các lợi ích kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
“Về sự kết hợp các lợi ích kinh tế” của Vũ Hữu Ngoạn và Khổng Dỗn
Hợi, Nhà xuất bản Thơng tin lý luận, Hà Nội, 1986 đã trình bày vấn đề nhận
thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế trong từng cơ
cấu lợi ích và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thể hiện sự ưu việt của chế
độ xã hội chủ nghĩa.
“Lợi ích kinh tế và các xu hướng vận động chủ yếu của xã hội ta hiện
nay” của Nguyễn Linh Khiếu, Tạp chí Triết học, số 2, tháng 6/1991 đã làm rõ
được vai trị động lực của lợi ích kinh tế trong hoạt động của con người đồng
thời chỉ ra 2 xu hướng vận động của xã hội ta hiện nay là xu hướng mong muốn
xây dựng (gọi là định hướng xã hội chủ nghĩa) và xu hướng tư bản chủ nghĩa.
“Tạo sự hài hịa về giữa giữa cơng nhân và doanh nhân ở Việt Nam hiện
nay” của Vũ Tiến Dũng, Tạp chí Triết học, số 3, tháng 3/2008 đã đánh giá
được thực trạng mối quan hệ lợi ích giữa công nhân và doanh nhân ở Việt
Nam hiện nay. Tác giả nhận định vấn đề này đang được giải quyết theo hướng
tích cực. Đồng thời tác giả cũng luận chứng một số giải pháp cấn thiết nhằm
góp phần cải thiện và tạo ra sự hài hòa trong quan hệ lợi ích giữa công nhân
với doanh nhân hiện nay…
Về luận văn cao học, luận án nghiên cứu sinh, có:
4
“Quan hệ giữa lợi ích kinh tế xã hội, tập thể và cá nhân người lao động
trong chặng đường đầu tiên thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”,
luận án phó tiến sĩ triết học của Nguyễn Đức Bách, năm 1988 đã chỉ ra được
sự thống nhất cũng như mâu thuẫn giữa ba loại lợi ích kinh tế trong nền kinh
tế nước ta và đề xuất giải pháp xử lý hài hóa mối quan hệ đó nhằm thúc đẩy
đất nước phát triển.
“Quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tại Thành phố Hồ Chí
Minh”, luận văn thạc sĩ của Mai Đức Chính, năm 2005 đã làm rõ được cơ sở
lý luận về quan hệ lợi ích giữa người lao động và ngưởi sử dụng lao động,
đánh giá thực trạng giải quyết mối quan hệ đó tại các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi ở thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời đề xuất giải pháp giải
quyết hài hòa mối quan hệ kinh tế đó.
“Quan hệ lợi ích kinh tế trong q trình hình thành các khu đơ thị mới ở
Hà Nội”, luận văn thạc sĩ của Đồng Quốc Dũng, năm 2007 đã góp phần làm
rõ một số vấn đề lý luận về lợi ích kinh tế, phân tích thực trạng giải quyết mối
quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình hình thành và phát triển các khu đô thị
mới ở Hà Nội và đề xuất giải pháp xử lý mối quan hệ đó.
“Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước
sau cổ phẩn hóa ở Bình Định”, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Bích Ngọc,
năm 2009 trên cơ sở làm rõ mối quan hệ về lợi ích kinh tế trong việc thực
hiện quyền sử dụng đất ở thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định từ năm 1987
đến 2008, đề xuất một số giải pháp sử dụng cơng cụ lợi ích kinh tế trong việc
thực hiện quyền sử dụng đất của các chủ thể trên địa bàn…
Ngồi ra cịn có các cơng trình nghiên cứu về du lịch Thừa Thiên Huế như:
“Thực trạng và định hướng phát triển du lịch công vụ ở tỉnh Thừa Thiên
Huế”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Th.S Nguyễn Thị Ngọc Cẩm,
năm 2007 đã đánh giá những tiềm năng cũng như thực trạng loại hình du lịch
cơng vụ ở tỉnh Thừa Thiên Huế từ đó đưa ra một số khuyến nghị chính sách
cho cơ quan quản lý du lịch địa bàn tỉnh nhằm phát triển loại hình du lịch này.
5
“Phân tích mơi trường cạnh tranh của du lịch Thừa Thiên Huế”, đề tài
khoa học cấp cơ sở của Nguyễn Thị Ngọc Anh, năm 2009 đã chỉ ra được
những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành du lịch ở Thừa Thiên
Huế, đánh giá môi trường cạnh tranh của ngành du lịch tỉnh.
“Nghiên cứu kết quả kinh doanh dịch vụ du lịch tại tỉnh Thừa Thiên Huế
giai đoạn 2000-2009”, đề tài khoa học cấp cơ sở của Phan Thị Thu Hương, năm
2010 đã đánh giá được thực trạng kinh doanh của các doanh nghiệp, cơ sở kinh
doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2000-2009; từ đó, đề xuất giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh.
“Đánh giá sự quan tâm của người dân thành phố Huế đối với hoạt động
festival Huế”, đề tài khoa học cấp cơ sở của Nguyễn Xuân Thuận và Hồ
Phước Vũ, năm 2010 thông qua các điều tra xã hội học và thống kê kinh tế đã
đánh giá được sự quan tâm của người dân thành phố Huế đối với những hoạt
động, sự kiện du lịch liên quan đến festival Huế…
Như vậy là, những cơng trình khoa học trên hoặc đã trình bày được một
số lý luận về lợi ích, lợi ích kinh tế, như khái niệm, đặc điểm, vai trò, mối quan
hệ biện chứng giữa các loại lợi ích, cách thức xử lý các mối quan hệ đó hoặc
phần nào đánh giá được tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch của tỉnh Thừa
Thiên Huế dưới giác độ kinh tế học, du lịch học và quản trị kinh doanh.
Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu lợi ích kinh tế của các
chủ thể trong ngành du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế dưới góc độ kinh tế chính
trị nhằm đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp tối ưu hóa lợi ích kinh tế của
các chủ thể trong ngành du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Chính vì vậy, đề tài
“Lợi ích kinh tế của các chủ thể trong ngành du lịch ở Thừa Thiên Huế” mà
tôi lựa chọn nghiên cứu hồn tồn khơng trùng lặp với các cơng trình khoa
học đã được cơng bố cho đến nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục tiêu của đề tài này nhằm làm rõ vai trò, ý nghĩa và thực trạng của
lợi ích kinh tế của các chủ thể trong ngành du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế
6
trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đó, đề tài đưa ra
phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm tối ưu hóa lợi ích kinh tế của
các chủ thể trong quá trình phát triển du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
Để đạt được mục đích đó, đề tài thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến lợi ích kinh tế của các
chủ thể trong ngành du lịch.
- Đánh giá thực trạng lợi ích kinh tế của các chủ thể trong ngành du lịch
ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm tối ưu hóa lợi
ích kinh tế của các chủ thể trong phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lợi ích kinh tế của các chủ thể
trong ngành du lịch. Theo định nghĩa đầy đủ về du lịch thì hoạt động du lịch
có sự tham gia của 4 chủ thể: du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân
và chính quyền nơi đón khách du lịch. Cho nên đề tài này nghiên cứu lợi ích
kinh tế của bốn chủ thể là: nhà cung ứng dịch vụ du lịch (gọi là doanh nghiệp
du lịch), người sử dụng dịch vụ du lịch (gọi là khách du lịch), cư dân (hay là
người dân địa phương) và chính quyền nơi đón khách du lịch (cơ quan quản
lý nhà nước về du lịch).
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: tỉnh Thừa Thiên Huế.
Về thời gian: Giai đoạn 2007 - 2011.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để làm rõ đối tượng nghiên cứu, trong đề tài này tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở những lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam về lợi ích kinh tế, quan hệ lợi ích kinh tế.
Phương pháp quan trọng nhất là phương pháp trừu tượng hóa khoa học
nhằm rút ra được những xu hướng vận động, những quy luật trong việc giải
quyết mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong ngành du lịch.
7
Ngồi ra, đề tài cịn sử dụng các phương pháp khác như: Phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp qui nạp và diễn dịch, phương pháp thu
thập số liệu, phương pháp điều tra, phỏng vấn…
Đề tài dựa trên hai nguồn dữ liệu chủ yếu:
Nguồn dữ liệu sơ cấp: từ điều tra bảng hỏi bằng phương pháp phỏng
vấn các chủ thể tham gia ngành du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Nguồn dữ liệu thứ cấp: tổng hợp số liệu từ các báo cáo của Tổng cục
Du lịch; Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế, Cục Thuế
tỉnh Thừa Thiên Huế, Niên giám thống kê tỉnh Thừa Thiên Huế, từ sách báo,
tạp chí, internet...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đề tài này đã góp phần làm rõ thêm một bước những vấn đề lý luận liên
quan đến lợi ích kinh tế của các chủ thể trong ngành du lịch.
Đề tài đi sâu phân tích thực trạng lợi ích kinh tế của các chủ thể trong
ngành du lịch trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn 2007 - 2011.
Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế
coi du lịch là ngành kinh tế trọng điểm mũi nhọn, đề tài xây dựng phương
hướng và đề xuất giải pháp tối ưu hóa lợi ích kinh tế của các chủ thể trong
ngành du lịch ở tầm vĩ mô phù hợp với đặc điểm tự nhiên, KT-XH cũng như
trình độ phát triển của tỉnh.
Ngồi ra, đề tài cịn là một nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho những
người quan tâm nghiên cứu vấn đề này, nhất là sinh viên, học viên chuyên
ngành kinh tế chính trị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm có 3 chương, 9 tiết.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA
CÁC CHỦ THỂ TRONG NGÀNH DU LỊCH
1.1. QUAN NIỆM VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA CÁC CHỦ THỂ TRONG
NGÀNH DU LỊCH
1.1.1. Quan niệm về lợi ích kinh tế
1.1.1.1. Quan điểm của Adam Smith về lợi ích kinh tế
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của cải của các dân tộc” được xuất bản năm
1776 của Adam Smith, tác giả đã trình bày quan niệm của mình về vấn đề lợi
ích kinh tế với tư tưởng chủ đạo là đề cao lợi ích kinh tế cá nhân để tạo động
lực cho sự phát triển xã hội.
Theo ông, con người ai cũng vì lợi ích cá nhân, đó là tư lợi, ham giàu có
nên mọi hoạt động của họ đều vì mục đích vị kỷ và ơng tin rằng chính lịng vị
kỷ của cá nhân sẽ đưa tới sự trù phú của xã hội. Ông cho răng quốc gia sẽ trở
nên phồn thịnh nếu mọi cá nhân không ngừng nỗ lực để cải thiện sinh hoạt
của riêng mình…chúng ta khơng bao giờ nói với họ về những nhu cầu của
chúng ta, mà chỉ nói với họ về mối tư lợi của họ.
Ơng cũng đề cập đến lợi ích kinh tế của sự phân cơng lao động xã hội.
Tuy có sự nhầm lẫn giữa phân công lao động xã hội với phân công trong công
trường thủ công, nhưng dù sao A. Smith cũng rất có lý khi cho rằng vì tư lợi mới
nẩy sinh phân công lao động, đến lượt nó phân cơng lao đơng xã hội lại làm cho
tư lợi gia tăng. Điều này có một ý nghĩa rất to lớn và đúng như nhận xét của ông:
Phân công lao động là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong sức sản xuất.
Về việc sử dụng người lao động làm sao để có lợi nhất? A. Smith cũng
có những khuyến cáo rất đáng giá, khi ông cho rằng kinh nghiệm của mọi thời
và mọi nơi chứng tỏ rằng dùng công nhân nơ lệ tuy chỉ tốn rất ít tiền ăn ở
nhưng xét cho cùng đó là loại cơng nhân đắt nhất. Vì cơng này khơng có tư
hữu do đó họ càng ăn nhiều càng làm ít. Làm việc gì họ cũng chỉ làm cho vừa
9
đủ mà thơi, nếu họ làm thêm thì chỉ vì do họ bị cưỡng bách, chứ khơng phải
vì tư lợi của họ.
Về cải cách điền địa, theo A. Smith, để đem lại ích lợi cho mọi người và
cho tồn xã hội ông đề nghị ruộng đất nên được mua bán tự do. Vì vậy mọi
luật lệ cấm đốn việc mua bán tự do đất đất đai đều phải bị xoá bỏ, kể cả luật
thừa tự của con trưởng.
Về lợi ích của thương mại tự do, A. Smith chủ trương xoá bỏ mọi thứ
thuế bảo hộ mậu dịch và mọi thứ độc quyền. Sở dĩ ơng chủ trương như vậy là
vì những thứ này làm cản trở sự tự do lưu thơng của hàng hố tới người tiêu
thụ. Ơng cũng phê phán quan niệm của phái Trọng thương trong “Bảng cân
đối thương mại” khi phái này cho rằng tiền tệ là tiêu chuẩn duy nhất của sự
giàu có. Ơng cũng cho rằng sự phân công lao động giữa các quốc gia sẽ đem
lại cho mỗi quốc gia nguồn lợi lớn khi mỗi quốc gia chuyên sản xuất ra những
mặt hàng mà họ có thể sản xuất giỏi hơn quốc gia khác.
Sự bất tương xứng về quyền lợi gay gắt nhất, là lợi ích giữa chủ và thợ.
Về vấn đề này ơng phản đối quan niệm của phái trọng thương khi phái này
cho rằng tiền lương thấp buộc công nhân phải làm việc nhiều và do đó nước
Anh càng giàu có hơn.
Về tầm quan trọng của việc nâng cao lợi ích của người lao động đối với
sự tồn vong của quốc gia, theo A. Smith thì xã hội chính trị lớn nào cũng gồm
có đại đa số nơng dân, cơng nhân mọi giới. Việc cải thiện đời sống của họ
không thể coi là một trở ngại cho sự thịnh vượng của toàn xã hội. Khơng một
xã hội nào có thể thịnh vượng và hạnh phúc, nếu tầng lớp đông đảo nhất là
những người lao động phải sống trong bần cùng và khổ sở. Theo ơng , người
dân muốn làm nghề gì thì tuỳ ý của họ, ở đâu trả lương cao, họ thấy có lợi thì
họ làm. Theo A. Smith, nhà nước và xã hội khơng có nhiệm vụ nào quan
trọng hơn là tìm mọi cách để cho người lao động có cuộc sống đầy đủ nhất
điều đó chỉ có lợi mà thơi.
Khi bàn về lợi ích, A. Smith cịn có tầm nhìn vượt thời gian, mà ít có
người đương thời nào, thậm chí hậu thế nhìn thấy được. Đó là khi ông chủ
10
trương nhà nước phải gánh vác công tác giáo dục. Để biện hộ cho chủ trương
này, ông lập luận như sau: Xét cho cùng thì giáo dục khơng phải là khơng có
lợi cho nhà nước. Càng được học hỏi người dân càng khơng bị lừa bịp, càng ít
mê tín dị đoan. Ở những quốc gia người dân dốt nát thì những tệ nạn ấy làm
cho xã hội rơi vào cảnh rối loạn. Quần chúng thơng minh và có học thức bao
giờ cũng lịch sự và nhã nhặn, sống có trật tự hơn những người ít học. Vì vậy
quần chúng cần phải được giáo dục để mỗi cá nhân đều biết tự trọng và để cho
người lãnh đạo cũng phải coi trọng họ, ngược lại họ cũng biết coi trọng lãnh đạo
hơn, để họ khơng phán xét chính phủ một cách thất thường và bừa bãi.
Tóm lại, chủ trương của Adam Smith là đề cao và bảo vệ lợi ích của
người lao động, nói một cách rộng hơn là bảo vệ lợi ích của tồn xã hội. Có
thể khơng một ai lại không hiểu rõ giá trị những nguyên lý mà A. Smith luôn
bảo vệ là: Hãy để cho mỗi người tự tìm kiếm lợi ích cho chính họ, cộng đồng
xã hội tôn trọng, tạo điều kiện cho họ thực hiện điều đó … thì nền kinh tế sẽ
phát triển rất nhanh chóng. Lịch sử đã chứng minh rằng thực thi những
nguyên lý mà A. Smith đã nêu ra, nền kinh tế ở các nước tư bản chỉ trong một
thời gian ngắn đã tạo ra một lượng hàng hoá nhiều hơn tất cả các chế độ trước
đó cộng lại. Sự kỳ diệu ấy là ở chỗ: A. Smith đã đề cập và giải quyết thấu đáo
một vấn đề then chốt: lợi ích kinh tế [32].
1.1.1.2. Quan điểm mác-xít về lợi ích kinh tế
C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, những quan hệ kinh tế của một xã hội
nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích. Do đó, lợi ích
kinh tế cũng phản ánh địa vị kinh tế của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
V.I.Lênin cho rằng, phải “tìm nguồn gốc của những hiện tượng xã hội ở
trong những quan hệ sản xuất, và phải quy những hiện tượng ấy vào lợi ích
của những giai cấp nhất định”.
Như vậy, lợi ích kinh tế là cái phản ánh những quan hệ kinh tế, do các
quan hệ kinh tế sinh ra. Lợi ích kinh tế như là một hiện tượng của bản thân
hiện thực, là sự biểu hiện của các quan hệ kinh tế khách quan.
11
Theo C. Mác, việc phân phối kết quả sản xuất là biểu hiện cơ bản của lợi
ích kinh tế. Phân phối kết quả sản xuất là sự phân chia sản phẩm lao động
giữa những chủ thể tham gia vào nền sản xuất xã hội. Trong nền sản xuất
hàng hóa, phân phối kết quả sản xuất là sự phân chia giá trị tổng sản phẩm xã
hội đã được sản xuất ra trong một thơi gian nhất định giữa những giai cấp,
tầng lớp khác nhau trong xã hội, trong đó sự phân phối phần giá trị mới được
sản xuất ra là đặc biệt quan trọng vì nó thể hiện bản chất của quan hệ sản
xuất, tính đặc thù của từng chế độ xã hội.
C. Mác nhấn mạnh, phân phối kết quả sản xuất phụ thuộc vào phân phối
các điều kiện sản xuất, trước hết là tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Giai cấp
nào nắm tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì quyết định phân phối kết quả sản
xuất, tức là phân phối lợi ích kinh tế. Ngồi ra, “phân phối xã hội định tỷ lệ theo
đó mỗi cá nhân tham dự vào sản phẩm đã sản xuất ra” [4, tr.861].
Tuy nhiên, C.Mác cũng cho rằng, cần phân biệt giữa phân phối kết quả
sản xuất với phân phối thu nhập. Có như thế mới làm rõ được thực chất của
lợi ích kinh tế. Thu nhập trước hết là kết quả thu được từ những hoạt động lao
động nhất định, tức sản phẩm của lao động. Nếu xét từng trường hợp cá biệt,
thu nhập là kết quả thu được từ những hoạt động kinh tế nhất định của từng cá
nhân trong xã hội. Nhưng nếu xét trên phạm vi xã hội thì thu nhập trước hết
thể hiện trong mối quan hệ sản xuất vật chất. Lao động trong lĩnh vực sản
xuất có vai trị quyết định tạo ra thu nhập cho xã hội.
Trong nền kinh tế tự cấp, tự túc, vấn đề thu nhập hầu như không được
đặt ra vì mỗi người sản xuất đều trực tiếp nhận được những sản phẩm do
chính mình sản xuất ra và phân phối trực tiếp cho sản xuất và tiêu dùng cá
nhân. Trong nền kinh tế hàng hóa, sản phẩm lao động khơng chỉ có giá trị sử
dụng mà cịn mang hình thái giá trị. Giá trị mới do lao động thặng dư tạo ra là
cơ sở hình thành nên tổng thu nhập trong nền kinh tế hàng hóa.
Tổng thu nhập là bộ phận giá trị và bộ phận tổng sản phẩm được đo
bằng bộ phận giá trị ấy, còn lại sau khi trừ đi trong tổng sản phẩm
12
cái phần giá trị (và bộ phân tổng sản phầm được đo bằng phần giá
trị ấy) dùng để bù lại tư bản bất biến đã bỏ vào sản xuất và đã bị tiêu
dùng trong sản xuất. Như vậy, tổng thu nhập là bằng tiền công (hoặc
cái bộ phận sản phẩm dùng lại trở thành thu nhập của công nhân) +
lợi nhuận + địa tô [6, tr.576].
Khi làm rõ khái niệm tổng thu nhập xã hội, Mác đã rút ra những tất yếu
kinh tế trong sơ đồ phân phối kết quả sản xuất trong tác phẩm phê phán cương
lĩnh Gôta như sau: Sau khi đã khấu trừ đi các khoản để thay thế những tư liệu
sản xuất đã tiêu dùng; một phần phụ thêm để mở rộng sản xuất; một quỹ dự
trữ hoặc quỹ bảo hiểm đề phòng những tai nạn, những sự rối loạn do các hiện
tượng tự nhiên gây ra... cịn lại thì dành làm vật phẩm tiêu dùng. Nhưng trước
khi tiến hành phân phối cho cá nhân, lại cịn phải khấu trừ: một phần làm
những chi phí quản lý chung, không trực tiếp thuộc về sản xuất; một phần để
xây dựng trường học, cơ quan y tế... một phần làm quỹ cấn thiết để nuôi
dưỡng những người không có khả năng lao động... Cuối cùng mới tới “sự
phân phối” cho tiêu dùng cá nhân - những người sản xuất của tập thể [5,
tr.31]. Phần phân chia cuối cùng cho người lao động từ tổng thu nhập dưới
dạng phân phối kết quả sản xuất, được biểu hiện bằng lượng giá trị kinh tế
nhất định, đó là lợi ích kinh tế.
Như vậy, có thể hiểu, lợi ích kinh tế là giá trị kinh tế mà mỗi cá nhân có
được khi tham dự vào quá trình sản xuất kinh tế, dùng để thỏa mãn nhu cầu
của các cá nhân đó.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, động lực sâu xa thúc
đẩy con người hoạt động chính là lợi ích. Theo đó, thì lợi ích khơng phải là
bản thân quan hệ xã hội, mà là cái mang quan hệ xã hội. Do vậy, việc nhận
thức quan hệ xã hội mà thiếu lợi ích thì về cơ bản nhận thức đó vẫn chỉ mang
tính trừu tượng [10].
Ph. Ăngghen đã khẳng định “Lợi ích kinh tế là nguyên tắc điều tiết cơ
bản mà tất cả mọi nguyên tắc phải khác tuân theo” [5, tr.481]. Bởi vì, cuộc
13
sống con người bao giờ cũng có nhu cầu và địi hỏi thỏa mãn nhu cầu. Khơng
có nhu cầu và việc thỏa mãn nhu cầu thì khơng có sản xuất, khơng có sản xuất
thì khơng có sự tồn tạo và phát triển của xã hội lồi người, do đó khơng có cả
những cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt làm “bà đỡ” thúc đẩy sự tiến bộ lịch
sử trong những xã hội có đối kháng giai cấp.
Ăngghen cịn cho rằng: ở đâu khơng có sự thống nhất về lợi ích thì ở đó
khơng có sự thống nhất những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào
đó được biểu hiện trước hết là ở dưới hình thức lợi ích.
Theo C.Mác và Ăngghen, hành vi của mỗi cá nhân trong xã hội suy cho
cùng đều nhằm tìm kiếm lợi ích hoặc những điều kiện để thực hiện những lợi ích
khác nhau. Trên cơ sở lợi ích mà quan hệ của các cá nhân, các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội ln thể hiện tính hai mặt là vừa thống nhất vừa đấu tranh.
Mác từng hàm ý rằng những tư tưởng mà tách rời lợi ích kinh tế thì sẽ
“làm nhục” nó. Lênin khẳng định:
Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp
này hay giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, hay những
tuyên bố hay những lời hứa hẹn nào đó có tính chất đạo đức, tơn
giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là
kẻ ngốc nghếch bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về mặt
chính trị [24, tr.57].
C. Mác cho rằng lợi ích chính là động lực và mục tiêu để con người ta
hành động. Lợi ích là khâu nhạy cảm nhất trong toàn bộ chuỗi quy định của
nhân quả gây nên hoạt động của con người, là “huyệt” mà tác động vào đó sẽ
gây nên những phản ứng nhanh nhạy nhất của cơ thể xã hội. Ông viết: “Tất cả
cái gì mà con người đấu tranh để giành lấy, đều dính liền với lợi ích của họ”. [7].
1.1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lợi ích kinh tế
Vấn đề lợi ích, trong đó đề cao lợi ích kinh tế, vai trị của nó trong sự
phát triển xã hội đã được Đảng ta nhận thức từ rất sớm.
Ngay từ năm 1959, trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp, chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã khẳng định trong chế độ ta, lợi ích của nhà nước, của tập
14
thể, cùng với lợi ích của cá nhân về căn bản là thống nhất. Quan điểm này
được quán xuyến, thống nhất trong tồn bộ đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta từ đó đến nay.
Từ những năm 1980, Đảng và Nhà nước ta đã đề cập việc kết hợp
khuyến khích bằng lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế với việc giáo dục tinh thần
để thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên, giai đoạn này vấn đề lợi ích chưa
được nhận thức một cách sâu sắc. Chúng ta mới chỉ chú ý đến động viên
người lao động bằng lợi ích tinh thần để họ phấn khởi bước vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nhưng do thực tiễn cuộc sống đã biến đổi nhanh chóng nhất là
trong phát triển kinh tế nên các lợi ích tinh thần, lợi ích chung đã tỏ ra kém
hiệu quả trong việc thúc đẩy tính tích cực của người lao động.
Cho nên sau năm 1982, Đảng ta thực hiện chủ trương “ba lợi ích” trong
kinh tế, đó là lợi ích của nhà nước, của tập thể và của cá nhân người lao động.
Trong đó, lợi ích của cá nhân người lao động, nhất là lợi ích kinh tế bước đầu
được coi trọng và khuyến khích tạo điều kiện thực hiện. “Thực hiện đúng đắn sự
thống nhất giữa ba lợi ích, bảo đảm lợi ích toàn xã hội, bảo đảm lợi ích của tập
thể, chú trọng đúng mức đến lợi ích cá nhân người lao động” [15, tr.86-87].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 - 1986), Đảng ta chủ trương:
“Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và
khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng thuận, hưởng ứng
của quần chúng” [16, tr.363]. Trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế phải “giải
quyết đúng đắn các lợi ích kinh tế của toàn xã hội, của tập thể và của người lao
động, trong đó lợi ích của người lao động là động lực trực tiếp” [17, tr.375].
Đảng chủ trương giải quyết hài hịa các lợi ích trong xã hội, khuyến
khích các thành phần kinh tế phát triển, kích thích hoạt động kinh tế của cá
nhân người lao động, của các chủ doanh nghiệp, các công ty, các nhà máy
khai thác mọi khả năng và nguồn lực để phát triển sản xuất, buôn bán và làm
giàu một cách hợp pháp, thỏa mãn nhu cầu của cá nhân đồng thời góp phần
tích cực đưa nền kinh tế phát triển.
15
Đặc biệt Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4 /1988) đã tạo ra sự gắn kết
giữa kinh tế nông nghiệp và kinh tế cơng nghiệp, giữa lợi ích kinh tế của công
nhân và nông dân, đem lại diện mạo mới cho nền kinh tế.
Nhìn một cách khái quát chúng ta thấy rằng, Đảng ta có nhận thức ngày
càng sâu sắc về việc giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích trong xã hội, cụ
thể ở các phương diện sau:
+ Quan tâm giải quyết những lợi ích thiết thân, chính đáng của người lao
động, tạo động lực giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất của xã hội.
+ Tạo được sự thống nhất ngày càng chặt chẽ giữa lợi ích của Nhà nước
với lợi ích của cá nhân, của tập thể, của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội.
+ Đã có những phương thức điều chỉnh linh hoạt vấn đề lợi ích, tạo cơ sở
cho sự ổn định chính trị - xã hội, thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
1.1.2. Khái niệm lợi ích kinh tế
Có thể hiểu một cách chung nhất, lợi ích là cái phản ánh quan hệ nhu cầu
giữa các chủ thể và dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội (cá
nhân, tập đồn, giai cấp, tầng lớp...). Theo đó, về bản chất, lợi ích là cái phản
ánh quan hệ của các chủ thể nhu cầu, còn nội dung là để thỏa mãn nhu cầu
của chủ thể ấy.
Trong xã hội có nhiều loại nhu cầu khác nhau, dựa trên những căn cứ
khác nhau người ta chia lợi ích thành nhiều loại khác nhau:
Căn cứ vào lĩnh vực đời sống xã hội chia thành lợi ích kinh tế, lợi ích
chính trị, lợi ích văn hóa-tinh thần... khái qt hơn là lợi ích vật chất và lợi ích
tinh thần.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của chủ thể chia thành lợi ích cá nhân, lợi
ích tập thể, lợi ích xã hội, lợi ích giai cấp... khái quát hơn là lợi ích chung và
lợi ích riêng.
Căn cứ vào thời gian tồn tại của lợi ích chia thành lợi ích trước mắt và
lợi ích lâu dài.
- Căn cứ vào tầm quan trọng của lợi ích chia thành lợi ích căn bản và lợi
ích không căn bản, lợi ích thứ yếu và lợi ích chủ yếu.
16
Tất nhiên sự phân chia này chỉ mang ý nghĩa tương đối. Thực tế các lợi
ích này ln tồn tại trong sự đan xen, tác động qua lại và cùng tồn tại trong
các chủ thể lợi ích.
Từ những sự phân tích trên, ta có thể hiểu, lợi ích kinh tế là một phạm
trù kinh tế biểu hiện quan hệ sản xuất được phản ánh trong ý thức thành động
cơ thúc đẩy hoạt động sản xuất nhằm thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu vật
chất (nhu cầu kinh tế) của các chủ thể tham gia vào hoạt động đó.
Lợi ích kinh tế là thu nhập mà mỗi chủ thể có được khi tham dự vào quá
trình sản xuất xã hội. Lợi ích kinh tế biểu hiện ở mức độ của cải vật chất mà
mỗi chủ thể có được khi tham gia vào các hoạt động kinh tế của xã hội và để
thỏa mãn các nhu cầu kinh tế của họ. Tất cả hệ thống lợi ích kinh tế trong xã
hội đều do những quan hệ sản xuất quyết định. Lợi ích kinh tế phụ thuộc vào
mức độ sở hữu các điều kiện của sản xuất và tỷ lệ lao động mà mỗi cá nhân
tham gia vào quá trình sản xuất xã hội.
Trong nền kinh tế hàng hóa, lợi ích kinh tế (mức thu nhập) được biểu
hiện bằng tiền. Nhưng theo bản chất của mình, tiền khơng phải là thu nhập,
mà chỉ có thể đóng vai trị là hình thái cụ thể nhất định của thu nhập trong
những điều kiện nhất định. Sự xuất hiện của tiền làm cho thu nhập có thể
biểu hiện ra bên ngồi dưới hình thức tiền, bằng một lượng tiền nhất định.
Theo đó, lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia vào ngành du lịch hiện nay
là những thu nhập họ nhận được khi trực tiếp hay gián tiếp tham gia các hoạt
động sản xuất kinh tế, biểu hiện thông qua lợi nhuận, tiền công, tiền lương,
thù lao...
Giá trị kinh tế mà mỗi người lao động nhận được có thể được biểu hiện
dưới hình thái tiền tệ hoặc sản phẩm. Trong nền kinh tế hàng hóa, hình thái
tiền tệ là cơ bản. Dưới hình thái tiền tệ, lợi ích kinh tế được biểu hiện ra ở một
hình thức cơ bản là thu nhập bằng một lượng tiền nhất định. Dù thu nhập đó
được tạo ra bằng hình thức nào (như trợ cấp, phúc lợi xã hội, kinh doanh,
bn bán...) thì xét đến cùng, nó vẫn là một phần của tổng thu nhập xã hội.
17
Khái quát lại, lợi ích kinh tế gắn với nhu cầu kinh tế, phản ánh mục đích
và động cơ của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động KT-XH và do hệ
thống quan hệ sản xuất quyết định. Lợi ích kinh tế của giai cấp này hay giai
cấp khác trong xã hội không phải do bản thân giai cấp ấy quyết định mà nó
phụ thuộc vào quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất nói chung. Do đó,
lợi ích kinh tế là phạm trù mang tính khách quan, nó phản ánh các quan hệ
kinh tế khách quan giữa các giai cấp, tầng lớp. Điều đó cũng có nghĩa là,
muốn thay đổi các lợi ích kinh tế cơ bản cần phải thay đổi quan hệ sản xuất
mà các giai cấp phụ thuộc vào. Lênin viết: Lợi ích của giai cấp này hay giai
cấp khác xác định một cách khách quan theo vai trị mà họ có trong hệ thống
quan hệ sản xuất theo những điều kiện của hoàn cảnh sống của họ.
Lợi ích kinh tế một mặt phản ánh mối quan hệ nhu cấu kinh tế của con
người với sự vật, hiện tượng bên ngoài; mặt khác phản ánh quan hệ giữa con
người với con người trong quá trình hoạt động kinh tế của xã hội, nhất là trên
ba mặt của quan hệ sản xuất. Tất cả hệ thống lợi ích kinh tế trong xã hội đều
do những quan hệ sản xuất quyết định. Nói cách khác, lợi ích kinh tế do mức
độ sở hữu các tư liệu sản xuất và tỷ lệ lao động mà mỗi cá nhân tham gia vào
sản xuất xã hội quyết định.
1.1.3. Đặc trưng của lợi ích kinh tế
1.1.3.1. Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất
Lợi ích kinh tế biểu hiện với tư cách là một mối quan hệ xã hội khách
quan. Đó là mối quan hệ quy định sự hoạt động cụ thể của một con người hay
một nhóm người nhất định. Với ý nghĩa này, nó hiện ra trong hệ thống các
quan hệ xã hội là một mối quan hệ xã hội khách quan đặc biệt. Nó thực sự là
mối quan hệ “chìm” sau các quan hệ hành vi. Nó chi phối và định hướng hoạt
động của các chủ thể trong quá trình hoạt động của họ. Nói cách khác, lợi ích
kinh tế là động lực trực tiếp thúc đẩy chủ thể hoạt động. Chính vì vậy, qua
quan hệ lợi ích kinh tế có thể nhận thấy xu hướng của một cá nhân, một giai
cấp hay cả một dân tộc trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định.
18
Trong các quan hệ xã hội khách quan thì quan hệ sản xuất giữ vai trò
nòng cốt, chi phối các quan hệ khác. Hay nói một cách cụ thể hơn, lợi ích
kinh tế được quyết định trước hết bởi vị trí của con người trong hệ thống quan
hệ sản xuất, tức là quan hệ sở hữu. Vì vậy để phải của lợi ích quan trọng
khơng phải nắm. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư
liệu sản xuất thì sẽ được lợi ích kinh tế nhiều nhất.
Ví dụ: Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản nắm quyền sở hữu tư liệu sản
xuất, vì vậy đóng vai trị ơng chủ tổ chức và quản lý quá trình sản xuất và
phân phối kết quả làm ra theo hướng có lợi cho giai cấp mình dưới hình thức
q trình thể dục. Cịn giai cấp vơ sản khơng có tài liệu sản xuất buộc phải
bán sức lao động của mình và bị bóc lột.
Mỗi một xã hội có một hệ thống lợi ích kinh tế riêng của mình, mức độ
thoả mãn nhu cầu lợi ích do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất của xã hội đó quyết định. Mỗi hệ thống lợi ích đó lại có sự khác nhau về
tính chất, kết cấu về vị trí và mối quan hệ giữa các bộ phận trong kết cấu đó.
1.1.3.2. Lợi ích kinh tế bao giờ cũng gắn liền với nhu cầu
Hoạt động của con người suy cho cùng cũng là để thỏa mãn những nhu
cầu của mình. Nhu cầu trước hết phản ánh trạng thái mất cân bằng của con
người với hồn cảnh. Nhu cầu đó là những mong muốn, địi hỏi của con
người muốn có những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển.
Cùng với sự phát triển của xã hội và sự phát triển của bản tyhân cá
nhân mà ở một lúc nào đó, ở một hồn cảnh cụ thể nào đó quan hệ nhu cầu đã
“chuyển” sang một quan hệ khác. Đó là quan hệ giữa các chủ thể có cùng
những nhu cầu giống nhau, cùng đối tượng thỏa mãn các nhu cầu ấy và với
điều kiện sinh sống của họ trong việc thực hiện nhu cầu cấp bách của mình đó là quan hệ lợi ích. Quan hệ lợi ích có cơ sở từ quan hệ nhu cầu.
Để thoả mãn nhu cầu của mình, một trong những cách thức đó là con
người tiến hành hoạt động lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất nhằm thoả
mãn nhu cầu của con người. Thông qua hoạt động sản xuất, con người thu về
được các lợi ích, những thứ có lợi như là tiền lương, tiền thưởng, vật phẩm,
19
lợi nhuận để thoả mãn nhu cầu của mình. Việc thoả mãn các nhu cầu kinh tế
gọi là lợi ích kinh tế. Chẳng hạn, một người A làm việc cho doanh nghiệp B
cuối tháng được trả lương và thưởng. Người A đó dùng lương để mua những
vật phẩm thoả mãn nhu cầu của mình. Như vậy có nghĩa là người A thơng qua
hoạt động lao động của mình nhận được lợi ích kinh tế để thoả mãn nhu cầu.
Tuy nhiên không phải mọi nhu cầu được thoả mãn đều là lợi ích kinh tế mà
chỉ có nhu cầu kinh tế mới tạo ra lợi ích kinh tế.
Nếu nhu cầu là mối quan hệ giữa chủ thể và điều kiện sinh sống trong sự
duy trì và phát triển bản thân con người thì lợi ích vừa là mối quan hệ giữa chủ
thể với điều kiện, vừa là mối quan hệ giữa các chủ thể cùng có nhu cầu và đối
tượng thỏa mãn nhu cầu với nhau trong cùng một hoàn cảnh lịch sử nhất đinh.
1.1.3.3. Lợi ích kinh tế mang tính giai cấp và tính lịch sử
Sở dĩ lợi ích kinh tế mang tính lịch sử và tính giai cấp bởi vì lợi ích kinh
tế do quan hệ sở hữu quyết định mà quan hệ sản xuất chỉ hình thành và tồn tại
tương ứng với mỗi trình độ nhất định của lực lượng sản xuất nên nó bao giờ
cũng mang tính lịch sử và tính giai cấp. Do đó lợi ích kinh tế cũng thay đổi và
luôn đảm bảo cho giai cấp thống trị nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất.
Các nhà kinh điển khẳng định: “Quy mô cũng những nhu cầu được gọi là
tất yếu và những phương thức để thỏa mãn những nhu cầu ấy chính là sản phẩm
của lịch sử và sự phụ thuộc phần lớn vào trình độ văn hóa của đất nước” [13].
Cho nên muốn nắm vững tính chất lịch sử của lợi ích khơng những phân
biệt tính chất, quy mơ của lợi ích mà cịn phải phân tích cơ cấu của hệ thống
lợi ích đó, làm rõ những thành phần của nó. Những vị trí và vai trị khác nhau
của từng thành phần ấy, xác định đúng lợi ích nào đóng vai trị chủ yếu, vai
trò quyết định và sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
1.1.4. Vai trị của lợi ích kinh tế
1.1.4.1. Lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển
20
Trong xã hội, cuộc đấu tranh của những lợi ích riêng biệt đã vơ tình tạo
ra một lực lượng sản xuất tăng lên gấp bội nhờ sự hợp tác của những cá nhân.
Bởi lẽ, mỗi cá nhân đều chỉ theo đuổi những lợi ích của mình, nhưng muốn
vậy họ phải tham gia vào các quan hệ xã hội, qua đó họ tạo ra một phương
thức hợp tác này theo những cách thức nhất định hình thành một “sức sản
xuất” mới.
Chính thơng qua việc thực hiện lợi ích kinh tế của mình trong điều kiện
xã hội nhất định, con người đã tạo ra một hợp lực, hợp lực đó vừa biểu hiện ra
như một sức sản xuất mới mà sự biển đổi của nó tạo động lực cho lịch sử, vừa
tạo ra quy luật cho sự biến đổi lịch sử mà chính cá nhân mình đang ở trong đó.
Lợi ích tồn tại khách quan và có vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế
xã hội. Nó là một trong những động lực cơ bản phổ biến của sự phát triển không
ngừng của sản xuất và đời sống xã hội. Lịch sử đã chứng minh động lực thúc
đẩy con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, không phải là cái gì khác
ngồi lợi ích của họ. Chính những lợi ích đã tạo ra ở con người sự kích thích,
thôi thúc khát vọng và sự say mê trong mọi hoạt động của đời sống xã hội.
1.1.4.2. Lợi ích kinh tế giữ vai trị quyết định hệ
thống lợi ích của xã hội
Trong hệ thống lợi ích của con người nói chung bao gồm: lợi ích kinh tế,
lợi ích chính trị, tư tưởng... thì lợi ích kinh tế giữ vai trị quyết định nhất, chi
phối các lợi ích khác.
Nhu cầu vật chất là nhu cầu đầu tiên, cơ bản nhất cho sự tồn tại và phát
triển của con người, của xã hội. Cho nên khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì
nó cũng tạo cơ sở, tiền đề để thực hiện các lợi ích khác. Một khi đời sống vật
chất của xã hội được phồn thịnh, thì đời sống tinh thần cũng được nâng cao.
Mặt khác, lợi ích kinh tế là mắt khâu cơ bản trong cơ chế tác động của
các quy luật kinh tế xã hội, thúc đẩy quá trình sản xuất và xây dựng chủ nghĩa
xã hội trong thời kỳ quá độ. Trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, lợi ích kinh tế hướng vào sự thỏa mãn
21
nhu cầu thiết yếu của con người, chi phối hết sức mạnh mẽ cả hành động và
nhận thức của con người. Chính lợi ích kinh tế của cá nhân, của người lao
động và xã hội đang trở thành động lực mạnh mẽ thôi thúc mọi người hoạt
động. Sự hoạt động của mỗi cá nhân, mỗi gia đình ví một mục đích hết sức cụ
thể là làm sao nhanh chóng thốt khỏi nghèo khổ của bản thân mình, đồng
thời tạo nên những xu hướng vận động và phát triển của xã hội.
Lợi ích kinh tế có vai trị quan trọng trong việc củng cố và duy trì mối
quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Một khi con người (chủ thể) tham
gia vào hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới những lợi ích nhất định. Nếu lợi ích
tương xứng hài hịa giữa các chủ thể thì thúc đẩy sự phát triển của các chủ thể lợi
ích. Ngược lại, lợi ích giữa các chủ thể khơng được thực hiện đầy đủ và mâu
thuẫn thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển và đưa tới những hậu quả khơng tốt.
Chính vì vậy, lợi ích kinh tế có vai trị quan trọng trong thời kỳ quá độ ở
nước ta, là cơ sở điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại và sư phát triển của con
người nói riêng và xã hội nói chung. Lợi ích kinh tế là động lực kinh tế của
các hoạt động kinh tế, của sự phát triển xã hội. Vì xã hội vận động cơ bản là
vận động qua việc thực hiện lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế là nguyên tắc điều
tiết cơ bản của mọi nguyên tắc, giữ vai trò quyết định tất cả những hành vi, lợi
ích khác nhau của con người. Mặt khác, động lực lợi ích kinh tế là nền tảng,
là cơ sở cho việc hình thành và giải quyết các động lực lợi ích khác của con
người, chi phối đời sống chính trị, tư tưởng xã hội một cách trực tiếp hay gián
tiếp. Vì vậy, nhận thức và hoạt động đúng lợi ích kinh tế góp phần tạo nên
động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
1.2. CÁC CHỦ THỂ KINH TẾ TRONG NGÀNH DU LỊCH
1.2.1. Nhà nước (Chính quyền địa phương)
Quản lý nhà nước về du lịch cũng có sự phân cấp quản lý giữa cấp trung
ương và cấp địa phương. Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cấp Trung
ương bao gồm Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Tổng cục du lịch cùng các
22
vụ chức năng; các Bộ, ngành quản lý các lĩnh vực kinh tế - xã hội; cấp địa
phương là các cơ quan quản lý về du lịch ở địa phương đại diện là Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, các Sở ban ngành có liên quan có nhiệm vụ:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
chính sách phát triển du lịch.
- Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật,
tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật trong hoạt động du lịch.
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch.
- Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; nghiên
cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.
- Tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch để xây dựng quy hoạch phát
triển du lịch, xác định khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
- Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về du lịch; hoạt động xúc tiến du lịch
ở trong nước và nước ngoài.
- Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, sự phối hợp của
các cơ quan nhà nước trong việc quản lý nhà nước về du lịch.
- Cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về hoạt động du lịch.
- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật về du lịch.
1.2.2. Doanh nghiệp kinh doanh du lịch
Là các cơ sở kinh doanh các dịch vụ phục vụ khách du lịch như khách
sạn, nhà hàng, công ty vận chuyển, điểm tham quan bao gồm:
Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành.
Khi nghiên cứu hoạt động kinh doanh lữ hành, nhìn chung các chuyên
gia về du lịch muốn đề cập đến các hoạt động chính như "làm nhiệm vụ giao
dịch, ký kết với các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước, nước ngoài để xây
dựng và thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho du khách du lịch". Tuy
nhiên, trên thực tế khi nói đến hoạt động kinh doanh lữ hành chúng ta thường
thấy song song tồn tại hai hoạt động phổ biến:
23
Kinh doanh lữ hành: Là việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị
trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói hay từng phần; quảng cáo và
bán các chương trình này cho trực tiếp hay gián tiếp qua các trung gian hoặc văn
phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình và hướng dẫn du lịch.
Kinh doanh đại lý lữ hành: Là việc thực hiện các dịch vụ đưa đón, đăng
ký nơi lưu trú, vận chuyển, hướng dẫn tham quan, bán các chương trình du
lịch của các doanh nghiệp lữ hành, cung cấp thông tin du lịch và tư vấn du
lịch nhằm hưởng hoa hồng.
Doanh nghiệp kinh doanh khách sạn (Hay còn gọi là kinh doanh cơ sở
lưu trú du lịch) là làm nhiệm vụ tổ chức việc đón tiếp, phục vụ việc lưu trú, ăn
uống, vui chơi giải trí, bán hàng cho khách du lịch".
Cơ sở lưu trú du lịch bao gồm: Khách sạn; Làng du lịch; Biệt thự du lịch;
Căn hộ du lịch; Bãi cắm trại du lịch; Nhà nghỉ du lịch; Nhà ở có phịng cho
khách du lịch thuê; Các cơ sở lưu trú du lịch khác.
Doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch là việc cung cấp
dịch vụ vận chuyển cho khách du lịch theo tuyến du lịch, theo chương trình
du lịch và tại các khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch.
Doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ du lịch khác: Ngoài các hoạt động
kinh doanh như đã nêu trên, trong lĩnh vực kinh doanh du lịch cịn có một số
hoạt động kinh doanh bổ trợ như kinh doanh các loại hình dịch vụ vui chơi,
giải trí, tun truyền, quảng cáo du lịch, tư vấn đầu tư du lịch… Cùng với xu
hướng phát triển ngày càng đa dạng của những nhu cầu của khách du lịch, sự
tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và sự gia tăng mạnh của các doanh nghiệp du
lịch dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường du lịch thì các hoạt
động kinh doanh bổ trợ này ngày càng có xu hướng phát triển mạnh.
Trong Điều 38, Mục I, Chương VI, Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 có
quy định ngành nghề kinh doanh du lịch bao gồm:
Kinh doanh lữ hành;
Kinh doanh lưu trú du lịch;
Kinh doanh vận chuyển khách du lịch;
24
Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch;
Kinh doanh dịch vụ du lịch khác.
1.2.3. Người dân địa phương
Là những cộng đồng dân cư ở xung quanh các điểm du lịch.
Cộng đồng dân cư có quyền tham gia và hưởng lợi ích hợp pháp từ hoạt
động du lịch; có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch, bản sắc văn hố địa
phương; giữ gìn an ninh, trật tự, an tồn xã hội, vệ sinh mơi trường để tạo sự
hấp dẫn du lịch.
Cộng đồng dân cư được tạo điều kiện để đầu tư phát triển du lịch, khôi
phục và phát huy các loại hình văn hố, nghệ thuật dân gian, ngành, nghề thủ
cơng truyền thống; sản xuất hàng hố của địa phương phục vụ khách du lịch,
góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân địa phương.
1.2.4. Khách du lịch
Trong Luật Du lịch được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thơng qua năm 2005 định nghĩa: "Khách du lịch là người đi du lịch hoặc
kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận
thu nhập ở nơi đến" [31].
Khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế.
Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường
trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài
thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA CÁC CHỦ
THỂ TRONG NGÀNH DU LỊCH
Quan hệ lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất nên
nó bị chi phối bới các nhân tố cơ bản sau:
1.3.1. Nhóm các nhân tố thuộc về lực lượng sản xuất
1.3.1.1. Tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
25
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tác dụng trước hết làm nảy sinh
hoạt động du lịch, rồi sau đó đẩy nó phát triển với tốc độ nhanh hơn. Sự phát
triển của du lịch cũng bị chi phối bởi nền sản xuất xã hội. Để giải quyết nhu
cầu ăn ở, đi lại, nghỉ ngơi, du lịch của con người tất yếu phải có, thí dụ cơ cấu
hạ tầng tương ứng, những cái thiết yếu nhất đối với khách du lịch như mạng
lưới đường sá, phương tiện giao thơng, khách sạn, nhà hàng… khó có thể
trơng cậy vào một nền kinh tế kém phát triển.
Du lịch là một ngành dịch vụ quan trọng cấu thành nên cơ cấu kinh tế
của mỗi quốc gia trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Sự phát
triển của nền kinh tế đòi hỏi sự tăng trưởng và phát triển cùng lúc của tất cả
các ngành có như vậy mới đảm bảo sự tăng trưởng ổn định và bền vững.
Các ngành cấu thành nên cơ cấu kinh tế có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
Sự tăng trưởng và phát triển của các ngành công nghiệp, xây dựng cũng
như nông nghiệp sẽ một mặt cung cấp các điều kiện phát triển cho ngành
du lịch; mặt khác, khi nền kinh tế tăng trưởng thu nhập của dân cư tăng lên
thì nhu cầu hưởng thu các dịch vụ từ du lịch sẽ tăng lên nhanh chóng. Từ
đó, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của ngành du lịch. Du lịch không thể
phát triển trong một nền kinh tế nghèo, khủng hoảng và có tốc độ tăng
trưởng chậm, không ổn định. Khi du lịch phát triển cùng với sự phát triển
của nền kinh tế sẽ làm cho "cái bánh" lợi ích kinh tế ngày càng to lên và sự
phân chia cái bánh đó sẽ trở nên dễ dàng hơn và các chủ thể liên quan sẽ có
phần lợi ích nhiều hơn.
1.3.1.2. Tài ngun du lịch
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch
sử - văn hóa, cơng trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân
văn khác được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để
hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
Tài nguyên du lịch chia làm hai loại bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên
(các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh