Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Lễ hội truyền thống của các dân tộc phía Bắc Việt Nam: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (39.52 MB, 151 trang )

Chương III

CÁC HOẠT
ĐỘNG
CỦA LẺ h ộ• i


VÀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN
1. NHỮNG NGHI THỨC CỦA PHẨN LỄ
1.1. Các đôi tượng thờ cúng
tí. Nìùen thán

Đây lả tín ngưỡng sùng bái tự nhiên , một trong những tín
ngưỡng phơ biên ờ nhiều dân tộc. Với quan niệm: "Đất có Thổ
cùng, sơng có Hà Bá", các dân tộc Việt Nam cho rằng tất cả mọi
sự vật hiện tượng xung quanh con người đều có sức sơng. Trơng
coi các sức song (ló là các vị than. Theo Hán văn, chữ thần (
) gồm một bên chủ "kỳ" là thẩn Đất, một bên chữ "viết"
là núi ràng, phán bảo, sỏ dọc qua chừ M
viêt" có nghía là xun
suỏt mọi nơi. moi lúc. Thẩn có nghĩa là tài giỏi, phán bảo được
mọi diêu, mọi lẽ. ('ho nơn, khi nói thẩn kỳ là ý chỉ sự tài giỏi, ký
lạ của một vị nào dỏ. Khi vị nào được gọi là Thẩn đều có ý chỉ
các lực lượng Nhiên thẩn. Còn các lực lưựng Nhân thần người ta
đều gọi là các vị thánh, đó là các nhân vật hoặc huyền thoại
hoặc có thật, khi cịn sơng có cơng trạng vùi non lấp biển, cứu
dán, cứu nưỏc, khi chét được hiển thánh. Khi được coi là thánh
cùng có ý chí vị dó có tài nghe, nói trên cả tài của vua. Cho nên
vua chỉ phong th;in, tôn t hánh chứ không bao giờ phong thánh.



Đạo thờ thần ở Việt Nam rất sâu đậm, ảnh hưởng lớn đến
đời sơng văn hố của các dân tộc ở nước ta. Đạo ấy được thể
hiện ở nhiều cấp độ và khá sinh động trong đời sống các dân tộc.
T h ầ n cây: Người miền xi có câu: 'Thần cây àa, ma cây
gạo”, coi các loại cây đó đều có thần trú ngụ thì ở miền núi các
dân tộc anh em cũng có chung quan niệm như vậy. Đó là cây si
ở người Mường, cây gạo ở ngươi Thái, cây bô (chapô), cây mẹ
(chamê) của người Nùng hay cây cau, cây dừa ở ngươi Chăm...
Đôi với người miền núi, khơng chỉ có từng loại cây có Thần mà
các khu rừng ở đầu bản, trên ngọn suôi cũng đều có các vị thần
trơng coi, trú ngụ.
Có một điểm chung là tất cả những vị thần đó đều thuộc
loại thần có khả năng bảo vệ, che chở cho xóm làng, làm cho
người yên, vật thịnh. Vì thế, hàng năm nhân dân thường tổ
chức thờ cúng cho các vị thần đó. Người Thái có lễ "Xên Đơng
sựa” ở các bản, ”Xên Tu Mưõng" ở các mường; người La Chí
cũng có lễ cúng rừng cấm vào Tết tháng Bảy Am lịch, người Hà
Nhì ăn tết tại rừng cấm đầu bản vào dịp Tết năm mới tháng
Sáu, người IT mông làm lễ Nào xồng (lễ àn thề) tại khư rừng
cấm cạnh bản...
Trong lễ mỏ cửa rừng của người Kinh ở xã Yến Vĩ (Hà Tây)
khơng chỉ thờ sơn thần mà cịn thờ cả cây côi. Tục hái lộc đêm
Giao Thừa cũng là một biểu hiện của nghi thức, nghi lễ thờ
Thần Cây. Hội Vũ Lao (Thanh Hịa - Phú Thọ) có tục thờ cả
Thần Nông, Thần Núi và Thần Nước. Hội Bắc Lệ (Hữu Lũng Lạng Sơn) thờ thần Bà Chúa Thượng Ngàn (nữ thần núi) .v.v...
Có thể nói Thần Cây, Thần Rừng là các thần khá thân thiêt,
gần gũi với con người. Vì thế, bất cứ dân tộc nào cũng có tục thò
các thần này.
66



- T h ầ n Đ á: cũng được nhiều dân tộc coi là vị thần dem lại
phúc lộc và che chở cho xóm làng. Người Thái, người Mưịng,
người Kinh ... thờ Thần Đá để cầu tự, thậm chí người Thái đặt
tên con là đá "Đán" để mong sự mạnh khoẻ. Trong Động Hương
Tích (Chùa Hương - Hà Tây) cịn có Hịn Núi Cơ, Hịn Núi Cậu
để ai hiếm hoi con cái đến thắp hương cầu tự. Người Hà Nhì coi
bên nước là nơi linh thiêng, nhưng lại do Thần Đá trỏng coi, nên
hàng năm trước khi ăn tết, đồng bào có tục dọn sạch cỏ xung
quanh tảng đá thị dựng bên bến nước. Người Mường coi Thần
Đá là thần bảo vệ mồ mả tô tiên. Tại khu mả ỏ Chiêng Động
(Kim Bơi - Hồ Bình) có khu mộ dựng cả một bãi dá để thờ. Hội
chùa Kè (Mường Bi - Hồ Bình) thờ hịn đá "Bụt Mọc". Hội
Thiết Đinh, xã Định Tường (Thiệu Yên - Thanh Hoá) thờ thần
"Cao Sơn Lập Thạch" (hòn đá tròn). Trong chùa Dâu (Thuận
Thành - Bắc Ninh) thờ hòn Đá Sáng (Thạch Quang) - tinh linh
con gái của Phật Mẫu Man Nương. Lễ tê Phong Sơn (Phong
Điền - Huế) cũng thò đá. Đặc biệt là ở Việt Nam khá phổ biến
tục thò các hòn đá "vọng phu" - biểu tượng của những người
phụ nữ kiên trinh với chồng con, xóm làng. Tục thị Thần Đá ở
Phong Sơn - Thừa Thiên Huế...
- T hần h a n g d ô n g : Người ta thờ thần hang động cũng
chính là thị thần che chỏ, bảo vệ bản mường. Bởi vì từ thời
nguyên thuỷ con người cư trú ở các hang động là chính. Đó là
cái nhà của họ, nơi diễn ra mọi sinh hoạt của người nguyên
thủy. Có thể, tục thờ thần hang động xuất hiện rất sớm trong xã
hội lồi người. Điển hình cho tục thờ này được thể hiện ở các
hang động sau: Đó là động Hương Tích (Chùa Hương - Hà Tây),
tuy trong dộng có thờ Phật, nhưng đó chỉ là yếu tơ mói. Nội
dung chính của lễ hội Chùa Hương là thờ các thần tự nhiên: Núi

67


Cô, Núi Cậu, Núi Tiền, Núi của... các vị Thần có từ thuở xa
xưa. Hội Nha Mơn (Phong Châu - Phú Thọ) thị Đá lớn. Hang
Thẩm Lé (Hang Nhìn) ở Văn Chấn (Yên Bái) mở hội từ mồng 7
đến 15 tháng Giêng, động Tam Thanh, động Nhị Thanh, Hang
Tiên (thị xã Lạng Sơn), Động Tiên (thị xã Hồ Bình) ... đều
nhằm thờ các vị thần trơng coi những nơi đó, nơi cư trú thờ xa
xưa của con người.
T h ầ n nước: Nhân dân ta có câu: "Đất có Thơ Cơng, sơng
có Hà Bá", Hà Bá ở đây thường được coi là vua Nước hay chính
là Thần Nưóc. Nước khơng chỉ phục .vụ đời sống hàng ngày mà
còn là một trong những miền tạo nên vũ trụ mà nước cũng là
lực lượng tự nhiên tác động đến sự an khang, thịnh vượng của
con người. Thần Nước thường được cụ thể hố thành hình tượng
con thuồng luồng (sau này cả con rồng, con giải)... Mỗi một vực
nước sâu, một khúc sông, đoạn suối... đêu có vua thuồng luồng,
tiếng Thái gọi là "tô ngược" trú ngụ tại các hồ, ao, cái giếng...
cũng thường có các vị thần đó cai quản. Trong đó, cái giếng nước
của người Kinh đặc biệt quan trọng với quan niệm Thần Giêng
là vị thần trực tiếp ảnh hưởng đến đời sơng xóm làng nên
thường được thờ cúng quanh năm hay các dịp lễ tết.
Tại Chùa Đậu (Thành Đạo tự) làng Gia Phúc, xã Nguyễn
Trãi, huyện Thường Tín (Hà Tây) thờ Nữ thần Pháp Vũ và
Thần Giếng tại giếng làng. Tục gợi là giếng Bà Giao, quanh
năm đầy nước trong vắt (thờ vào 26 - 27 tháng chạp). Hội Khám
ở làng Ngọc Khám, xã Gia Đồng, huyện Thuận Thành (Bắc
Ninh) thờ Tri Thuỷ (Thuỷ thần) tại đình làng. Vì thế có câu
"Lâm râm hội Khám, u ám hội Dâu". Chùa Dâu (Diên ứng tự) ỏ

xã Thanh Khương, Thuận Thành (Bắc Ninh) tuy là nơi thờ Phật
Mâu Man Nương, nhưng thực chất là thờ các lực lượng Nhiên
68


thần tạo ra mưa như Pháp Vân (mây), Pháp Vũ (mưa), Pháp
Ix)i( sấm chớp) và Pháp Điện (sét). Chùa Tứ Pháp ở xã Di Sử,
Liên Xá, Lạc Đạo, Đình I)ù... huyện Mỹ Văn (Hưng Yên) cũng
có tục thờ các lực lượng làm ra mưa như Chùa Dâu.
Nhiều nơi cỏ tục thờ Thẩn Nước như hội Đình Làng cả (Vũ
Lao, Thanh Hoà, Phú Thọ), hội An Cố ( xã Thuỵ An, Thái Thụy,
Thái Bình), hội chùa Thám, xã Vũ Lao, Thanh Hồ, Phú Thọ)
hay hội đình Đình Bảng (Tiên Sơn, Bắc Ninh), hội Làng Đăm
(Tây Tựu, Từ Liêm, Hà Nội)... tuy các vị thần nước được gọi
khác đi, trang trọng hơn như "Thuỷ Bá Đại Vương” hay "Bạch
Hạc Tam Giang"... vẫn đểu là Thần Nước.
Một sô nơi Thần Nước được cụ thể hố bằng hình tương Cá
Ơng (cá voi) như tục thị Cá Ơng ở hội Bảo Ninh (Quảng Bình),
hội Văn Láng (Tiền Giang)... hội đền Tả Phù (phô Kỳ Lừa, Lạng
Sơn) thờ thần sơng Kỳ Cùng, hội đền Đìa (Hưng Hà, Thái Bình)
rước nước bắt cá giơng... đêu liên quan đến Thần Nước.
Tục thờ Thần Nước dặc biệt được chú trọng ở nhiêu dân tộc
thiểu sỏ như ngưòi Thái, người Tày, người Nung hay ngưòi Ẻ
Đê, người Gia Rai, người Lào, ngưịi Lự, người Hà Nhì, người
Lơ Lơ... Bên cạnh bản của các dân tộc Tày, Thái, Lào, Lự... bao
giò cùng phải có một vực nước sâu dành làm nơi ở của vua thuồng
luồng (to ngược), thực ra là Thần Nước hay Vua Nước. Đây không
chỉ là vị thẩn trông coi sơng nuớe mà cịn là vị thần bảo vệ sự sơng
và sự sung túc, an tồn của cộng đồng bản mường. Cho nên, nếu
bản nào khơng có vực nước tự nhiên thì họ phải đào thêm vực nưốc

ngay cạnh bản làm nơi trú ngụ của vua nước.
Hàng năm, vào dịp đầu xuân người Thái có tục thờ vực
nước ở đầu ngọn suối. Người Thái gọi là 'Vãng căm” (vực cấm)
'và lễ vật thò ỏ đây là con trâu trắng. Tục này cịn thấy ở nhóm
69


Thái Yên Châu (Sơn La), vối lễ tế "Chom nong" (lễ cúng các ao
tự nhiên trên núi ở đầu mường). Trong lễ "Lẩu Then" (lễ tạ ơn
của các Bà Then) của người Tày có tục hát "khao thng" thực
chất là rắc hoa trắng xuống nước để tạ ơn vua thuồng luồng đã
chăm lo nước cho bản mưòng để sản xuất và sinh hoạt.
Vào cuối năm người Ê Đê và nhiều dân tộc ở Tây Nguyên có
tực thờ Thần Máng nước, mong có nước chảy quanh năm.
Những năm hạn, họ tìm cách chọc tức Thần Nước bằng những
hành động trái tự nhiên để thần sấm sét giận dữ mà làm ra
mưa. Người Ba Na cho rằng, Thần Sấm sét là tình thân của
Thần nưốc. Người Xơ Đăng có tục bện dây đay thành hình con
rắn treo giữa làng để Thần Sấm sét tưởng đó là vợ mình (tức là
thần Nưốc đã hiện hình thành con thuồng luồng) đang đẻ mà
làm mưa xuống tưới cho nàng.
Người Khơ Mú cũng coi con thuồng luồng là Vua nưóc
(Thần Nước) có thể làm ra mưa nên hàng năm có lễ cầu mưa,
gọi là lễ "kéo đuôi con thuồng luồng" (ru hờn ta prưdồng). Người
Mường (Mường Bi - Hồ Bình hàng năm có lễ cúng mương "Ai Li,
Ải Lo", con mương chính dẫn nước tưối cả cánh đồng Mường Bi.
Thực ra, đây cũng chính là lễ cúng Thần Nước của người Mường.
Thần nước ỏ các dân tộc thiểu số được quan niệm bằng
những hình tượng sinh động, cụ thể. Đặc biệt là hình tượng con
thuồng luồng. Tục thờ Thần Nước ở người Kinh cũng khá phong

phú. Thực ra, việc thị Lạc Long Qn (ơng tổ của các dân tộc
Việt Nam) cũng là một nghi lễ thờ Thần Nước (Rồng). Hội Đình
Bảng (Tiên Sơn - Bắc Ninh) vừa thờ Thần núi (Cao Sơn Đại
Vương), Thần Trồng trọt (Bạch Lệ Đại Vương) vừa thờ Thần
Nước (Thủy Bá Đại Vương). Cư dân đánh cá thờ cúng Thủy
Thần quanh năm nhất là mùa mưa lũ cũng là thờ Thần Nước.
70


Tục thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp
Điện), bôn lực lượng tự nhiên làm ra mưa được thờ ở chùa Dâu
(còn gọi là chùa Thạch Quang), Thuận Thành (Bắc Ninh) và các
xã Di Sử, Liên Xá, Lạc Đạo, Đình Dù huyện Mỹ Văn (Hải
Dương) và những nơi khác ở Hà Tây, Hà Nội, xét đến cùng cũng
là thờ Thần Nước. Hội Đồ Sơn (Thành phô Hải Phịng) có thờ cả
Thủy Thần hay hội Thị cầu (Bắc Ninh) thò thánh Tam Giang ở
đền Kim, thực ra cũng là thờ Thần Nước để cầu mưa. Hội chùa
Đậu (Thành Đạo Tự) ở Thường Tín (Hà Tây) có tục thờ Thần
Pháp Vũ, Thần giếng và lễ rước nước từ giếng Bà Giao vê chùa
cũng là tục thò Thần Nước. Hội An Đạo (Phong Châu - Phú
Thọ) thờ Long Xà Đại Vướng (Thủy Thần) và ú t Soi Đại Vương
(Thần Bãi sông). Đặc biệt là tục lấy nước giếng Giải oan (Chùa
Hương) rửa mặt, súc miệng cũng là một cách thờ Thần Nưóc,
mong Thần Nước phù hộ độ trì.
T h ầ n N ú i: Đây là vị thần được nhiều dân tộc thờ vào các
dịp khác nhau nhất là các dân tộc ỏ miền núi. Thơng thường ỏ
mỗi vùng có một ngọn núi được tơn thị. Núi Hy Cương (Phú
Thọ) liên quan đến các thời đại vua Hùng, cũng được nhân dân
coi là Núi Thần của cả nước. Iiễ hội xã Tử Đà và xã Phù Ninh
(Phong Châu - Phú Thọ) có tục thờ Cao Sơn hay Ất Sơn, Viễn

Sơn và cả Tản Viên Sơn Thánh ... đều là Thần Núi, xã Tử Du
(Lập Thạch - Vĩnh Phúc) củng thờ núi Nái (Nái Sơn), Núi Cờ
(Cờ Sơn) và Núi Ô (Ơ Sơn). Những vị thần này có vai trị lớn
trong việc bảo vệ xóm làng của nhân dân trong vùng.
Trong các vị Thần Núi được thờ cúng ở các dân tộc Việt
Nam có lẽ Thần núi Tản Viên (Tản Viên Sơn Thánh) là vị thần
núi được coi là linh thiêng nhất, có vai trị quan trọng nhất. Vị
Thần đó tuy đã được nhân hoá thành Đức Thánh Tản - Sơn
71


Tinh, nhưng dù sao vẫn là một vị Nhiên thần, một trong "tứ bất
tử" của các bậc thần thánh Việt Nam. Ngoài ra, hai vị Thần Núi
bậc em của Sơn Tinh là Cao Sơn và Quý Minh cũng là hai vị
thần được thờ cùng ỏ nhiều nơi (hội làng Dị Nậu - Phú Thọ, hội
làng Măng Sơn - Hà Tây, hội làng Cót - Hà Nội...)Thần Núi Tam Đảo với các danh hiệu "Thanh Sơn Đại
Vương", "Mầu Dao Trì" hay "Cửu Thiên Hiển Nữ" và chùa Đồng
chót vót trên đỉnh Tam Đảo cũng được thờ cúng quanh năm.
Tỉnh Bắc Ninh có các núi Thiên Thai, núi Lạn Kha... đều là
những nơi có Thần Núi trơng coi và hàng năm được nhân dân
trong vùng thờ cúng.
Đối với các dân tộc thiểu số, Thần Núi tuy khơng có hình
tượng cụ thể, nhưng các vị đó cũng chiếm một vị trí quan trọng
trong đội ngũ Nhiên thần ở miên núi. Ví dụ, ngọn "Khau Ht"
(Chóp nhọn) ở n Châu, các đỉnh "Khau Dưa", "Khau cồông".
"Khảu Ký" ở Phù Yên (Sơn La), núi "Khau Cát" (đường dây lên
trời) ở Văn Chấn (Yên Bái), núi "Khạu Chí" (cơm nướng), núi
Lạng Chương... ở Điện Biên (Lai Châu)...
Nhân dân trong vùng đều coi những ngọn núi đó có thần
trơng coi, trú ngụ. Vì thế, trong các dịp lễ tết nhân dân thường

cúng tê các vị thần đó, tuy mỗi nơi, mỗi vùng có thể tổ chức với
những hình thức cúng tê khác nhau. Song, mục đích cúng tê
đều giống nhau là đêu cầu sự phù hộ, độ trì của các vị Thần Núi
đó cho người an, vật thịnh.
Tóm lại, các dân tộc anh em sinh sơng trên dải đất Việt
Nam đêu sống bằng nghề trồng trọt là chính, nên việc gắn V'ji
tự nhiên là quan hệ cần thiết lâu dài, bền chặt cho sự sinh ten
của mình. Trong mối quan hệ đó sự phụ thuộc vào nhiều yếu ô
khác nhau của tự nhiên đã dẫn đến sự tơn thờ các lực lượng (tó
cũng là điểu hiển nhiên.
72


Vi vậy, một trong những đỏi tượng được nhản dân các dân
tộc thờ cúng quanh năm hay trong các dịp lễ hội là các vị Nhiên
thán. Các vị đó được quan niệm và thò cúng ở các dân tộc bằng
nhửng hình thức phong phủ, đa dạng khác nhau. Trong thực tế,
nhieu vị Nhiên thần cỉă dược Nhản thần hố, có thần tích, cơng
trạng một cách cụ the, rỏ ràng. Cho nén, tuy các VỊ này đả được

thò cúng như một Nhân thẩn, nhưng thực chất vẫn là thờ cúng
các lực lượng Nhiôn thần.
Tiêu biểu cho các vị Nhiên thần này là các vị Thánh Mẩu ở
nước ta. Cả bôn vị Thánh Mẫu (Mẫu Thượng Thiên, Mẩu
Thượng Ngàn, Mẫu Thủy - Thoải và Mẫu Địa) đều là bôn miên
tạo nên vũ trụ. Mọi sự sinh sôi phát triển cũng đêu từ bơn miền
- bơn Mẫu đó mà ra. Ỏ đây, thê giới tự nhiên đã được gắn với
nguyên lý Mẹ - Mẹ sinh ra tất cả và Mẹ cũng che chở, bao ciung
tất cả. Thờ Mẹ là thờ sự sinh sôi, thị sự che chở đó.
Các dân tộc ở nước đều mang đậm tín ngưỡng sùng bái tự

nhiên. Tín ngưởng đó được thể hiện rõ ràng và sinh động trong
các lễ hội ở nước ta.
1.2. Các vị Nhân thẩn

Các đôi tượng được cúng trong dịp lễ hội không chỉ Nhiên
thần mà cịn cả các vị Nhản thần. Dầy là tín ngưỡng súng bái
con người. Tín ngưỡng này bắt nguồn từ quan niệm con người
bao gồm cả phần vật chất (thế xác) và phần tinh thần (thường
clươc gọi là phần linh hồn). Do khơng hiểu được "sức sơng” của
các linh ỷiồn đó mà con người ngun thủy đã thần thánh hố
nó bằng những khái niệm trìu tượng. Từ đó sinh ra tục lệ thờ
cúng chính bản thân con người khi đà được trừu tượng hoá.
thần thánh hoá.


Q trình trừu tượng hố đó theo trình tự từ xác đến vía,
từ vía đến tinh, từ tinh đến khí và từ khí đến thần. Vì thế,
khơng ai thờ những người đang sống mà chỉ thờ những ngưòi đã
chết: thờ cái tinh linh và cái thần của con người. Thực ra, các
Nhân thần được thờ cúng không chỉ dành riêng cho các vị anh
hùng có cơng với dân với nước mà kể cả các anh hùng văn hoá
và các vị Thành Hồng. Trong sơ các vị Nhân thần có cả những
người bình thường. Đó là các bậc tổ tiên của các gia đình, dịng
họ có cơng sinh thành, ni dưỡng các thành viên trong gia đình
họ. Trong phạm vi gia đình, họ là những người đáng tơn kính và
ln dược nhớ ơn. Đây là lý do cơ bản để thờ cúng tơ tiên. Trong
gia dinh có việc gì lớn như dựng vợ gả chồng, làm nhà mới, dỗ
đạt... đều phải báo trình tổ tiên biết cùng mừng và chứng giám.
Sau đó, việc cúng tổ tiên để nhằm cầu mong sự phù hộ của tổ
tiên là lý do thứ hai trong các dịp này.

Cũng như vậy, việc thờ cúng các vị Nhãn thần chủ yếu là vì
tấm lịng biết ờn - lâu nay ít người nghĩ đến lý do cơ bản này,
mà chỉ chú ý tới việc thờ cúng đế mong sự phù hộ độ trì của các
vị Nhân thần dã được tôn vinh thành "Thánh" này. Cái dạo lý
"uông nước nhớ nguồn" đã ăn sâu vào tâm trí của các dân tộc và
trỏ thành những yếu tơ văn hố tâm linh của mọi người, mọi
nhà mà dân gian gọi là "Đạo ơng Bà" hay "Đạo Nhà" (Nguyễn
Đình Chiểu). Đạo nhà ở dây khơng hẩn chỉ là thị cúng tổ tiên
mà là sự biết ơn nói chung đơi với các bậc tiên bơi đã có cơng với
mọi người, mọi nhà.
Với quan niệm như vậy, lực lượng Nhân thần được thờ cúng
trong các dịp lỗ tết là vô cùng phong phú, đa dạng. Có những vị
nơi tiêng mang tầm cỡ quốc gia như Đức Thánh Trần, Hai Bà
Trưng... Nhưng, cũng có những vị chỉ dân một, hai làng biêt họ


như các vị Thành Hoàng hay chỉ trong phạm vi gia dinh, dịng
họ như tơ tiên. Tuy nhiẻn, tất cả các vị dó đểu dược thờ cúng
một cách trang trọng thành kính nhất. Có thể phân loại các lực
lượng Nhản thần như sau:
-

Các vị tô tiên:

Đây là các vị Nhân thẩn dầu tiên được gia đình hay dịng
họ thờ củng, họ đã có cơng sinh thành, lập nên các gia đình,
dịng họ, thậm chí nhiều nơi, nhiêu vị lập nên các bản làng, thơn
xóm. Trong xã hội một sơ dân tộc thiểu sô như người Hmông,
người Dao, người Thái, người La Chí, người Hà Nhì... các bậc tổ
tiên đã trỏ thành biểu tượng cô kết cộng đồng và thường là niêm

tự hào của các gia đình, dịng họ. Người H’ mông dù ở xa nhau
hàng tháng trời đi đường, hễ gặp nhau, nhận ra nhau là cùng
họ lập tức được coi là anh em, sơng chết có nhau. Ngươi Dao có
chung ỏng tổ Bàn Hồ (tuy khơng hẳn là Nhân thần) nhưng hình
tượng Bàn Vương vẫn ln được tất cả các nhóm, các ngành Dao
tơn thờ. Tất cả các nhóm Hà Nhì đều coi ơng Ly Ngơ là ơng tổ
đầu tiên của họ, nên mỗi khi thờ cúng tổ tiên, tất cả các gia
dinh đều chỉ bày một đôi đũa, một cái bát và một cái chén.
Người Thái chia đội ngủ các vị tổ tiên ra nhiều lớp. Lớp cổ xưa
nhất là "đảm", từ một "dam” sẽ thành các "vả", từ các "vả" mới
có các bậc ơng bà, cha mẹ mà người Thái gộp chung thành "phi
hướn" (ma nhà). Vì thế, việc thờ cúng các lớp đó cũng do từng vị
trí trong họ được thị hay khơng. Ví dụ, lớp "đảm" phải do ơng
trưởng họ "cốc họMchịu trách nhiệm thị cúng, lớp "vả” lại được
thị cúng ở các gia đình ngành trưởng và các gia đình anh em
chỉ thờ tới "pạu pú" hay "po me" (cụ, kỵ và ông bà) trực tiếp của
gia đình.
75


Có thể nói, trong xã hội nhiều dân tộc thiểu sô ở nước ta,
các vị tổ tiên là các bậc Nhân thần được thị cúng nhiều nhất, có
vị trí quan trọng nhất trong đời sống tâm linh của họ.
Đối với người Kinh, các bậc tổ tiên cũng là các vị Nhân thần
có vị trí quan trọng trong các gia đình, dịng họ. Đặc biệt là từ
ngày Đơi mới, việc thờ cúng tổ tiên đã được chú trọng hdn cùng
với việc củng cơ, phát triển các nhà thị tơ của nhiều dòng họ.
Tuy việc thờ cúng tổ tiên chủ yếu là phần lễ, nhưng vẫn giữ một
vai trị vơ cùng quan trọng trong hệ thông lễ hội và đời sông tâm
linh của các dân tộc Việt Nam.

VỊ trí, vai trị quan trọng của việc thò cùng tổ tiên đã trở
thành "Đạo" (Đạo thờ cúng tơ tiên) một tín ngưỡng quan trọng,
phổ biến nhất là sức mạnh tâm linh của các dân tộc nước ta.
Trong x ã4 iộ i các dân tộc thiểu số có thể khơng có những tơn
-giáo khác,,nhưng khơng có dân tộc nào lại khơng có tục thờ
cúng tổ tiên. Đây là chỗ dựa tinh thần quan trọng nhất trong
đời sống tâm linh của các dân tộc thiểu số. Tuy sự thờ cúng tỏ
tiên ở vùng các dân tộc thiểu sơ có thể có những nghi thức, nghi
lễ khác nhau, nhưng nội dung và vai trị của nó đều giống nhau.
Cho nên, có thể nói rằng, tổ tiên là các vị Nhân thần quan trọng
nhất được thờ cúng ở các dân tộc thiểu số.
-

Các vị thần Thành Hoàng:

Bên cạnh các vị Nhân thần được các gia đình, dịng họ thò
cúng trên đây, trong xã hội các dân tộc, đặc biệt là người Kinh
cịn có các vị thần Thành Hồng. Cho đến nay, khơng có làng
nào (nhất là ở vùng đồng bằng Bắc Bộ) lại khơng có thần Thành
Hồng riêng của mình. Đây là các vị Nhân thần được vua sắc
phong vì đã có cơng khai thiên lập địa, xáy dựng, phát triển hay
truyền dạy những phong tục tập quán tốt đẹp cho dân làng. VỊ
76


Thành Hoàng xuất hiện ở nước ta dầu tiên vào thời Nhà Đường
(Trung Quốc) (lo Cao Biển và Lý Nguyên Hỷ tơn vinh, hiộu là
"Đơ phủ Thành hồng qn". Đó là Thành Hồng Đại La, có tên
gọi la Tơ Lịch. Vài trăm năm sau, vua Lý phong làm "Quốc đô
Thăng Long Thành Hoàng dại vương"; đến thời Trần được gọi là

"Báo quốc trấn linh đinh hay Quốc đơ thành hồng đại vương"
và đời Le Nhân Tông (1442) cho lập đàn thị thần "Đơ Đại
Thành Hồng" (30-6).
Như vậy, lúc đẩu các vị Thành Hồng mới chỉ xuất hiện ở
các đơ thị, có thổ phải đến từ thê kỷ X III - XV mới thâm nhập
vào xã hội nơng thơn và có vị trí tại các làng (trước đó, các làng
chủ u là thờ các vị Nhiên thần được gọi là Thần làng). Thuật
ngữ "Thành Hoảng" đầu tiên trong văn bản thư tịch ở nước ta là
tấm bia xả Thường Sơn (Thủy Nguyên - Hải Phòng) thờ tù
trưởng Lại Bốn (đòi Trần). Có thể, phải đến cuối thê kỷ XV, thị
phụng Thành Hồng mới có vị trí quan trọng ở các làng Việt
Nam (30-7). Vối sự phát triển của chế độ quân chủ chuyên chê
Việt Nam, từ thòi Trần vua tảng cường và mở quyển lực xng
tận làng xã. hịng nám được các làng xã bằng nhiều biện pháp,
trong dó có việc phong sác tơn vinh các vị Thành Hồng làng.
Đây là biện pháp quản lý làng xã thông qua thần quyển. Bởi vì,
trong thực tế xã hội Việt Nam thời dó tuy các làng đều dưới
quyền của vua, nhưng các làng xã vẫn có sự độc lập nhất định
của mình. Với cách tự quản truyền thơng, làng xã vần có một
thê giỏi riêng. Thế giới đó nhiều khi mạnh đến mức "phép vua
thua lệ làng”.
Vì vậy, vuả phải nhờ đến thế lực các vị Thành Hồng để
duy trì quyền lực của mình ở các làng xã. Cho nên, các vị
Thành Hồng sớm có vị trí quan trọng trong đời sơng tâm
77


linh của dân làng và thường xuyên được thờ cúng, nhất là
trong các dịp lễ hội.
Trong thực tế, đội ngũ Thành Hồng xuất hiện và có vị trí

quan trọng từ lâu trong địi sơng tâm linh của làng xã. Đội ngũ
Thành Hồng có nhiều nguồn gốc. Có vị là Thiên thần, có vị là
Nhiên thần và đặc biệt phẩn lớn là lực lượng Nhân Thần (chù
yếu là các vị anh hùng lịch sử văn hoá, lịch sử dân tộc (33-65).
Các vị đó đểu có những sự tích, truyền thuyết, thậm chí có cả
thần thoại kể về gốc tích của họ. Tuy nhiên vị Thành Hồng chỉ
có vị trí trong một làng với sự xuất thân khác khiêm tơn, có khi
thấp hèn như người gắp phân, người ăn mày, thậm chí là kẻ
trộm cắp... Nhưng, tất cả các vị đó ít nhiều đểu có cơng với lànp.
với xã và được làng xã kính trọng, biết ơn.
Trong tâm thức dân gian, Thành Hoàng là biểu tượng
quyển lực tinh thần tối cao của một làng, chi phối cả đời sông
vật chất và tinh thần, thậm chí trong cả lĩnh vực tình cảm của
dân làng. Vì thế, mới có câu biện bạch hóm hỉnh của cơ gái làng
kia: "tt mắt là tại hướng đình, cả làng toét mắt phải mình em
đâu". Đổ tội cho hướng dinh cũng là đổ tội cho vị Thành Hồng
trơng coi cái đình đó.
Vì vậy, tơn thị Thành Hồng là một nhu cầu tâm linh quan
trọng của dân làng. Thành Hồng làng có nhiệm vụ trơng coi.
giám sát mọi việc làm, mọi hành vi, thậm chí mọi suy nghĩ của
người dân, lưu ý và khuyên khích dân làng hướng thiện mang ý
nghĩa giáo dục. Sự trách phạt của Thành Hoàng cũng chính là
sự tự trừng phạt đơi với bản thân từng thành viên trong làng.
Các vị Thành Hồng khơng chỉ có nhiệm vụ giám sát nội bộ dán
làng mà cịn như một bức tường thành (ý nghĩa ban đầu của
Thành Hồng) bảo vệ, khơng chế tất cả các tác động từ bôn
78


ngoài gảy thiệt hại cho dân làng như giặc dã, ma quỷ, dịch

bệnh, cộ khi đỏi với ca những thói hư, tật xấu ở bơn ngồi...
(V) thổ nói. Thành Hồng là biêu tượng của cả dãn làng,
n^ười ta tự hào vê các vị dó. Thành Hồng là một vị Phúc Thần,
nhưng lại không giông các vị Thánh, Thần. Tiên, Phạt, Chúa
Troi ... xa xơi mà các vị Thành Hồng là vị thần gần gũi, thân
thiẹn và rùng chia sẻ với đàn làng mọi niềm vui, nỗi buồn như
một người bạn dáng tin cậy. Mọi thànlì viên trong làng đều đặt
niểm tin, hy vọng vào các Ngài. Cho dù, vị Thành Hồng làng
mình xuất thân từ dâu, thán phận như thơ nào, nhưng một Uhi
(là (tược phong là Thành Hồng thì các vị đó vẩn được dân mg
kính trọng trong niềm tin tưởng linh thiêng. Sự kính trọ; u dó
(ià khiến mọi người dân trong làng tự răn mình phải ln 1 iƠI’
xúng dáng với vị Thành Hồng của mình, giữ gìn truyền thõng
của làng mình. Tuy cả năm lao động vất cả có thể sao nhàng đơi
chut tước vị Thành Hoàng, nhưng cộng đồng làng dã khéo léo
nhác nhố bởi chính những sinh hoạt, tẻ lê ở đình làng, khiên
mọi người luôn nhớ đến trách nhiệm và nghĩa vụ của mình.
Điểu dó đà trở thành súc mạnh cơ kết khơi đồn kêt, thơng nhất
của dân làng.
Tuy khái niệm Thành Hồng ở miền núi không được rõ
ràng lắm như ở miên xi, nhưng tuỳ điểu kiện và hồn cảnh
của từng nơi, từng dân tộc, việc thị cúng các vị Thần Thành
Hồng vần được duy trì thường xuyên. Mặc dù, hầu hết các vị
Thành Hoàng này ỏ miền núi chưa hê được vua biết đến hay
được vua phong sắc, nhưng, các vị đó vẫn được dân các bản
mườngkính trọng, chăm lo thờ cúng. Thực ra, nhiêu dân tộc ỏ
miền núi chưa biết đến khái niệm Thành Hồng mà mói chỉ Ịpiêt
(lén các vị Thần Thổ Cơng, Thố Địa. Các vị đó khơng cần đến sự
79



phong sắc của vua, nhưng các vị đó vẫn được tồn dân kính
trọng. Hầu hết các vị Thần này ỏ miên núi chưa có thần tích,
thần phả, cho nơn hình ảnh của các vị này thường là hình tượng
khá chung chung như thê giới tự nhiên xung quanh họ. Chỉ nơi
nào sớm được tiếp xúc với người Kinh như ở các tỉnh Lạng Sơn,
Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Giang... may ra mới ít nhiều hiểu
biêt cụ thể về các vị Thành Hồng của họ. Có thê nói, các vị
Thành Hồng ở miền núi chủ yêu vẫn là các vị Nhiên Thần.
Tuy nhiên, ở một sô dân tộc thiểu sô như người Thái vùng
Tây Bắc cũng đã có khái niệm cụ thể về vị thần Thành Hoàng
của họ, mặc dù chưa được vua phong sắc. Đó là khái niệm:
"chạu sựa" (chạu = chủ, sựa = áo) được dịch là "chủ hồn áo". Từ
"chủ" ở đây có ý chỉ rõ ngưịi đã có cơng phát hiện và khai phá
đầu tiên cùng đất này. Theo phong tục Thái, người ta không thờ
cúng bản thân người dó mà lại thị cái áo hay là hồn ở cái áo đó.
Đồng bào quan niệm, sức sơng của con người là tập trung ở cái
áo anh ta đang mặc. Vì thế, mỗi khi ơm đau, bệnh tật, người ta
không chữa bệnh trực tiếp trên thân thể người đó mà chữa bệnh
thơng qua cái áo của họ.
Vị "chạu sựa" {chủ hồn áo) ở đây chính là người đã có cơng
cắm cái cọc mổc: đầu tiên lên miếng đất mà sau này lập thành
bản mường. Sau khi cắm cái cọc mốc đánh dấu quyền sở hữu
của mình xuống đất, người đó khốc cái áo của mình lên cái cọc
đó và cho rằng chính cái cọc có cái áo đó là chủ "chạu" của
miếng đất này. Vì thế, "chạu sựa" còn được người Thái gọi là
"Tạo pắc lắc" (tạo cắm cọc) được nhắc nhiều lần trong bài mo
cùng Đông sựa (khu rừng câm ở đầu bản. đầu mường) noi
chuyên để tổ chức các buổi cúng chung oho cả bản, mường mà
ngưịi Thái gọi là "xên bản" hay "xên Đơng sựa", "xên Tu inưỡng"

(cửa mường).
80


Theo quan niệm dân gian Thái "chạu sựa” chỉ là Thần
Thành Hồng ở cấp bản, cịn đơi với cấp mường (bao gồm nhiều
bản) thì vị này lại dược gọi là "lắc mưởng” (cột trụ mường) mà ở
bên Xíp Xong Păn Na (Trung Quốc) và Chiêng Mai (Thái Lan),
Chiếng Tung (Myanmar) lại gọi là "chay mương” (tim mường),
ở Việt Nam, "lắc mưỡng" là nơi thần mường cư ngụ với nhiệm
vụ trông coi, bảo vệ toàn mường. Trong thực tế, "lắc mường”
đúng với nghĩa đen của nó là cột gỗ lim đóng ở một nơi nào dó
trong mường do an nha chọn để thần mường trú ngụ nhằm để
khang định vị trí của chạu mương. Nhưng, vê hình thức thì "lắc
mường” lại chính là nơi hồn áo của vị an nha đầu tiên đến thơng
trị tồn mường. Hồn áo của vị an nha đó chính là hồn mường,
thần của mường. Thực ra, đây là một biện pháp khẳng định
quyền sở hữu của vị an nha đó và tự coi mình là linh hồn, là trụ
cột của cả mường.
Đôi với các dân tộc thiểu sô, hầu hết các vị thần trông coi
bản mường đều là lực lượng Nhiên thần, ít có các vị là Nhân
thần. Nếu có, thì các vị Nhân thần đó cũng chưa đạt đến độ điển
hình như ở dưới xi: có thần tích và được vua phong sắc rõ
ràng. Nhưng, dù sao, các vị thần trông coi bản mường cũng
đang và đã được nhiều dân tộc thiểu sơ" kính trọng, chăm lo thờ
cúng trong các dịp lễ hội hàng năm.
Tóm lại, trong lực lượng thần Thành Hồng khơng chỉ là
các vị Nhân thần mà bao gồm cả các vị Nhiên thần. Nhưng, các
vị Thành Hoàng là Nhân thần phổ biến hơn (315/24) kể cả các
vị Nhân thần của các tôn giáo khác và có nguồn gốc Trung Quốc

(30-608). Vì vậy, có thể nói, đơi tượng được thờ cúng chủ yếu
trong các lễ hội ở Việt Nam là các vị thần Thành Hoàng.
81


- Thờ nữ thần, thờ Mẩu (35-10)
Thờ nữ thần và thờ Mâu là một hiện tượng tín ngưỡng phổ
biến trên thê giới, có cội nguồn lịch sử và xã hội sâu xa. Tuy thờ
Nữ Thần và thờ Mẫu đều xuất phát từ thờ nữ tính, nhưng giữa
hai khái niệm này có những khác biệt, nhất là trong các nghi
thức, nghi lễ thờ cúng ở Việt Nam. Theo thông kê của Viện Hán
Nơm, trong sơ 1000 di tích văn hố thì đã có tới 250 di tích thờ
cúng các vị thần và danh nhân là phụ nữ, nhất là các tổ sư
ngành nghê ở Việt Nam. Người xưa cũng đã từng thơng kê được
các vị Tiên thuần Việt có tới 14/27 vị tiên nữ (35-10). Tuy thờ
nữ thần hay thò Mẫu cũng đều phản ánh chung một điều hiển
nhiên, đó là vai trị và vị trí hết sức to lớn của người phụ nữ Việt
Nam từ thời tiên sử cho đến nay, trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc. Từ Mẹ Âu Cơ sinh ra trăm trứng, Bà Nữ Oa
đội đá vá trời, Bà Đà vợ ông Đùng (Mường), vợ Ải Lậc Cậc, Quả
bầu mẹ (Thái), Mẹ Pô Nagar (Chăm), cho đến Hai Bà Trưng, Bà
Triệu, Dương Vân Nga (Đinh- Lê), Ỷ Lan (đời Lý), Bùi Thị
Xuân (thời Tây Sơn), Bà Chúa Kho (thời Lý) và đặc biệt là Mẫu
Liễu Hạnh (Phủ Giầy - Vụ Bản)... đểu là những phụ nữ có cơng
sáng tạo, xây dựng và bảo vệ dất nước.
Trong sơ các nhân vật lịch sử đó, tuy có một sơ hiện tượng,
nhân vật đã được huyền thoại hố, nhưng vẫn là cơ sở cội nguồn
có thật. Cùng với quan niệm vũ trự luận Phương Đông cô đại là
Ảm Dương tương khắc tương sinh, các nhân vật, hiện tượng
trên đã mang đậm tính nử mà thuộc tính của nó là bảo trữ, sinh

sơi, nảy nở và sáng tạo, tất cả các lực lượng đó đểu dồng nhất
vói Âm, nhân hố thành nữ tính là Mẹ (Mẫu).
82


Các dân cCe Vlột Nam đểu là cư dân nông nghiộp, q trình
,ản xuất nơng nghiệp nói chung, canh tác lúa nước nói riêng từ
lúc làm đất, gieo cấy, chăm sóc, bảo quản, chế biến... đểu có sự
đóng góp của phụ nừ. Hơn nữa, với nguyên lý Mẹ - cội nguồn
của sự sinh tồn, nảy nở và phát triển, vai trị của phụ nữ - vai
trị người Mẹ càng có vị trí quan trọng hơn trong đời sơng tâm
linh các cư dân nơng nghiệp. Cho đến nay, vai trị đó vẩn cịn
khá phơ biến ở các dân tộc thiểu sơ nước ta, đặc biệt là các dân
tộc sinh sông ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Đôi với người
Kinh, vai trò của người phụ nữ là vai trò của người quản lý, "bà
nội tướng”, "tay hịm chìa khố”. Hơn thế, trong sinh hoạt hàng
ngày, phụ nữ đảm dương "đàn ông tậu nhà, đàn bà bán lợn" và
"Quanh năm buôn bán ở mom sông, nuôi đủ năm con với một
chồng”... Cũng như thế, phụ nữ là người gần gũi, chăm nom,
dạy dỗ con cái thiết thực nhất và là người chịu trách nhiệm lớn
nhất: "con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Họ vừa là lực lượng lao
dộng kiêm ăn để ni gia đình, họ lại vừa là người quản lý tài
sản, chăm lo con cái... Cho nên, họ có vai trị, vị trí quan trọng
trong đời sơng hàng ngày và tâm linh của cộng đồng.
Với vị trí, vai trị trên đây đã đủ nâng người phụ nữ, người
Mẹ lên thành các bậc Thần: Nữ Thần và tôn họ lên thành các
Thánh Mẫu, Đạo Mầu. Các Mẫu đó đă từ lâu trở thành đổi
tượng được nhân dân các dân tộc thò cúng, nhất là trong các dịp
lễ hội của cộng đồng làng, bản...
Ngồi các Mẫu mang tính chất tự nhiên như Tứ pháp

(Pháp Vân, Pháp Vủ, Pháp Lôi, Pháp Điện) là bốn lực lượng làm
ra hạt mưa và Tứ phủ (Mẩu Thượng Thiên, Mẩu Thượng Ngàn,
Mẫu Thoải (Thủy) và Mẫu Địa) là bốn miền tạo dựng nên vũ
trụ, còn các vị Nhân Mẫu. Trong đó điển hình là Mẩu Liễu
Hạnh, một trong "tứ bất tử" của các vị thánh ở Việt Nam.
83


Mẫu Liễu Hạnh vừa là Tiên, tục gọi Tiên chúa Quỳnh
Hương họ Lê tên Giáng Tiên (Thiên Thần), vừa là cô gái trần
tục (Nhân tl]ần). Trước khi được tôn vinh thành Thánh, Mẫu
Liễu Hạnh đã từng là người phụ nữ sống cuộc đời thường giữa
trần gian, có cha mẹ, có chồng con, tình cảm u ghét rõ ràng.
Bà thích đi chu du khắp thiên hạ để trừ ác, làm việc thiện giúp
đỡ người cơ nhỡ, cứu vớt những người bị áp bức, ban phúc lộc
cho mọi người... Vì thế, Mẫu Liễu Hạnh vừa được người địi u
q kính trọng, vừa nể sợ.
Sự kết hợp giữa Thiên Thần và Nhân Thần đã khiến hình
tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh vừa linh thiêng cao quý, vừa gần
gũi thân thương. Cho nên, sau khi hoá, Mẫu Liễu Hạnh vừa là
Nhân Mẫu, vừa là hoá thân eủa Mẫu Thượng Thiên, ln được ở
vị trí trung tâm trong điện thờ Tam toà Thánh Mẫu, thuộc vê
các phủ tạo dựng nên vũ trụ. Vì vậy, Mẫu Liễu Hạnh được thờ ở
rất nhiều nơi, đặc biệt là tại các phủ như Phủ Giầy (Vụ Bản Nam Định) ở phơ Cát (Thanh Hố), được sắc phong Mã Hồng
Cơng Chúa Phủ Tây Hồ (Hà Nội)... Riêng xung quanh vùng Phủ
Giầy (Nam Định) đã có tới hàng chục địa điểm liên quan đến
Mẫu Liễu Hạnh. Trong hai ngày mồng 5 và mồng 6 tháng Ba
(Giỗ Mẹ) ở Phủ Giầy đã diễn ra lễ rưốc từ phủ Tiên Hương, Vân
Cát lên Chùa Gôi và Chùa Dần:
"Bôn phương thu lạ i một nhà

Mồng năm rước M ẫu thật là vui thay
Kiệu hoa võng giá đầy đầy
Cờ đầu thoắt đã đến ngày chừa Dần" (dân ca)

Xem xét hình tượng Mẫu Liễu Hạnh trong tiến trình lịch
sử Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh đã tập hợp sức mạnh oai hùng
84


của Nhà Trần thắng giặc Nguyên, nhà Lê thắng giặc Minh. Vì
Mầu đã sinh ra từ nhà họ I Ầí rồi lấy chồng họ Trần. Đó là biểu
tượng sức mạnh đồn kết chơng giặc ngoại xâm của nhân dân ta.
Mẫu Liễu Hạnh không chỉ được thờ ở các tỉnh miền xuôi
mà cả một sô tỉnh miên núi cũng thờ Bà. Đó là Xứ Lạng (Lạng
Sơn) đã dành hản một bàn thờ trong đình Tả Phù, xây cất năm
Chính Hồ thứ tư (1683) ngay cạnh chợ Kỳ Lừa xưa. Mẫu Liễu
Hạnh còn được thờ cạnh đền thờ thẩn Giao Long (Kỳ Cùng Đại
Vương), sau đôi là Quan Lớn Tuần Tranh. Hiện nay, gian thò
Tam Mẩu (Mẫu Độ nhất - giữa, Mẫu Đệ Nhị - trái, và Mẫu Đệ
Tam - phải) trong đình này.
Tại chùa Diên Khánh (cịn gọi là chùa Thành) cũng thờ Tam
tồ Thánh Mẫu, trong đó, Mẳu Liễu Hạnh mặc áo đỏ được đồng
nhất với Mẫu Thượng Thiên ngồi giữa, Mảu đệ Nhị áo xanh ngồi
bên trái và Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ áo trắng bên phải.
Ỏ chùa Đồng Đăng (Đồng Đăng Linh tự) hay còn gọi là Đền
Mâu Đồng Đàng cũng thờ Tam Toà Thánh Mẫu ỏ gian ngoài
(gian trong là nơi thờ Phật Huyền Đê tám tay tọa trên đài sen
và Phật Bà Quan Âm. Có người cho rằng, Tam Toà Thánh Mẫu
ở đây là "tam vị nhất thể" hai Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải
đều từ Mẫu Thượng Thiên mà ra.

Tại chùa Đồng Đăng cịn có ban ngồi cùng của chính diện
dành thờ Bà Chúa Liễu (ở giữa), bên trái Bà là Chầu Bơ (áo
trắng), bên phải là Chầu Lục (áo xanh), dưới hạ ban là nơi thị
Quan Ngữ-Đinh, phía bển trái ban thờ Bà Chúa Liễu là ban thờ
Đức Thánh Trần và Cậu Bé.
Đền Ngũ Nhạc (còn gọi là đền xếp Biên hay Đền Đức
Thánh Trần) có ban thờ được coi là một phủ điện riêng dành thờ
Mẫu Tây Hồ (còn gọi là Đền Mẫu Tây Hồ).
S5


Ở Chùa Tiên, trước đây ban thờ Mẫu Liễu Hạnh được đặt ỏ
ngay dưới ngách hang bên phải, sau được chuyển vào ngách
hang phía trong, bên trái điện Phật. Sau này điện thờ Mầu được
tập riêng phía sau điện Phật - trước diện thờ Tam tồ Thánh
Mẫu có một ban thờ thấp hơn dành thờ riêng Mẫu Liễu Hạnh
mặc áo đỏ (ở giữa), ơng Hồng cả cũng áo đỏ (ở bên trái) và bên
phải là ơng Hồng Mười mặc áo xanh.
Năm 199L một ban thờ Mẫu lại được lập tại Động Chúa Ba
(mới phát hiện) với điện thờ Tam toà Thánh Mẫu ở trên cao,
ban thấp hơn thờ Tứ Phủ cơng đồng với các ơng Hồng Ba,
Hồng Bảy, Cơ Chín. Dưới ban thờ Mẫu có ban thị ơng Ngũ
Dinh (cịn gọi là ngủ Hổ)...
Ngồi ra, ỏ Lạng Sơn cịn một sô nơi thờ Tứ Phủ như Cô Ba
ở Đền Bắc Lệ, Châu Mười (Đồng Mỏ), Liễu Hạnh được thờ ở Dền
suối Ngang, suối Lân. Các ban thờ Mẫu ở Lạng Sơn khơng theo
một khn mẫu nào có khi "tiền Phật hậu Mẫu" có khi lại "tiền
Mẫu hậu Phật", có nơi ban thờ Phật và ban thờ Mẫu lại đặt
ngang nhau. Nhưng dù thò bằng cách nào, ban thờ được sắp đặt
ra sao thì vẫn chứng tỏ rằng, Lạng Sơn là một trong nhũng xứ

sở có truyền thống thị Mẫu từ lâu đời. Cho đến nay xứ Lạng
vẫn là nơi thò Mẫu khá sôi động, phong phú bằng những nghi
thức nghi lễ sinh động.
Bên cạnh Mẫu Liễu Hạnh được thờ ở nhiều nơi còn một số
các Mẫu khác cũng được thờ cúng và thường được phong sắc
Thành Hoàng: Hai Bà Trưng (Mê Linh) và nhiều nơi khác, Thái
hậu họ Đỗ (Dịch Vọng - Từ Liêm), tương truyền bà là mẹ của
vua Lý Thần Tông, Quốc Mẫu Ỷ Lan (Đường Thành và đường
Bà Tấm - Hà Nội)... Cho đến nay, Bà Chúa Kho (Bắc Ninh) tuy
chưa được tơn Thánh, nhưng lịng ngưỡng mộ của dân chúng đôi
86


VÒI Bà thật là điều kỳ diệu. Từ ngày dổi mới, với sự phát trión
cua cơ chỏ thị trường, Đền Hà chúa Kho đã trỏ thành trung
tám thò cúng tầm cở quốc gia. Nhân dân khắp nơi đôn vay
tiỏn lia khơng chỉ trong mấy ngày lễ chính tháng Giêng mà
keo dai cả năm.
Dáy là một hiện tượng khấ đặc biệt trong lực lượng các
vị Mau ỏ mine ta bơi sự ngưỡng mộ tơn kính cua nhân dân
cá nước.
Tục thị Mau .khơng chỉ riêng ỏ miền Bắc mà cịn khá phổ
b)<*n ỏ miền Nam. Tuy chuvên khao này chỉ dừng lại ở việc giới
thiệu các lỗ hội miến Bắc nhưng đế mỏ rộng vấn để, chúng tôi
muôn được giới thiệu thâm một cách sơ lước vê các vị Mẫu ở
mien Nam, được thò trong các dịp lỗ hội của đồng bảo.
Than nữ Thiên Ya Na ỏ miền Trung được gọi là Thánh Mẫu
Thu n Ya Na cùng voi Muk juk (một tên khác của Bà Poh Magar
cua người Chăm) thường được gọi là Bà Đen là hai chị em họ
rủn Mẫu Liều Hạnh ở miền Bác. Họ là ba chị em con gai của

Nuo<‘ Monng thượng đỏ và đượe Vua ("ha chia đi cai quản ỏ ba
vùn,Sĩ khác nhau. Cấc vị nữ thần ở miền Nam cùng có thánh tích
£Ìơng vỏi Mẫu Liều Hạnh. Họ cũng đà từng sông dời thường, đã
từng ('ỏ chồng, có con và sơng bình thường như mọi người khác.
Bà Poh Nagar là vị nữ thần dẩy quyền năng, phản ánh tư duy
cu (lãn nóng nghiệp trổng lúa nước trong vùng Đơng Nam A. Bà
dã ró cơng dạy cho dân làm ruộng và tạo mọi giông lúa. Cũng
gióng như Thánh Mali Liễu Hạnh là hố thân của Mẫu Thượng
Thu n, Mẫu Pó Nagar rủa người Cham cũng có nghĩa là mặt trịi
(Thiẻn Mẫu).
ở Nam Bộ cùng có tục tho các Thần Nừ. đó là các Rà Chúa
Tu n. Hà Chúa Ngọc. BA Chúa Xú, Bà Chúa f)ộng, Bà cỏ Hỷ, Bà
87


Hoả, Bà Thủy... Trong đó, nơi bật là Bà Chúa Xứ mà An Giang
là nơi thờ Bà Chúa Xứ thu hút được đông dảo khách thập
phương đến thờ cúng nhất.
Truyền thuyết kể rằng, vào khoảng những năm 20 của thế
kỷ XIX, có một cơ gái làng Vĩnh Tế lên dồng và tự xưng là Bà
Chúa Xứ núi Sam đến cứu clân độ thế, côt bà,đang là bức tượng
đá ở núi Sam. Sau đó, 9 cơ gái đồng trinh đã khiêng bức tượng
đó từ đỉnh núi Sam vê làng, giữa chừng bị đứt dây gánh. Dân
làng cho rằng ý bà muôn ngự tại đó nên xây miếu thờ Bà tại nơi
này. Tuy xung quanh Bà Chúa Xứ có nhiều quan niệm khác
nhau, nhưng dù sao Bà cũng là một trong những hình tượng
Mẫu được nhân dân Narh Bộ tơn kính, thờ phụng trong các
dịp lễ hội mà lễ chính vào các ngày 23, 24, 25, 26 và 27
tháng Tư Ảm lịch.
Tóm lại, Đạo Mẫu trong quá trình nảy sinh, vận dộng và

biến đơi đã và đang chuyển hố từ tín ngưỡng nguyên thủy dể
trỏ thành một tôn giáo sơ khai. Với cờ sở kinh tê nơng nghiệp là
chính, các dân tộc Việt Nam lấy việc thờ Mẫu làm tín ngưỡng
chủ đạo của mình là điểu hồn tồn hợp lý, phù hợp với quy
luật sinh sôi, phát triển của mọi sự vật hiện tượng: Tất cả đểu
từ Mẫu mà ra. Thờ Mẫu cũng có nghĩa là thờ sự sinh sơi, phát
triển đó, mong mọi sự được sinh sôi. náy nở và tốt hơn... Vì vậy,
nhiều lễ hội các dân tộc Việt Nam đã lấy vị Thánh Mẫu và các
hiện tượng mang tính nữ làm đôi tượng để thờ cúng.
Với những quan niệm và nhận thức như trên, thờ Mẩu đã
trỏ thành truyền thơng tín ngưỡng của các dân tộc Việt Nam.
tạo ra nét đặc trưng độc đáo của lễ hội nước ta.
88


2.
Một sô đặc điểm cơ bản của các đôi tượng được
th ờ cúng trong lễ hội V i ệ t ^ a m

Điêu đầu tiên đáng quan tâm ỏ đây là tại sao và trên cơ sở
nào mà người nguyên thủy đã tường tượng ra cả một thế giới
những thần linh? Theo Tylor (Eduvard Burnelt Tylor) nhà
Nhân chung học người Anh thê kỷ XIX, thì người ngun thủy
đã có những thực tiễn của họ để đi đến quan niệm vê một yếu tơ
cơ bản, khác với thân thể mình, "yếu tô ấy là linh hồn" (7-67) và
cho rằng linh hồn là một thức thể độc lập, là bât diệt. Tylor
cũng đã tái (lựng quan niệm linh hồn như sau:
"Đấy là một hình ảnh người phi vật chất, theo bản chất nó,
một thứ hơi, một thứ màng hay một thứ bóng: Nó là ngun lai
của sự sơng và tư tưởng trong các nhân vật mà nó phú hồn cho,

nó chiếm hữu một cách dộc lập ý thức người và ý chí của người
chủ thể xác nó, chủ cũ hoặc chủ mới nó có thể rời bỏ thể xác vi
di chuyển rất nhanh chóng từ chỗ này sang chỗ nọ, thường là
khơng thể tóm bắt được và khơng trơng thấy được, vậy mà nó
lại khai triển một sức mạnh hữu thể, và nhất là xuất hiện trước
mắt ngưòi thức hay người ngủ như một con mà tách biệt khỏi
thể xác giống VỚI nó, nó có thể nhập vào thể xác của các sinh thể
người, động vật và cả tĩnh vật, chiếm lĩnh chúng và khiến chúng
hành động (7-168).
Từ quan niệm như trên vê linh hồn con người, người
nguyên thủy đả đi đến kết luận rằng các động vật, cây cỏ và cả
những vật vô tri vô giác (tĩnh vật) như núi non, đất đẩ, ... một
khi đã có thê xác thì ắt cũng sẽ có linh hồn như con người. Bởi
lẽ. con ngưòi cũng vốn là một sinh vật của tự nhiên, cho nên thế
giới tự nhiên dù động hoặc tĩnh ở xung quanh con người cũng
giống như bản chất con người. Vì thế, cõi tự nhiên đó cũng có
89


×