HOANG LƯƠNG
HỘI TRUYỀN THỐNG
■
eả?ĩ cấc Brâ Tộc
VIỆT ĩiã m
KHU VỰC PHÍA BẮC
■
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
M ỤC LỤ C
jLỜỈ
7
nói dầu
M u c đ ích u cầu của chuyên dê
/. KHÁI NIỆM VỂ LE HỘI VA TÍN
NGƯỠNG DÀN GIAN
)I. Khái niệm vể lể hội
8
(Chương
11
11
1. Lẻ và hội
11
2. Môi quan hệ giữa lễ và hội
13
3. Chức nang của lễ hội
15
1. Sự phân loại lễ hội
21
ill. Khái niệm về tín ngưỡng dân gian
28
1 Tín ngưỡng là gì ?
28
2. Mỏi quan hệ giữa tín ngưỡng và tơn giáo
30
3. Mơi quan hệ giữa tín ngưỡng và lễ hội.
34
1. Tác động và vai trị của tín ngưỡng trong địi
sơng xà hội
37
THỜI GIAN, KHÔNG GIAN LINH
THIÊNG CỨA LỄ HỘI
41
(Chương
II.
n. Thời điểm và phạm vi tố chức lể hội
1. Thời điểm tổ chức lề hội.
41
41
3
2. Phạm vi và địa điểm tổ chức lễ hội
44
II. Không gian lin h thiêng tổ chức lể hội
47
1. Không gian linh thiêng mang tính chất tự nhiên
47
2. Khơng linh thiêng mang tính chất xã hội
51
C hư ơ ng I I I . CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA LỄ h ộ i v à t ín
NGƯỠNG DÂN GIAN
65
I. Những nghi thức của phần lễ
65
]. Các đôi tượng thờ cúng
65
2. Một sô đặc điểm cơ bản của các đơi tượng được
thị cúng trong lễ hội Việt Nam.
89
3. Các nghi thức trong phần lễ
II. Phần hội
108
128
Ị. Bữa ăn cộng cảm
129
2. Các trò vui chơi trong phần hội
132
C hư ơng IV. CÁC GIÁ TRỊ VÀ VAI TRỊ CỦA LẺ HỘI
ĐỐI VĨI ĐỊI SỐNG CỘNG ĐỔNG
I. Các giá trị của lễ hội
148
148
1. Lễ hội đề cao và khuyên khích những phẩm chất
tốt đẹp của cộng đồng.
148
2. Lễ hội - nơi thể hiện khiếu thẩm mỹ của cộng đồng.
154
3. Ijễ hội khuyên khích tài năng sản xuất và vui
chơi, văn nghệ với ý nghĩa cầu mùa.
161
4. Dề cao cái cao cả, cái bi, cái hài
174
II. V ai trò của lễ hội với cộng dồng
182
1. Lề hội biểu hiện giá trị xã hội của một cộng đồng
182
4
2. Lễ hội mang lại khoảng thời gian nhàn rỗi và
ru ộc sông phong phú, thoải mái hơn.
186
0. Lỗ hội nhắc nhỏ người ta sông trật tự, mực thước
188
1. Lỗ hội hồn thiện các chủng loại văn hố, văn
nghệ va tạo cỉiổu kiện cho sự sáng tạo của mỗi
người trong lình vực hoạt động của mình.
192
5. Lễ hội có chức năng cô kêt cộng dồng
194
6. Chức năng đáp ứng nhu cầu vê địi sơng tinh
thẩn của lễ hội
197
1III. Một sơ vân để đặt ra cho lê hội trong xã hội
hiện i
ã
ô
200
1. L hi truyn thụng ang phc hi
200
2. ụi iu về thực trạng trong sinh hoạt lễ hội
IK ê t lu ậ n
203
208
ì D a n h m ục t à i liệ u th a m k h ả o
211
5
LỜI NÓI ĐẨU
Đây là tập tài liệu chuyên (lê dành cho sinh viên năm thứ 4
ngành Dân tộc học và Lịch sử văn hố Việt Nam.
Với mục đích đó, cn tài liệu này sẽ cung cấp một cách có
hộ thống những lý thuyết và các đặc điểm chủ yếu của lễ hội
truyền thông các dân tộc ở Việt Nam. Song, do điêu kiện và thịi
gian có hạn, cn tài liệu này chỉ dừng lại ở việc giới thiệu lễ hội
truyền thống các dân tộc ở miền Bắc nước ta, còn lễ hội truyền
thông của các dân tộc ở miền Nam sẽ giới thiệu vào dịp khác.
Do yêu cầu của chyên đề, cuôn tài liệu này không giới thiệu lễ
hội cụ thể mà chỉ giới thiệu một cách tổng quát nhằm giúp sinh
viên có kiến thức chung về lễ hội của các dân tộc ở Việt Nam.
Cách tra các chú thích:
Ví dụ, khi gặp chú thích (7-133) xin tìm tài liệu sô 7 (theo
1thứ tự của bảng thư mục) và giỏ trang 133 của tài liệu đó sẽ gặp
nga}'- câu đã trích dẫn.
Với khn khơ một chun đê mà giới thiệu một vấn đề lớn
ì như vậy, chắc chắn tập tài liệu này còn nhiều điểu cần bổ sung
'Và sửa chữa. Cho nên, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng
í góp dể cuốn tài liệu chn đề này được tơi hơn.
Xin trân trọng cảm ơn.
Tác giả
7
MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỦA CHUYÊN ĐỂ
Trong kho tàng các giá trị văn hố Việt Nam, lễ hội truyền 1
thơng và tín ngưõng dân gian là những di sản văn hố tinh 1
thần q báu của ơng cha ta để lại. Những lễ hội và tín ngưởng Ị
đó được hình thành và định hình bển vững từ thuở mới dựng Ị
nưốc của ông cha ta. Trải qua những thàng trầm, biến cô của 1
lịch sử nước nhà, kể cả một nghìn năm bị phong kiến phương ỉ
Bắc chiếm đóng, bị chúng áp đặt và tìm mọi cách bắt nhân dân 1
ta theo các tục lệ, tín ngưỡng phương Bắc, nhưng lễ hội và tín 1
ngưởng các dân tộc Việt Nam vẫn phát triển theo truyền thơng ị
của mình.
Cho đến nay, tất cả những sáng tạo vê lễ hội và tín ngưởng I
Việt Nam trải qua hàng ngàn nãm vẫn giữ được ngun vẹn 1
những nét truyền thơng, tuy có sự tiếp thu những tinh hoa của I
một sô lễ hội và tín ngưởng Trung Hoa. Những yếu tơ ngoại lai 1
ấy, khi đã được nhân dân ta chấp nhận, chúng đã được "Việt l
hố" một cách sâu sắc.
Mục đích của chuyên đề này là nhằm giúp sinh viên nắm 1
được một cách có hệ thơng, tồn diện những nghi thức, nghi lê ì
và nội dung của các lễ hội, các hình thái tín ngưỡng dân gian 1
của các dân tộc Việt Nam. Qua đó, có thể thấy rõ vai trị quan I
trọng của lễ hội đốì với đời sơng tinh thần của cộng đồng để trân 1
trọng, kê thừa phát huy những cái hay, nét đẹp của chúng góp )
8
I phan xây dựng nên văn hoá các dân tộc Việt Nam tiên tiên đậm
(dà bản sắc dân tộc.
Với mục (lích như vậy, chuyên đê dặt ra những yêu cầu đòi
] hỏi sinh viên phải nam được ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực
1tiễn của lễ hội và tín ngưỡng dân gian. Mặt khác, địi hỏi sinh
'viên phải có cỉược tri thức khoa học vê lỗ hội và tín ngưỡn dân
ị gian (bao gồm các biểu hiện của tỏn giáo nguyên thủy).
Như chúng ta dã biết, lỗ hội và tín ngưỡng dân gian (có
] người cịn gọi là tín ngưỡng dân dã) là nhu cầu sinh hoạt văn
Ihoá tinh thần của mọi cộng đồng, mọi dân tộc, dù các cộng đồng
'■và đản tộc đó có ỏ trình độ nào của sự tiến bộ xã hội . Có thể nói,
1lễ hội là "bảo tàng sông" hội tụ và giới thiệu các mặt sinh hoạt
'Văn hố truyền thơng của các dân tộc. Tín ngưỡng dân gian là
1 nhung giá trị tâm linh thể hiện trí tuệ và khát vọng của con
1 người, giúp con người có được niềm tin và hy vọng, mang ý
1 nghĩa nhân van vô cùng sâu sác. Có hiểu được cơ sỏ tồn tại của
(các lỗ hội và tín ngưỡng dân gian mà các (lân tộc ở nước ta gìn
ígiữ thì mới hiểu được sức sơng mành liệt của các dân tộc anh
u*m trài qua các hước thăng trầm cua lịch sử. đứng vững trước
IIÌÌỌÌ sự tác dộng từ bên ngoài, nhất lả vê mặt tâm linh. Ý nghĩa
tí hực tiền dỏ lại càng trở nên cấp thiết khi tồn dán ta dang
1bước vào cơng cuộc cơng nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Mặt khác, giữa lễ hội và tín ngưởng dân gian có quan hệ
ttương hơ với nhau. Lỗ hội chính là khơng gian xà hội. là môi
ttrường sông của các nghi thức, nghi lề của tín ngưởng dân gian.
((Y> thể nói, lề hội là hình thức tổ chức, cịn biểu hiện của tín
mguong la nội dung hoạt động của car lễ hội. Vì vậy, ở đáy yêu
( ‘Au người nghiên cứu không nên tách ròi, chu trọng mặt này
lhay mặt kia ma phái kết hợp giữa lỗ hội và tín ngưỡng dân
9
gian. Chỉ có như vậy mới hiểu dược cụ thể, có cơ sở khoa học vổ
lỗ hội và tín ngưởng dân gian. Trên cơ sở đó mới đủ khả năng
gạn đục khơi trong, kê thừa, phát huy những yêu tô tích cực,
loại bỏ những yếu tơ tiêu cực và các hiện tượng mê tín dị đoan.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn như thế, việc tìm hiểu,
nghiên cứu lề hội và tín ngưỡng dân gian một cách khoa học là
việc làm bết sức cần thiết và quan trọng trong nhà trường. Vì
vậy, việc biên soạn giáo trình giảng dạy cho sinh viên chuyên để
này vừa mang ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn to lớn;
giúp cho sinh viên có kiến thức khoa học vê các giá trị văn hố
truyển thơng của dân tộc, vững vàng bước vào xây dựng cho
cuộc sống trong tương lai.
10
C hương ỉ
KHÁI NIỆM VỂ LỄ HỘI
VÀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN
1. KHÁI N IỆM VỂ LỄ HỘI
1. Lể và hội
Cho đến nay, có nhiều cách gọi và sự giải thích khác nhau
've thuật ngữ lễ - hội. Có người gọi lễ hội là "hội lễ1’ (18), có người
lại gọi là "hội hè” (10) hay "hội hè đình đám” (1) và có người lại
Ị gọi là "lễ, tết, hội" (12) ... Tuy tên gọi và cách diễn đạt khác
nhau, nhưng các ý kiến đó khơng có gì máu thuẫn mà thơng nhất
' với nhau trong một nội dung: "Lễ hội là sinh hoạt văn hố, tơn
5giáo, nghệ thuật truyền thơng của cộng đồng" (41-8).
Như vậy, trong khái niệm lề hội bao gồm hai yêu tô: lễ và
hội. Hai yếu tô này ln tồn tại song song, bổ sung, hỗ trợ và
ỉhồn thiện lẫn nhau.
Lễ: Theo từ điển tiếng Việt, lễ là "những nghi thức tiến
ihành nhằm đánh dấu hoặc ký niệm một sự việc, sự kiện có ý
) nghĩa nào đó" (43-540). Trong thực tế. lễ có nhiều ý nghĩa và
ìmột lịch sử hình thành khá phức tạp.
Chữ lễ được hình thành và biết tới từ thời Chu (thê kỷ X II
1trước Công nguyên). Lúc đầu, chữ lễ được hiểu là lễ vật của các
í gia đình q tộc nhà Chư cúng tế thần tổ tông, gọi là tế lễ. Sau
11
khi cúng (tê lễ), lễ vật được chia theo thứ bậc của nhăn (thị tộc
Chu), cịn các thứ nhân (khơng phải thị tộc Chu) và dân (nô iệ ))
không được hưởng sự chia phần như thế.
Dần dần, chữ lễ được mỏ rộng nghĩa là "hình thức phép tắc
để phân biệt trên dưới, hèn sang, thứ bậc lớn nhỏ, thân sơ trong
xã hội khi đã phân hoá thành đẳng cấp" ... (7-127). Ci cùng
khi xã hội càng phát triển thì ý nghĩa của lễ càng được mở rộng
như: lễ thành hoàng, lễ gia tiên, lễ khao vọng, lễ cưới, lễ cầu an,
lễ cầu mưa, cầu tạnh .v.v...
■
Ị
,r
í
,
Do ngày càng mở rộng phạm vi nên đấn đây lễ đã mang V '
nghĩa bao quát mọi nghi thức ứng xử của con người với tự nhiên 1
và xã hội. Tuy nhiên, lễ vẫn giữa ý nghĩa ban đầu của nó là I
hình thức biểu thị quan hệ giữa con người với môi sinh tự nhiên 1
của nó. Trong phạm vi chuyên để, lễ được hiểu theo ý nghĩa đó »
và chúng là đối tượng tìm hiểu của chuyên đề này.
Như vậy, lễ là cách ứng xử của con người trước tự nhiên I
đầy bí hiểm và thách đố - nhũng cáu hỏi khơng dễ gì giải đáp.
Các nghi thức nghi lễ của lễ toát lên sự cầu mong phù hộ, độ tri
của các thần và giúp người tìm ra những giải pháp tâm lý mặc
dù phảng phất chất linh thiêng huyền bí. Lễ ở Việt Nam chú I
yếu tập trung trong các nghi thức nghi lễ liên quan đến sự cầu
mùa, người an, vật thịnh. Có thể nói, lễ là phần đạị - tâm lin h
của cộng đồng, nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và đảm bảo
nền nếp, trật tự cho hội được hoàn thiện hơn.
H ộ i : "cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người dự, theo
phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt" (43-443) - Hội là đám vui
đông người, gồm hai đặc điểm cơ bản là đông người tập trung
trong một địa điểm và vui chơi với nhau. Nhưng, nếu chỉ có vậy
nhiều khi chưa thành hội. Muốn được gọi là hội theo nghĩa Dân
tộc học phải gồm các yếu tố:
12
+ Được tô chức nhân dịp kỷ niệm một sự kiện quan trọng
nào dó và liên quan đến cộng đồng như làng, bản ...
+ Nhằm đem lại lợi ích tinh thần cho mọi thành viên của
cộng đồng, mang tính cộng đồng cả tư cách tổ chức lẫn mục đích
của nó. Có khi tính cơng cộng đó được mở rộng đến các làng, bản
khác (liên làng).
+ Có nhiều trị vui đến mức như hỗn độn, đến vô sô, tả tơi
cả người (vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội). Đây là sự
cộng cảm cần thiết của phướng diện tâm lý sau những ngày
tháng lao dộng vất vả với những dồn nén cần được giải toả và
thăng bàng trở lại.
Tóm lại, hội là cuộc vui chơi bằng vô sô hoạt động giải trí
cóng cộng, diễn ra tại một địa điểm nhất định vào dịp cuộc lỗ kỷ
niệm một sự kiện xã hội hay tự nhiên, nhằm diễn đạt sự phấn
khích, hoan hỉ của công chúng dự lễ hội (7-132). Nếu lễ là phần
đạo thì hội là phần đời, là khát vọng của mọi thành viên trong
cộng đồng vươn tới những điêu tốt đẹp. Những khát vọng đó
thường được khái quát hoá, lý tưởng hoá hay nhản cách hoá bởi
những nghi thức hav những hoạt động thật cụ thể, thật sinh
động và rất đời thường. Cho nên, phần hội thường được kéo dài
hớn phần lễ rất nhiều và được diễn ra thật sôi động, vui vẻ trẻ
trung, mọi người đểu "vào hội" để lãng quên nỗi vất vả nhọc
nhằn và cả những điều ác, sự bất công ... mà hướng tới niềm vui
sống và những tương lai tốt đẹp trong thời gian tới.
2. M ôi quan hệ giữa lế và hội
Trong thực tế, giữa lễ và hội khó tách rịi mà quyện lại với
nhau, hội là từ dùng để chi' thành phần ngồi lễ (hay hội có thể
coi là hình thức của lễ) của các cuộc kỷ niệm từ quy mô làng,
13
bản trở nên. Vì hội là thành phần ngồi của lễ, nên cuộc lễ nào
khơhg có hội kèm theo người ta khơng gọi là hội. Ngược lại,
khơng có hội nào là khơng kèm theo lễ, trong hội đã có lễ như
hội Gióng, hội Đền Hùng... Cho nên, mối quan hệ giữa hội và lễ
là quan hệ tương hỗ tồn tại trong sự thống nhất.
Đôi khi, trong xã hội nông nghiệp như nước ta, do chu trình
sản xuất mà bên cạnh lễ hội cịn có cả tết (tiết). Giữa ba yếu tơ
đó thường thâm nhập vào nhau, có khi cặp đơi như lễ với hội, tết
với lễ, tết với hội, có khi lại cặp ba giữa lễ - hội - tết. Điều đó
được câu kiểu của Nguyễn Du xác định khá rõ:
"Thanh minh trong tiết tháng Ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh".
Nhưng, dù cặp đơi hay cặp ba thì các yếu tơ đó vẫn có
chung một nội dung như phần khái niệm đã trình bày. Lễ và
hội là quan niệm giữa phần đạo và phần đời. Tuy thuộc hai linh
vực khác nhau trong đời sông con người mà đạo là tâm linh và
đòi là cuộc sống thực, cả hai lĩnh vực đó có hồ vào nhau thì
cuộc sống con người mới tồn tại, mới có cuộc sơng con người. Vì
vậy, mối quan hệ giữa lễ và hội là quan hệ khơng thể tách rịi,
ranh giới giữa các yếu tơ tạo nên lễ hội cũng khơng thể phân
biệt rạch rịi, máy móc. Cũng vì vậy mà có người gọi là lễ hội mà
cũng có người gọi là hội lễ tuỳ thuộc vào từng loại lễ hội mà
nhấn mạnh mặt này hay mặt kia. Lễ nằm trong hội và hội phải
có lễ. Lễ và hội đểu là cuộc sống thực của con người, được phản
ánh qua tâm linh của cộng đồng.
Với tinh thần ấy, cả phần lễ và phần hội, cả đạo lẫn đời đều
"là một cuộc vui lớn của cộng dồng nhằm đáp ứng nhu cầu giải
trí, tín ngưõng, thi thô tài năng, biểu dương sức mạnh, tái hiện
cuộc sống trong trường kỳ lịch sử. Nó là một loại hình tổng hợp
14
bao gồm nhiều yếu tơ văn hố dân gian ln luôn tướng tác lẫn
nhau" (18 - 38).
Trên cơ sỏ ấy, chúng ta cũng nhạn thây rằng, người nông
(lân Việt Nam đã sáng tạo lễ hội như cuộc sông thứ hai của họ
(cỏ người gọi lô hội là hảo tàng sông, bảo tàng tự nhiên). Đó là
cuộc sơng hội hè, dinh đám sơng động màu sắc dân gian. Phần
cuộc sơng dó thuộc vê những ước mơ, những khát vọng hướng
tới cái chân, thiện, mỹ. ở đó, cái đẹp của cuộc sơng thực được
bộc lộ hết mình trong sự hồ hợp giữa con người với tự nhiên, sự
ngưỡng mộ, tri âm với các lực lượng thần thánh siêu nhiên đã có
cơng khai phá, dựng xây và bảo vệ bản làng ... Vì thế, lễ hội
mang tính nhàn văn sâu sắc, đem lại niềm tin, hy vọng cho con
người mà con người thì khơng bao giờ lại khơng cần có niêm tin
và hy vọng.
Cho nên, có thể nói niềm tin và hy vọng là động lực, là sức
sống của con người.
3. Chức năng của lể hội
Như chúng tơi đã trình bày, lễ hội là cả một bảo tàng sông
của cộng đồng. Lễ hội chính là nơi biếu hiện những giá trị văn
hố dân gian cúa cộng đồng.
3.1. Lễ hội biểu hiện giá trị của nhátĩ vật được củ lẻ
0
Việt Nam , các nhân vật được cử lễ bao gồm cả một hệ
thống khá phong phú, đa dạng. Đó là các vị có cơng khai sơn,
phá thạch, lập làng, dựng nước như Đức thánh Tản Viên, vị
thần Long Đỗ
các vị có cơng dựng nước, giữ nước như các
Vua Hùng, Hai Bà Trưng, Ơng Gióng, Trần Hưng Đạo hay
những người cứu dân giúp nước như Mẫu Liễu Hạnh, Bà Chúa
Kho, Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ .v.v... Khi lễ hội biểu hiện
15
giá trị của các nhân vật được cử lễ thì đấy cũng chính là giá tr ị
của cả cộng đồng. Cái cộng đồng có khi trong phạm vi một nước
(Vua Hùng), có khi vừa trong một tổng một làng (như Thánh
Gióng) vừa chung cả nước và cũng có thi chỉ trong phạm vi một
họ (một nhóm họ tộc), một nhóm gia đìríh như thờ cúng tổ tiên
hay giỗ tổ...
Nhưng, cho dù các giá trị đó có thuộc vê cộng đồng lớn hay
nhỏ, rộng hay hẹp thì chúng vẫn có giá trị cô kết cộng đồng.
Đằng sau và bên trong cái linh thiêng, huyền bí vốn bao phủ
mọi lễ hội trong xã hội cổ truyền, người ta vẫn thấy những lễ
hội hay nói cách khác là tính chất cứu cánh trần tục của nó.
Những giá trị hay những cứu cánh đó tiềm ẩn chức năng xã hội
của lễ hội: Đó là "biểu hiện các giá trị xã hội của một cộng đồng
và tái xác định những mối liên hệ đã gắn bó các nhóm lại vối
nhau" (7-133). Đó là chức năng xã hội cơ bản, chức năng đặc
thù của mọi lễ hội.
Ở đây, việc cử lễ tơn kính đơi với các nhân vật được thờ
cúng nếu chỉ dừng lại ở những nghi thức thuần tuý: tê lễ, hiến
dâng, cầu xin ... thì sự biểu hiện giá trị của đối tượng được nhận
lễ sẽ khơng hiện thực, chỉ có tính ý tưởng. Cho nên, kèm theo
những nghi thức tê lễ đó phải có những hoạt động của đời
thường như ăn ng, vui chơi thoả thích của mọi thành viên
trong tình thân thiện mênh mơng, chan hồ, hết mình thì sự tái
xác định lực cơ kết cộng đồng mới trở thành hồn thiện và hiện
thực. Đôn đây, lỗ và hội quyện vào nhau và biểu hiện được chức
năng xã hội của mình: cơ kết các thành viên trong cộng đồng lại
với nhau qua việc làm sông lạ i thuỏ cội nguồn của những liên
hệ đang bảo tồn sức sống cả nhóm.
16
Nhu cầu đó của các cộng đồng người là mn thuở, là vĩnh
hang, ngày qua tháng lại, năm tới, cái chu trình đó được lặp đi
lặp lại trong đời sơng cư dân nơng nghiệp vốn đầy phiền phức,
khó khăn vất cả tạo nôn điều kiện binh thường cho đời sông. Cái
binh thường ấy trở thành sự điểu tiết cho mọi thăng bằng xã
hội. khơng thể có một hình thức biểu tượng nào khác có thể đem
lại hiệu quả như thế mà chỉ có lễ hội mói có khả năng ấy. Đó
củng‘chính là chức năng đặc thù của lỗ hội.
Với những chức năng như thế đã giúp chúng ta hiểu tại sao
các dân tộc, các nền văn hố có thể khác nhau về không gian và
thời gian, nhưng tất cả các dân tộc, các nên văn hố đểu có mặt
lễ hội. Tuy lỗ hội mỗi dân tộc, mỗi nên văn hoá có thể khác nhau
vể nội dung và phương thức, phương tiện diễn đạt, nhưng đểu
có chung một mục đích là đem lại niềm tin, hy vọng cho con
nguời. Bởi lễ hội là hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa các cộng
đồng với môi trường sinh thái của m in h , nên có thể nói rằng có bao
nhiêu cộng đồng củng sẽ có bấy nhiêu lễ hội khác nhau.
3.2.
Lể hội đem lại cho mỗi nhóm, mỗi thành viétĩy mỗi cộng
i đồng một khoảng thòi gian nhàn rỏi , thanh thản nhất định
Tưỳ mỗi lễ hội mà khoảng thời gian dó là khoảng thời gian
(đặc biệt sơng phong phu hơn, thoải mới hơn và rộng rãi hơn, cỏi
mở hơn ... Khoảng thịi gian dặc biệt đó là khoảng thời gian được
ì tạo ra để "đơn bù" những kham khổ, thiếu thơn, hụt hẫng kéo
í dài trong một năm sơng lao động, sản xuất vất cả, nhất là đối
vỏi cư dân nơng nghiệp. Vì thế, thời gian đặc biệt này có thể dài,
ỉ ngắn khác nhau ở mỗi cộng đồng.
Cuộc sông trong thịi gian đặc biệt đó thường có những nghi
íthức khác thường tuỳ theo tầm quan trọng và tính chất-sủa
ttừng lễ hội. Sự khác thưịng đó tạo nên một trạng thái tâm lý
đặc biệt cho cả nhóm hay cả cộng đồng thể hiện ỏ từng nghi 1
thức lễ hội. Đó là sự kính trọng cái linh thiêng mang tính chất
thuần túy bổn phận. Cuộc sống trong khoảng thời gian đặc biệt
đó thực sự trỏ thành cuộc sơng thực của chính mọi thành viên I
phải là khoảng thời gian cuả phần hội ngoài lễ, phần "tái xác
định mơi liên hệ đã gắn bó các nhóm lại với nhau" (12-135).
Phần ngồi lễ là phần địi thường, phần trần tục của sự ăn
ng, vui chơi hết mình. Chính phần này sẽ hồn thiện hơn sự ’
tơn kính và hiện thực hố các ý tưởng, các khát vọng cao xa.
Cái khác thường trong thời khắc đặc biệt không phai'd quy
mô to lớn hay sơ sài mà là ở một số nét đặc biệt, ngày thường bị
cấm hay ít xảy ra. Ví dụ, ngày tết thường cất công đi thăm hỏi,
chúc tụng nhau, tặng tiền cho trẻ em để mừng tuổi, tết Đoan
Ngọ ăn rượu nếp, tết Hàn Thực làm bánh trơi bánh chay...; đặc
biệt là, có một sô lễ hội sau khi tê lễ mọi thành viên được tự do
quan hệ, chen chúc lẫn nhau giữa nam và nữ như Hội Rã La
(Hà Tây), H ội Chen (Bắc Ninh) .v.v... Dó là "bước hồn tất sự
khách thể hoá, trần tục hoá cái ý tưởng" (7-135).
Điểu đáng chú ý ở đây là dù khác thưồng hay hơn thường
thì sự sống của mọi thành viên trong khoảnh khắc ấy cũng trở
nên rộng rãi hơn, xởi lởi và chi tiêu thoải mái hơn, cỗ bàn, chè
chén, quà cáp, chào mời đon đả, thân thiết, nhiệt tình hơn,
thành thật hơn và vui chơi hồ hởi, rộng lượng và nhân ái hơn ...
Tất cả cách sông, cách vui chơi ăn uống đều mang tính chất
"thái q" một cách "vơ trật tự" càng "thái quá" càng tốt. Đó là
cái khúc thường để mong cái binh thường. Cái khác thưòng và
khoảnh khắc đặc biệt đó mang nghi thức tín ngưỡng ngun
thuỷ và đều gắn bó vói q trình sống của cộng đồng. Từ đó làm
cho tâm lý cá nhăn được cân bằng và cuộc sông của cộng đồng
18
iđược củng cơ. Đó là tiền đê dể tạo nên chức năng thứ ba của
lễ hội.
3.3.
Lễ hội là điểu kiện cho sự tái sáng tạo của mỏi người trong
I lĩnh vực hoạt động của mình
Sự sáng tạo hay tái sáng tạo của mỗi thành viên trong xã
hội, trước hêt là sáng tạo trong lĩnh vực văn hoá (bao gồm cả
văn hoá vật chất, văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần). Lễ hội
ilà một biêu th ị văn hoá bao trùm hơn, tồn vẹn hơn của đời sơng
.xã hội. Văn hố là cái phát sinh, cái gián tiếp đơi với nhu cầu
tâm linh, nhưng tâm linh (hay tín ngưỡng) lại bắt rễ vào những
nhu cầu cơ bản của loài người và làm thoả mãn phương thức
I biêu hiện văn hoá của những nhu cầu này. Qua lễ hội nhiều trị
vui chơi mang nghi thức tín ngưỡng như vật thờ, chọi gà thờ,
imúa nến, múa đèn, múa hoa thờ .v.v... nếu khơng có những lễ
thức ây ắt sẽ khơng có những hoạt động văn hố ấy. Vì thế,
(chúng ta dễ dàng nhận thấy lễ hội là một loại hình văn hố tổng
ihựp gơm nhiều chủng loại văn hố khác nhau. Điểu đáng chú ý
lở đây là những chủng loại văn hố ấy đểu được nâng cao, rèn
ì luyện đến mức thành thục, hoàn chỉnh dành cho ngày lễ hội ấy
1trong bơi cảnh "thái q", khác thường. Cái gì, điều g ì diễn ra
Itrong lễ hội củng phải hoàn thiện, hơn hẳn những hoạt động
ithường ngày. Có thể nói lễ hội là nơi hồn thiện các chủng loại
wăn hố nghệ thuật.
Vì thế, lễ hội là cơ hội, là điều kiện cho sự tá i sáng tạo
inhững hoạt động văn hoá thường ngày. Ví dụ: bữa ăn trong lễ
1hội cũng phải ăn những món ăn khác ngày thường, thậm chí là
inhững thức quý hiếm (quý hiếm và khác thường cả về chất liệu,
ccách nấu nướng, cách bày biện trên mâm, thậm chí cả cách ăn,
(cách thưởng thức chúng). Nghệ thuật nấu nướng, hay nói khác
19
đi là văn hoá ẩm thực cũng nhờ ngày lễ hội mà được nâng lên,
hoàn thiện hơn. về mặc cũng vậy, trong lễ hội a i cũng cô mặc
những bộ áo quần truyền thông hay đẹp hơn ngày thường. Trong
sinh hoạt hàng ngày ăn mặc sao cũng được, nhưng không ai
dám vào hội hay vào đám với bộ áo quần rách rưới, xồng xĩnh
thường ngày. Một ví dụ khác để thấy sự nâng cao trong ngày lễ
hội của mọi người là cả lời ăn tiếng nói chào hỏi nhau ai củng cô
tỏ ra ngọt ngào, thân m ật và thành thật. Cái nghệ thuật giao
tiếp ấy còn được thể hiện khéo léo đến cả cách, cả lời mời cơm,
mời rượu, mời trầu ... nhà nào cũng cơ mịi cho được thật nhiêu
khách đến dự bữa cơm lễ tết nhà mình, vừa tỏ sự hiếu khách
vừa tỏ sự vui vẻ khác thường để có hạnh phúc, có lộc dư giả...
Trong hội có lễ, hay nói khác đi trong lễ đã tạo điều kiện cho các
trị vui và hoạt động văn hố của hội được nâng cao phát triển.
Trong thực tế, tất cả những loại hình văn hố dân gian đểu
trong q trình cấu thành lễ thức và chính những lễ thức đó lại
tạo diêu kiện cho các loại hình văn hố dân gian phát triển.
Nhà nhân học văn hoá Bronislaw Kasper Malinowski (18841942) của Mỹ đã nhận xét rằng: "Tôn giáo nguyên thủy không
phải là một quan niệm trừu tượng nào đó vượt lên trên kết cấu
văn hố, mà là bộ phận cấu thành quan trọng của sinh hoạt văn
hoá nguyên thủy" (7-138). Tuy đây không phải là một chức
năng đặc thù của lễ hội, nhưng chính những giá trị do chức
năng này tạo nên đã làm cho lễ hội có ý nghĩa hơn, vui hơn, sinh
động hơn và khác thường hơn.
Qua đây có thể nói rằng lễ hội là hỉnh ảnh văn hố kết tin h
của cứ dân nơng nghiệp, là động lực của văn hoá làng xã với tư
cách là sự thoả mãn một nhu cầu văn hố tồn diện. Việc nâng
cao sự sáng tạo và tái sáng tạo thường xuyên, hết năm này qua
20
I.năm khác, hết dời này sang đòi khác đã tạo cho lễ hội truyền
tthống những thay đôi phù hợp với từng thời kỳ lịch sử chứ
kxhơng hồn tồn giữ ngun xi hình hài từ thuở nguyên thuỷ.
( 'hình nhờ sự thích nghi đó mà lễ hội ln ln được mọi người
ulón chờ với tấm lịng háo hức từ năm này sang năm khác, từ đời
mày sang đời khác.
4. Sự phân loại lể hội
Mn nghiên cứu bất kỳ một loại hình văn hố nào cũng
diều phải phân loại chúng. Đơi với lễ hội - một bảo tàng sông lại
c:àng cần tiến hành phân loại cụ thể hơn. Ó nước ta, lễ hội là
nnột sinh hoạt vãn hố vơ cùng phong phú và đa dạng mà lại
tthường đan xen, hoà lẫn vào nhau về cả nội dung lẫn hình thức.
Y/ì vậy, việc phân loại lễ hội lại càng trở nên cần thiết trong quá
trrình tìm hiểu, nghiên cứu.
Cho đến nay, việc phân loại lễ hội ở nước ta cịn có nhiều ý
kciến khác nhau tuỳ thuộc vào từng chuyên ngành khoa học
kí hác nhau. Đặc biệt là chưa ai đưa ra được những tiêu chí
c:hung để phân loại các lễ hội, cho nên các ý kiến khó đi đến
tìhống nhất.
Trước khi tiến hành phân loại lễ hội, có lẽ nên tóm lược lại
c:ác khái niệm này như sau (7-131):
- Lễ là sự bày tỏ ý tơn kính đơi với một sự kiện hay tự
nihiên, hư tưởng hay có thực, đã qua hay hiện đại, được thực
hiiện theo nghi thức nghi lễ rộng lớn và theo phương thức thẩm
rmỹ. nhằm biểu hiện giá trị của đôi tượng được cử lễ và diễn đạt
tlhái độ của công chúng hành lễ, cầu mong sự phù hộ độ trì của
c:ác đối tượng nào đó.
- Tết hay tiết là một hành lễ vừa tượng trưng, vừa thực tại
đtối với thời tiết là chủ yếu, trong một thời gian định sẵn theo
21
chu kỳ tự nhiên, để cầu thịnh vượng, an khang và kích thích ý
chí của người sản xuất trước mỗi thịi tiết chính của chu trình
sản xuất nơng nghiệp.
- Hội là cuộc vui chơi bằng vô sô hoạt động giải trí cơng
cộng, diễn ra tại một địa điểm nhất định vào dịp cuộc lễ kỷ niệm
một sự kiện xã hội hay tự nhiên, nhằm diễn đạt sự phấn khích,
hoan hỷ của cơng chúng dự lễ. Qua đó, mn đạt tới những khát
vọng mà địi thường khơng có điều kiện và cơ hội hay không
được phép thực hiện để vươn tới cái chân, thiện, mỹ.
Trên cơ sở nhận thức như vậy, lâu nay đã có một sơ ý kiến
phân loại lễ hội, nhưng chưa thực sự thống nhất ý kiến.
- Dựa trên sự phân tích dân tộc học vê ý nghĩa và cội nguồn
của hội làng, Lê Thị Nhâm Tuyết (12-31) đã phân lễ hội thành I
5 loại, đại ý như sau:
1. Lễ hội nông nghiệp-, là loại lễ hội mô tả lại những lễ nghi
liên quan đến chu trình sản xuất nơng nghiệp (mang tính chất
cầu mùa).
2. H ội lễ phồn thực giao duyên: là loại lễ hội gắn với quan I
niệm sinh sôi, nảy nở cho con người và vật ni, cây trồng mang;
tính chất tín ngưỡng phồn thực.
3. Lễ hội văn nghệ: thi hát dân ca, nghệ thuật.
4. Lễ hội th i tài: thi thô tài năng.
5. Lễ hội lịc h sử: các trò diễn nhắc lại hay biểu dương?
cơng tích của các vị thành hồng và những người có cơng vớii
làng nưốc.
Năm 1981, Trịnh Cao Tưởng, khi nghiên cứu lễ hội ở Hài
Bắc (cũ) đã chia lễ hội ra 6 loại:
1. Hội liên quan đến tín ngưỡng nông nghiệp cổ truyền.
22
2. Hội mùa thể hiện tinh thần thượng võ.
3. Hội liên quan đến các anh hùng đựng nước, giữ nước và
(các nhân vật lịch sử.
4. Hội văn hoá, vãn nghệ.
5. Hội cúng Phật ở các chùa.
6. Hội tê lễ mang màu sắc của Đạo giáo (12-31).
Năm 1988, phần "Văn hoá dân gian vùng đất Tổ" trong Địa
íc h i Vĩnh Phủ (cũ) cũng đã đưa ra 4 loại lễ hội làng:
1- Hội có các hình thức vui chơi hội đám.
2- Hội có các trị diễn vui, khoẻ.
3- Hội có các trị thi tài.
4- Hội có các trị diễn mang tính chất nghệ thuật (12-33).
Năm 1989, Đinh Gia Khánh cũng đã đưa ra quan điểm chia
líễ hội ra hai loại: căn cứ vào lễ hội có nguồn gơc tơn giáo hay
Ikhơng có nguồn gốc tơn giáo.
Tơn Thất Bình khi khảo sát lễ hội truyền thống ở vùng
TThừa Thiên Huê lại chia lễ hội ỏ đây ra làm 4 loại:
1. Lễ hội tưởng nhớ các vị khai canh.
2. Lễ hội tưởng niệm các vị tổ sư ngành nghề.
3. Lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo.
4. Lễ hội theo mùa vụ (12-35).
Trong "Lễ hội cổ truyền" (12-35), các tác giả lại căn cứ vào
mội dung các lễ hội mà phân thành 4 loại:
1- Các hội làng tái hiện những sinh hoạt tiền nồng nghiệp.
2- Các hội làng tái hiện sản xuất nông nghiệp.
3- Các hội làng tái hiện những sự kiện lịch sử.
23
4- Các hội làng tái hiện các đề tài khác.
Theo tác giả Hồ Hồng Hoa (12-35) thì các hội làng ngườiii
Việt ở Bắc Bộ được chia làm ba loại:
1. Lễ hội phản ánh cuộc sống lao động sản xuất.
2. Lễ hội phản ánh cuộd đấu tranh giữ nước, giữ làng.
3. Lễ hội có các trị diễn đáp ứng hay phản ánh đời sống vănn
hố tinh thần, phong tục, tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân ta.
Ngồi ra, dưới góc độ Xã hội học, ngưòi ta còn phân loạĩti
thêm các hoạt động lễ hội mang tính chất quốc gia, dân tộc ha>y
quốc tê và những lễ hội thuộc về từng nhóm, từng vùng và cácc
tôn giáo độc thần cụ thể ... Trong phạm vi chuyên để này, chúngg
tôi chỉ tập trung giới thiệu lễ hội truyền thống của các dân tộc cở
Việt Nam chứ không nhằm giới thiệu chung tất cả các loại lềễ
hội. tóm lại, cho đến nay chúng ta đã biết đến các ý kiến phârn
loại lễ hội như trên. Qua đó có thể rút ra mấy nhận xét như saui:
- Những cách phân loại như trên chưa rút ra được nhữnfg
nét chung mà mới phản ánh được những đặc điểm của lễ hộji
từng vùng, từng địa phương.
- Trong thực tế, hội là thành phần ngoài lễ, nên cuộc lễ nàto
khơng có hội kèm theo, sẽ khơng được gọi là hội. Khi đã gọi lầà
hội làng thì bao giờ cũng gồm cả phần lễ và phần hội. Vì thêế,
khơng thể tách ròi phần lễ ra khỏi hội và ngược lại. cả lễ và hộội
trong lễ hội truyền thống đều có chung một mục đích : cầu chao
người an, vật thịnh, mùa màng phong đăng hồ cốc. Cho nêm,
khơng thể tách những lễ thức phồn thực như giao duyên, háit
đối đáp nam nữ, rước nõ nường, cướp kén, cầu đảo ... ra khỏi Hễ
hội nông nghiệp - hội mùa.
- Các trò diễn xướng nghệ thuật, thi tài, thi khoẻ ... cũnÉg
nằm trong mục đích "người an, vật thịnh" nên chúng vẫn thuộoc
24
loại lễ hội cầu mùa. Cho nên, không thể tách những lễ thức đó
thành một loại lễ hội riêng.
- Xét đến cùng, lễ hội nào củng mang ý nghĩa tôn giáo.
Phần lễ là phần tâm linh thuộc về tín ngưỡng mà tín ngưỡng
thực chất là "niềm tin tơn giáo” (thường là tơn giáo sơ khai hay
(CỊn gọi là tơn giáo ngun thủy). Vì thế, khơng thể phân loại lỗ
ì hội ra hai loại có tơn giáo và khỏng có tơn giáo. Đơì với các lễ hội
Hiên quan đến các vị Thánh hay Phật ... các hội Đền, hội Chùa
Ihay các hội Đình ở Viột Nam cũng thường pha trộn, đan xen cả
(các yếu tô "tam giáo đồng nguyên” hay giữa các yếu tô tôn giáo
(dộc thần với tôn giáo nguyên thủy, thậm chí các yếu tơ tơn giáo
1ngun thủy nổi trội lên hơn cả yếu tô tôn giáo hiện đại. Có thể nói,
Ikhơng có lễ hội truyền thơng nào lại không mang yếu tô tôn giáo,
mên không thể phản loại lễ hội tôn giáo và lễ hội không tôn giáo.
Trên cơ sở những nhận xét trên dây, theo ý kiến của chúng tơi
<•■() lẽ ch ỉ nen Ị)h;ìn lễ hội tru y ề n th ô n g ra h a i loại (‘hìn h như sau:
4.1. Lẻ hội lien quan đến tín ngưởng cẩu mùa
Đây là loại lễ hội phổ biến ở tất cả các dân tộc. Tuy ở mỗi
áiịa phương, mồi dân tộc có những nghi thức, nghi lề khác nhau
mhưng đểu cùng chung một nội dung cầu mùa. Những nội dưng
dtó được thể hiện một cách sinh động ở các lẽ thức sau:
- Lễ thức liên quan đến chu trin h sấn xuất nổng nghiệp bao
g'ồm lễ hội tái hiện các sinh hoạt kinh tê tiên nông nghiệp như
s;ăn băn, hái lượm, lễ mỏ cửa rừng, hội đánh cá ... và những lễ
tihức tái hiện các hoạt động sản xuất nông nghiệp như hội cấy,
hiội tằm tang, trình nghề nơng, thị ơng Điền ...
- Lễ thức cầu đảo : cầu mưa, cầu tạnh, mưa thuận gió hồ,
s(óng yên biển lặng (rước, cúng tứ pháp, lễ cầu mưa ỏ các dân
tíộc, thờ Cá Ơng)...
%
- Lễ thức biểu dương, dâng cúng các thành phẩm nơng7
nghiệp (rước lợn, xơi, lễ ăn cơm mới ...)•
- Lễ rước thờ cúng hồn lúa (cịn phơ biến ở nhiều dân tộcc
thiểu sổ).
- Lễ hội trin h nghề (liên quan các tổ sư ngành nghề).
- Lễ hội th i tài và các trị bách h í (thi nấu cơm, thi bát dê,,
bắt vịt, vật võ, cờ người ...)•
- Lễ thức tín ngưởng phồn thực nhằm biểu dương, kết hợp)
âm dương cho con người và sự vật sinh sôi phát triển (rước nõ )
nường, hội cướp kén, thi bắt chạch trong chum, hội trai gái tìm 1
nhau, hội chđi hang, hội chen, hội tắt đèn .v.v...).
- Lễ thức hát giao duyên (hát xoan, hát quan họ, tết "xíp xí" '
tháng Bảy của người Tày - Thái...).
Những lễ thức trên đây đểu mang tính chất tín ngưỡng cầu I
mùa, mong sao mùa màng phong đăng hoà cốc, người an. vật
thịnh, ngành nghề phát triển. Vì vậy, khơng thể tách chúng rat
thành các loại lễ hội khác nhau.
4.2.
Lẻ hội liên quan đến việc tưởìig niệm cóng tao các vị danh I
nhân ván hố, anh hùng lịch sử, các vị thành hoàng và chư vị ì
Thánh, chư vị P hật ...
Loại lễ hội này đểu thị cúng, diễn tích liên quan đến các vị
nhiên thần và nhân thần đã có cơng khai sơn phá thạch, xây
dựng, gìn giữ, bảo vệ làng xóm, đất nước và Chư vị Thánh, Phật
có cơng khai minh, khai mang, xây dựng đền chùa, giúp dân
diệt ác trừ tà, bảo vệ cái thiện ... Điều đáng lưu ý ở dây là sự thờ
cúng ở các dân tộc miền núi chủ yếu là các lực lượng nhiên thần,
còn ở đồng bằng thì chủ yếu lại thờ cúng các lực lượng nhân
thần. Đó là:
26