1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã đi qua hơn 25 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu
đáng ấn tượng. Nền kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực, chuyển từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chu
nghĩa. Những dự án lớn cấp quốc gia, những khu công nghiệp với nhiều nhà
máy có công nghệ cao, những tuyến giao thông mới nói liền những cây cầu
hiện đại đã làm cho sự khác biệt đổi bộ mặt cua đất nước, đời sống vật chất và
tinh thần cua nhân dân được cải thiện đáng kể, đặc biệt mạo diện vùng nông
thôn đổi thay rất nhiều. Tuy nhiên, thực tế đó đã đặt ra vấn đề bức xúc trong
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, vùng sâu, vùng xa ngày càng trở
nên cấp thiết. Thời kỳ hiện nay, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hợi chu nghĩa, quá trình hợi nhập càng sâu vào nền kinh tế thế giới, thời kỳ
đất nước đang tiến lên sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực trạng hiện nay ở nước ta có tới 80% dân số và 70% lao động sống và
làm việc tại nông thôn, cả nước có đến 6-7 triệu lao động dư thừa, không có
việc làm thường xuyên, hàng năm lao động cả nước tăng từ 3,4 - 3,5% trong
đó lao động nông thôn tăng hơn nửa triệu. Cùng với sự tăng dân sớ và quá
trình đơ thị hóa ngày càng cao nên dẩn đến tình trạng đất nơng nghiệp bình
qn trên đầu người giảm x́ng, xảy ra tình trạng đất chật người đông, đang
thiếu nghiêm trọng lao động có tay nghề, trong khi đó lại thừa lao động giản
đơn, nhất là trong khu nông nghiệp, nông thôn. Vấn đề này không chỉ ảnh
hưởng đến đời sống hàng ngày cua người lao động, mà còn là rào cản chính
đối với xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, phát triển nền giáo dục và nguy
cơ tiềm ẩn những bất ổn về chính trị -xã hội.
Riêng huyện Vũng Liêm là huyện vùng nông thôn, vị trí địa lý tương
đối thuận lợi, có nhiều tiềm năng về nông nghiệp, tiểu thu công nghiệp.
Nhưng thực tế huyện vẫn còn khó khăn, nền kinh tế chưa phát triển, thu nhập
2
bình quân đầu người còn thấp, đến năm 2010 mới chỉ đạt 21.400.000 triệu
đồng/người/năm. Kết cấu hạ tầng kinh tế có phát triển nhưng còn thấp,
chuyễn dịch cơ cấu kinh tế chưa đồng đều nhất là công nghiệp và dịch vụ, lao
động phần lớn chưa được đào tạo, tỷ lệ người thiếu việc làm trong nông thôn
còn cao. Do vậy giải quyết việc làm đang trở thành một nhu cầu bức xúc lớn
nhất cua cả nước và nhiều địa phương, trong đó có địa bàn huyện Vũng Liêm,
tỉnh Vĩnh Long. Xuất phát từ thực tế đó, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn
về vấn đề giải quyết việc làm, đánh giá đúng thực trạng giải quyết việc làm
cho người lao động ở khu vực nông thôn hiện nay, nhằm tìm ra phương hướng
và giải pháp cụ thể là vấn đề cấp bách và vấn đề lâu dài có ý nghĩa rất lớn. Do
đó, vấn đề “Việc làm cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Vũng
Liêm, tỉnh Vĩnh Long ” được chọn làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học,
chuyên ngành kinh tế chính trị.
Lao động nông nghiệp, nông thôn là bộ phận cua dân số. Xuất cư từ các
vùng nông thôn nên lao động nông nghiệp, nông thôn mang đậm tính riêng
biệt, hàm chứa cả tính tích cực và tiêu cực.
Dân số Việt Nam khoảng 86 triệu người, diện tích ở bình quân đầu
người đạt 16,7m2 (năm 2009), trong đó hơn 80% lao động trong nông nghiệp,
có nguồn nhân lực lao động phong phú dồi dào. Đó là thế mạnh trong phát
triển kinh tế - xã hội cua chúng ta; tuy nhiên, nó luôn tạo ra sức ép về việc
làm cho toàn xã hội, nhất là lao đợng trong nơng thơn. Vì vậy, quan tâm giải
qút việc làm, ổn định việc làm cho người lao động luôn là một trong những
vấn đề được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm.
Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các khu công nghiệp, cụm
công nghiệp mọc lên khắp nơi đã làm cho đất đai sản xuất nông nghiệp bị thu
hẹp. Người nông dân mất đất, mất tư liệu sản xuất đồng nghĩa với mất hoặc
thiếu việc làm. Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp lúc này đang là
3
vấn đề bức thiết đặt ra. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã chỉ rõ: “Giải
quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xun śt trong mọi
chương trình phát triển kinh tế - xã hội cua đất nước”.
Vũng Liêm với diện tích tự nhiên 296,31 km², dân số huyện Vũng
Liêm là 179.216 người, nam 87.532 người, nữ 91.684 người, khu vực thành
thị 8.409 người chiếm 4,69%, khu vực nông thôn có 170.807 người chiếm
95,31% dân số (01/04/2009)có ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, mật độ dân số
609 người /km2, là huyện có mật đợ dân sớ cao nhất tỉnh. Thu nhập bình qn
đầu người còn thấp, kinh tế phát triển không đồng đều giữa các địa phương,
chất lượng lao động nông thôn thấp, hầu hết là lao động phổ thông, phần lớn
chưa qua đào tạo. Vấn đề bảo đảm việc làm cho lao động nông thôn đã và
đang là một thách thức lớn trong quá trình chuyển đởi cơ cấu kinh tế ở huyện
Vũng Liêm.
Văn kiện Đại hội X Đảng bộ huyện Vũng Liêm khẳng định: “đời sống
nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
Khmer. Số người không có tay nghề và không có việc làm ở thị trấn và xã
nông thôn còn nhiều, các hiện tượng tiêu cực chưa giảm”; Thực hiện nghị
quyết số 26 - NQ/TW Trung ương 7 cua BCH TW (khóa X) ngày 05/8/2008
về nông nghiệp - nông dân - nông thôn, đã xác định rõ: "Nông nghiệp và kinh
tế nông thôn là một bộ phận cua nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp đảm bảo
vững chắc an ninh lương thực quốc gia, cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp; xuất khẩu nông sản, đem lại nguồn ngoại tệ quan trọng cho nền kinh
tế; tạo việc làm và thu nhập cho đa số người dân. Nông thôn là môi trường
sống cua đa số nhân dân, nơi bảo tồn và phát huy các truyền thống văn hoá
dân tộc... Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cua nhân dân là nhiệm vụ chiến lược, là cơ sở để đảm bảo sự ởn
định tình hình chính trị - xã hội, sự phát triển hài hoà và bền vững theo định
4
hướng xã hội chu nghĩa...". Do vậy, vấn đề “Việc làm cho người lao động ở
nông thôn trên địa bàn huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long ” được chọn làm
đề tài tốt nghiệp cua tôi, với hy vọng đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết
việc làm cho người lao động ở nông thôn huyện Vũng Liêm, đáp ứng phần
nào đòi hỏi cấp bách cua địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề việc làm nói chung và việc làm cho người lao động nông thôn nói
riêng thời gian qua và hiện nay là vấn đề quan tâm cua Đảng, Nhà nước ở các
cấp các ngành đoàn thể và toàn thể xã hội. Từ những năm 1995 trở lại đây Đảng và
nhà nước ta đề ra nhiều nghị quyết và có nhiều ngành, trung ương và địa phương,
nhiều tác giả đã có công nghiên cứu, bài viết xung quanh vấn đề này như:
- PGS.TS Nguyễn Thị Thơm, Th.S Phí Thị Hằng, Giải quyết việc làm
cho lao động nơng nghiệp trong q trình đơ thị hóa, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2009.
- C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Tồn tập, tập 23, Nxb Chính trị q́c
gia, Sự thật, Hà Nội.
- Ủy ban nhân tỉnh Vĩnh Long, Thông tin khoa học kỹ thuật chuyên đề
“Xây dựng nông thôn mới ở Vĩnh Long”.
- Đề án đào tạo nguồn nhân lực và giải quyết việc làm của huyện Vũng
Liêm từ năm 2010- 2015.
- Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” Quyết
định số 2265/QĐ UBND tỉnh ngày 22/10/2010.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Làm rõ thực trạng việc làm và việc làm cho người lao động ở nông
thôn ở huyện Vũng Liêm. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết có
hiệu quả vấn đề việc làm cho người lao động ở nông thôn huyện Vũng Liêm,
tỉnh Vĩnh Long trong thời gian tới.
5
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa và làm sáng tỏ về những cơ sở lý luận và thực tiễn giải
quyết việc làm lao động nói chung và cho lao động nông thôn nói riêng.
- Phân tích đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2005-2010.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp đẩy mạnh vấn đề việc làm cho lao
động nông thôn huyện Vũng Liêm giai đoạn 2011-2015.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề việc làm cho lao động nông thôn
ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Nghiên cứu vấn đề việc làm cho lao động nông trong
giai đoạn hiện nay trong phạm vi huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
+ Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề việc làm cho lao
động nông thôn huyện Vũng Liêm giai đoạn 2005-2010 và đề xuất giải pháp
giải quyết việc làm cho đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Chu nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm,
đường lối cua Đảng và Nhà nước, nghị quyết cua trung ương về phát triển
nông nghiệp, nông thôn, nông dân, các lý thuyết về kinh tế học về lao
động, việc làm, thất nghiệp cùng với cơ sở thực tiễn cua giải quyết việc làm
ở địa phương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
luận văn chu yếu sử dụng các phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phân
tích kết hợp với tổng hợp, thống kê, so sánh…
6
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thớng hóa những vấn đề lý luận về việc làm cho lao động nông
thôn trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với
xây dựng nông thôn mới.
- Đánh giá, phân tích thực trạng việc làm cho lao động nông thôn ở
huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2005-2010.
- Đề ra những giải pháp việc làm cho lao động nông thôn huyện Vũng
Liêm, tỉnh Vĩnh Long trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN VỀ VIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ VIỆC LÀM
1.1.1. Lao động và việc làm
Lao động là hoạt động có mục đích và ý thức cua con người tác động
vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên thành các sản phẩm
phục vụ cho nhu cầu đời sớng con người. Vì vậy, lao đợng là mợt hoạt động
đặc thù riêng có cua con người, phân biệt giữa con người với các loài đợng
vật; trong quá trình lao động sản xuất, con người không những tạo ra cua cải,
mà tạo ra cho mình phát triển cả về thể lực và trí lực và chu nghĩa Mác Lênin cũng đã đề cập nhiều đến phạm trù lao động, theo C.Mác:
Lao đợng trước hết là mợt quá trình diễn ra giữa con người và tự
nhiên, mợt quá trình trong đó, bằng hoạt đợng chính cua mình, con
người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ
và tự nhiên. Lao động là một điều kiện tồn tại cua con người khơng
phụ tḥc vào hình thái xã hội nào, là một yếu tố tự nhiên vĩnh cửu
làm môi giới cho sự trao đổi chất giữa con người với tự nhiên, tức là
bản thân sự sống cua con người [11, tr.61].
Trong nghiên cứu cua mình Ph.Ăngghen viết:
Các nhà kinh tế chính trị khẳng định rằng lao động là nguồn gốc cua
mọi cua cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên
là giới cung cấp những vật liệu cho lao động đem biến thành cua
cải. Nhưng lao đợng còn là mợt cái gì vơ cùng lớn lao hơn thế nữa.
Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên cua toàn bộ đời sống loài
người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng
ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người [11, tr.641].
Lao động là hoạt động riêng có ở con người, khác với hoạt động theo
bản năng cua loài vật, C.Mác viết: Trong bất kỳ nền sản xuất nào, kể cả nền
8
sản xuất hiện đại, lao động bao gồm giờ cũng là nhân tố cơ bản, là điều kiện
không thể thiếu cua sự tồn tại và phát triển đời sống xã hợi loài người. Từ khi
hình thành con người ḿn tờn tại thì phải được đáp ứng các nhu cầu cơ bản
như: ăn, mặc, ở, đi lại,… muốn như vậy phải lao động sản xuất và sản xuất đó
không ngừng được phát triển với quy mô ngày càng lớn. Một phát minh vĩ đại
cua C.Mác - Ph.Ăngghen khám phá là: sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và
phát triển cua con người và xã hợi loài người.
Trong tiến trình phát triển cua nhân loại từ trước đến nay lao động là
phương tiện để sinh sống, là nguồn gốc chính cua thu nhập bảo đảm sự tồn tại
và phát triển cua mỗi thành viên trong xã hội. Từ những căn cứ trên theo
chúng tôi những quan niệm về lao động là: Lao động là hoạt động có mục
đích, có ý thức cua con người tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến
những vật tự nhiên thành các sản phẩm phục vụ đời sống cua con người.
Hoạt động lao động sản xuất là hoạt động gắn liền với con người và xã
hội loài người. Từ xa xưa con người đã biết làm lụng, tìm kiếm trong thế giới
xung quanh những sản phẩm để phục vụ nhu cầu cho bản thân mình. Khi
phân cơng lao đợng xã hợi phát triển, thì mỗi người tham gia lao đợng sản
x́t với mợt việc làm cụ thể nhằm tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và đóng
góp cho xã hội.
Việc làm trước hết là hoạt động lao động sản xuất cua con người, là
hoạt động lao động cụ thể cua mỗi người lao đợng cụ thể trong quá trình lao
đợng sản x́t cua xã hội. Giống như lao động, việc làm cũng phản ánh mối
quan hệ giữa người lao động với giới tự nhiên, vì vậy việc làm cũng chịu tác
đợng bởi những quy luật và điều kiện tự nhiên.
Mặt khác, khi nói đến việc làm là nói đến tính chu động, sáng tạo cua
lao động. Người lao động với kỹ năng cua mình, kết hợp với tư liệu sản x́t,
hoạt đợng trong một lĩnh vực nhất định cua cơ cấu kinh tế - xã hội, để tạo ra
cua cải vật chất (tức là đang làm việc) - họ có quan hệ với nhau, quan hệ xã
hợi. Vì vậy, việc làm cũng chịu tác động cua các quy luật kinh tế - xã hội.
9
Như vậy, việc làm và lao động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc làm
là cái vỏ xã hội, là cái khung pháp lý trong đó lao động diễn ra. Nếu lao đợng là
phạm trù vĩnh viễn, thì việc làm không phải như vậy. Xét trên tổng thể có những
nơi, những lúc có hiện tượng người lao động không có việc làm trong khi hoạt
động lao động sản xuất cua con người không bao giờ ngừng lại. Việc làm nói lên
mối quan hệ cua con người với không gian, thời gian, quan hệ và những giới hạn
xã hội cần thiết mà trong đó mợt quá trình lao đợng cụ thể được diễn ra. Nói đến
việc làm là nói đến công việc cua người lao động với những ngành nghề, công
việc cụ thể; là những hoạt động cụ thể cua người lao động, đáp ứng nhu cầu xã
hội, nhu cầu cá nhân cua người lao động, nó có tính cụ thể, tường minh.
Tóm lại, có thể nói lao động là cái chung và việc làm là cái riêng. Việc
làm là phạm trù tởng hợp, liên kết các quá trình kinh tế - xã hội. Trên khía
cạnh xã hội, việc làm phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người
trong những giới hạn nhất định, trong đó quá trình lao động được diễn ra, là
cơ sở để các mối quan hệ xã hội tồn tại trong mối liên hệ đan xen, liên kết với
nhau phát triển theo hướng lành mạnh.
Là một vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp, việc làm gắn cá nhân với xã
hội - nó không những đem lại thu nhập cho người lao động để nuôi sống bản
thân họ mà còn tạo ra một lượng cua cải cho xã hội. C.Mác đã nói: “Với
những điều kiện khác khơng thay đởi thì khới lượng và giá trị cua sản phẩm
tăng lên tỷ lệ thuận với số lượng lao động được sử dụng” [11, tr.75].
Việc làm là một vấn đề có ý nghĩa kinh tế - xã hội và chính trị quan
trọng cua một quốc gia. Hiện nay đảm bảo an toàn việc làm là một trong
những yếu tố cơ bản cua sự phát triển bền vững. Thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới đang tạo ra những cơ hội
và thách thức về lao động, việc làm cho người lao động. Nhận thức đúng đắn
về việc làm là vấn đề quan trọng tạo cơ sở lý luận để đưa ra những giải pháp
tích cực giải quyết việc làm, phát huy nguồn lực lao động cua xã hội.
10
Quan niệm về việc làm không cố định mà nó được xem xét trên nền
tảng cua một chế độ chính trị, gắn với trình đợ phát triển kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội cua mỗi quốc gia, mỗi thời đại. Khi trình đợ phát triển mọi
mặt, đặc biệt là định hướng chính trị cua một quốc gia thay đổi, quan niệm về
việc làm cũng biến đổi. Trong lịch sử cho thấy việc thay đổi những quan điểm
về tương lai trực tiếp ảnh hưởng tới số lượng việc làm chứ không chỉ định
hướng việc làm.
Có quan niệm cho rằng, tất cả hoạt động, hành vi mang lại thu nhập để
đảm bảo cuộc sống cho mọi người đều được gọi đó là việc làm. Quan điểm
này đã không tính đến tính pháp lý cua việc làm, đã đồng nhất việc làm hợp
pháp và bất hợp pháp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay không
thể chấp nhận được quan điểm này, bởi khi các quan hệ thị trường ngày càng
phát sinh cả những mặt tích cực và tiêu cực, nhiều nguồn thu nhập không
chính đáng đang làm gia tăng các tệ nạn xã hợi, kìm hãm sự tăng trưởng, phát
triển cua nền kinh tế đất nước.
Quan điểm thứ ba lại cho rằng: “Việc làm có thể được định nghĩa như
mợt tình trạng trong đó có sự trả cơng bằng tiền bạc hoặc hiện vật, do đó có
sự tham gia tích cực có tính cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất”.
So với quan niệm trên quan niệm này phát triển hơn, khái quát hơn hai
quan niệm trên. Tuy nhiên nếu chỉ có những hoạt động được trả công bằng
tiền hoặc hiện vật mới được coi là việc làm thì chưa thỏa đáng. Những người
nằm trong lực lượng lao động nhưng làm công việc nội trợ, bản thân họ
không nhận được tiền công, tiền lương bằng tiền hay hiện vật từ xã hội, từ
người sử dụng lao động mà chỉ nhận được sự phân phối lại trực tiếp thu nhập
từ các thành viên trong gia đình. Họ khơng trực tiếp mà gián tiếp tạo ra thu
nhập trực tiếp, họ nhận được thu nhập gián tiếp thông qua điều tiết thu nhập
từ các thành viên trong gia đình có việc làm hưởng tiền lương trong xã hội.
Vậy, họ là những người có việc làm, đảm nhận một chức năng trong guồng
máy chỉ đạo xã hội - nghề nội trợ.
11
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) đã đưa ra quan niệm: “Người có việc làm là những người làm một việc
gì đó, có được trả tiền cơng, lợi nhuận hoặc những người tham gia vào các
hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình,
khơng nhận được tiền cơng hay hiện vật”.
Trước đây, trong cơ chế cũ việc làm cua người lao động thường do Nhà
nước giải quyết với chế độ “biên chế” suốt đời. Người lao động có việc làm
được xã hội tôn trọng và thừa nhận là những người làm việc trong các cơ
quan hành chính sự nghiệp cua nhà nước, các đơn vị kinh tế quốc doanh, với
quan niệm Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động. Chính vì vậy, xã hợi
khơng thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm hay việc làm không
đẩy đu. Quan điểm đó tạo ra tâm lý ỷ lại vào Nhà nước ở người lao động khi
họ cần việc làm.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chu nghĩa, quan
niệm về việc làm đã thay đổi. Luật Lao động cua nước Cộng hòa xã hội chu
nghĩa Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2002, Điều 13 chương 2 (Việc làm) cua
Luật quy định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Quan niệm trên về việc làm hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế, xã
hội ở Việt Nam hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chu
nghĩa, người lao động có thể làm bất cứ việc gì, ở bất cứ đâu, miễn là không
vi phạm pháp luật để mang lại thu nhập và thu nhập cao hơn cho bản thân.
Quan niệm trên đã mở ra một hướng mới cho vấn đề giải quyết việc làm, mở
ra một thị trường việc làm phong phú và đa dạng, thu hút nhiều lao động, thực
hiện mục tiêu giải phóng triệt để sức lao động và tiềm năng toàn xã hội.
Việc làm cho lao động nông thôn, ngoài tuân thu theo những cái chung,
những quan niệm phở biến về việc làm thì còn có những cái riêng - cái bị quy
định bởi cái đặc thù cua nông thôn, đặc biệt là nông thôn ở nước ta hiện nay -
12
cái nông thôn có truyền thống gắn liền với nền nông nghiệp nhỏ, lối canh tác
thu công, thô sơ… đang trong quá trình chuyển đởi từ sản x́t mang nặng
tính tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa với quy mô ngày càng lớn; từ kiểu
kinh tế phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, mang nặng tính hiện vật sang nền kinh
tế hàng hóa và phải nhanh chóng theo mô hình kinh tế thị trường định hướng
xã hợi chu nghĩa; từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, với việc sử dụng ngày càng
phổ biến các công cụ lao động, công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại; từ
một nông nghiệp cua nền kinh tế chuyển sang nền nông nghiệp hàng hóa,
tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả.
1.1.2. Đặc trưng của việc làm
Về mặt pháp lý, việc làm phải hợp pháp, phải chịu sự điều chỉnh cua
pháp luật về độ tuổi, về những ngành nghề được làm và không được làm.
Về mặt kinh tế, nó phải đáp ứng lợi ích kinh tế cua người lao động như
thu nhập, bình đẳng, tăng trưởng và phát triển q́c tế.
Về chính trị, việc làm thể hiện rõ những quan điểm, đường lối lãnh đạo
cua giai cấp cầm quyền.
Về mặt xã hội, việc làm phải phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo
đức, phong tục tập quán, công bằng xã hội.
Về mặt cá thể, việc làm thể hiện những tri thức, năng lực, phẩm chất
cua người lao động khi tham gia việc làm ở những ngành nghề cụ thể…
Như vậy, việc làm là một phạm trù kinh tế - xã hội, việc làm chịu sự chi
phối cua nhiều mối quan hệ. Quan niệm đúng về việc làm là cơ sở khoa học
cho giải quyết việc làm.
1.1.3. Giải quyết việc làm
Nghiên cứu việc làm có quan hệ chặt chẽ với vấn đề giải quyết việc
làm. Giải quyết việc làm có nhiều quan niệm khác nhau, có người cho rằng:
việc làm được tự do lựa chọn là sự đáp ứng tối ưu nhất nhu cầu về việc làm
cho người lao động, nó không những đưa lại thu nhập cao cho người lao động
13
mà còn đưa lại năng suất lao động cao cho xã hội. Việc làm được tự do lựa
chọn là sự kết hợp tối ưu sức lao động với các yếu tố khác nhau cua sản xuất.
Người lao động có thể lựa chọn công việc phù hợp với nhu cầu vật chất, cũng
như năng lực sở trường để vừa đảm bảo thu nhập vừa có điều kiện phát triển
phong phú đời sống tinh thần.
Mục tiêu cua giải quyết việc làm là phải tạo ra việc làm đầy đu cho
người lao động và phải cao hơn, đó là tạo ra tự do trong lựa chọn việc làm để
triệt để giải quyết việc làm là trách nhiệm cua toàn xã hội và người lao động
nhằm cân bằng thị trường lao động, giúp người lao động có việc làm, có thu
nhập ổn định đáp ứng nhu cầu sinh tồn và phát triển cua người lao đợng, gia
đình và xã hợi. Quan niệm này cũng có sự đồng nhất với quan niệm trên về
vai trò, mục tiêu giải quyết việc làm, nhưng nó chỉ ra rõ hơn chu thể giải
quyết việc làm và mục tiêu cụ thể cua giải quyết việc làm không chỉ là lợi ích
cua người lao động mà là cả lợi ích xã hội.
Như vậy, giải quyết việc làm thực chất là quá trình tác đợng có chu đích
cua chu thể xã hội và người lao động nhằm giúp người lao động có việc làm,
việc làm đầy đu có thu nhập và phải hướng tới không ngừng nâng cao chất
lượng việc làm, thu nhập cao, ổn định để người lao động có cuộc sống vật
chất và tinh thần ngày càng cao.
Giải quyết việc làm không chỉ là vấn đề kinh tế mà là vấn đề xã hợi
vì có liên quan đến cơng bằng xã hội và tiến bộ xã hội; nó không chỉ là sự
quan tâm cua người lao đợng, gia đình, mỗi quốc gia mà là vấn đề có tính
chất toàn cầu.
Giải quyết việc làm là một trong những mục tiêu và thước đo quan
trọng nhất để đánh giá tính ưu việt cua mợt chế đợ xã hợi, trình đợ văn minh
cua nhân loại.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn coi con người là trung tâm, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực cua sự phát triển bền vững. Chính vì vậy, vấn đề
14
việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn luôn luôn là một
trong những định hướng cơ bản phát triển kinh tế - xã hội.
Mục tiêu cua chính sách lao động và giải quyết việc làm cua Đảng và
Nhà nước ta hướng vào giải phóng sức sản xuất, giải phóng và phát huy mọi
tiềm năng sức lao động, khơi dậy tiềm năng cua mọi người và toàn xã hội, coi
trọng giá trị sức lao động, mở rộng cơ hội cho mọi người đều phát triển.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh việc ưu tiên
dành vốn đầu tư cua Nhà nước và huy động vốn cua toàn xã hội để giải quyết
việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khuyến khích người lao động tự tạo việc
làm, phát triển nhanh các loại hình doanh nghiệp để thu hút nhiều lao đợng.
Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân, nhất là những nơi đất
nông nghiệp bị chuyển đổi đô thị hóa và công nghiệp hóa. Phát triển các dịch
vụ phục vụ đời sống cua người lao động ở các khu cơng nghiệp. Tiếp tục thực
hiện chương trình x́t khẩu lao động đã qua đào tạo, quản lý chặt chẽ và bảo
vệ quyền lợi chính đáng cua người lao động [8, tr.213].
Quan niệm về giải quyết việc làm
Nghiên cứu việc làm có quan hệ chặt chẽ với vấn đề giải quyết việc
làm. Giải quyết việc làm có nhiều quan niệm khác nhau, có người cho rằng:
việc làm được tự do lựa chọn là sự đáp ứng tối ưu nhất nhu cầu về việc làm
cho người lao động, nó không những đưa lại thu nhập cao cho người lao động
mà còn đưa lại năng suất lao động cao cho xã hội. Việc làm được tự do lựa
chọn là sự kết hợp tối ưu sức lao động với các yếu tố khác nhau cua sản xuất.
Người lao động có thể lựa chọn công việc phù hợp với nhu cầu vật chất, cũng
như năng lực sở trường để vừa đảm bảo thu nhập vừa có điều kiện phát triển
phong phú đời sống tinh thần.
Quan niệm này cho rằng: Mục tiêu cua giải quyết việc làm là phải tạo
ra việc làm đầy đu cho người lao động và phải cao hơn, đó là tạo ra tự do
trong lựa chọn việc làm để triệt để giải quyết việc làm là trách nhiệm cua toàn
15
xã hội và người lao động nhằm cân bằng thị trường lao động, giúp người lao
động có việc làm, có thu nhập ổn định đáp ứng nhu cầu sinh tồn và phát triển
cua người lao đợng, gia đình và xã hội. Quan niệm này cũng có sự đồng nhất
với quan niệm trên về vai trò, mục tiêu giải quyết việc làm, nhưng nó chỉ ra rõ
hơn chu thể giải quyết việc làm và mục tiêu cụ thể cua giải quyết việc làm
không chỉ là lợi ích cua người lao động mà là cả lợi ích xã hội.
Như vậy, giải quyết việc làm thực chất là quá trình tác đợng có chu đích
cua chu thể xã hội và người lao động nhằm giúp người lao động có việc làm,
việc làm đầy đu có thu nhập và phải hướng tới không ngừng nâng cao chất
lượng việc làm, thu nhập cao, ổn định để người lao động có cuộc sống vật
chất và tinh thần ngày càng cao.
Giải quyết việc làm không chỉ là vấn đề kinh tế mà là vấn đề xã hội vì có
liên quan đến cơng bằng xã hợi và tiến bộ xã hội; nó không chỉ là sự quan tâm
cua người lao đợng, gia đình, mỗi q́c gia mà là vấn đề có tính chất toàn cầu.
Giải quyết việc làm là một trong những mục tiêu và thước đo quan
trọng nhất để đánh giá tính ưu việt cua một chế đợ xã hợi, trình đợ văn minh
cua nhân loại.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn coi con người là trung tâm, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực cua sự phát triển bền vững. Chính vì vậy, vấn đề
giải quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn luôn
luôn là một trong những định hướng cơ bản phát triển kinh tế - xã hội.
Mục tiêu cua chính sách lao động và giải quyết việc làm cua Đảng và
Nhà nước ta hướng vào giải phóng sức sản xuất, giải phóng và phát huy mọi
tiềm năng sức lao động, khơi dậy tiềm năng cua mọi người và toàn xã hội, coi
trọng giá trị sức lao động, mở rộng cơ hội cho mọi người đều phát triển.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh:
Ưu tiên dành vốn đầu tư cua Nhà nước và huy động vốn cua toàn xã
hội để giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khuyến khích
16
người lao động tự tạo việc làm, phát triển nhanh các loại hình doanh
nghiệp để thu hút nhiều lao đợng. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc
làm cho nông dân, nhất là những nơi đất nông nghiệp bị chuyển đổi
đô thị hóa và công nghiệp hóa. Phát triển các dịch vụ phục vụ đời
sống cua người lao động ở các khu cơng nghiệp. Tiếp tục thực hiện
chương trình x́t khẩu lao động đã qua đào tạo, quản lý chặt chẽ và
bảo vệ quyền lợi chính đáng cua người lao động [8, tr.213].
1.2. VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
- Hiện nay số lao động thiếu việc làm và lao động nơng nhàn còn rất
nhiều. Vì vậy phải đưa mợt bợ phận lao động đi làm việc tại khu công nghiệp
trong, ngoài tỉnh. Để thực hiện đạt kết quả cao, trước hết phải làm tốt công tác
thông tin tuyên truyền nhất là những thông tin liên quan với điều kiện làm
việc quyền, nghĩa vụ cua người lao động như: Lương, các khoản phúc lợi
được hưởng để người lao động nắm bắt và chọn nghề, nơi làm việc cho phù
hợp. Tăng cường tìm thị trường lao đợng, cung ứng lao đợng trực tiếp cho các
công ty, xí nghiệp có nhu cầu.
- Tổ chức tốt kế hoạch xuất khẩu lao động. Đây là nhiệm vụ có nhiều
khó khăn nhưng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội rất cao. Để đạt chỉ tiêu 100
lao động xuất khẩu phải nắm chắc các đơn vị có chức năng xuất khẩu lao
động, hiểu rõ về điều kiện làm việc, thu nhập và các yếu tố có liên quan khác
bảo đảm tính an toàn, ổn định cho người lao động. Trên cơ sở đó tổ chức
tuyên truyền vân động.
- Trung tâm dạy nghề huyện phối hợp chặt chẽ với Đoàn thanh niên, Hội
phụ nữ, Trung tâm học tập cộng đồng… Từ huyện đến xã đẩy mạnh tuyên
truyền vận động lực lượng thanh niên và phụ nữ trong độ tuổi. Thường xuyên
liên hệ với các đơn vị chức năng xuất khẩu lao động để cập nhật thông tin về
thị trường khu vực châu Á (đặc biệt chú ý thị trường: Nhật Bản, Hàn Quốc…)
và một số nước châu Âu... làm cơ sở tư vấn cho người lao động.
17
- Được sự quan tâm chỉ đạo Huyện uy, sự hỗ trợ ngành chức năng tỉnh,
sự phối kết giữa ban, ngành huyện, nên đề án dạy nghề cho lao động nông
thôn được triển khai sớm từ huyện đến xã, thị trấn và ra toàn thể nhân dân
trong huyện.
- Đa dạng hóa các loại hình đào tạo như: Đan, may cơng nghiệp, sinh
vật cảnh, kỹ thuật nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi gia cầm, sửa
xe, tin học văn phòng, nữ công gia chánh… đã huy động nhiều tầng lớp nhân
dân và người lao động tham gia.
- Tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế địa phương giải quyết việc làm tại
chỗ bình qn hàng năm 2.000 lao đợng.
+ Trong lĩnh vực nông nghiệp: đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn
diện và bền vững, chuyển dịch cơ cấu cây trồng - vật nuôi, nâng tỷ lệ thời
gian sử dụng lao động ở nông thôn, phấn đấu đến năm 2010 giảm tỉ lệ lao
động trong nông nghiệp còn 55%, đảm bảo việc làm cho 68.460 lao động.
+ Trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: khuyến khích các
doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh đổi mới công nghệ máy móc thiết bị để
nâng cao năng lực sản xuất, thu hút thêm lao động. Đồng thời khuyến khích
các thành phần kinh tế phát triển các ngành nghề đầu tư ít vốn, sử dụng nhiều
lao động, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; duy trì và phát huy các ngành
nghề, làng nghề trùn thớng ngay tại gia đình, sớm hình thành các cụm tuyến công nghiệp theo quy hoạch để kêu gọi đầu tư xây dựng các nhà máy, xí
nghiệp trên địa bàn huyện nhằm góp phần giải quyết lao động nông nhàn ở
địa phương, chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo việc làm tăng thu nhập cho
người dân, đồng thời giảm bớt lao động từ nông thôn ra thành thị.
+ Trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ: tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các
thành phần kinh tế phát triển, mở rộng kinh doanh, đẩy mạnh đầu tư phát triển
mạng lưới chợ xã, tiến hành qui hoạch phát triển mơ hình vườn cây ăn trái kết
hợp dịch vụ du lịch sinh thái ở 2 xã cù lao và ven sông Cổ Chiên. Liên kết với
18
tỉnh xây dựng cụm du lịch ở Cồn Thanh Long, xã Qưới Thiện, tạo thêm việc làm
cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo tại địa phương.
- Về giải quyết việc làm ngoài huyện: tăng cường điều tra nắm thơng tin
về nhu cầu học nghề, tìm kiếm việc làm cua lao động nông thôn, tư vấn giúp
họ lựa chọn nghề và việc làm phù hợp, nắm chắc nhu cầu tuyển dụng cua các
khu - cụm công nghiệp để làm cầu nối cung cấp thông tin về thị trường lao
đợng, giúp cho người lao đợng tìm kiếm được việc làm. Phấn đấu mỗi năm có
1.900 lao đợng tìm được việc làm ở các cơ quan, đơn vị trong và ngoài tỉnh.
- Xuất khẩu lao động: đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, tăng
cường quan hệ trực tiếp với các doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao
động tạo ra một thị trường thông thoáng có nhiều đối tác cạnh tranh lành
mạnh để doanh nghiệp, người lao động có điều kiện lựa chọn, phấn đấu bình
quân mỗi năm đưa 100 người đi hợp tác lao động ở nước ngoài.
- Công tác dạy nghề và giới thiệu việc làm phát triển mạnh mẽ góp
phần rất lớn cho công tác giảm nghèo huyện nhà.
- Phối hợp được nhiều doanh nghiệp vừa cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ
sản phẩm và tuyển dụng lao động.
- Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” đã được
quan tâm tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đến quần chúng nhân dân và người
lao đợng bằng nhiều hình thức phong phú đa dạng, đã góp phần giúp nhân dân
và người lao động nâng cao hơn về nhận thức, nắm bắt chu trương, chính sách
cua Đảng và Nhà nước về dạy nghề và giải quyết việc làm, từ đó ngày càng
thu hút được nhiều đối tượng lao động nông thôn tham gia học nghề theo
chính sách cua Đề án.
- Đã thu hút các cơ sở dạy nghề và các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng
lao động; tăng cường thực hiện dạy nghề theo đặt hàng, dạy nghề gắn liền với
giải quyết việc làm, tạo thêm việc làm cho người lao động.
- Việc xuất khẩu lao động đã góp phần rất lớn cho các hộ gia đình có
con em tham gia vươn lên khá giàu.
19
- Đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề đảm bảo chất lượng và hiệu
quả cho việc dạy nghề tại địa phương.
- Đối với địa phương đào tạo nghề đúng theo yêu cầu và nguyện vọng
cua nhân dân, sau đào tạo đảm bảo giải quyết việc làm.
1.2.1. Đặc điểm của nông thôn
Huyện Vũng Liêm người dân đa số sinh sống dựa vào nông nghiệp, chu
yếu là trồng lúa, chăn nuôi, trồng cây ăn quả, cây có múi, nuôi trồng thuỷ sản.
Nông thôn là nơi sinh sống và làm việc cua đa số dân cư, truyền thống cua
dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nông thôn Việt nam đã tạo
nên những truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa đã tạo nên những phẩm chất
tốt đẹp cua con người, nối tiếp nhau theo từng thế hệ đó là tinh thần đoàn kết,
tương thân, tương ái, lòng yêu nước, cần cù lao động,lao động sáng tạo tạo ra
nhiều cua cải vật chất, trung thành với Đảng, chấp hành các chu trương, chính
sách, pháp luật cua nhà nước.
Thực tế trong nông thôn có rất nhiều loại việc làm, gắn nhiều lĩnh vực
cua đời sống kinh tế -xã hội ở nông thôn, việc làm cua người lao động ở nông
thôn lại gắn với đặc thù cua lực lượng lao động tại địa phương, gắn với điều
kiện tự nhiên họ sinh sống.
Có thể nói, việc làm cua người lao động nông thôn là: những hoạt
động tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế -xã
hội, cua một bộ phận lao động ở nông thôn tạo nguồn thu nhập chính đáng mà
pháp luật không cấm.
Lực lượng lao động nông thôn chiếm phần đông cua lực lượng lao
động cua cả nước, lực lượng lao động ở nông thôn là một bộ phận dân số có
tuổi từ 15 tuổi trở lên có việc làm hay khơng có việc làm và đang tìm kiếm
việc làm.
Việc làm cua lao động nông thôn gắn liền với môi trường, điều kiện
sinh sống và làm việc cua người lao động ở nông thôn. Điều kiện môi trường
20
đã ảnh hưởng đến việc làm hoặc quyết định đến việc làm cua họ, người lao
động nông thôn thường làm việc trong những ngành nặng nhọc bao gồm
những ngành nông, lâm, thuy sản gắn liền với việc khai thác tài nguyên tự
nhiên nơi họ sinh sống. Như người sống ở vùng duyên hải thường làm nghề
khai thác, chế biến, nuôi trồng các loại thuy sản, làm nghề diêm nghiệp; người
sống ở vùng đồng bằng thường làm nghề trồng trọt, chăn nuội gia súc, gia
cầm, cá, nghề thu công, dịch vụ; người sống ở vùng miền núi làm nghề lâm
nghiệp... tất cả việc làm cua họ phần nhiều phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên
và dùng sức lao động cua chính bản thân mình.
Thực tế ở nơng thơn việc làm rất phong phú và đa dạng nhiều ngành
nghề khác nhau. Thông thường có thể phân ra các loại việc làm thuần nông và
viễc làm phi nông nghiệp.
Việc làm thuần nông là những hoạt động lao động trong lĩnh vực trồng
trọt và chăn ni. Trong quá trình phát triển, hiện nay ngành trồng trọt và
chăn nuôi vẫn là công việc chính cua nghề nông nước ta. Thế mạnh cua lĩnh
vực này là người lao động được kế thừa những kinh nghiệm sản xuất cua ông
cha. Người lao động nông thôn có quan niệm rằng không cần phải qua trường
lớp đào tạo, cách suy nghĩ đó nó không còn phù hợp so với thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chính trong quá trình lao động kiến thức nghề nông được tích lũy dần
vào kinh nghiệm cua gia đình mà loại cơng việc này còn nhiều hạn chế như:
+ Sản xuất theo mùa vụ, năm này theo năm khác, lặp đi lặp lại nên
người lao động chỉ làm việc theo kinh nghiệm, ít chịu cải tiến, áp dụng nhiều
vào khoa học kỹ thuật, dẫn đến năng suất và hiệu quả thấp, nên phần nào làm
ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
+ Việc làm trong lao động nông thôn theo mùa vụ nên lao động ở nông
thôn thiếu việc làm trong những lúc nông nhàn. Mặt khác do quá trình đơ thị
hóa, mợt phần đất nơng nghiệp bị chuyển mục đích sử dụng từ đó làm cho
21
người nông dân bị thiếu hoặc mất tư liệu sản x́t; với trình đợ học vấn và
trình đợ tay nghề thấp nên người lao động nông thôn sẽ gặp khó khăn trong
việc tìm kiếm việc làm. Như vậy, trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, người lao đợng làm việc trong lĩnh vực thuần nông có nguy cơ thiếu việc
làm và bị thất nghiệp cao.
Việc làm phi nông nghiệp là lĩnh vực rộng lớn, bao gồm tất cả các
ngành nghề ngoài nông nghiệp ở nông thôn. Cùng với sự hình thành và phát
triển cua cơ chế thị trường, hợi nhập kinh tế quốc tế, hiện nay các loại ngành
nghề ở nông thôn phát triển khá phong phú, đa dạng, đây là cơ hội tạo việc
làm, ngoài lao động nông nghiệp ra, bên cạnh sự phát triển các làng nghề
truyền thống như: sản xuất đồ gỗ, gốm sứ, cây lác, đang đát lục bình, đờ thu
cơng mỹ nghệ... nhiều ngành nghề chế biến nông, thuy sản xuất khẩu... Trong
điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa, dịch vụ ở nông thơn gắn với xây dựng
nơng thơn mới, nhiều loại hình dịch vụ đời sống ở nông thôn đã phát triển khá
mạnh như: phát triển giao thông, dịch vụ cung cấp nước sạch, giúp việc gia
đình, bn bán nhỏ... Tất cả những biến đởi đó đã tạo ra nhiều loại hình công
việc đa dạng thị trường việc lãm cho lao động ở nông thôn.
Tóm lại, địa phương tuy còn khó khăn trong việc phát triển ngành nghề
ở nông thôn, nhưng thực tế so với ngành th̀n nơng thì việc làm phi nông
nghiệp hiện nay đang chiếm ưu thế và có xu thế phát triển. Vì so với lĩnh vực
th̀n nơng, lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn ít gặp những giới hạn cua
tự nhiên, mà nó còn được thúc đẩy mạnh mẽ bởi sự phát triển cua kinh tế
hàng hóa, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành nông
nghiệp, ngành thương mại dịch vụ, sự tác động cua chính sách cua Đảng và
Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nếu việc làm th̀n
nơng ngày càng bị thu hẹp thì việc làm phi nông nghiệp đang có xu thế phát
triển mở rộng ngày càng tăng chính do sự phát triển cua một nền nông nghiệp
sản xuất hàng hóa đưa lại, điều đó tạo ra thị trường rộng lớn cho sản xuất,
22
hình thành cơ cấu kinh tế cơng, nơng nghiệp, dịch vụ và cơ cấu lao động tiến
bộ ở nông thôn, làm tăng nguồn thu nhập cho người lao động.
Nghị quyết Đại hội X cua Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh phát triển
nông nghiệp, nông dân và nông thôn, đáp ứng yêu cầu cua công cuộc đổi mới
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” [8, tr.27]. Do đó để
thực hiện thành cơng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tạo ra sự thay đổi về nhu cầu cơ cấu ngành nghề
ở nông thôn, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng
ngành nông - lâm nghiệp, tăng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
trong GDP. Tỷ trọng ngành nông - lâm nghiệp còn cao, điều đó phản ánh trình
đợ phát triển thấp cua nền kinh tế với đa số lao động tham gia trong các hoạt
động sản xuất nông lâm nghiệp, ngành kinh tế phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.
Công nghiệp và xây dựng tăng nhanh sẽ tạo đà cho việc sử dụng lao động địa
phương.
Từ phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “Ly nông, bất ly
hương” để giải quyết việc làm, đào tạo nghề, khơi dậy tiềm năng phát huy thế
mạnh cua các địa phương, sẽ chuyển đổi được một số lượng lớn đồng bào dân
tộc thiểu số đang thiếu việc làm sang sản xuất công nghiệp hàng hóa, nhiều
lao động là đồng bào dân tộc thiểu số sẽ được đào tạo để chuyển đổi nghề,
góp phần phát triển công nghiệp, tiểu thu công nghiệp, và dịch vụ. Từ đó
giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong công
nghiệp và dịch vụ tại địa phương.
Cụ thể giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số sẽ tạo tiền đề
vật chất để góp phần thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa biểu hiện trên các phương diện sau:
- Xây dựng cơ sở, vật chất - kỹ thuật phục vụ nông nghiệp: hệ thống
điện, thuỷ lợi, giao thông nông thôn, hệ thống dịch vụ nông nghiệp, hệ thống
đê kè…
23
- Cơ giới hoá, thay lao động thu công bằng lao động sử dụng máy móc
trong các khâu làm đất, vận chuyển, xay xát, tuốt đập...
- Xây dựng những công trình phúc lợi cơng cợng như, trường học, trạm
xá; thực hiện chương trình nước sạch, vệ sinh mơi trường; xây dựng nhà văn
hoá, sân thể thao...
- Phát triển công nghiệp, dịch vụ nông thôn.
- Cải tạo và khai thác, tận dụng đất đai gắn với chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, phát triển các vùng chuyên canh.
- Phát triển các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn.
- Áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông
nghiệp, nông thôn.
- Thực hiện dân chu hoá ở nông thôn.
Như vậy việc làm cho lao động nông thôn sẽ là một giải pháp quan
trọng nhằm chuyển đổi lao động từ đa số là lao động nông nghiệp sang lao
động công nghiệp và dịch vụ góp phần thực hiện công nghiệp hóa, đô thị hóa
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
1.2.2. Đặc điểm lao động và việc làm nông thôn
1.2.2.1. Nguồn lao động
Nguồn lao động là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động. Cần phân biệt nguồn lao động với dân số trong độ tuổi lao
động. Cả hai thuật ngữ trên đều giới hạn độ tuổi lao động theo luật định cua
mỗi nước, nhưng nguồn lao động không chỉ bao gồm những người có khả
năng lao động trong độ tuổi lao động, mà còn bao gồm bộ phận dân số trong
độ tuổi lao động, nhưng không có khả năng lao động như tàn tật, mất sức lao
động bẩm sinh, hoặc do các nguyên nhân khác: chiến tranh, tai nạn giao
thông, tai nạn lao đợng... Vì thế, căn cứ để xác định độ tuổi lao động là: sức
khoẻ cua người dân; giới tính; trình đợ phát triển kinh tế - xã hợi.
24
Việc quy định độ tuổi lao động tuỳ mỗi nước có quy định khác nhau,
thậm chí khác nhau ở các giai đoạn cua mỗi nước. Điều đó tuỳ thuộc vào trình
đợ phát triển kinh tế. Ở nước ta, theo quy định cua Bộ Luật lao động (2002)
độ tuổi lao động đối với nam từ 15-60 tuổi và nữ là từ 15-55 tuổi. Nguồn lao
động luôn được xem xét trên hai mặt, biểu hiện đó là số lượng và chất lượng.
Số lượng lao động: Là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động gồm: Dân số đu 15 tuổi trở lên có việc làm và dân số trong
độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học,
đang làm công việc nợi trợ trong gia đình, khơng có nhu cầu việc làm và
những người tḥc tình trạng khác (bao gờm cả những người nghỉ hưu trước
tuổi quy định).
1.2.2.2. Lực lượng lao động
Là bộ phận cua nguồn lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao
động, đang có việc làm và những người chưa có việc làm, nhưng có nhu cầu
việc làm. Theo ý nghĩa đó lực lượng lao động cũng như nguồn lao động gắn
với độ tuổi lao động mà Bộ lao động, thương binh và xã hội định nghĩa “Lực
lượng lao động (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) bao gồm toàn bộ
những người từ 15 t̉i trở lên đang có việc làm hoặc đang tìm kiếm việc làm.
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động (còn gọi là dân số hoạt động kinh
tế trong độ tuổi lao động) bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nam
từ 15 tuổi đến hết 60 tuổi; nữ từ 15 tuổi đến hết 55 tuổi) đang có việc làm
hoặc không có việc làm (thất nghiệp) nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng
làm việc. Với đặc điểm chất phát cần cù lao động, lao động có sáng tạo,có
kinh nghiệm, tuyệt đối tin tưởng vào đường lối đổi mới cua Đảng và nhà
nước, lao động sản xuất tạo ra nhiều cua cải, vật chất cho xã hội và xuất khẩu,
vừa làm giàu cho bản thân và tạo nguồn ngân sách cho nhà nước.
Lao động nông nghiệp là lao động làm việc trong lĩnh vực sản xuất
kinh doanh nông nghiệp. Lao động nông nghiệp đại đa số ở khu vực nông
25
thôn. Hoạt động sản xuất kinh doanh cua lao động nông nghiệp gắn liền với
đối tượng cây trồng, vật nuôi có những đặc điểm rất riêng, không giống với
lao động ở các lĩnh vực kinh tế khác. Có thể chỉ ra một số đặc điểm cua lao
động nông nghiệp như sau (chu yếu là lao động ở nước ta hiện nay).
1.2.2.3. Cung lao động nông thôn
Đây là đặc điểm cơ bản tạo nên sự không ăn khớp giữa cung lao động
nông nghiệp, nông thôn với cầu lao động trong nông nghiệp, nông thôn và cầu
lao động cả nước. Đặc điểm trên xuất phát từ những lý do sau đây:
- Cung lao động nông nghiệp, nông thôn về cơ bản là do cung dân số
quyết định. Sinh đẻ cung cấp lao động tương lai cho thị trường sức lao động
không thuần túy là hành vi “sản xuất” hàng hóa theo nhu cầu cua thị trường
như những hàng hóa khác. Các nghiên cứu hiện nay về gia đình cho thấy gia
đình nơng dân, nông thôn có 3 chức năng cơ bản:
Thứ nhất, chức năng sinh đẻ để duy trì nòi giớng
Thứ hai, chức năng làm kinh tế để tồn tại, phát triển
Thứ ba, chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, đào tào những người chưa
đến tuổi lao động và quá tuổi lao động.
Như vậy, ngay từ đầu, nguồn cung lao động nông nghiệp, nông thôn đã
có sự không được tính toán từ cầu lao động, từ sự cân đối giữa lao động với
các điều kiện để tạo việc làm trong tương lai như vốn, tư liệu sản xuất, tốc độ
tăng trưởng và cơ cấu việc làm cua xã hội.
- Lao động nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận cua dân số gắn liền với
đặc điểm cua từng gia đình, dân tợc, tơn giáo... Là sản phẩm cua dân cư nông
thôn nên lao động nông nghiệp, nông thôn có độ thuần nhất, đồng đều thấp hơn
ở thành thị. Thậm chí khác nhau giữa các dân tộc trong phạm vi một xã, một
huyện. Dấu ấn mà mỗi lao động trưởng thành từ các vùng nông thôn mang nặng
tính riêng biệt cua vùng sản xuất cư và hàm chứa nhiều mặt tích cực nhưng cũng
có vô vàn hạn chế cua từng làng, xã, dòng họ, dân tợc, tơn giáo, gia đình.