1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới đang tiến vào thế kỷ XXI, với một nền văn minh rực rỡ nhờ
những cố gắng và đấu tranh không mệt mỏi trong khai thác và chinh phục tự
nhiên nhằm tạo ra ngày càng nhiều của cải nhưng cũng ngổn ngang những
vấn đề gay gắt mang tính tồn cầu.
Chúng ta đang chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng: tài chính, lương
thực, mơi trường, từ đó xuất hiện tình trạng biến đổi khí hậu, đói nghèo đang
đe dọa cuộc sống hiện tại và tương lai.
¾ dân số trên thế giới chỉ sở hữu ¼ của cải xã hội, đồng nghĩa với hàng
tỉ người dân trên thế giới vẫn khốn cùng và đói khát.
Tuy cộng đồng quốc tế đã có nhiều biện pháp nỗ lực trong giải quyết
vấn đề giảm nghèo song trên bình diện quốc gia tốc độ tăng trưởng kinh tế
không theo kịp với tốc độ tăng dân số, phát triển kinh tế chưa tính đến các yếu
tố bền vững về xã hội, về mơi trường. Vì vậy, kết quả của cơng tác giảm
nghèo đến lượt nó sẽ bị tác động trở lại bởi những rủi ro từ xã hội, từ môi
trường thiên nhiên và nguy cơ tái nghèo luôn hiện hữu.
Ngày nay, giảm nghèo bền vững đang là xu thế quan trọng trong chiến
lược phát triển của mỗi quốc gia đặc biệt đốí với các nước đang phát triển, nơi
mà tỷ lệ tái nghèo luôn ở mức cao. Giảm nghèo bền vững là nhân tố quan
trọng tạo nên sự phát triển bền vững. Ngược lại khi kinh tế phát triển bền vững
lại tạo điều kiện để giảm nghèo bền vững.
Tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hiệp quốc (tháng 9/2000), 189
quốc gia thành viên của Liên Hiệp quốc đã thông qua Tuyên bố thiên niên
kỷ. Đây là lộ trình tiến tới xây dựng một thế giới mà ở đó khơng cịn nghèo
đói, tất cả trẻ em được đi học, sức khỏe nhân dân được nâng cao, mơi trường
được duy trì bền vững và mọi người được hưởng tự do công bằng và bình
đẳng. Đây là sự đồng thuận và nỗ lực của các nhà lãnh đạo trên thế giới
2
nhằm giải quyết các thách thức toàn cầu trong thế kỷ XXI trong đó có vấn
đề giảm nghèo bền vững.
Việt Nam sau 25 năm đổi mới và phát triển, chúng ta đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội. Tăng trưởng kinh tế bền vững trên diện
rộng trong suốt hai thập kỷ qua đã cải thiện chất lượng cuộc sống cho hầu hết
tất cả người dân. Theo tính tốn của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ nghèo đã giảm
liên tục từ 58% năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998, 28,9 % năm 2002, 16
% năm 2006 và 14,5 % năm 2008. Ước tính có khoảng 28 triệu người đã thoát
nghèo trong hai thập kỷ qua.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề giảm nghèo
bền vững, ngày 27/12/2008 Chính phủ đã có Nghị quyết 30a/2008/NQ - CP
về “chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện
nghèo” và Nghị quyết 80/NQ - CP ngày 19/05/2011 về “Định hướng giảm
nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020”
Trong định hướng phát triển của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa XI
đã xác định:
Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ
các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Thực hiện có hiệu quả hơn
chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa các
nguồn lực và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là
tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn. Khuyến
khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung
bình khá trở lên. Có chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế
phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và
thành thị [19, tr.124- 125].
Cùng với các thành phố lớn trong cả nước, thành phố Đà Nẵng đang
phấn đấu trở thành một đô thị văn minh, hiện đại. Dựa trên các tiêu chí của
3
Chương trình thành phố “5 khơng - 3 có”, các chính sách phát triển kinh tế an sinh xã hội được xây dựng và triển khai. Vì vậy, bộ mặt của thành phố đang
đổi thay từng ngày cùng với đời sống đi lên của các tầng lớp nhân dân. Góp phần
vào thành quả chung của thành phố, phải kể đến vai trị đầu tàu trong cơng tác
giảm nghèo của quận Hải Châu (quận trung tâm thành phố Đà Nẵng).
Quận Hải Châu (Quận I cũ), được tái thành lập sau khi chia tách tỉnh
Quảng Nam - Đà Nẵng và trở thành quận trung tâm của thành phố trực thuộc
TW, theo Nghị định số 07/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày
23/01/1997.
Mười lăm năm kể từ ngày tái lập, quận Hải Châu đã phát triển toàn
diện trên tất cả các mặt: kinh tế - xã hội - quốc phòng an ninh xứng đáng với
vai trị là trung tâm chính trị - hành chính - kinh tế - văn hóa của thành phố Đà
Nẵng. Đặc biệt, công tác an sinh xã hội được tập trung triển khai mạnh mẽ và
phát huy hiệu quả tích cực. Xóa 100% hộ đặc biệt nghèo; số hộ nghèo còn
837 hộ chiếm 1,74% tổng số hộ dân, phổ cập xong chương trình THCS, sức
khỏe của nhân dân được nâng cao...Đến tháng 9/2012 đã có 4/13 phường
khơng cịn hộ nghèo (theo chuẩn 500.000đ/người/tháng).
Những kết quả trong công tác giảm nghèo ở Hải Châu mới chỉ là bước
đầu, tuy nhiên vẫn cịn nhiều bất cập: tình trạng tái nghèo vẫn diễn ra, việc sử
dụng các nguồn lực trong giảm nghèo chưa tương xứng với tiềm năng: vốn,
lao động, kinh nghiệm sản xuất; việc tuyên truyền nâng cao ý thức thoát
nghèo cho người dân cịn hạn chế... Vì vậy, làm sao để giúp các hộ nghèo
thoát nghèo nhanh, bền vững ở một địa bàn với đặc điểm dân cư có đời sống
và thu nhập cao là vấn đề đang được cả hệ thống chính trị và xã hội quận Hải
Châu hết sức quan tâm.
Xuất phát từ những phân tích trên, học viên lựa chọn đề tài: “Giảm
nghèo bền vững ở quận Hải Châu - Thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đói nghèo là vấn đề kinh tế - xã hội dành được sự quan tâm lớn của cộng
đồng xã hội. Bởi, nó tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và đến
sự phát triển của một quốc gia, vùng, miền hay của bản thân mỗi người.
Vì vậy đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều chương trình,
đề án đề cập đến vấn đề xóa đói giảm nghèo (XĐGN) ở nhiều giác độ khác
nhau, ví như:
* Dưới dạng báo cáo, đề án, đề tài có
- “Phát triển kinh tế - xã hội với xóa đói, giảm nghèo ở ngoại thành Hà
Nội” của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học - Học viện chính trị - hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007: đề cập đến mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế - xã hội với nghèo, đói; đặc biệt nhấn mạnh mối quan hệ văn hóa với
xóa đói giảm nghèo”.
- “Báo cáo sơ kết thực hiện chương trình, mục tiêu xố đói giảm nghèo
và việc làm 2001 -2003, nhiệm vụ và giải pháp”, của Bộ Lao động - Thương
binh & xã hội, Hà Nội, 2003.
- “Tổ chức và hoạt động của Ủy ban quốc gia về xóa đói, giảm nghèo,
1995” Đề án của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 1995.
- Localising MDGs for Poverty Reduction in Vietnam: Enhancing Access
to Basic InFrastructure, Báo cáo nghiên cứu của Nhóm hành động chống nghèo
đói, Japan bank for international cooperation, Hà Nội, Việt Nam năm 2002.
- Shanks, Edwin, và Carrie Turk, 2002, "Policy Recommendations from
the Poor", Vietnam Development Information Center, tổng hợp các kết quả
điều tra, báo cáo khoa học chuẩn bị cho Nhóm hành động chống nghèo đói
(PTE), diễn đàn của các tổ chức chính phủ, các nhà tài trợ và các tổ chức phi
chính phủ đưa ra các khuyến nghị chính sách ban đầu cho việc xây dựng
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xố đói giảm nghèo (CPRGS) của
Việt Nam.
5
* Dưới dạng sách có
Viện Khoa học xã hội Việt Nam (VASS): “Giảm nghèo ở Việt Nam:
Thành tựu và thách thức”, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2011.
- Viện Khoa học xã hội Việt Nam (VASS): “Xóa đói, giảm nghèo với
tăng trưởng kinh tế”, Nxb Lao động, Hà Nội, 1997.
- Viện Khoa học xã hội Việt Nam (VASS):“Vấn đề xóa đói giảm
nghèo ở nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
- Vũ Thị Ngọc Phùng: “Tăng trưởng kinh tế, cơng bằng xã hội và vấn
đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- Ngô Quang Minh: “Tác động kinh tế của nhà nước góp phần xóa đói
giảm nghèo trong quá trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- Lê Xuân Bá và Chu Tiến Quang: “Nghèo đói và xố đói giảm nghèo
ở Việt Nam", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001.
- Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội: “Những định hướng chiến
lược của chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006 2010”, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội 2004,
* Dưới dạng luận văn, luận án có các cơng trình như
- Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Thị Hằng: “Vấn đề giảm nghèo trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2001.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Bùi Thị Lý:“Vấn đề xóa đói giảm nghèo
ở tỉnh Phú Thọ hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Đỗ Thế Hạnh:“Thực trạng và những giải
pháp kinh tế chủ yếu nhằm xóa đói giảm nghèo ở vùng định canh, định cư
tỉnh Thanh Hóa”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998.
- Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Công Bằng:“Giảm nghèo tại cỏc
huyn ngoi thnh H Ni, Đại học kinh tế Quốc d©n, 2009.
6
Về cơ bản, các cơng trình đã cơng bố chủ yếu tập trung nghiên cứu về
xóa đói giảm nghèo nói chung. Chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập đến
vấn đề giảm nghèo mang tính bền vững. Mặc dù thuật ngữ “giảm nghèo bền
vững” đã được sử dụng khá phổ biến và rộng rãi trên các phương tiện thông
tin đại chúng và tại nhiều cuộc hội thảo, hội nghị và các nghiên cứu khoa học
bàn về vấn đề nghèo đói
Song, quan niệm, nội dung của thuật ngữ “giảm nghèo bền vững” cho
đến nay vẫn là một khoảng trống trong nghiên cứu khoa học.
Bởi vậy, đề tài: “Giảm nghèo bền vững ở quận Hải Châu - thành phố
Đà Nẵng” là một đề tài mới và rất cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn, không
trùng lắp với các công trình nghiên cứu đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ quan niệm và nội dung của giảm
nghèo bền vững trên cơ sở đó đánh giá, phân tích thực trạng giảm nghèo bền
vững trên địa bàn quận Hải Châu. Qua đó, đề xuất các giải pháp mang tính
đột phá để nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo bền vững của Thành phố
Đà Nẵng nói chung và quận Hải Châu nói riêng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát và hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giảm
nghèo bền vững.
Phân tích đánh giá thực chất của công tác giảm nghèo tại quận Hải
Châu từ năm 2005 đến nay, làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững ở
quận Hải Châu đến năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề giảm nghèo bền vững trên
địa bàn quận Hải Châu.
7
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: địa bàn quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng.
- Về thời gian: từ năm 2005 đến 2012.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước về xóa đói, giảm
nghèo và chính sách anh sinh xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
các phương pháp phân tích, điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh, tổng hợp,
khái quát, hệ thống... để đánh giá và khái quát vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ quan niệm và nội dung giảm nghèo bền vững. Cung cấp cơ sở
lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định chính sách giảm nghèo theo hướng
bền vững trên địa bàn quận Hải Châu.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thực hiện giảm nghèo theo hướng
bền vững trong chiến lược giảm nghèo quốc gia nói chung, giảm nghèo ở
quận Hải Châu - thành phố Đà Nẵng nói riêng trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢM NGHÈO BẾN VỮNG
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
1.1.1. Quan niệm giảm nghèo và giảm nghèo bền vững
1.1.1.1. Quan niệm giảm nghèo
Xã hội loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội, mỗi
hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó từ
thấp đến cao và do trình độ sản xuất vật chất quyết định. Nghèo khơng chỉ là
hiện tượng riêng có của bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào mà nó tồn tại trong
cả thời đại ngày nay, khi trình độ khoa học - cơng nghệ của nhân loại đã có
những tiến bộ vượt bậc, ở cả những quốc gia hiện đại và phát triển bậc nhất
thế giới. Trong xu thế toàn cầu hóa, sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia
tăng, vấn đề giảm nghèo ngày càng trở thành nhiệm vụ trung tâm bên cạnh
nhiệm vụ phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế.
Vì vậy, làm sao để đảm bảo các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa bảo đảm an
sinh xã hội trong đó có giảm nghèo và chống tái nghèo đang là nhiệm vụ cấp
bách mà các nhà hoạch định chính sách đang theo đuổi.
Nói giảm nghèo trong đó ln bao hàm xóa đói và cũng giống như
khái niệm nghèo, khái niệm giảm nghèo chỉ là tương đối. Bởi nghèo có thể
tái sinh, hoặc khi khái niệm nghèo và chuẩn nghèo thay đổi. Do đó, việc
đánh giá mức độ giảm nghèo phải được đánh giá trong một thời gian,
không gian nhất định.
Giảm nghèo là một phạm trù cũng chỉ mang tính lịch sử, do đó chỉ có
thể từng bước giảm nghèo, chứ chưa thể xóa sạch được nghèo. Chỉ khi nào xã
hội lồi người đạt tới trình độ xã hội cộng sản như chủ nghĩa Mác - Lênin dự
đốn thì hiện tượng nghèo sẽ khơng cịn nữa và giảm nghèo cũng khơng cần.
9
Do cách đánh giá và nhìn nhận nguồn gốc khác nhau nên cũng có
nhiều quan niệm về giảm nghèo khác nhau:
Nếu hiểu nghèo là dạng đình đốn của phương thức sản xuất đã bị lạc
hậu song vẫn còn tồn tại thì giảm nghèo chính là q trình chuyển đổi sang
phương thức mới tiến bộ hơn.
Nếu hiểu nghèo là do phân phối thặng dư trong xã hội một cách bất
công đối với người lao động, do chế độ sở hữu TBCN thì giảm nghèo chính là
q trình xóa bỏ chế độ sở hữu và chế độ phân phối này.
Nếu hiểu nghèo là hậu quả của tình trạng chủ nghĩa thực dân đế quốc
kìm hãm sự phát triển ở các nước thuộc địa, phụ thuộc thì giảm nghèo là quá
trình các nước thuộc địa, phụ thuộc giành lấy độc lập dân tộc để trên cơ sở đó
phát triển kinh tế - xã hội.
Hay nghèo là do sự bùng nổ gia tăng dân số vượt quá tốc độ phát triển
kinh tế thì phải tìm mọi cách để giảm gia tăng dân số lại, tất nhiên không phải
bằng cách của Malthus đã đề cập trong “Thuyết dân số”. Ông đã chỉ ra
nguyên nhân của nghèo đói bằng một tỷ lệ đơn giản giữa tốc độ tăng trưởng
dân số với tốc độ tăng trưởng của cải - tương ứng với mức sống tối thiểu.
Trong điều kiện thuận lợi, dân số, nếu tăng theo cấp số nhân sẽ đạt số lượng
gấp đôi sau 20 - 25 năm, còn sản xuất thực phẩm và đồ tiêu dùng cần thiết chỉ
tăng theo cấp số cộng, thì (dân số) sẽ khơng thể tăng thêm với tốc độ đó nữa.
Khi đó, do bùng nổ dân số, nghèo đói sẽ đe dọa vận mệnh tồn nhân loại.
Tính tốn của ơng đã khơng hồn tồn phù hợp, vì trong thực tế, tốc độ tăng
dân số vẫn xảy ra mà không bị cản trở bởi nghèo đói.
Cịn nếu hiểu nghèo là do tình trạng thất nghiệp gia tăng hoặc rơi vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế thì giảm nghèo chính là tạo việc làm, tạo xã
hội ổn định và phát triển.
Như vậy, hiểu một cách chung nhất, Giảm nghèo hay (XĐGN) chính
là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi
10
tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm
xuống. Nói một cách khác, giảm nghèo là một quá trình chuyển một bộ phận
dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn
Ở khía cạnh khác, giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện
lựa chọn sang tình trạng có nhiều hơn, hướng đến sự đầy đủ hơn các điều
kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người.
1.1.1.2. Quan niệm về giảm nghèo bền vững
Cho đến nay, chưa có một quan niệm thống nhất về giảm nghèo bền
vững (GNBV) hay giảm nghèo theo hướng bền vững. Tuy nhiên, vấn đề giảm
nghèo ln được đề cập khi nói đến phát triển bền vững và GNBV là nhân tố
quan trọng tạo nên sự phát triển bền vững. Ngược lại khi kinh tế phát triển
bền vững lại tạo điều kiện để GNBV.
Về nguyên tắc, giải quyết nghèo đói nói chung trước hết cần đảm bảo
trên cả 2 phương diện số lượng và chất lượng.
Số lượng, giảm nghèo sẽ là số tuyệt đối hộ nghèo giảm được trong một
thời gian (thường được xem xét trong 1 năm, 5 năm), cần phân biệt giữa số hộ
nghèo giảm với số hộ thoát nghèo, hai khái niệm này sẽ chỉ đồng nhất với nhau
khi không có các yếu tố khác tác động đến như di chuyển dân cư, tái nghèo...
Chất lượng giảm nghèo là khái niệm để chỉ thực chất của kết quả giảm
nghèo, mà vấn đề cần đạt được là đời sống người nghèo được nâng lên sau
khi có tác động hỗ trợ, khoảng cách thu nhập với các nhóm dân cư khác được
rút ngắn về mặt tốc độ, khi gặp rủi ro hay bất trắc sẽ khơng bị rơi lại vào tình
trạng nghèo đói, hay nói cách khác, chất lượng giảm nghèo suy cho cùng là
phản ảnh tính bền vững của q trình giảm nghèo
Từ thực tiễn triển khai công tác giảm nghèo, có thể thấy một số khía
cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, ở giai đoạn đầu của công cuộc giảm nghèo, các chính sách
được thiết kế thường mang nặng tính cứu trợ, bởi lúc này người dân ở các
11
vùng khó khăn thường lâm vào tình trạng đói kinh niên, đứt bữa, khơng có
gạo ăn, đặc biệt vào lúc giáp hạt. Cùng với đó, mỗi khi có thiên tai, bão lũ xảy
ra thì Chính phủ lại phải xuất gạo từ nguồn dự trữ quốc gia để cứu đói khẩn
cấp cho người dân, mà đại bộ phận là người nghèo ở những địa phương này.
Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, người ta nhận thấy không thể tiếp tục
kéo dài việc hỗ trợ mang nặng tính bao cấp, bởi người nghèo sẽ nảy sinh tâm
lý trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, không chịu thay đổi tư duy, nhận thức và
hành động để vươn lên tự mình thốt khỏi đói nghèo bằng chính năng lực của
bản thân. Phải mất một thời gian khá dài, chính sách giảm nghèo mới có được
sự chuyển hướng tích cực, tức là hỗ trợ theo quan điểm “Cho cần câu hơn cho
xâu cá”. Đây chính là việc tạo điều kiện để nâng cao năng lực của người
nghèo. Khái niệm năng lực ở đây thường bao gồm kiến thức, kinh nghiệm
làm ăn, vốn, đất sản xuất...và được coi là điều kiện cơ bản, tiền đề hay nói
một cách đơn giản hơn thì đây chính là một cái “cần câu” giúp xố đói giảm
nghèo. Đối với việc giảm nghèo bền vững, rõ ràng chỉ có vươn lên bằng chính
năng lực, khả năng tự cứu của mình thì mới mong thốt khỏi tình trạng tái
nghèo trong tương lai.
Thứ hai, thành quả, lợi ích của tăng trưởng kinh tế nhìn chung đều có
tác động đến người nghèo, mặc dù vậy, do rất nhiều nguyên nhân mà cơ hội
để tiếp cận với các lợi ích đó đối với người nghèo thường hạn chế hơn so với
các nhóm người khác trong xã hội, gây ra sự bất bình đẳng, dẫn đến khoảng
cách giàu nghèo ngày càng tăng cao. Đó là các cơ hội tiếp cận với tiến bộ
khoa học kỹ thuật trong làm ăn, cơ hội tiếp cận với những phương thức sản
xuất mới, với các dịch vụ hỗ trợ nâng cao năng lực sản xuất, được trợ giúp
pháp lý miễn phí...và thậm chí kể cả cơ hội được tham gia, bày tỏ ý kiến,
nguyện vọng của mình trong quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
ngay nơi mình sinh sống hay việc giảm nghèo ở cộng đồng, thôn bản. Trong
giảm nghèo bền vững, cơ hội cịn được hiểu theo nghĩa rộng hơn, đó là quyền
12
được tham gia vào sự phát triển chung của cộng đồng. Đây cũng là vấn đề
được các tổ chức quốc tế đề cập nhiều và gần đây mới được trú trọng trong
q trình thiết kế chính sách. Nếu người dân khơng được quyền tham gia,
khơng có tiếng nói và sự giám sát thì tình trạng xây chợ xong nhưng dân
khơng đến họp chợ, làm nhà xong dân không đến ở, các cơng trình hạ tầng
làm xong khơng phát huy được hiệu quả, gây lãng phí thất thốt sẽ cịn tiếp
tục diễn ra...
Thứ ba, người nghèo và người mới thoát nghèo thường là những đối
tượng rất dễ gặp tổn thương và lâm vào tình trạng tái nghèo khi gặp những rủi
ro khách quan: tình hình kinh tế - xã hội có nhiều biến động, tăng trưởng kém,
thất nghiệp, lạm phát cũng như dịch bệnh, thiên tai, bão lũ...Vì vậy, ngồi việc
hồn thiện hệ thống các chính sách an sinh xã hội nói chung, người nghèo
cũng rất cần những chính sách hỗ trợ đặc thù nhằm đảm bảo sự an toàn cần
thiết cho người nghèo có thể vươn lên trong điều kiện cụ thể của cá nhân, của
địa phương mình.
Thứ tư, để thoát nghèo bền vững và chắc chắn, cần phải giải quyết
những vấn đề cơ bản, cốt lõi là nguyên nhân sâu xa của nghèo đó chính là vấn
đề giáo dục, dạy nghề và chăm sóc sức khoẻ. Do vậy, việc tiếp cận của người
nghèo với các dịch vụ xã hội cơ bản có ý nghĩa quan trọng giúp giảm nghèo
bền vững. Đây cũng chính là địi hỏi chung trong q trình phát triển kinh tế
song song với giải quyết các vấn đề xã hội, để các đối tượng được coi là yếu
thế được hưởng các lợi ích từ sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hệ thống
giáo dục, dạy nghề nói chung và dành cho người nghèo nói riêng sẽ giúp họ có
được kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp và tạo ra động lực cơ bản giúp thoát nghèo
bền vững. Cùng với đó, hệ thống chăm sóc sức khoẻ sẽ giúp bảo đảm nâng cao
chất lượng, khả năng lao động, giảm bớt những tác động bất lợi, chi phí cao khi
gặp các vấn đề về sức khoẻ khi người nghèo vốn đã gặp nhiều khó khăn về kinh
tế, lại phải chi thêm những khoản chi phí lớn khi gặp phải bệnh tật.
13
Xuất phát từ nguyên tắc chung về GNBV và những yêu cầu đặt ra trong
thực tiễn giảm nghèo hướng đến GNBV, có thể nhận định rằng thành tựu giảm
nghèo rất đáng ghi nhận và được đánh giá cao suốt thời gian qua, cả trên
phương diện quốc gia và quốc tế. Song kết quả giảm nghèo lại được khẳng
định là chưa thực sự bền vững, số hộ thoát nghèo tăng, nhưng mức thu nhập
nằm sát chuẩn nghèo còn lớn. Tỷ lệ hộ tái nghèo hàng năm còn cao; chênh
lệch giàu nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư vẫn cịn khá lớn, đời sống người
nghèo nhìn chung vẫn cịn nhiều khó khăn so với mặt bằng chung của xã hội
nhất là vùng sâu, vùng xa....Bên cạnh đó, chưa có các biện pháp nâng cao khả
năng tự phục hồi trước các tác động tiêu cực của tình hình kinh tế - xã hội
(khủng hoảng kinh tế, bất ổn chính trị - xã hội) và thiên tai, dịch bệnh (lũ lụt,
hạn hán, dịch bệnh...) của người nghèo cịn rất hạn chế.
Do vậy, GNBV, ngồi việc đảm bảo hoàn thành các mục tiêu giảm
nghèo đã định trong từng giai đoạn, từng thời kỳ. Cần hướng đến việc khắc
phục một cách có hiệu quả nhất những bất cập, hạn chế trong giảm nghèo để
tránh tình trạng tái nghèo, cải thiện ở mức tốt nhất thu nhập và điều kiện sống
của người nghèo. Từng bước giúp họ có thể tự vươn lên một cách vững vàng
thơng qua việc họ có các điều kiện và cơ hội khai thác các nguồn lực xã hội
cơ bản để phát triển. Đồng thời, hướng tới việc nắm bắt các xu hướng tác
động đến chất lượng giảm nghèo để có cách thức đảm bảo tính bền vững cho
thành quả giảm nghèo.
Từ nhận thức nêu trên, cùng với định hướng GNBV quốc gia thời kỳ
2011 - 2020, có thể cụ thể hóa khái niệm GNBV trên các khía cạnh sau:
i) Thu nhập bình quân đầu người của các hộ nghèo tăng, tỷ lệ hộ nghèo
giảm theo từng năm, từng giai đoạn.
ii) Điều kiện sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là
các điều kiện sống cơ bản (về y - tế, giáo dục, văn hóa, nước sinh hoạt, nhà
ở), và người nghèo cũng được tiếp cận ngày càng thuận lợi hơn các dịch vụ xã
hội cơ bản.
14
iii) Người nghèo có được nhiều hơn các cơ hội để vươn lên tự thốt
nghèo và phát triển thơng qua hệ thống các chủ trương, chính sách giảm
nghèo đồng bộ và có tính khả thi của Đảng và Nhà nước.
1.1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về giảm nghèo
và giảm nghèo bền vững
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Bác Hồ đã chỉ đạo là chống giặc
đói - vấn đề có quan hệ trực tiếp và quyết định đối với việc xóa đói giảm
nghèo đã được Đảng ta ln quan tâm chú ý. Khi đất nước bước sang thời kỳ
thực hiện công cuộc đổi mới, Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chỉ
rõ: Cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành cơng tác
xố đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội tránh sự phân hoá giàu
nghèo vượt quá giới hạn cho phép.
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: “Hơn bốn
năm qua, để đáp ứng các nhu cầu của đời sống nhân dân, chúng ta đã động
viên và phát huy khả năng của tồn xã hội, khuyến khích người lao động tăng
thu nhập và làm giàu chính đáng…” [15, tr.31].
Tại Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước đi và trong suốt q trình phát triển. Cơng
bằng xã hội phải được thể hiện ở các khâu phân phối hợp lý tư liệu
sản xuất lẫn ở các khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều
kiện cho mọi người đều có cơ hội để phát triển và sử dụng tốt năng
lực của mình [16, tr.113].
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IX, nhiệm kỳ (2001 - 2005) đã khẳng
định: “Việc tăng trưởng kinh tế phải đi đơi với xố đói, giảm nghèo ngay
trong từng bước đi và trong suốt q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước” [17, tr.67].
15
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, nhiệm kỳ (2006 - 2010) tiếp tục
nhấn mạnh:
Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ giúp
về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo,
vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách
bền vững; kết hợp chính sách Nhà nước với sự giúp đỡ trực tiếp và
có hiệu quả của tồn xã hội, của những người khá giả cho người
nghèo, hộ nghèo, nhất là đối với những vùng đặc biệt khó khăn.
Ngăn chặn tình trạng tái nghèo… [18, tr.217].
Gần đây nhất, quan điểm về GNBV của Đảng và nhà nước còn được
thể hiện trong Nghị quyết 80-NQ/CP ngày 19/5/2011 về “định hướng giảm
nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020”.
GNBV là một trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
năm 2011 - 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện
sống của người nghèo, trước hết là khu vực miền núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ toàn diện ở các
vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông
thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư [7].
Có thể nói chủ trương xố đói, giảm nghèo của Đảng ta ngày càng thể
hiện rõ quan điểm xố đói, giảm nghèo gắn với phát triển bền vững, với
phương châm tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, góp phần thực hiện
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
1.1.2. Nội dung của giảm nghèo bền vững
Những phân tích và thực tiễn nói trên có thể thấy GNBV là một yêu cầu
về việc hỗ trợ, đảm bảo các điều kiện để những người nghèo có cơ hội và
quyền được thụ hưởng một cách đầy đủ các dịch vụ xã hội...Mặt khác, GNBV
còn là một trụ cột trong phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy có thể khái quát nội
dung cơ bản của GNBV và GNBV với phát triển bền vững theo sơ đồ sau:
16
Hình 1.1: Nội dung cơ bản và mối quan hệ giữa giảm nghèo
và phát triển bền vững
Giảm nghèo với phát triển
bền vững
Nội dung cơ bản của
giảm nghèo bền vững
- Phát triển bền vững
- Năng lực
- Giảm nghèo bền vững
- Cơ hội
- Giảm nghèo trong mối quan hệ
- An sinh xã hội (an toàn)
với phát triển bền vững
- Dịch vụ xã hội cơ bản
Như vậy, có thể thấy, nội dung của GNBV được xác lập dựa trên 4 "trụ
cột" lớn đó là:
+ Khơi dậy và củng cố năng lực cho người nghèo
+ Tăng cường các cơ hội cho người nghèo
+ Đảm bảo cho người nghèo thơng qua các chính sách an sinh xã hội
+ Tạo điều kiện cho người nghèo được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã
hội cơ bản.
Có thể cụ thể hóa nội dung GNBV qua sơ đồ 1.1
Sơ đồ 1.1: Bốn trụ cột giảm nghèo bền vững
17
1.1.2.1. Nâng cao năng lực cho người nghèo
Để GNBV phải giải quyết vấn đề cốt lõi của người nghèo chính là
“năng lực” của người nghèo. “Khả năng thực hiện một cách hiệu quả các chức
năng đặt ra và đạt được các mục tiêu, xác định và giải quyết các vấn đề”.
Trong thuật ngữ phát triển năng lực là tổng các nhân tố cho phép các cá nhân,
cộng đồng, thể chế, tổ chức hoặc Chính phủ thực hiện một cách đầy đủ các
vai trò và trách nhiệm tương ứng.
Các yếu tố của năng lực bao gồm: kiến thức, kỹ năng; động lực, trách
nhiệm và quyền lực; các nguồn lực tổ chức và vật chất; sự hiện diện của một
hệ thống các giá trị, chuẩn mực và các chủ thể.
1.1.2.2. Tăng cường cơ hội
Tăng cường cơ hội cho người nghèo là tạo ra những điều kiện thuận lợi để
người nghèo được tiếp cận với những chính sách xã hội cơ bản, như những ưu đãi
về vốn, về khoa học kỹ thuật, về y tế, về giáo dục. Thông qua những hỗ trợ của
nhà nước, người nghèo có cơ hội vươn lên thốt nghèo và phát triển.
Chú trọng chất lượng của sự tham gia để những người nghèo thực sự
làm chủ quá trình vươn lên của mình nhằm nâng cao hiệu quả của các chính
sách, chương trình, các dự án giảm nghèo.
Cách tiếp cận nên theo hai hướng:
- Tạo cơ hội thông qua việc giới thiệu, cung cấp các chương trình dự án
giảm nghèo để người nghèo có những tiếp cận và lựa chọn cho việc cải thiện
thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống và thốt nghèo.
- Tạo cơ hội thơng qua các cơ chế, chính sách hỗ trợ các điều kiện sản
xuất - kinh doanh. Cũng như cung cấp các kinh nghiệm tổ chức sản xuất, nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của người nghèo.
Qua đó giúp họ thoát nghèo một cách bền vững.
1.1.2.3. Đảm bảo cho người nghèo thơng qua các chính sách an sinh
xã hội
Trong xã hội, người nghèo thường là những đối tượng dễ bị tổn thương
nhất. Bởi họ ít có khả năng tự vệ xét cả về vật chất lẫn tinh thần.
18
Người nghèo thường đối mặt với những rủi ro nghiêm trọng và liên tục.
Tình trạng nghèo thường gắn với an ninh lương thực kém và sinh kế không ổn
định do biến động giá cả thị trường, các cơ hội việc làm không ổn định, thiếu
các biện pháp an sinh xã hội, thiên tai, dịch bệnh xảy ra thường xuyên.
An sinh xã hội là hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước,
các đối tác xã hội thực hiện nhằm đảm bảo mức tối thiểu về thu nhập, sức
khỏe và các phúc lợi xã hội, nâng cao năng lực cá nhân, hộ gia đình và cộng
đồng trong quản lý và kiểm soát các rủi ro do mất việc làm, tuổi già, ốm đau,
rủi ro do thiên tai, chuyển đổi cơ cấu do q trình đơ thị hóa, khủng hoảng
kinh tế dẫn đến giảm hay mất thu nhập và giảm khả năng tiếp cận đến các
dịch vụ xã hội cơ bản.
Quan điểm phát triển hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam hướng tới
phòng ngừa rủi ro:
i) Phòng ngừa rủi ro: nhóm chính sách hỗ trợ người dân có việc làm, tạo
thu nhập và tham gia thị trường lao động để chủ động phòng ngừa rủi ro về
đời sống, sức khỏe, sản xuất kinh doanh và biến động của môi trường tự nhiên
ii) Giảm thiểu rủi ro: bao gồm các nhóm chính sách về BHXH, BHYT,
Bảo hiểm nơng nghiệp để bù đắp phần thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất do
các biến cố trong đời sống, sức khỏe, sản xuất kinh doanh và biến động của
môi trường tự nhiên
iii) Khắc phục rủi ro: bao gồm nhóm chính sách trợ giúp xã hội, XĐGN,
tăng cường các cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản để hỗ trợ người dân
khắc phục các rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát do
các biến cố trong đời sống, sức khỏe, sản xuất kinh doanh và biến động của
môi trường tự nhiên nhằm bảo đảm điều kiện sống tối thiểu cho người dân.
1.1.2.4. Tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo
Dịch vụ xã hội cơ bản được xem xét trên 2 phương diện: nhu cầu xã hội
cơ bản và dịch vụ xã hội cơ bản
19
* Nhu cầu xã hội cơ bản: Có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu
cơ bản của con người
Theo quan niệm của Mác: “Nhu cầu là đòi hỏi khách quan của mỗi con người
trong những điều kiện nhất định, đảm bảo cho sự sống và phát triển của mình”.
Theo quan điểm A.Maslow chia nhu cầu thành 5 loại:
- Nhu cầu vật chất (sinh lý): thức ăn, khơng khí, nước uống...
- Nhu cầu an toàn (bảo vệ): nhà ở, việc làm, sức khoẻ...
- Nhu cầu giao tiếp xã hội : Tình thương u, được hồ nhập
- Nhu cầu được tơn trọng: Được chấp nhận có một vị trí trong một
nhóm người...
- Nhu cầu tự khẳng định mình: Nhu cầu hoàn thiện, được thể hiện khả
năng và tiềm lực của mình.
* Dịch vụ xã hội cơ bản
Liên hợp quốc định nghĩa: Dịch vụ xã hội cơ bản là các hoạt động dịch
vụ cung cấp những nhu cầu cho các đối tượng nhằm đáp ứng những nhu cầu
tối thiểu của cuộc sống (UN - Africa Spending Less on Basic Social Services).
Như vậy: Dịch vụ xã hội cơ bản là hệ thống cung cấp dịch vụ nhằm
đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người và được xã hội thừa nhận.
Dịch vụ xã hội cơ bản được chia thành 4 loại chính
Dịch vụ đáp ứng những nhu cầu vật chất cơ bản: Việc ăn uống, vệ
sinh, chăm sóc, nhà ở...mọi đối tượng yếu thế là trẻ em, người tàn tật mất khả
năng lao động đều phải được đáp ứng nhu cầu này để phát triển về thể lực.
Dịch vụ y tế: Bao gồm các hình thức khám chữa bệnh, điều dưỡng
phục hồi chức năng về thể chất cũng như tinh thần cho các đối tượng.
Dịch vụ giáo dục: Trường học, các lớp tập huấn, đào tạo kỹ năng sống,
các hình thức giáo dục hoà nhập, hội nhập và chuyên biệt...
Dịch vụ về giải trí, tham gia và thơng tin: Đây là loại hình dịch vụ xã hội
rất quan trọng đối với các đối tượng thuộc nhóm đối tượng cơng tác xã hội, hoạt
20
động giải trí như văn nghệ, thể thao... nâng cao sự tự tin, đẩy mạnh hoà nhập tốt
hơn với cộng đồng, nâng cao sự hiểu biết, kiến thức cho đối tượng...
Khi những dịch vụ xã hội cơ bản được cung cấp đầy đủ và người nghèo
được thụ hưởng, đó chính là những tiền đề cần thiết; một mặt đáp ứng nhu
cầu thiết yếu cho họ, mặt khác thông qua việc tiếp cận đầy đủ các dịch vụ này
họ có thể từng bước cải thiện các điều kiện sinh hoạt và hoạt động kinh tế,
giúp người nghèo cải thiện chất lượng cuộc sống, vươn lên thoát nghèo.
1.1.3. Sự cần thiết phải giảm nghèo bền vững trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội
Giảm nghèo và GNBV là một trong những trụ cột của phát triển bền
vững. Bởi vậy, GNBV thực sự cần thiết và có ảnh hưởng nhiều mặt đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội. Có thể khái quát sự cần thiết của GNBV trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội trên các phương diện như: đóng góp của
GNBV với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ cơng bằng xã hội; với ổn định chính
trị, phát triển xã hội, là điều kiện cho phát triển kinh tế.
1.1.3.1. Giảm nghèo bền vững là yêu cầu cấp thiết để phát triển bền
vững kinh tế - xã hội đất nước
Bước sang thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới, xóa bỏ cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp để chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Việc giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế
làm cho thu nhập, đời sống của đại đa số nhân dân từng bước được cải
thiện. Nhưng do điểm xuất phát của nền kinh tế thấp, lại chịu hậu quả to
lớn của chiến tranh và thiên tai, dịch bệnh, kèm theo tác động mạnh mẽ của
cơ chế thị trường, nên sự phân hóa thu nhập, đời sống giữa các vùng ngày
càng tăng nhanh. Trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển, bộ phận
dân nghèo kể cả những gia đình có cơng với cách mạng, chịu nhiều thiệt
thịi. Vì vậy, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu, nghèo và trợ giúp người
21
nghèo đã trở thành nhu cầu bức thiết, và là một trong những biểu hiện bản
chất xã hội chủ nghĩa.
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến công tác giảm nghèo và
xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và
là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài,
vừa là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, bởi vì sự nghiệp cách mạng và công
cuộc đổi mới luôn luôn đặt ra nhiệm vụ: mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội
là một bước cải thiện đời sống của nhân dân; chính vì thế, đây khơng chỉ là
việc thực hiện đạo lý “thương người như thể thương thân” mà còn là nhiệm
vụ để bảo đảm ổn định xã hội, củng cố khối đại đồn kết tồn dân tộc. Giảm
nghèo khơng đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải
tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thốt nghèo. Xóa đói,
giảm nghèo khơng đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế
đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà cịn là nhân tố quan trọng tạo ra một
mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi
dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn “cất cánh”.
Nghèo là một hiện tượng liên quan toàn bộ các mối quan hệ kinh tế, xã
hội, nếu không giải quyết vấn đề này sẽ nảy sinh các hiện tượng gây mất ổn
định xã hội ảnh hưởng xấu tới chính trị. Phân hố giàu nghèo đến một mức độ
nào đó, sẽ trở thành phân hoá giai cấp, xung đột xã hội nguy cơ làm chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, nếu khơng ổn định chính trị xã hội thì xã
hội trở nên rối loạn, khủng hoảng. Do đó mọi kế hoạch phát triển kinh tế bị
phá vỡ. Mặt khác, bản thân hiện tượng nghèo đã bao hàm nội dung kinh tế. Vì
vậy GNBV nhằm ổn định, phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.3.2. Phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện để thực hiện giảm
nghèo bền vững ở nước ta
Thực tiễn phát triển của các quốc gia đều chứng tỏ rằng, nhờ kinh tế
tăng trưởng cao mà Nhà nước có sức mạnh vật chất để hình thành và triển
22
khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính và đầu tư cho các đối tượng xã
hội khác nhau, đặc biệt có những hỗ trợ thiết thực cho những đối tượng
nghèo, yếm thế trong xã hội và có những đầu tư cần thiết tạo tiền đề phát triển
cho những vùng nghèo, vùng khó khăn. Người nghèo và cộng đồng nghèo
nhờ đó có cơ hội vươn lên thốt nghèo. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan
trọng để GNBV trên quy mơ rộng; khơng có tăng trưởng mà chỉ thực hiện các
chương trình tái phân phối hoặc các biện pháp giảm nghèo truyền thống thì
tác dụng khơng lớn và giảm nghèo chỉ là hành động xử lý tình thế khơng
mang tính lâu dài, bền vững.
Tăng trưởng trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững, trước hết
tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại; phát triển ngành
nghề, tạo cơ hội nhiều hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, nhằm
tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo...tăng trưởng kinh tế
trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững, tạo ra những cơ hội thuận lợi
để người nghèo và cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển sản
xuất, kinh doanh và hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng.
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất, nội lực để GNBV. GNBV là
mục tiêu, động lực của phát triển kinh tế - xã hội, là tiền đề cơ bản đảm bảo
cho sự ổn định chính trị xã hội để phát triển kinh tế. Nước ta là quốc gia kinh
tế chưa phát triển, nguồn lực của nhà nước, của cộng đồng còn hạn chế, cho
nên bản thân người nghèo càng hết sức khó khăn. Trong những năm thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế tăng trưởng bước đầu đã tạo việc làm,
nguồn vốn và cơ hội vươn lên cho người nghèo. Với phương châm chỉ đạo và
những hành động cụ thể, trong những năm qua mục tiêu giảm nghèo đã đạt
được nhiều thành tựu, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội.
Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy rõ, GNBV trước hết là đảm bảo
ổn định chính trị, bảo đảm sự tồn vong của một nhà nước, một chế độ xã hội;
23
tiếp đó GNBV góp phần phát triển một xã hội ổn định, cơng bằng trong đó
mọi thành viên đều có cơ hội và khả năng được thụ hưởng những thành quả từ
sự phát triển kinh tế.
1.2. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIẢM
NGHÈO BỀN VỮNG
1.2.1. Tiêu chí đánh giá giảm nghèo bền vững
Để có thể đánh giá q trình GNBV một cách chính xác và chân
thực nhất, khơng bị trùng lặp với tiêu chí giảm nghèo nói chung, cần có
một hệ thống các tiêu chí cụ thể nhằm đánh giá khách quan kết quả quá
trình GNBV của một quốc gia, địa phương nhất định.
1.2.1.1. Giảm nghèo bền vững thông qua cải thiện về thu nhập
Để giảm nghèo, trước hết cần phải cải thiện thu nhập cho người nghèo.
Việc cải thiện thu nhập cần phải hướng đến ngang bằng và cao hơn mức
chuẩn nghèo. GNBV thông qua thu nhập được đánh giá qua các chỉ tiêu như:
chỉ số khoảng cách nghèo giảm, chỉ số khoảng cách nghèo đói bình phương
giảm, tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo giảm. Trên cơ sở quan niệm về giảm
nghèo, GNBV và những lập luận về nội dung của GNBV, luận văn xác định
các tiêu chí đánh giá GNBV bao gồm: giảm nghèo thông qua cải thiện về thu
nhập; giảm nghèo thông qua mức độ thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản
(giáo dục, y - tế); giảm nghèo trên cơ sở giảm thiểu các nguy cơ bị tổn
thương và rủi ro; GNBV thơng qua tăng cường tiếng nói và quyền tự chủ
cho người nghèo.
- Tỷ lệ hộ nghèo là tỷ lệ số hộ nghèo trên tổng số dân. Tỷ lệ này giảm
qua các năm cũng là một chỉ tiêu thể hiện GNBV
- Chỉ số khoảng cách nghèo giảm
Đây là chỉ số xác định mức độ thiếu hụt chung về thu nhập/chi tiêu của
hộ nghèo (người nghèo) so với chuẩn nghèo. Chỉ số này càng cao càng chứng
24
tỏ mức độ thiếu hụt nghiêm trọng về thu nhập của hộ nghèo so với mức chuẩn
nghèo. Vì vậy, chỉ số này giảm qua các năm chứng tỏ hộ nghèo, người nghèo
đã và đang dần tiến tới mức chuẩn nghèo và có xu hướng vươn lên thốt
nghèo. Do đó, đây cũng là một chỉ tiêu thể hiện quá trình GNBV.
- Chỉ số khoảng cách nghèo đói bình phương giảm
Chỉ số này phản ánh vấn đề bất bình đẳng giữa những người nghèo. Chỉ
số này càng cao thì bất bình đẳng càng lớn. Vì vậy, khi chỉ số này giảm qua
các năm chứng tỏ sự bất bình đẳng này dần được thu hẹp, giúp quốc gia, tỉnh,
địa phương tiến nhanh đến mục tiêu GNBV.
- Tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo giảm
Hộ cận nghèo là những hộ có mức thu nhập xấp xỉ ở mức chuẩn nghèo
nhưng cao hơn.
Hộ tái nghèo là những hộ đã thốt nghèo nhưng sau đó do những cú sốc
về thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, lạm phát....nên lại rơi vào tình trạng nghèo
đói. Do đó, khi tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo giảm chứng tỏ số hộ cận
nghèo và tái nghèo giảm, thể hiện quá trình GNBV của địa phương.
1.2.1.2. Giảm nghèo bền vững thông qua mức độ thụ hưởng các
dịch vụ xã hội cơ bản (về giáo dục, y tế)
Sơ đồ 1.2: Vịng luẩn quẩn của nghèo
Văn hóa thấp
Bệnh tật
NGHÈO
Lười lao động
Đơng con
Nhìn vào “Vịng luẩn quẩn của nghèo” chúng ta có thể thấy: vịng
luẩn quẩn nghèo đói được mơ tả: nghèo đói->thất học/văn hóa thấp-> lao
25
động giản đơn hoặc lười lao động->thu nhập thấp hoặc khơng có thu nhập->
khơng có cơ hội tiếp cận các dịch vụ kinh tế, xã hội cơ bản-> nghèo đói.
Vì vậy đánh giá GNBV thơng qua tiêu chí mức độ hưởng thụ về y tế
và giáo dục là một trong những phương pháp kiểm chứng xác thực về mức độ
giảm nghèo ở một quốc gia.
- Về giáo dục - đào tạo
Người nghèo được tiếp cận chính sách về giáo dục, đào tạo giúp họ
nâng cao trình độ học vấn, có cơ hội tìm được việc làm tốt trong các ngành
phi nông nghiệp với mức thu nhập cao hơn, giúp ổn định cuộc sống. Thu nhập
của họ không chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu, mà cịn có điều kiện
để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thốt nghèo. Bên cạnh đó,
việc nâng cao trình độ học vấn còn giúp nâng cao nhận thức đến những quyết
định liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái... Vì vậy việc đánh
giá các chỉ tiêu về giáo dục sẽ cho thấy quá trình giảm nghèo của địa phương
có bền vững hay khơng?
- Về y - tế
Thiếu tiếp cận những dịch vụ y tế, người nghèo càng dễ bị bệnh tật,
và chính họ lại phải chi trả nhiều hơn cho chi phí khám chữa bệnh do thiếu
những chế độ bảo hiểm, an sinh. Chỉ cần bị bệnh nhẹ phải mua thuốc, cuộc
sống của họ lập tức bấp bênh thiếu hụt. Bệnh nặng, nhiều gia đình trở thành
khánh kiệt phải bán hết tài sản đất đai chữa bệnh, hoặc chọn lựa khơng chữa
trị vì q tốn kém. Trẻ em thường phải nghỉ học, lao động sớm và chấp nhận
một cuộc sống dễ tổn thương. Thêm nữa, khả năng tiếp cận các dịch vụ phòng
bệnh (nước sạch, các chương trình y tế...) cịn hạn chế càng làm tăng khả năng
bị mắc bệnh của họ.
Ngược lại, khi người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ y tế một
cách dễ dàng, họ sẽ “mạnh dạn” đến các cơ sở y tế điều trị, không phải chịu
những gánh nặng về chi phí khi gặp rủi ro về sức khỏe. Việc cải thiện điều