1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá (CNH, HĐH) là nhiệm vụ trung tâm ở
Việt Nam hiện nay với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản đưa nước
ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, giảm thách
thức và tận dụng được cơ hội do q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế
mang lại, Việt Nam cần phải chuyển dịch nhanh cơ cấu sản xuất theo hướng
xuất khẩu, cung cấp ngày càng nhiều mặt hàng công nghiệp cạnh tranh được
trên thị trường khu vực và thế giới. Kinh nghiệm của các nước Đông Á và các
nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cho thấy, sự phát
triển của cơng nghiệp hỗ trợ (CNHT) đã đóng góp tích cực vào sự phát triển
của ngành cơng nghiệp cũng như nền kinh tế của các nước này. CNHT đã và
đang tạo giá trị gia tăng ngày càng cao cho ngành cơng nghiệp, làm tăng sức
nội địa hóa sản phẩm của doanh nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, CNHT vẫn còn là một ngành khá mới mẻ. Thời
gian qua, nhất là sau khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức
thương mại quốc tế (WTO), CNHT vẫn chưa tìm được một chỗ đứng xứng với
tầm vóc quan trọng của mình. Sản xuất của khơng ít các doanh nghiệp trong
nước vẫn phải phụ thuộc vào phụ tùng, linh kiện của nước ngồi. Ví dụ dệt
may là một trong những ngành công nghiệp “mũi nhọn” trong xuất khẩu của
nước ta, tuy 7 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 7,6 tỷ
USD, tăng 29,4% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng đã phải nhập gần 7 tỷ USD
nguyên phụ liệu, nên thực tế cũng chỉ đạt khoảng trên 600 triệu USD giá trị gia
tăng. Nếu so sánh con số này với cùng kỳ năm trước thì tăng trưởng của ngành
không đáng kể.
Ngành CNHT cho ô tô, tỷ lệ nội địa hố cịn rất thấp, mới ở mức 5 10% và chỉ cung cấp được vài sản phẩm đơn giản, giá trị thấp, như bộ dây
2
điện, ghế ngồi, một số chi tiết bằng nhựa hoặc kim loại. Trong ngành điện điện tử, tỷ lệ nội địa hố được chừng 20 - 40%.
Cơng nghiệp giấy là một ngành kinh tế quan trọng, trực tiếp phục vụ
nhu cầu tiêu dùng của người dân, các doanh nghiệp và sản phẩm của nó là
một trong những mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của nước ta. Thị trường
giấy Việt Nam những năm qua đã diễn ra tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa
sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập ngoại. Ngành giấy đã có nhiều cố
gắng để tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm nhưng còn bộc lộ nhiều hạn
chế, nhất là CNHT để ngành giấy phát triển. Phần lớn doanh nghiệp trong
nước phụ thuộc vào nguồn bột giấy nhập khẩu, hàng năm sản xuất bột giấy
trong nước chỉ đáp ứng 21% công suất giấy, trong khi nguồn nguyên liệu để
sản xuất bột giấy của nước ta dồi dào. Ngành giấy rơi vào vịng luẩn quẩn
“xuất thơ - nhập tinh”, “thiếu bột - thừa gỗ”. Việc chậm đổi mới công nghệ
cũng làm cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm giấy nội địa kém hơn so với
các nước trong khu vực. Các loại hóa chất, phụ gia cho ngành giấy cịn thiếu
dẫn đến tình trạng phụ thuộc vào phụ gia của nước ngồi... Chính vì vậy, cần
phát triển CNHT ngành giấy để từ đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh,
nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm giấy trong nước và quốc tế và được kỳ
vọng sẽ làm thay đổi diện mạo của ngành giấy Việt Nam.
Để góp phần vào giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn, đánh giá
đúng tình hình và nguyên nhân của thực trạng trên, đồng thời đề xuất giải
pháp phát triển CNHT ngành giấy Việt Nam trong thời gian tới, học viên lựa
chọn đề tài: “Công nghiệp hỗ trợ phát triển ngành giấy Việt Nam” để
nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
CNHT là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của nước
ta, vì vậy đến nay đã có nhiều một số cơng trình nghiên cứu và bài viết liên
quan đến nhận thức vai trò của ngành này trong phát triển kinh tế và đã có
3
những chính sách phát triển đối với từng ngành. Có thể nêu một số cơng trình
nghiên cứu và bài viết chủ yếu như sau:
- GS. Trần Văn Thọ (2005), Biến động kinh tế Đơng Á và con đường
cơng nghiệp hóa Việt Nam, Nxb CTQG Hà Nội Chương 10: phát triển công
nghiệp phụ trợ: Mũi đột phá chiến lược
- Bùi Thị Lan (2006), Công nghiệp phụ trợ trong chiến lược phát triển
công nghiệp Việt Nam, Đề án môn Kinh tế và quản lý công nghiệp, Trường
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
- Trương Nam Trung (2010), “Công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam trong
hội nhập kinh tế quốc tế” Luận văn thạc sỹ kinh tế - Học viện Chính trị- Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
- PGS.TS Trần Quang Lâm, Ths. Đinh Trung Thành (2007) “Phát triển
công nghiệp phụ trợ Việt Nam trước làn sóng đầu tư mới của các cơng ty
xun quốc gia Nhật Bản”, Tạp chí kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, (số
21, 22), trang 36 - 37 - 38 - 39.
- Lê Đình Hiệp (2009): “Phát triển cơng nghiệp phụ trợ trong q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
- Bộ Công thương: Quy hoạch điều chỉnh phát triển ngành công nghiệp
giấy Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020.
- Hồng Văn Dương - Đại học Lâm nghiệp Việt Nam: Ngành công
nghiệp giấy và bột giấy ở Việt Nam.
- Bùi Thị Quỳnh Trang (2003) “Ngành giấy Việt Nam trước những
thách thức hội nhập khu vực” Luận văn tốt nghiệp đại học - Trường Đại học
Ngoại thương, Hà Nội.
- Võ Sĩ Dởng “Nâng cao năng lực cạnh tranh của cơng ty giấy Bãi
Bằng trong q trình chuyến sang cơ chế thị trường và hội nhập”, Luận văn
tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, 2002.
4
- Hoàng Hoài Phong “Nâng cao năng lực cạnh tranh và các giải pháp tài
chính nâng cao năng lực tài chính của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế”, Luận văn tốt nghiệp - Học viện Ngân hàng, Hà Nội.
- Bùi Đức Chí Tồn (2003) “ Một số giải pháp nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế”
Luận văn tốt nghiệp đại học - Khoa Kinh tế ngoại thương - Trường Đại học
Ngoại thương, Hà Nội
Các cơng trình trên đã tập trung nghiên cứu, phân tích trên các khía
cạnh: Lý luận chung về CNHT; nhân tố ảnh hưởng và vai trò của CNHT trong
nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp; kinh nghiệm của một số nước
trong phát triển CNHT; kinh nghiệm phát triển CNHT trong một số ngành...
quy hoạch, định hướng phát triển CNHT cho một số ngành công nghiệp. Đối
với ngành giấy, các cơng trình nghiên cứu chủ yếu phân tích thực trạng của
ngành giấy nói chung và đề ra một số giải pháp để năng cao năng lực cạnh
tranh phát triển ngành giấy trong q trình hội nhập.
Tuy nhiên, vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu có hệ thống về CNHT
ngành giấy, nhất là nghiên cứu về vai trò, các nhân tố thúc đẩy CNHT ngành
giấy trong hội nhập quốc tế của Việt Nam. Đề tài học viên lựa chọn không trùng
với các cơng trình khoa học đã cơng bố cho đến nay mà học viên được biết.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về phát triển CNHT trước yêu
cầu phát triển ngành giấy Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất
nước, đánh giá thực trạng CNHT ngành giấy Việt Nam để đề xuất phương
hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT ngành giấy Việt Nam trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về CNHT ngành giấy trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
5
- Phân tích, đánh giá thực trạng CNHT ngành giấy ở Việt Nam trong 10
năm qua, nguyên nhân thực trạng đó; đề xuất phương hướng và giải pháp thúc
đẩy phát triển CNHT ngành giấy Việt Nam thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Lĩnh vực CNHT ngành sản xuất giấy Việt Nam bao gồm ngành cơ khí
máy móc, ngành hóa chất, phụ gia, ngành sản xuất bột giấy cùng với cơ chế,
chính sách và việc tổ chức sản xuất cung ứng của các lĩnh vực này trong phát
triển ngành giấy.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi về địa điểm nghiên cứu: Do giới hạn một đề tài luận văn nên
tác giả chọn điểm nghiên cứu thực tế CNHT ngành giấy ở một số địa bàn các
tỉnh phía Bắc như Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc Ninh...
Về thời gian: từ năm 2000 đến nay.
Việc đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển tính đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của kinh tế chính trị Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm chủ trương, chính sách đổi mới
của Đảng và Nhà nước về CNH,HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức trong
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam nói chung và phát triển cơng
nghiệp hỗ trợ nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị như:
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp trừu tượng
hóa; phương pháp logic kết hợp với lịch sử; phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh, thống kê kinh tế…Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu của kinh tế học và kế thừa có chọn lọc các cơng trình khoa học đã
công bố liên quan đến vấn đề này.
6
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa lý luận và thực tiễn về phát triển CNHT ngành giấy
Việt Nam.
- Phân tích thực trạng CNHT ngành giấy Việt Nam để đề xuất giải pháp
thúc đẩy phát triển lĩnh vực công nghiệp này trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
luận văn gồm 3 chương.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ NGÀNH GIẤY VIỆT NAM
1.1. CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ NGÀNH GIẤY VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NĨ
1.1.1. Cơng nghiệp hỗ trợ ngành giấy
1.1.1.1. Công nghiệp hỗ trợ
- Sự xuất hiện ngành công nghiệp hỗ trợ:
Công nghiệp hỗ trợ (Supporting industry - SI), cịn được gọi là cơng
nghiệp phụ trợ hay công nghiệp bổ trợ.
Thuật ngữ CNHT bắt đầu xuất hiện lần đầu tiên vào giữa những năm
1960 thế kỷ XX (trong Chương trình phát triển cơng nghiệp hỗ trợ Châu Á),
phổ biến ở Nhật Bản và sau này là các nước công nghiệp mới ở châu Á, như
Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, nơi mà các chi tiết sản phẩm thường được gia
công ở một đơn vị sản xuất khác với nơi chế tạo, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh
cuối cùng.
CNHT xuất phát ban đầu từ cách thức tổ chức sản xuất của người Nhật
trong quá trình xây dựng các mắt xích chun mơn hóa từng cơng đoạn sản
xuất các sản phẩm và dịch vụ công nghiệp. Ở các quốc gia khác nhau, khái
niệm về CNHT có những khác biệt nhất định. Một doanh nghiệp hay tập đoàn
lắp ráp sản phẩm cuối cùng nắm giữ vai trò trung tâm kiểm sốt và điều phối
các luồng hàng hóa và thông tin giữa vô số các công ty độc lập mang tính sản
xuất kinh doanh mạng tồn cầu. Các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp được
cung cấp bởi các đơn vị ngồi doanh nghiệp đó hoặc là qua hệ thống tổ chức
thầu phụ/vệ tinh của doanh nghiệp hoặc là hướng thị trường. Giữa các nhà sản
xuất - lắp ráp với các nhà sản xuất hỗ trợ cũng hình thành nhiều quan hệ hợp
tác kinh doanh có thứ bậc khác nhau.
- Quan niệm về công nghiệp hỗ trợ:
Do yêu cầu phát triển riêng của mỗi nước, nên đến nay ở các nước khác
nhau đã có những quan niệm về CNHT có khác nhau:
8
+ Quan niệm của Chính phủ Nhật Bản: Thuật ngữ CNHT xuất hiện lần
đầu tiên ở Nhật Bản vào giữa những năm 1980, và đến năm 1993, trong
Chương trình Phát triển công nghiệp hỗ trợ Châu Á, CNHT được định nghĩa
chính thức là “Các ngành cơng nghiệp cung cấp những gì cần thiết, như
ngun vật liệu thơ, linh phụ kiện và hàng hóa tư bản, cho các ngành cơng
nghiệp lắp ráp” [36, tr.1].
+ Ở Thái Lan, CNHT được coi là “Ngành trong đó các doanh nghiệp
sản xuất linh phụ kiện được sử dụng trong các công đoạn lắp ráp cuối cùng
của các ngành công nghiệp sản xuất ô tô, máy móc, và điện tử…” [36, tr.2].
- Có quan niệm cho rằng: CNHT bao gồm những ngành sản xuất sản
phẩm trung gian có vai trị hỗ trợ cho việc sản xuất một loại sản phẩm cuối
cùng nhất định. Tùy từng loại sản phẩm cụ thể cần sản xuất, những sản phẩm
trung gian có thể bao gồm nguyên vật liệu, linh kiện phụ tùng, các bộ phận
(chi tiết, riêng lẻ), phụ liệu, bao bì, nhãn mác …[41, tr.4].
- Quan niệm khác thì cho rằng: CNHT là tồn bộ những sản phẩm cơng
nghiệp có vai trị hỗ trợ cho việc sản xuất ra các thành phẩm chính. Nó bao
gồm những linh kiện, phụ kiện, nguyên liệu, nguyên liệu sơ chế, phụ liệu, phụ
tùng, bao bì, sản phẩm trung gian …[43, tr.40].
Như vậy, các quan niệm trên: một nói tới những loại sản phẩm, một
nói tới những loại sản xuất. Do đó, có thể nói “cơng nghiệp hỗ trợ” là một
thuật ngữ khá mơ hồ, nếu khơng có một quan niệm cụ thể thì khó có thể xác
định được đó là ngành cơng nghiệp nào, hỗ trợ cái gì và cho ai. Do đó, có sự
tương đối trong khái niệm của CNHT nên việc phân biệt phạm vi của CNHT
cũng chưa được thống nhất. Hiện nay, dựa vào phạm vi hoạt động, có ba quan
niệm về CNHT:
i) CNHT là những ngành cung cấp linh kiện, phụ tùng và các công cụ
để sản xuất ra những linh kiện, phụ tùng đó
ii) Ở phạm vi rộng hơn: CNHT là những ngành công nghiệp cung cấp
phụ tùng, linh kiện, công cụ để sản xuất linh kiện, phụ tùng này và các dịch
vụ sản xuất như hậu cần, kho bãi, phân phối và bảo hiểm
9
iii) CNHT là những ngành cơng nghiệp cung cấp tồn bộ hàng hóa đầu
vào (nguyên liệu thép, nhựa, hóa chất …), hàng hóa tư bản (máy móc, cơng
cụ) và hàng hóa trung gian (linh kiện, phụ tùng).
Trong q trình sản xuất cơng nghiệp hay bất kỳ q trình sản xuất nào
khác đều có sự phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau giữa các bộ phận cấu
thành. Sản phẩm đầu ra của ngành này, quá trình sản xuất này lại là sản phẩm
hỗ trợ, phụ trợ và là sản phẩm đầu vào cho ngành khác, quá trình sản xuất
khác. Thậm chí để sản xuất ra sản phẩm hỗ trợ cũng cần tới CNHT cho bản
thân nó. Chính vì vậy mà ranh giới phân biệt giữa cơng nghiệp chính và
CNHT chỉ mang tính tương đối, phạm vi của CNHT được nêu trong các chính
sách, chiến lược cơng nghiệp sẽ tùy thuộc vào quan niệm và mục đích sử
dụng của các nhà hoạch định chính sách.
Trên thực tế, việc lựa chọn phạm vi CNHT tùy thuộc chủ yếu vào mục
đích chính sách mà chính phủ đưa ra cho các ngành CNHT, từ đó sẽ quyết
định ngành nào, doanh nghiệp nào sẽ nằm trong hệ thống CNHT. Theo G.S
Trần Văn Thọ thì:
Thuật ngữ CNHT chỉ tồn bộ những sản phẩm cơng nghiệp có vai
trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những
linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn,
nhuộm, … và có thể bao gồm cả các sản phẩm trung gian, những
nguyên liệu sơ chế. Nếu kể các sản phẩm tương tự thì phạm vi rất
rộng, nhưng nếu thêm một đặc tính nữa sẽ thấy phạm vi rõ ràng hơn:
Sản phẩm CNHT thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện
bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do đó, có nhiều bộ phận thường
khơng được tính là thuộc CNHT vì chủ yếu được sản xuất bởi các
doanh nghiệp lớn với quy mô lớn, chẳng hạn như đầu máy xe, thân
xe, lốp xe trong sản xuất lắp ráp ô tô. Trong ngành này, CNHT là
những linh kiện, phụ liệu ở cấp thấp hơn được cung cấp để sản xuất
ra đầu máy xe, thân xe [37, tr.1].
10
Theo Bộ Công nghiệp Việt Nam, “CNHT là hệ thống các cơ sở sản xuất và
công nghệ sản xuất các sản phẩm đầu vào là nguyên vật liệu, linh phụ kiện, phụ
tùng … phục vụ khâu lắp ráp các sản phẩm công nghiệp cuối cùng” [5, tr. 2].
Tất cả các quan niệm trên đều xét CNHT dưới một dạng ngành, một hệ
thống các cơ sở sản xuất, hoặc những sản phẩm cơng nghiệp cụ thể giữ vai trị
hỗ trợ cho các ngành sản xuất sản phẩm cuối cùng phát triển, chưa chỉ rõ
được bản chất, vai trị của nó trong quá trình tái sản xuất xã hội và trong sự
phát triển của nền kinh tế quốc gia. Do đó, CNHT với tư cách là một bộ phận
cấu thành của nền sản xuất xã hội phải được hiểu là một ngành kinh tế kỹ
thuật đặc thù, là toàn bộ các cơ sở sản xuất ra các sản phẩm giữ vai trò tạo
lập các tiền đề vật chất, kỹ thuật cần thiết hỗ trợ cho các ngành công nghiệp
trong phát triển nền kinh tế quốc gia. Xét về vai trò đối với sự phát triển của
nền kinh tế thì cơng nghiệp hỗ trợ là chất xúc tác để đẩy nhanh quá trình tái
sản xuất xã hội mở rộng, đồng thời nó là bộ phận quan trọng cấu thành môi
trường đầu tư để thu hút kích thích các nguồn vốn, cơng nghệ tham gia vào
quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia.
Thực tế, CNHT thường phát triển trước, làm cơ sở để ngành công
nghiệp sản xuất sản phẩm cuối cùng như: ô tô, xe máy, điện tử, dệt may, giày
da, viễn thơng, đóng tàu, giấy … phát triển. Tuy nhiên, cũng có quốc gia hai
hệ thống CNHT và cơng nghiệp sản xuất sản phẩm cuối cùng phát triển song
song. CNHT phát triển sẽ tạo điều kiện cho ngành công nghiệp sản xuất sản
phẩm cuối cùng phát triển và ngược lại ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm
cuối cùng phát triển sẽ kích thích ngành CNHT tăng tốc theo. Theo các
chuyên gia kinh tế, CNHT có vai trị quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia
khơng chỉ vì yếu tố thị trường, mà cơ bản nó cịn quyết định đến việc hội nhập
kinh tế quốc tế của quốc gia đó.
Tóm lại, mỗi ngành công nghiệp đều phát triển theo chuỗi giá trị riêng
biệt, song đều có một điểm chung là được hình thành từ sự liên kết giữa 2 khu
vực: khu vực thượng nguồn và khu vực hạ nguồn. Trong đó, khu vực thượng
11
nguồn thường được gọi là CNHT, làm nền tảng cơ sở để phát triển khu vực hạ
nguồn. Ngược lại, khu vực hạ nguồn là ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm
cuối cùng, chỉ có thể phát triển khi khu vực thượng nguồn phát triển, và khi
khu vực hạ nguồn đã phát triển sẽ tạo “động lực” thúc đẩy phát triển khu vực
thượng nguồn.
1.1.1.2. Công nghiệp hỗ trợ ngành giấy và các bộ phận cấu thành nó.
- CNHT ngành giấy:
Ngành cơng nghiệp giấy Việt Nam (gọi tắt là ngành giấy Việt Nam) là
một ngành có truyền thống lâu đời và là một trong mười ngành cơng nghiệp
mũi nhọn đóng vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế của nước ta. Giấy là
một mặt hàng thiết yếu trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Sản
phẩm giấy mang tính xã hội rất cao, nó cũng là một trong các chỉ tiêu đánh
giá sự phát triển của một quốc gia thông qua chỉ tiêu mức tiêu thụ giấy trên
một đầu người trong năm bình quân. Ngành giấy đáp ứng các nhu cầu về sản
phẩm tiêu dùng bao gồm các loại giấy như giấy in, giấy in báo, giấy bao bì cơng
nghiệp thơng thường, giấy vàng mã, giấy vệ sinh, giấy tissue …Mặt khác, sản
phẩm của ngành giấy cũng được sử dụng trong ngành kinh tế khác như giấy kỹ
thuật điện - điện tử, giấy sản xuất thuốc lá, giấy in tiền, giấy in tài liệu bảo mật.
Bất cứ một ngành công nghiệp nào muốn phát triển mạnh mẽ đều phải
dựa trên một nền tảng vững chắc, cũng như có một mối quan hệ chặt chẽ, hỗ
trợ lẫn nhau giữa các ngành công nghiệp cả theo chiều dọc và chiều ngang.
Đối với ngành giấy, quan hệ theo chiều dọc của ngành này được biểu hiện
dưới dạng chuỗi giá trị như sau (sơ đồ 1.1):
12
Sơ đồ 1.1: Quá trình sản xuất giy
Na2SO4 Hơi phát điện Vôi sống
Chuẩn bị NL
Mảnh
hợp
cách
Nồi hơi thu hồi
Dịch đen
đặc
Xút hoá
Chng bốc
Nấu bột
Rửa bột
Sàng chọn
Nớc thải
Xử lí nớc thải
NaCl
xút
Tẩy trắng
Cl2,NaCLO
NM
Hoá chất
Thải ra sông hồng
AKD, tinh bột
Ngiền, phối trộn
Nc thải
và gia phụ liệu
CaCO3, tr
bo lu
Xeo giấy
Cuộn lại
Gia công & bao gói
Nhập kho
13
Để có được một sản phẩm giấy cuối cùng, cần trải qua rất nhiều các
công đoạn trong sản xuất tạo nên thành một chuỗi giá trị của ngành. Theo
hình trên ta thấy chuỗi giá trị của ngành giấy bao gồm rất nhiều công đoạn
khác nhau. Ở mỗi giai đoạn khác nhau, cần có các sản phẩm hỗ trợ và cơng
nghệ hỗ trợ khác nhau. Nếu tạo ra được mối liên hệ hữu cơ giữa các khâu
trong những điều kiện sẵn có thì sẽ có tác động lớn vào việc đảm bảo tính chủ
động, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm giấy trên thị trường trong nước và thế giới.
Giấy được sản xuất theo quy trình bao gồm các giai đoạn: chuẩn bị
nguyên liệu (gỗ, tre, nứa…); sản xuất bột gồm nấu, rửa, sàng, tẩy trắng; chuẩn
bị phối liệu bột; xeo giấy và hoàn tất.
+ Ở giai đoạn chuẩn bị nguyên liệu: gồm có tre, gỗ mềm các loại, giấy
tái chế hoặc phế liệu…được xử lý, lựa chọn, sau đó được đưa đến nơi sản
xuất bột giấy.
+ Giai đoạn sản xuất bột giấy: gồm các khâu như nấu, rửa, sàng, tẩy trắng
Nhóm các thiết bị cơ khí cho giai đoạn này gồm nồi nấu, tháp nấu bột,
máy rửa bột, thiết bị làm sạch li tâm… nhóm thiết bị này thời gian hao mịn
dài nên ít phải thay thế thường xun.
Nhóm các sản phẩm hóa chất: xút (NaOH), Clo, Dioxit clo, Hypoclo,
Hydroxide natri.
+ Chuẩn bị phối liệu bột:
Nhóm thiết bị cơ khí gồm: bể trộn, máy nghiền đĩa…
Nhóm hóa chất: tinh bột cation, chất tăng trắng, chất kết dính, chất
chống thấm, các loại chất trợ và phụ gia như nhựa thông, phèn, bột đá, thuốc
nhuộm (tùy chọn), hồ, chất trợ bảo lưu, chất trợ in…
+ Giai đoạn xeo giấy và hoàn thành
14
Nhóm thiết bị cơ khí: hịm phun bột thủy lực, phần lưới, máy ép, máy
sấy, máy tráng phấn, lô cuộn giấy, máy cuộn…
Bộ phận hoàn thành: gồm máy cuộn, máy cắt tờ, máy bao gói giấy Ram,
máy bao gói cuộn, các loại nhãn mác, bao bì…
Nhóm hóa chất: keo AKD, keo PVA, tinh bột oxy hóa…
Như vậy, CNHT cho ngành giấy bao gồm sản xuất, cung cấp các sản phẩm
bổ trợ như: nguyên liệu bột giấy; các chất phụ liệu trong sản xuất giấy bao gồm
các nhóm hố chất (chất phủ lơ, chất chống thấm, tinh bột biến tính, chất tăng độ
bền, chất tăng trắng, chất trợ bảo lưu…), các phụ gia khác (nhóm chất độn, nhóm
màu) và các phụ tùng, cơ kiện, chi tiết, máy móc phục vụ cho ngành giấy.
- Các bộ phận cấu thành công nghiệp hỗ trợ ngành giấy:
+ Ngành sản xuất bột giấy.
Sản xuất bột giấy cung cấp bột giấy cho sản xuất giấy vì bột giấy là sản
phẩm trung gian, là nguyên liệu chính để sản xuất giấy thành phẩm.
Đây là giai đoạn từ các ngun liệu thơ ban đầu bằng các phương pháp
hóa học để tạo thành bột giấy phục vụ cho sản xuất giấy. Công đoạn này do các
nhà máy bột đảm nhiệm, có thể là khu liên hợp bột giấy và giấy hoặc nhà máy
sản xuất bột riêng.
Bột giấy có thể được sản xuất từ nhiều nguồn nguyên liệu như: gỗ, sợi
bông, giấy tái sinh, vải và rơm rạ, cỏ, lanh, đay, gai, bã mía…. Bột giấy có thể
được sản xuất bằng phương pháp cơ học, phương pháp hóa học, hoặc phương
pháp nửa hóa học, tùy yêu cầu của sản phẩm giấy mà ứng dụng các phương
pháp khác nhau.
Có thể phân loại bột giấy theo nhiều cách khác nhau, tùy theo nguyên
liệu hay phương pháp chế tạo hay theo mỗi bước thực hiện, mà bột giấy có
các tên gọi khác nhau:
Sơ đồ 1.2: Phân loại bột giấy
Phân loại
Nguyên liệu
Từ
gỗ
Phi
gỗ
Phương pháp chế tạo
Cơ
học
Hóa
học
Bán cơ
học
Bước thực hiện
Đã tẩy
trắng
Chưa
tẩy
trắng
15
Trong những năm gần đây, trên thế giới sản lượng bột giấy từ nguyên
liệu phi gỗ giảm dần, năm 2009 giảm 30,8% so với năm 2005 và đặc biệt năm
2010 giảm 85,23% so với năm 2005 (theo báo cáo của Hiệp hội giấy Việt
Nam). Vì vậy, giấy loại ngày càng được sử dụng nhiều làm nguyên liệu cho
ngành giấy do ưu điểm tiết kiệm được chi phí sản xuất. Giá thành bột giấy từ
giấy loại luôn thấp hơn các loại ngun liệu ngun thủy vì chi phí vận
chuyển và thu mua thấp hơn. Bên cạnh đó, sản xuất từ giấy loại cịn có tác
động bảo vệ mơi trường, tính trung bình sản xuất giấy từ bột giấy tái sinh giảm
được 74% khí thải và 35% nước thải (theo tạp chí công nghiệp). Nguồn nguyên
liệu bột giấy tái chế được các nước công nghiệp phát triển như Trung Quốc sử
dụng như một nguồn nguyên liệu thay thế hữu hiệu cho bột gỗ, hơn 38% bột
giấy từ giấy tái chế được sử dụng hàng năm, đối với Thái Lan là 65%.
Ngày nay, các nước có ngành sản xuất bột giấy phát triển và công suất
lớn chủ yếu là các nước Bắc Mỹ, Châu Âu, Indonesia, Nhật Bản. Trong đó,
Indonesia là một trong những nước sản xuất bột giấy lớn nhất thế giới.
+ Ngành hóa chất, phụ gia.
Hóa chất được sử dụng ở hầu như tất cả các ngành kinh tế: năng lượng,
giao thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản, xây dựng, cũng như
các hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ khác. Đặc biệt, trong các
ngành như giấy, bột giấy, điện tử, cơ khí, dệt may, giày da, in ấn, mạ, phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật, sản xuất và chế biến lương thực, thực phẩm, chế
biến các loại lâm sản, thủy sản khác… thì hóa chất được sử dụng với số lượng
lớn về cả số lượng và chủng loại hóa chất. Cho tới nay, sản phẩm của ngành
cơng nghiệp hoá chất rất đa dạng về chủng loại sản phẩm, giá cả, mẫu mã,
đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.
16
Ngành hóa chất là một ngành quan trọng có ảnh hưởng đến quá trình
sản xuất của ngành giấy vì ngành giấy sử dụng một lượng lớn các loại hóa
chất cơ bản như xút (NaOH)… để xử lý nguyên liệu. Sự phát triển của ngành
giấy sẽ kéo theo sự phát triển của ngành cơng nghiệp hóa chất và ngược lại
ngành hóa chất phát triển sẽ đảm bảo đủ nhu cầu hóa chất cho ngành giấy chủ
động trong sản xuất.
Trong ngành giấy, hóa chất được dùng với mục đích tẩy trắng, tăng độ
nhẵn mịn, chống thấm, chống nhăn…Vì vậy, ngành sản xuất bột và giấy sử
dụng lượng hóa chất, phụ gia khá lớn, chủng loại phong phú và hầu hết các
loại hóa chất, phụ gia này được sản xuất với công nghệ cao địi hỏi có sự phát
triển về quy mơ, chủng loại, chất lượng các sản phẩm của ngành hóa chất.
+ Ngành cơ khí.
Ngành cơ khí cung cấp các trang thiết bị máy móc, dây chuyền cơng
nghệ cho ngành giấy. Ngành cơ khí đóng vai trị rất quan trọng trong sự phát
triển của ngành giấy. Cơ khí hóa ngành giấy với các máy móc hiện đại sẽ làm
cho năng suất lao động tăng lên, chất lượng sản phẩm giấy được nâng cao, tiết
kiệm lao động và chun mơn hóa q trình sản xuất sản phẩm giấy.
Đặc biệt, ngành giấy đang có những định hướng mới trong việc áp
dụng những sản phẩm giấy có chất lượng cao như giấy kỹ thuật, giấy cao
cấp… Dự kiến các sản phẩm giấy chất lượng cao sẽ có mức tăng trưởng gấp
đơi so với các sản phẩm giấy khác. Quá trình sản xuất các sản phẩm giấy kỹ
thuật địi hỏi máy móc hiện đại đắt tiền và cơng nhân có trình độ cao. Hiện
tại, lĩnh vực này tập trung ở những nước phát triển với trình độ cơng nghệ và
máy móc hiện đại, tiên tiến.
1.1.2. Đặc điểm công nghiệp hỗ trợ ngành giấy Việt Nam
CNHT ngành giấy là một ngành công nghiệp quan trọng, nếu ngành này
phát triển sẽ giúp doanh nghiệp tự chủ được phần hóa chất, nguyên liệu bột giấy,
góp phần làm giảm chi phí đầu vào. Hiện nay, CNHT ngành giấy cịn yếu kém:
các dự án bột giấy ít, cịn cơng nghiệp hóa chất mới chỉ sản xuất được những hóa
17
chất như là AKD, tinh bột biến tính, nhựa thơng cường tính, nhưng quy mơ cịn
nhỏ. Những cơ sở này khơng có bộ phận R&D (nghiên cứu & phát triển), do vậy
tương lai cũng chưa rõ ràng. Phần công nghiệp cơ khí chỉ sản xuất được: phủ lơ
nhỏ, mài lơ, đĩa nghiền đơn giản… còn lại hầu hết phải nhập khẩu.
Hiện nay, chưa có một văn bản, chính sách nào của ngành giấy đề cập
đến CNHT một cách toàn diện, tất cả chỉ được đề cập một cách khái quát
trong các báo cáo của ngành.
Từ những khái quát về ngành giấy cũng như về CNHT của ngành,
CNHT ngành giấy có những đặc điểm sau:
Một là, CNHT ngành giấy là một bộ phận của ngành công nghiệp giấy.
Do đặc thù của ngành sản xuất giấy là một q trình khép kín, từ khi
đưa nguyên liệu vào chế biến cho đến khi ra thành phẩm địi hỏi nhiều cơng
đoạn phức tạp. Cơng nghệ sản xuất giấy ứng dụng một loạt các quá trình tác
động cơ học, hóa học, năng lượng, thơng tin và điều khiển từ công đoạn
nguyên liệu ban đầu, nấu, rửa, tẩy trắng, sàng lọc, nghiền, xeo đến gia công
chế biến, đóng gói thành phẩm.
Hiện nay, một nhà máy sản xuất giấy từ nguyên liệu thô là một khu liên
hợp sản xuất, gồm các bộ phận sản xuất chính là nhà máy bột và nhà máy giấy
và các bộ phận sản xuất phục vụ. Vì vậy, CNHT cho ngành là một bộ phận của
dây chuyền sản xuất giấy. Hầu hết, các doanh nghiệp sản xuất giấy đều có hệ
thống hỗ trợ riêng để phục vụ trực tiếp nhu cầu của các nhà máy nhưng quy mô
nhỏ chỉ đáp ứng phần nào, cịn lại hầu hết phải nhập khẩu.
Ví dụ như Công ty giấy Bãi Bằng là một khu vực sản xuất rộng lớn bao
gồm nhà máy bột 48.000 tấn/năm, nhà máy giấy 50.000 tấn/năm, nhà máy điện
28MW, nhà máy xút-clo 23,4 tấn/ngày, xưởng xử lý nước 72.000m3/ngày, lị vơi
66 tấn/ngày.
Hai là, CNHT ngành giấy phát triển trên cơ sở phải đảm bảo các
nguồn lực cơ bản của hoạt động sản xuất.
Để phát triển một ngành sản xuất đều dựa trên cơ sở có các nguồn lực
đầu vào cơ bản. Các nguồn lực này có thể là tài nguyên thiên nhiên sẵn có hay
18
các nguồn lực có được trong q trình phát triển đất nước: nguồn nhân lực,
vốn và nguồn công nghệ. Các nguồn lực này là cơ sở cho sự ra đời, tồn tại và
phát triển của mỗi ngành. Việc sử dụng hợp lý các nguồn lực sẽ thúc đẩy sự
phát triển của ngành.
CNHT ngành giấy chỉ có thể phát triển trên cơ sở phát triển các nguồn
lực cơ bản của nền kinh tế xã hội, trong đó các điều kiện mấu chốt là phát
triển nguồn tiềm năng về nguyên liệu, vật tư máy móc, thiết bị, hóa chất cơ
bản và cơ sở hạ tầng.
Việt Nam là nước nằm ở vị trí địa lý rất thuận lợi, có nhiều ưu thế phát
triển nguồn nguyên liệu, tổng diện tích nguồn nguyên liệu của cả nước là rất
lớn với chủng loại khá phong phú. Với vị trí địa lý thuận lợi, việc phát triển
vùng ngun liệu cũng có rất nhiều thuận lợi, cây thơng sử dụng làm nguyên
liệu giấy trồng ở ôn đới phải mất 30-40 năm mới có thể khai thác được nhưng
ở nước ta chỉ mất 15 năm, cây tre chỉ cần 3-5 năm là có thể khai thác đưa vào
sản xuất.
Sản phẩm cơng nghiệp giấy được hình thành trong q trình chế biến
khối lượng lớn nhiều nguyên liệu đầu vào. Nguyên liệu gỗ, tre nứa, rơm rạ, than,
hóa chất, và thiết bị cồng kềnh phải vận chuyển qua chặng đường dài từ vùng
nguyên liệu, từ các nhà cung cấp trong nước và ngồi nước đến nhà máy.
Vốn và cơng nghệ: là hai nguồn lực cơ bản cho quá trình phát triển, góp
phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm CNHT và nâng cao
tính cạnh tranh cho các sản phẩm giấy. Cơng nghệ khơng chỉ được xem xét ở
góc độ là các ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, mà cịn là
trình độ quản lý, điều hành, tổ chức… của các doanh nghiệp. Thực tế cho
thấy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam chưa đáp ứng được các nhu cầu
về vốn và công nghệ cho CNHT của ngành giấy. Bởi CNHT ngành giấy bao
gồm các ngành hầu hết đều phải sử dụng đến công nghệ tiên tiến, dây chuyền
máy móc hiện đại để sản xuất ra các sản phẩm hỗ trợ có chất lượng cao đáp
ứng nhu cầu của các doanh nghiệp sản xuất giấy.
19
Bên cạnh đó, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào. Hiện nay, Việt Nam
có lực lượng lao động khoảng hơn 50 triệu người, và được bổ sung thường
xuyên hàng năm với tốc độ tăng trung bình là 1,7%. Lao động của chúng ta được
đánh giá là trẻ, cần cù, thơng minh, chịu khó và có khả năng tiếp thu công nghệ
nhanh. Giá nhân công của nước ta lại chỉ ở mức thấp. Đối với một ngành cần sử
dụng nhiều lao động như CNHT ngành giấy thì đây có thể coi là một yếu tố
tương đối thuận lợi. Bên cạnh nguồn nhân lực dồi dào, CNHT ngành giấy nước
ta còn được hưởng lợi từ một thị trường nội địa rộng lớn với hơn 300 doanh
nghiệp sản xuất giấy nên nhu cầu vể các sản phẩm hỗ trợ là rất lớn.
Ví dụ: hiện nay nhà máy giấy Tân Mai sản xuất một tấn bột hóa nhiệt
cơ (CTMP) tiêu thụ hết 2,3m3 gỗ, 2.500kwh điện, 150kg H2O2, 70kg NaOH,
50kg Na2SiO3, 14kg dầu FO và 80m3 nước. Mỗi tấn giấy in báo cần 1,07 tấn
bột, 900kwh điện, 315 lít dầu FO, 5kg nhựa thơng, 12kg phèn, 20kg cao lanh
và 100m3 nước.
Q trình sản xuất một tấn giấy viết Bãi Bằng, độ trắng 800ISO địi hỏi
phải có 5,5 tấn tre lứa gỗ, 720kg đá vôi hợp cách (54% CaO), 273kg muối,
75kg Na2SO4, 11kg nhựa thông, 18kg phèn, 70kg dầu FO, 520m3 nước và
4,4 tấn than.
Do đó, việc xây dựng các cơ sở sản xuất sản phẩm hỗ trợ đòi hỏi phải
phát huy các nguồn lực của hoạt động sản xuất để xây dựng một hệ thống hỗ
trợ khép kín, phục vụ nhu cầu cho chính bản thân các nhà máy sản xuất giấy.
Ba là, đầu tư phát triển CNHT ngành giấy đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn.
Q trình sản xuất giấy cần phải có một quy trình sản xuất dài, với một
hệ thống dây chuyền máy móc thiết bị quy mơ lớn, phức tạp, tốn kém, cùng
các bộ phận sản xuất hỗ trợ, sân bãi nguyên liệu, nhà xưởng và kho tàng. Đó
là nguyên nhân đầu tư xây dựng CNHT cho nhà máy giấy địi hỏi diện tích
mặt bằng quy hoạch rộng, vốn đầu tư lớn và suất đầu tư cao. Theo tính tốn
đầu tư nhà máy sản xuất bột giấy chi phí đầu tư (tỷ suất đầu tư) khoảng 1.8002.200 USD/tấn bột giấy từ cây nguyên liệu và 1000-1.200 USD/tấn giấy từ
20
bột giấy ra sản phẩm giấy. Với chi phí lớn như vậy, rất ít có khả năng đầu tư
mở rộng hay xây mới nhà máy giấy do nguồn vốn tự có trong nước mà phải
huy động từ nguồn vốn hỗ trợ của các nước hay các khoản vay thương mại
trong và ngồi nước.
Cơng trình nhà máy giấy Tân Mai mở rộng, thiết bị tồn bộ của cộng hịa
Pháp, cơng suất thiết kế 40.000 tấn bột/năm và 30.000 tấn giấy in báo/năm.
Nguồn vay vốn thông qua hiệp định nhà nước. Tổng số vốn đầu tư ngoại tệ là
45,7 triệu USD. Như vậy tỷ suất đầu tư ước tính khoảng 1.300/1.400 USD/tấn.
Nguồn vốn đầu tư cho ngành giấy cũng như ngành hỗ trợ lớn cịn do
chi phí cho xử lý mơi trường cao, q trình sản xuất bột giấy địi hỏi sử dụng
nhiều hố chất, một số có thể gây tác hại xấu đến môi trường xung quanh đặc
biệt là các dự án nằm ở thượng nguồn nên chi phí đầu tư hệ thống môi trường
theo đúng tiêu chuẩn Việt Nam là khá lớn thường chiếm từ 20-25% tổng chi
phí vốn đầu tư.
Ngoài ra, do đặc thù của hỗ trợ ngành giấy, đầu tư cho ngành phải tính
cả đầu tư cho phát triển vùng nguyên liệu để sản xuất bột giấy mà chu kỳ kinh
doanh trồng cây nguyên liệu dài, thường từ 7-9 năm với cây nguyên liệu ngắn
ngày và 15-20 năm với cây nguyên liệu dài ngày. Do đó, đầu tư trồng nguyên
liệu cần lượng vốn lớn và cũng có rất nhiều rủi ro.
Cũng từ những nguyên nhân mà đầu tư cho CNHT ngành giấy đòi hỏi
tiến độ thời gian dài, thời gian thu hồi vốn đầu tư lâu. Theo thống kê, hệ số
thu hồi vốn nội bộ nằm trong khoảng 11-12% năm. Điều này đặt ra đòi hỏi
đối với những nhà quản lý cần có những chính sách đặc thù riêng nhằm giảm
tính rủi ro trong việc đầu tư vào phát triển CNHT ngành giấy.
1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ VAI TRỊ CỦA CƠNG NGHIỆP HỖ TRỢ NGÀNH
GIẤY Ở VIỆT NAM
1.2.1. Sự cần thiết phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành giấy
21
Một là, do yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH các ngành kinh tế quốc dân
trực tiếp là ngành sản xuất giấy.
Việt Nam đang trong quá trình CNH,HĐH đất nước, phấn đấu đến năm
2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được
mục tiêu đó, Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy các ngành công nghiệp có vai trị
dẫn dắt trong nền kinh tế, đồng thời mở rộng phát triển sang tất cả các ngành
công nghiệp khác trong đó có ngành CNHT.
Thực tiễn phát triển của nhiều nước đi trước đã khẳng định vai trò
quan trọng của CNHT trong quá trình CNH,HĐH đất nước. Việc phát triển
các ngành CNHT sẽ hình thành cơ sở cơng nghiệp vững chắc cho tương lai,
đồng thời góp phần đẩy nhanh quá trình này theo hướng vừa mở rộng vừa
thâm sâu. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay của nước ta, nguồn lực phát
triển còn hạn hẹp nên chưa thể phát triển tất cả các ngành hỗ trợ, mà cần có
sự lựa chọn, ưu tiên phát triển. Xuất phát từ vai trị quan trọng của ngành
giấy trong q trình phát triển đất nước, cùng với thực tế thiếu nguồn
nguyên phụ liệu lớn cho sản xuất của ngành giấy Việt Nam, thì phát triển
CNHT ngành giấy cần được quan tâm.
Mặt khác, cũng giống như các nước đang phát triển khác, trong giai
đoạn này, Việt Nam cần tận dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) như là
một yếu tố dẫn dắt nền kinh tế. Giống như nhiều ngành công nghiệp khác,
ngành giấy Việt Nam cũng đang tích cực thu hút đầu tư nước ngoài vào
ngành. Điều này, lại một lần nữa đặt gia yêu cầu phải phát triển CNHT cho
ngành giấy để đảm bảo cung cấp các đầu vào cần thiết cho sản xuất.
Hai là, do sức ép cạnh tranh quốc tế đối với ngành giấy Việt Nam.
Xu hướng tồn cầu hóa trên thế giới và việc trở thành thành viên chính
thức của WTO đã mang lại cho ngành giấy Việt Nam cơ hội có một thị
trường tiêu thụ rộng lớn, cơ hội tiếp cận với công nghệ sản xuất, kinh
nghiệm quản lý từ các nước phát triển cũng như cơ hội thu hút vốn đầu tư
từ các nhà đầu tư nước ngoài, các nguồn viện trợ phát triển. Tuy nhiên, bên
22
cạnh những cơ hội đó, ngành giấy Việt Nam cũng phải đối mặt với những
thách thức lớn như sự cạnh tranh của sản phẩm giấy với các nước trong khu
vực, chất lượng bột giấy, máy móc, cơng nghệ và vấn đề ô nhiễm môi trường...
Bảng 1.1: Năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam - sử
dụng
ma trận SWOT
S- Điểm mạnh
W- Điểm yếu
- Thị trường tiêu thụ lớn, nhu cầu đa - Khả năng đáp ứng nhu cầu về chất
dạng, tiêu dùng giấy/người/năm thấp
lượng thấp và chủng loại không đa
- Tỉ lệ người biết chữ cao, giáo dục dạng
phát triển
- Công nghệ sản xuất lạc hậu, công
- Tốc độ tăng trưởng GDP và xuất khẩu tác nghiên cứu và phát triển kém
tăng nhanh
- Quy mô sản xuất và công xuất
- Vùng nguyên liệu lớn, khí hậu thích nhỏ, trang thiết bị lạc hậu
hợp cho sự tăng trưởng của các loài - Mất cân đối giữa sản xuất bột giấy
thực vật
và giấy
- Chi phí nhân cơng và một số chi phí - Quy hoạch vùng nguyên liệu và cơ
khác thấp
sở sản xuất chưa hợp lý
- Các ngành liên quan như điện, than, - Khả năng tài chính kém
hóa chất đáp ứng được nhu cầu sản - Gây ô nhiễm môi trường
xuất.
O- Cơ hội
T- Đe dọa
- Mơi trường chính trị ổn định
- Cạnh tranh ngày một khốc liệt trên
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thị trường trong nước và quốc tế
thu hút nguồn vốn, kỹ năng quản lý và - Không đáp ứng được tiêu chuẩn về
công nghệ từ bên ngồi
bảo vệ mơi trường
- Nhu cầu tiêu dùng và sử dụng ngày - Nguyên liệu (gỗ) có thể bị cạnh
càng lớn
tranh sử dụng cho mục đích khác
23
- Gần các thị trường tiêu thụ lớn như - Các sản phẩm thay thế khác như:
Trung Quốc, các nước ASEAN
báo điện tử, thư điện tử…
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài lớn
- Giá nguyên nhiên vật liệu tăng
cao.
24
Qua bảng phân tích trên cho thấy, năng lực cạnh tranh hiện tại của ngành
giấy Việt Nam cịn có nhiều điểm yếu cùng với những đe dọa. Lợi thế lớn nhất
của ngành giấy Việt Nam là thị trường tiêu thụ lớn, nhu cầu đa dạng, vùng nguyên
liệu lớn. Được xem như một trong những điểm yếu kém nhất làm giảm khả năng
cạnh tranh của các sản phẩm giấy Việt Nam là Việt Nam phải nhập khẩu phần lớn
nguyên phụ liệu cho sản xuất, cho nên dù có lợi thế về các điều kiện như trên thì
mức giá của các sản phẩm giấy Việt Nam vẫn cao hơn sản phẩm cùng loại của các
nước ASEAN từ 5 - 15% và cao hơn hàng của Trung Quốc 20 - 30%.
Do đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm giấy Việt
Nam trên thị trường thế giới thì cần đảm bảo được nguồn cung nguyên phụ
liệu nội địa và đó chính là nhiệm vụ của CNHT ngành giấy Việt Nam trong
thời gian tới.
Ba là, do yêu cầu gia tăng số lượng, chất lượng, cung về giấy đáp ứng
nhu cầu thị trường trong nước.
Việt Nam mới sản xuất được một số loại giấy đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng trong nước còn các sản phẩm giấy khác phải nhập khẩu. Khi đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện, GDP/người tăng, đời sống văn hóa phát
triển, tốc độ đơ thị hóa nhanh nên nhu cầu sử dụng, tiêu dùng ngày càng cao
và đa dạng. Do vậy, để đáp ứng các sản phẩm của ngành giấy cũng phải
phong phú về chủng loại và chất lượng tốt hơn.
Bảng 1.2: Dự báo mức tăng trưởng bình quân về nhu cầu tiêu
dùng giấy cho cả thời kỳ 2010 -2025
TT
1
2
3
4
Chỉ tiêu
Dân số, triệu người
Tăng trưởng GDP,
%/năm
Tiêu thụ giấy,
kg/người/năm
Nhu cầu tiêu dùng giấy,
tấn/năm
2015
92
7-8
(2010-2015)
2020
106
7
(2015-2020)
2025
112
7
(2020-2025)
44,0- 47,5
62,0- 66,5
90,0- 92,5
4.371.900
7.047.161
10.357.894
Nguồn: Bộ Công thương, Dự thảo Quy hoạch phát triển ngành công
nghiệp giấy Việt Nam đến năm 2020, có xét đến năm 2025, tr.88.
25
Với những dự báo về tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới cho thấy,
cùng với mức độ tăng dân số khoảng 1,2%/năm, tốc độ tăng trưởng nhu cầu
giấy giai đoạn 2010-2015 sẽ đạt khoảng 13,5-14%, giai đoạn 2016-2020
khoảng 10-12%, và giai đoạn 2020 - 2025 khoảng 8-10% thì nhu cầu tiêu
dùng giấy trên đầu người trong một năm sẽ tăng lên đáng kể: năm 2015 có thể
đạt 44-47 kg/người/năm, năm 2020 có thể đạt 62-66 kg/người/năm, năm 2025
có thể đạt 90-92 kg/người/năm.
Chính những nhu cầu tiêu dùng sản phẩm giấy ngày càng tăng trong
những năm tới, đòi hỏi ngành giấy phải chú ý phát triển CNHT để làm nền
tảng, tạo cơ sở vất chất để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm giấy đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của trong nước cũng như xuất khẩu.
1.2.2. Vai trò của công nghiệp hỗ trợ ngành giấy
Sự cần thiết phát triển CNHT cịn bắt nguồn từ vai trị của nó đối với
phát triển ngành giấy và đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Cụ thể là:
- Là điều kiện quan trọng đảm bảo tính chủ động và nâng cao giá trị gia
tăng của ngành giấy trong nước.
CNHT không phát triển sẽ làm cho các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm
giấy phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Cho dù những sản phẩm này có thể được
cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài, nhưng do đặc điểm của các sản phẩm hỗ trợ
ngành giấy là rất đa dạng về chủng loại, chi phí vận chuyển lớn, cùng với
nhiều loại chi phí khác như: chi phí bảo hiểm, chi phí lưu kho, chi phí bốc
dỡ…sẽ làm gia tăng nhanh chóng chi phí đầu vào của sản phẩm giấy. Việc
nhập khẩu quá nhiều ngun phụ liệu từ bên ngồi vơ hình chung đã biến quá
trình sản xuất các sản phẩm giấy của nước ta phụ thuộc vào nước ngồi trong
khi đó chúng ta là nước xuất khẩu dăm mảnh hàng đầu thế giới. Đó là chưa kể
đến sự phụ thuộc gần như hồn tồn vào phía nhà cung cấp về khối lượng
cũng như thời gian giao nhận hàng nhập khẩu như phần máy móc, thiết bị.
Đặc biệt, khi Việt Nam có những đơn đặt hàng giấy lớn, yêu cầu khắt khe về
tiến độ giao hàng thì chúng ta rất lúng túng vì không tự chủ được nguồn