1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, hơn 25 năm qua, bộ mặt kinh tế đất
nước có nhiều khởi sắc, không ngừng tăng trưởng ổn định, các thành phần
kinh tế có những bước phát triển vượt bậc. Trong đó, thành phần kinh tế tư
nhân nói chung, các doanh nghiệp tư nhân nói riêng đã, đang khẳng định được
vị trí, vai trị và có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay, trong tổng số 448.393 doanh nghiệp của cả nước, thì doanh
nghiệp tư nhân chiếm 33%, đóng góp trên 47% GDP, thu hút hơn 54% tổng số
lao động [15], [33], và góp phần tích cực vào việc khai thác có hiệu quả các
tiềm năng của đất nước.
Với đặc thù còn non trẻ và gặp khơng ít khó khăn bất lợi, các doanh
nghiệp tư nhân dễ bị tổn thương khi nền kinh tế có những biến động, vì vậy khu
vực doanh nghiệp tư nhân rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước từ chính sách đến
các phương diện về vốn, cơng ngh, xỳc tin thng mi, nguyờn
liu,...Những năm gần đây, ng và Nhà nước đã có những quan tâm,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp tư nhân nói riêng
phát triển, thơng qua việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách. Nghị quyết
đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “phát triển mạnh các hình
thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp” [14, tr35].
Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp năm 1999 (có hiệu lực từ ngày
1/1/2000) đã tạo điều kiện bình đẳng về pháp lý cho hoạt động của các doanh
nghiệp. Chính phủ đã ban hành các Chỉ thị, Nghị quyết, Nghị định về hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp, như: Chỉ thị 40/2005/CT-TTg, ngày 16/12/2005 về
việc tiếp tục đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;
Nghị định số 56/NĐ - CP, ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp
2
nhỏ và vừa, Nghị quyết số 13/NQ - CP, ngày 10/5/2012 về Một số giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường,...Tuy vậy, trước
bối cảnh tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng, suy thối kinh tế thế giới và
trong nước, tình hình lạm phát, thị trường tài chính - tiền tệ khơng ổn định, đã
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp. Theo báo cáo của bộ
Kế hoạch và đầu tư, trong 9 tháng đầu năm 2012, đã có 48.700 doanh nghiệp
ngưng hoạt động và phá sản. Trong các khó khăn mà doanh nghiệp phải đối mặt,
thì khó khăn lớn nhất là thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh, kênh huy động vốn
chủ yếu là các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng thương mại
chưa thực sự tin tưởng khi cho các doanh nghiệp tư nhân vay vốn, khơng ít
cán bộ nhân viên ngân hàng có tâm lý e ngại trong việc thẩm định hỗ trợ tín
dụng cho các doanh nghiệp tư nhân, phần lớn tín dụng tập trung vào các doanh
nghiệp Nhà nước, vì vậy, các doanh nghiệp tư nhân gặp khơng ít khó khăn trong
quan hệ tín dụng với các ngân hàng và phải huy động vốn từ tiết kiệm của chủ
doanh nghiệp, vốn vay cá nhân thơng qua các mối quan hệ thân tín, vốn vay với
lãi suất cao hơn 3 đến 6 lần so với lãi suất ngân hàng. Ngoài ra, tuy lãi suất cho
vay của ngân hàng đã hạ, nhưng các thủ tục vay với các quy định về tài sản thế
chấp và tính khả thi của dự án vẫn phức tạp, làm cho doanh nghiệp tư nhân khó
tiếp cận các nguồn vốn vay của ngân hàng.
Trên địa bàn thành phố Hải Phòng hiện có 21.185 doanh nghiệp, trong đó
có 7012 doanh nghiệp tư nhân. Trong những năm qua, các doanh nghiệp tư
nhân phát triển khá nhanh và có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh
tế - xã hội của thành phố. Một trong những yếu tố có tác động trực tiếp thúc đẩy
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là nguồn vốn vay từ ngân
hàng. Tuy nhiên, việc doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn của hệ thống
Ngân hàng nói chung, chi nhánh Ngân hàng nơng nghiệp và phát triển nơng thơn
nói riêng vẫn cịn nhiều khó khăn bất cập, từ quan điểm cấp tín dụng, đến việc áp
dụng lãi suất cho vay, lựa chọn các hình thức cấp tín dụng, phân loại khách hàng,
3
thực hiện các quy trình, thẩm định hồ sơ và giải ngân nguồn vốn,... Xuất phát từ
thực trạng trên, học viên chọn đề tài “Tín dụng của Ngân hàng nơng nghiệp và
phát triển nông thôn đối với doanh nghiệp tư nhân ở thành phố Hải Phòng”
làm đề tại luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nghiên cứu, tìm ra giải pháp
phát triển doanh nghiệp tư nhân ở nước ta, đặc biệt là các giải pháp tăng cường
hỗ trợ tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp. Đến nay, đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu dưới những góc độ và quy mơ khác nhau như: cơng trình của
Tiến sỹ Hồ Diệu“Tín dụng Ngân hàng”, Nxb Thống kê (2000); cơng trình của
Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đình Hương “Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2002); “Tín dụng Ngân
hàng cho các doanh nghiệp”, của tác giả Nguyễn Lâm, Viện khoa học Ngân
hàng, Nxb Thống kê (1996); Luận văn thạc sỹ kinh tế “Một số biện pháp mở
rộng tín dụng ngân hàng đối với kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn”,
của tác giả Hồng Xn Thuận, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(2003); “Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng đầu tư phát
triển Việt Nam”, của tác giả Mai Thị Vui, Học viện chính trị - hành chính quốc
Hồ Chí Minh (2009),...
Trong các cơng trình trên, vấn đề tín dụng của Ngân hàng nơng nghiệp
và phát triển nông thôn đã được đề cập, tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng
trình nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị về hoạt động tín dụng của Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với doanh nghiệp tư nhân trên
địa bàn thành phố Hải Phòng, vì hoạt động này chỉ được chi nhánh triển khai
mạnh mẽ từ năm 2005 đến nay. Để thực hiện đề tài này, học viên đã kế thừa
và chọn lọc những ý tưởng liên quan đến đề tài, nhằm phục vụ cho việc phân
tích lý luận cũng như tổng kết thực tiễn.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển tín dụng ngân
hàng nói chung, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn nói riêng đối
với doanh nghiệp tư nhân. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường
tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với nhóm
doanh nghiệp này.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn làm rõ sự cần thiết việc phát triển tín dụng ngân hàng đối với
doanh nghiệp tư nhân ở nước ta phù hợp với những đặc thù của loại hình
doanh nghiệp này; nghiên cứu thực trạng tiếp cận tín dụng ngân hàng của
doanh nghiệp tư nhân nước ta từ khi có Luật doanh nghiệp đến nay; tìm hiểu
cụ thể hoạt động tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
đối với doanh nghiệp tư nhân ở địa bàn thành phố; đề ra những giải pháp cơ
bản nhằm phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân tại chi nhánh Ngân
hàng nơng nghiệp và phát triển nơng thơn Hải Phịng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động tín dụng của chi nhánh Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thơn thành phố Hải Phịng đối với doanh
nghiệp tư nhân trên địa bàn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực tế hoạt động tín dụng của chi nhánh Ngân
hàng nơng nghiệp và phát triển nơng thơn Hải Phịng đối với doanh nghiệp tư
nhân có đăng ký kinh doanh từ năm 2007 đến 2012. Trên cơ sở đó, đề xuất
một số giải pháp phát triển tín dụng của chi nhánh đối với doanh nghiệp tư
nhân trên địa bàn, giai đoạn 2013 - 2015 và những năm tiếp theo.
5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các chính sách tài chính, tiền tệ, tín
dụng của Chính phủ và Ngân hàng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp chuyên ngành, như phương pháp
trừu tượng hố khoa học; phương pháp lơ gic - lịch sử; phương pháp phân
tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Về lý luận, luận văn hệ thống hoá những nội dung cơ bản về tín dụng
ngân hàng đối với doanh nghiệp tư nhân; về doanh nghiệp tư nhân và phát triển
tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp tư nhân, gắn với việc triển khai thực
hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đối với khu
vực doanh nghiệp này. Từ đó làm rõ vị trí, vai trị và sự cần thiết phát triển tín
dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp tư nhân.
Về thực tiễn, luận văn khái qt tình hình tiếp cận tín dụng ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn của doanh nghiệp tư nhân ở địa bàn
thành phố Hải Phịng. Qua đó, làm rõ những vấn đề khó khăn, hạn chế trong
quan hệ tín dụng giữa chi nhánh với doanh nghiệp tư nhân; đề ra các giải
pháp cơ bản và kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế, tháo gỡ những
khó khăn trong mối quan hệ tín dụng của chi nhánh đối với khách hàng là
doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn thành phố.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
1.1. KHÁI NIỆM, HÌNH THỨC TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
“Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở
hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một
lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu” [10]. Theo quan điểm này, phạm
trù tín dụng có 3 nội dung chủ yếu là: tính chuyển nhượng tạm thời một lượng
giá trị; tính thời hạn và tính hồn trả. Thực chất, tín dụng là mối quan hệ kinh tế
giữa người cho vay và người đi vay, thông qua sự vận động của giá trị, của
vốn tín dụng và được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hố. Q
trình đó được thể hiện qua 3 giai đoạn:
Thứ nhất, phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. Ở giai đoạn này,
giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay, ở đây chỉ có một bên
nhận được giá trị và một bên nhượng đi giá trị.
Thứ hai, sử dụng vốn trong quá trình tái sản xuất. Người đi vay sau khi
nhận được giá trị vốn tín dụng, họ được quyền sử dụng giá trị đó để thoả mãn
nhu cầu sản xuất, hoặc tiêu dùng của mình. Tuy nhiên, người đi vay chỉ được
quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định mà không được
quyền sở hữu về giá trị đó.
Thứ ba, giai đoạn kết thúc một vịng tuần hồn của tín dụng. Sau khi
vốn tín dụng đã hồn thành một chu kì sản xuất để trở về hình thái tiền tệ, thì
vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay.
Có nhiều hình thức tín dụng: tín dụng thương mại, tín dụng ngân
hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng, tín dụng quốc tế,… Trong đó,
tín dụng ngân hàng là hình thức phổ biến và có vai trị quan trọng trong nền
7
kinh tế. Đồng thời, nó giữ vị trí chủ chốt trong hoạt động của mỗi ngân
hàng. “Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ
ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi
phí nhất định” [21].
Như vậy, tín dụng ngân hàng được hiểu là quan hệ kinh tế giữa một bên
là ngân hàng và một bên là khách hàng, trong đó ngân hàng chuyển tiền hoặc
tài sản cho khách hàng với những thoả thuận hoàn trả gốc và lãi trong một
thời gian nhất định. Tín dụng ngân hàng bao gồm các hoạt động chính là: cho
vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính.
Tín dụng ngân hàng khác với các loại hình tín dụng khác, là ngân hàng
cho khách hàng vay từ nguồn vốn nhận gửi từ dân cư, các doanh nghiệp, các
tổ chức khác,…hưởng lợi từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi.
Tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, nhưng cũng là
hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất, vì vậy, tín dụng ngân hàng phải tuân
thủ chặt chẽ các ngun tắc cơ bản.
1.1.2. Hình thức tín dụng ngân hàng
Căn cứ thời hạn tín dụng, có thể phân chia thành các loại tín dụng:
Một là, cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới 1 năm. Mục
đích của loại cho vay này thường là tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
Hai là, cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn 1 đến 5 năm.
Mục đích của loại cho vay này là tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
Ba là, cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, loại cho
vay này thường nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án lớn.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, có các loại tín dụng:
Thứ nhất, cho vay khơng có bảo đảm: là loại cho vay khơng có tài sản
thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của người khác, mà chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
Thứ hai, cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo
đảm cho tiền vay như thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba.
8
Căn cứ vào phương thức vay tín dụng, có thể chia thành hai loại: cho
vay theo món vay và cho vay theo hạn mức tín dụng.
Căn cứ vào phương thức hồn trả vốn vay, có các loại tín dụng:
Một là, cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ, hay còn gọi là cho vay trả nợ
một lần khi đáo hạn; hai là, cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay cịn gọi là cho
vay trả góp; ba là, cho vay trả nợ nhiều lần, phụ thuộc vào khả năng tài chính
của người đi vay.
Việc lựa chọn hình thức vay phụ thuộc vào điều kiện sản xuất kinh doanh
của khách hàng và mức độ đáp ứng yêu cầu quy định của ngân hàng đặt ra.
1.2. ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp tư nhân
Điều 141, chương VI, Luật doanh nghiệp: “Doanh nghiệp tư nhân là
doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài
sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân
khơng được phát hành bất kỳ loại chứng khốn nào. Mỗi cá nhân chỉ được
quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân” [28, tr.259 - 260].
Với tốc độ phát triển của nền kinh tế trong hơn 10 năm gần đây, thì việc
có nhiều doanh nghiệp được thành lập và hoạt động có hiệu quả là một dấu hiệu
phản ánh sự phát triển đúng hướng về kinh tế. Mặc dù, trong điều kiện tình hình
suy thối kinh tế thế giới đang ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của các
doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, ngừng hoạt động, hoặc
giải thể. Do vậy, muốn nền kinh tế phát triển ổn định, tránh được nguy cơ tụt
hậu, thì Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, tăng cường các
biện pháp nhằm tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp nói chung, các
doanh nghiệp tư nhân nói riêng hoạt động có hiệu quả. Trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Đảng ta xác định:
Phát triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế và các loại hình
doanh nghiệp. Phải tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của
9
kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng
vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh
tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Phát triển kinh tế tập thể với
nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nịng cốt là hợp tác xã. Khuyến
khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở
hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình
kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá
sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để
phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực
của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
phát triển theo quy hoạch [14].
1.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân
1.2.2.1. Những đặc điểm về ưu thế của doanh nghiệp tư nhân
Một là, doanh nghiệp tư nhân tồn tại đa dạng, phát triển rộng khắp ở
hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân hoạt động ở
nhiều ngành như: thương mại, dịch vụ, công nghiệp, xây dựng, nông - lâm ngư nghiệp,…; tồn tại ở nhiều loại hình, như: doanh nghiệp nhỏ và vừa, các
cơ sở kinh tế cá thể,... và có những đóng góp rộng rãi vào sự phát triển kinh
tế đất nước.
Hai là, doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp có tính chủ
động, năng động và linh hoạt cao trước những thay đổi của thị trường; có
khả năng chuyển hướng sản xuất, kinh doanh, vì vốn đầu tư của doanh
nghiệp tư nhân thường ít, quy mơ nhỏ và thu hồi vốn nhanh. Mặt khác, do
tồn tại ở thành phần kinh tế tư nhân, nên khi khơng thích ứng được với nhu
cầu của thị trường, với loại hình sản xuất kinh doanh nào đó, thì doanh
nghiệp có thể chủ động và dễ dàng chuyển hướng sang loại hình khác cho
phù hợp với thị trường.
10
Ba là, doanh nghiệp tư nhân có khả năng chấp nhận rủi ro cao
Xuất phát từ quy mô và vốn đầu tư khơng lớn, nên doanh nghiệp tư
nhân có thể mạnh dạn tham gia vào những ngành mới, lợi nhuận ban đầu
thấp, hoặc những ngành sản xuất ra những sản phẩm chỉ đáp ứng những nhu
cầu cá biệt. Điều này, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tư nhân sẵn sàng
chấp nhận mạo hiểm và rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bốn là, doanh nghiệp tư nhân có bộ máy tổ chức sản xuất, quản lý gọn
nhẹ, công tác quản lý điều hành mang tính trực tiếp, quan hệ giữa người quản
lý với người lao động khá chặt chẽ. Các quyết định quản lý được đưa ra và
thực hiện nhanh chóng, khơng ách tắc và khơng có các thủ tục hành chính phiền
hà, nên tiết kiệm được chi phí quản lý doanh nghiệp.
1.2.2.2. Những đặc điểm hạn chế của doanh nghiệp tư nhân
Một là, do quy mô vốn và năng lực tài chính phần lớn các doanh nghiệp
tư nhân cịn hạn chế, nên các doanh nghiệp tư nhân khó tiếp cận các kênh huy
động vốn. Với đặc trưng này, các doanh nghiệp tư nhân thường không đáp
ứng đủ nhu cầu vốn cho đầu tư. Nguồn tài chính hạn hẹp, quy mô lợi nhuận
nhỏ, dẫn đến tỷ lệ lợi nhuận từ vốn khơng cao; q trình tích tụ, tập trung để
tái sản xuất diễn ra chậm, giá trị tài sản thường thấp (tổng giá trị tài sản của
doanh nghiệp sau khi trừ đi nợ phải trả), uy tín trên thương trường khơng cao,
một số chính sách của Nhà nước chưa thực sự ưu đãi cho doanh nghiệp tư
nhân so với doanh nghiệp khác,… vì vậy, các nhà đầu tư coi đây là khu vực
rủi ro cao. Chính vì vậy, doanh nghiệp tư nhân gặp nhiều trở ngại khi tiếp cận
các kênh huy động vốn trong nền kinh tế.
Hai là, năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất kinh doanh cịn thấp
Xuất phát từ nguồn tài chính hạn hẹp, nên các doanh nghiệp tư nhân
khơng có điều kiện đầu tư quá nhiều vào việc nâng cấp, đổi mới máy móc,
mua sắm thiết bị công nghệ tiên tiến hiện đại, càng không thể tập trung nhiều
11
vào công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật phục vụ hoạt động sản xuất kinh
doanh của đơn vị.
Ba là, thị trường nhỏ hẹp, năng lực cạnh tranh có hạn
Do hạn chế về vốn, công nghệ, lao động, nên hầu hết các doanh nghiệp
tư nhân chỉ hoạt động trong phạm vi nhỏ, đáp ứng yêu cầu cho một loại thị
trường nhất định. Việc sử dụng các công nghệ cũ dẫn đến chất lượng sản phẩm
khơng cao, tính cạnh tranh trên thị trường kém, vì vậy, các doanh nghiệp tư
nhân thường gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường và
phân phối sản phẩm.
Bốn là, kinh nghiệm quản lý của chủ doanh nghiệp tư nhân chưa nhiều
Phần lớn doanh nghiệp tư nhân mới chỉ hoạt động trong thời gian
ngắn, nên kinh nghiệm quản lý của chủ doanh nghiệp chưa nhiều, kỹ năng
của người lao động chưa cao. Thực tế, số lượng doanh nghiệp tư nhân có
chủ doanh nghiệp là giám đốc giỏi, quản lý tốt, trình độ chuyên mơ cao cịn
ít. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân
chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức về
kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị doanh nghiệp. Mặt khác, do không thể
trả lương cao và ít có các chính sách đãi ngộ hấp dẫn, nên doanh nghiệp tư
nhân ít có khả năng thu hút được những người lao động có trình độ lao động
tay nghề cao.
Năm là, sự liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân cịn yếu
Tuy bước đầu đã có một số tổ chức nghề nghiệp ra đời tập hợp các
doanh nghiệp nhưng mới chỉ ở mức độ trao đổi kinh nghiệm, thông tin hoạt
động, cùng đưa ra kiến nghị về chính sách pháp luật,… Phần lớn các doanh
nghiệp tư nhân chưa có sự liên kết chặt chẽ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh theo hướng tổ chức phân công lao động sản xuất sâu, rộng; chưa có sự
hỗ trợ nhau về vốn, công nghệ, kỹ thuật, hoặc cùng nhau giải quyết những
12
vấn đề phát sinh trong các khâu của quá trình sản xuất để nâng cao sức cạnh
tranh cho doanh nghiệp.
1.2.3. Vai trò của doanh nghiệp tư nhân
Xét về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của các nước tư bản có nền
đại cơng nghiệp phát triển gắn liền với những cơng ty, tập đồn kinh tế lớn vốn khởi đầu từ những xí nghiệp tư hữu tư nhân. Trong q trình phát triển,
sự tích tụ và tập trung vốn cùng với quá trình cạnh tranh gay gắt giữa những
xí nghiệp trong nước và ngồi nước đã tạo ra những tập đoàn kinh tế lớn như
ngày nay. Ở các nước tư bản phát triển, doanh nghiệp tư nhân có vị trí quan
trọng. Sau mỗi thời kỳ suy thối kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân luôn trở
thành nhân tố thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh, góp phần ổn định kinh tế,
phòng ngừa nguy cơ khủng hoảng. Đặc biệt, khi cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ ngày càng phát triển, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư
nhân có quy mơ lớn tập trung kỹ thuật, sản xuất các sản phẩm không thua
kém các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Mặt khác, xét trên
phạm vi toàn cầu hiện nay, các doanh nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh giá
cả sang cạnh tranh chất lượng và công nghệ. Trong điều kiện như vậy, lợi thế
của các doanh nghiệp có quy mơn lớn sẽ bị giảm sút. Sự chun mơn hố và
hợp tác hố đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân tham gia quá trình
này một cách chủ động. Ở Việt Nam, vai trị của doanh nghiệp tư nhân đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội thể hiện ở một số điểm cơ bản là:
Thứ nhất, doanh nghiệp tư nhân đóng góp đáng kể vào tổng sản lượng
của nền kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động
Đến hết tháng 6/2012, nước ta có 448.393 doanh nghiệp, trong đó
doanh nghiệp tư nhân chiếm gần 33%, hàng năm đóng góp hơn 47% GDP,
sử dụng 2/3 số lao động, tạo thêm 1/2 việc làm mới. Điều này đã cho thấy
vai trò của doanh nghiệp tư nhân là rất quan trọng đối với nền kinh tế. Với
yêu cầu về đăng ký thành lập ngày càng thơng thống, nên doanh nghiệp tư
13
nhân thành lập dễ dàng, chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số doanh nghiệp toàn
quốc, tuy một doanh nghiệp tư nhân không sử dụng số lượng nhiều lao động,
nhưng với một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, nên mỗi năm khu vực doanh
nghiệp tư nhân đã giải quyết việc làm cho khoảng 2/3 lực lượng lao động xã
hội. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế hiện nay, vai trị của doanh nghiệp tư
nhân xét trên góc độ giải quyết việc làm càng được thể hiện rõ, trong khi
phần lớn các doanh nghiệp đều phải phải cắt giảm lao động nhằm giảm chi
phí sản xuất ứng phó với điều kiện thị trường bị thu hẹp, thì các doanh
nghiệp tư nhân với đặc tính linh hoạt, dễ thích ứng trước những thay đổi của
thị trường, nên có thể duy trì hoạt động của doanh nghiệp khá ổn định. Hiện
nay, mặc dù các doanh nghiệp tư nhân gặp khơng ít khó khăn, nhưng về cơ
bản vẫn là một bộ phận năng động nhất đóng góp tích cực vào phát triển
kinh tế của đất nước. Theo thống kê chưa đầy đủ, đến hết tháng 10/2012 có
trên 51.000 doanh nghiệp được thành lập mới, trong đó đại bộ phận là doanh
nghiệp tư nhân.
Thứ hai, doanh nghiệp tư nhân là hạt nhân kinh tế ở địa bàn tại chỗ
Nếu như doanh nghiệp nhà nước thường đặt cơ sở ở những trung tâm
kinh tế lớn, thì doanh nghiệp tư nhân có mặt ở khắp các địa phương, tận dụng
tối đa cơ hội để khai thác các tiềm năng và thế mạnh vốn có của từng địa bàn
nơi doanh nghiệp đóng trụ sở sản xuất kinh doanh. Sự tồn tại và hoạt động
của doanh nghiệp tư nhân đã góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng có lợi, cân đối giữa các vùng - miền, giải quyết các vấn đề an sinh
xã hội của các địa phương trong cả nước. Đặc biệt là đối với các làng nghề
truyền thống, các doanh nghiệp tư nhân hoạt động, sẽ góp phần mở rộng quy
mơ sản xuất, duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thống, tập hợp
và đào tạo lực lượng lao động tay nghề giỏi, góp phần quan trọng vào việc
thúc đẩy q trình khơi phục và phát triển làng nghề theo chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước.
14
Thứ ba, doanh nghiệp tư nhân có khả năng thu hút, tận dụng các nguồn
lực xã hội một cách có hiệu quả
Đối với nguồn vốn
Vốn là yếu tố đóng vai trò tiên quyết trong hoạt động của các doanh
nghiệp. Để khởi sự và duy trì, phát triển sản xuất kinh doanh, các doanh
nghiệp tư nhân không chỉ vay vốn từ ngân hàng, mà cịn huy động vốn trong
dân cư thơng qua các mối quan hệ cá nhân. Vốn cho một doanh nghiệp tư
nhân rất thường xuyên và số lượng doanh nghiệp tư nhân rất lớn, vì vậy,
thơng qua hoạt động của doanh nghiệp tư nhân, một lượng lớn tiền nhàn rỗi
đã được đưa vào sản xuất kinh doanh, tạo nên vịng chu chuyển vốn sinh lời
có ích cho bản thân doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Đối với nguồn lực lao động
Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong các ngành nghề thu
hút được nhiều lao động như: thương mại, dịch vụ, sản xuất tiêu dùng, chế
biến nông sản, thủ công mỹ nghệ, xây dựng, hàng xuất khẩu,… Với u cầu
về trình độ lao động khơng q khắt khe, vì vậy, các doanh nghiệp tư nhân có
thể tận dụng được nguồn lao động thủ cơng với chi phí thấp. Mặt khác, trong
quá trình sử dụng lao động, doanh nghiệp tư nhân đồng thời thực hiện việc đào
tạo, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động.
Về kỹ thuật và nguồn nguyên vật liệu
Phần lớn doanh nghiệp tư nhân có kỹ thuật sản xuất bán thủ cơng, thiết
bị chủ yếu được sản xuất trong nước, nên phù hợp với điều kiện trình độ lao
động phổ thơng đang chiếm số lượng lớn ở nước ta. Doanh nghiệp tư nhân
phân bố ở hầu hết các địa phương, nên có khả năng khai thác được nguồn
nguyên liệu sẵn có, giảm bớt chi phí và thời gian vận chuyển trong qúa trình
sản xuất của doanh nghiệp.
15
Thứ tư, doanh nghiệp tư nhân tạo sự linh hoạt, năng động và đóng góp
đáng kể vào sự ổn định, phát triển nền kinh tế
Về lý thuyết, doanh nghiệp tư nhân dễ điều chỉnh hoạt động của mình
để đáp ứng đa dạng nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ.
Mặt khác, ở phần lớn các nền kinh tế, doanh nghiệp tư nhân là những nhà
thầu phụ, gia công, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng
thầu phụ, gia công tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định
cần thiết. Đồng thời, sự cạnh tranh không ngừng của các doanh nghiệp tư
nhân là tất yếu, nhằm thanh lọc các doanh nghiệp yếu kém, nâng cao chất
lượng sản phẩm cung ứng cho thị trường, hạn chế khả năng lũng đoạn thị
trường của một số doanh nghiệp nhà nước.
Trong điều kiện mở cửa hội nhập, hợp tác phát triển kinh tế giữa các
quốc gia là một tất yếu, thì việc khai thác lợi thế so sánh, xuất khẩu các sản
phẩm truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc trở nên quan trọng và mang
tính mục tiêu. Với đặc điểm phân bố rộng khắp các địa phương doanh nghiệp
tư nhân có thế mạnh trong việc sản xuất những sản phẩm thủ công mỹ nghệ,
khai thác và chế biến thuỷ hải sản, nơng sản, may mặc xuất khẩu,… đã góp
phần làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, nhất là từ năm 1990 trở lại
đây nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, ổn định, lạm phát được kiểm
soát, xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài tăng đáng kể. Đặc biệt, khi
nền khi nền kinh tế đất nước đang hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế
thế giới, thì việc khuyến khích, hỗ trợ, phát triển các doanh nghiệp tư
nhân là một giải pháp quan trọng để góp phần thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước, mà ưu tiên hàng đầu là cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng
nghiệp, nơng thơn.
16
1.3. TÁC DỤNG CỦA MỐI QUAN HỆ TÍN DỤNG GIỮA NGÂN HÀNG VÀ
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
1.3.1. Tác dụng của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp tư nhân
Một là, tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho
doanh nghiệp
Để thực hiện các quyết định đầu tư, doanh nghiệp có thể sử dụng hai
nhóm nguồn vốn là: vốn tự có và vốn đi vay. Tuy nhiên, nhu cầu vay vốn của
doanh nghiệp không phải lúc nào cũng được đáp ứng và quy mô của khoản
vay còn tuỳ thuộc vào các điều kiện của doanh nghiệp, các quy định vay vốn
của ngân hàng, pháp luật của Nhà nước,… Mặt khác, nếu quy mô vốn vay
quá lớn sẽ làm tăng chi phí trả lãi, dẫn đến tăng giá sản phẩm, ảnh hưởng đến
lợi nhuận của doanh nghiệp. Do vậy, buộc doanh nghiệp phải xây dựng cơ cấu
vốn tối ưu. Đây là sự kết hợp tốt nhất các nguồn tài trợ cho hoạt động kinh
doanh của một doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hố giá trị thị trường của
doanh nghiệp tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
Hai là, tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho sự ra đời và phát triển của doanh
nghiệp tư nhân
Ngân hàng hỗ trợ cho doanh nghiệp tư nhân từ lúc bắt đầu khởi sự và
trong suốt quá trình hoạt động, phát triển của doanh nghiệp. Nếu khơng có sự
hỗ trợ này, một số doanh nghiệp tư nhân sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc
trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, thậm chí bị phá sản. Nhiều doanh nghiệp ra đời, song do hạn chế về
vốn, nên khơng có khả năng sử dụng công nghệ, thiết bị hiện đại, dẫn đến
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh không cao, thiếu sức cạnh tranh và
khó đứng vững trên thương trường. Để có thể hoạt động thường xuyên, liên
tục, các doanh nghiệp tư nhân phải có đủ vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất
kinh doanh, trong khi nguồn vốn tự có và vốn vay khơng chính thức của
17
doanh nghiệp tư nhân rất hạn chế. Vì vậy, vốn tín dụng ngân hàng là một giải
pháp hữu hiệu cho sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp. Đồng thời,
tín dụng ngân hàng cịn giúp các doanh nghiệp tư nhân tái sản xuất mở rộng,
phát triển các ngành nghề mũi nhọn.
Ba là, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp tư nhân trên thị trường
Đặc trưng của tín dụng ngân hàng khơng chỉ là tài trợ vốn mà cịn phải
đảm bảo hồn trả gốc và lãi đúng hạn. Do vậy, khi sử dụng vốn vay, các
doanh nghiệp tư nhân không những phải tìm cách để thu hồi đủ vốn mà cịn
phải tìm mọi biện pháp sử dụng vốn sao cho hiệu quả nhất. Mặt khác, các
ngân hàng chỉ cho vay khi đã thẩm định đầy đủ, kỹ càng mọi yếu tố liên quan
đến doanh nghiệp, đặc biệt là tính hiệu quả của phương án, dự án kinh doanh
cần tài trợ vốn. Vì vậy, ngay từ khi thiết lập phương án sản xuất kinh doanh,
các doanh nghiệp đã phải nghiên cứu và phân tích kỹ nhằm tăng tính khả thi
của phương án, cũng như tạo sự tin tưởng của ngân hàng khi quyết định tài
trợ. Ngồi ra, trong q trình cấp tín dụng, ngân hàng còn tư vấn giúp cho các
doanh nghiệp tư nhân đưa ra các quyết định đầu tư tốt nhất, đem lại lợi nhuận
cao nhất. Mặt khác, công tác kiểm tra định kỳ của ngân hàng đã buộc các
doanh nghiệp phải làm ăn nghiêm túc, tuân thủ pháp luật. Trên cơ sở đó, năng
lực cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp tư nhân sẽ ngày càng được nâng
cao trên thị trường.
Có thể nói, để doanh nghiệp tư nhân ra đời, tồn tại và phát triển, thì
cần có sự hỗ trợ từ phía ngân hàng thơng qua nhiều loại hình dịch vụ, trong
đó dịch vụ tín dụng là chủ yếu. Vì vậy, việc mở rộng tín dụng ngân hàng
đối với doanh nghiệp tư nhân là thực tiễn đúng đắn và phù hợp với chủ
trương, định hướng chính sách về tăng cường hỗ trợ phát triển các loại hình
doanh nghiệp của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
18
1.3.2. Phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền
tệ, thu lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động cho vay các đối tượng khách hàng.
Việc doanh nghiệp tư nhân chiếm 1/3 trong tổng số doanh nghiệp ở nước ta
cho thấy, nếu ngân hàng khai thác hiệu quả nguồn thu từ quan hệ tín dụng
đối với khách hàng là doanh nghiệp tư nhân, thì sẽ có điều kiện tăng lợi
nhuận đáng kể cho ngân hàng, cụ thể:
Thứ nhất, doanh nghiệp tư nhân góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn của ngân hàng
Trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới, trước áp lực cạnh tranh ngày
càng gay gắt, đặc biệt là với các đối thủ ngân hàng nước ngồi. Thì u cầu
cấp bách đặt ra cho các ngân hàng thương mại Việt Nam là phải tiến hành
ngay cơng cuộc đổi mới một cách tồn diện, một trong những nội dung cần
đặc biệt chú trọng là hoạt động tín dụng - hoạt động cơ bản, chiếm tỷ trọng
lớn (70% - 80%) trên tổng tài sản có sinh lời và mang lại nguồn thu nhập chính
cho các ngân hàng.
Hiện nay, chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam
còn thấp, tỷ trọng nợ quá hạn, nợ xấu khá cao. Đặc biệt, trong cơ cấu khoản
mục cho vay tại các ngân hàng thương mại nhà nước, thì tỷ trọng cho vay
doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn - một thành phần kinh tế hoạt
động kém hiệu quả, vì vậy, nguy cơ nợ quá hạn, nợ xấu tiếp tục gia tăng từ
khu vực này là điều khó tránh khỏi. Thực tế này địi hỏi các ngân hàng thương
mại phải chuyển đổi cơ cấu danh mục đầu tư cho vay, mở rộng cho vay đối
với các doanh nghiệp ngoài Nhà nước (chủ yếu thuộc thành phần kinh tế tư
nhân) nhằm phân tán rủi ro, giúp các ngân hàng mở rộng và nâng cao chất
lượng tín dụng.
19
Thứ hai, doanh nghiệp tư nhân là bộ phận khách hàng tiềm năng lớn
của các ngân hàng
Hoạt động giao dịch vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp tư nhân sẽ
trở thành hoạt động mang lại lợi nhuận đáng kể cho các ngân hàng trong thời
gian tới. Vì hiện nay thị trường tài chính Việt Nam đang phát triển, đối với thị
trường chứng khốn tuy cịn nhiều biến động, nhưng vẫn được đánh giá là có
tiềm năng. Điều đó dự báo, trong tương lai gần các doanh nghiệp lớn, có tiềm
lực tốt khi cần huy động vốn sẽ không lựa chọn kênh tín dụng ngân hàng, mà
sẽ thơng qua thị trường chứng khốn với chi phí thấp hơn, nguồn vốn ổn định
và thủ tục đơn giản hơn. Hơn nữa, các doanh nghiệp lớn đang có xu hướng
thành lập cơng ty tài chính, ngân hàng riêng để phục vụ cho nhu cầu của
mình. Vì vậy, ngân hàng khơng chỉ phải đối mặt với việc nguồn vốn huy động
bị chảy sang thị trường chứng khốn, mà nguy cơ hoạt động tín dụng cũng bị
thu hẹp. Thực tế này thúc đẩy các ngân hàng thương mại phải tìm kiếm thị
trường ngách, trong đó thị trường đầy tiềm năng là các doanh nghiệp thuộc
thành phần kinh tế tư nhân.
Thứ ba, phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân nhằm đảm
bảo sự ổn định hoạt động của ngân hàng
Trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động như hiện nay, khả năng
thay đổi linh hoạt trong tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh cho phép
doanh nghiệp tư nhân giữ được ổn định cả về số lượng và hiệu quả kinh tế, từ
đó bảo đảm an toàn cho các giao dịch của ngân hàng. Hơn nữa, theo xu hướng
phát triển, các doanh nghiệp tư nhân đang ngày càng có vai trị quan trọng và
trở thành động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Đặc biệt, đối với Việt Nam
bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế từ một nền kinh tế chưa phát triển, thì doanh
nghiệp tư nhân đóng vai trị quan trọng trong việc huy động tối đa các nguồn
lực cho đầu tư phát triển, giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập cho dân cư,
20
tăng GDP. Như vậy, việc ngân hàng mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp
tư nhân là giải pháp phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế và giúp các
ngân hàng xây dựng được cơ cấu khách hàng hợp lý, tăng trưởng tín dụng, đa
dạng hố các danh mục đầu tư cho vay, phân tán rủi ro, tăng thu nhập, nâng cao
vị thế cạnh tranh cho ngân hàng.
1.3.3. Phát triển tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp tư nhân
mang lại lợi ích thiết thực cho nền kinh tế
- Một mặt, tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự phát triển của chính các
doanh nghiệp, mặt khác là cách thức để tăng thu cho ngân sách Nhà nước
thông qua việc nộp thuế và các nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân đối với
Nhà nước. Ngoài ra, việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp
tư nhân buộc các ngân hàng phải phát huy tối đa năng lực của mình và tìm các
biện pháp để có thể huy động vốn, tăng cường tập trung, tích tụ những nguồn
vốn nhàn rỗi trong xã hội, từ đó, mọi nguồn lực về vốn sẽ được khai thác một
cách tối ưu để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
- Tín dụng ngân hàng là một trong những công cụ quan trọng để Nhà
nước điều hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Thông qua việc áp dụng những ưu đãi tín dụng, Nhà nước khuyến
khích doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển, đặc biệt là các
doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ,
nhằm góp phần tham gia chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng góp phần làm tăng nhanh vòng quay của vốn,
giảm lượng tiền mặt trong lưu thơng
Vì các ngân hàng thương mại thường xuyên huy động vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế, đưa vào sản xuất kinh doanh thông qua việc cho các doanh
nghiệp vay, trong đó doanh nghiệp tư nhân chiếm số lượng đáng kể. Các
21
doanh nghiệp này cũng phân bố trên địa bàn rộng, sản xuất kinh doanh ở
nhiều lĩnh vực, vì vậy, phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân sẽ góp
phần thực hiện điều hồ vốn trong nền kinh tế.
Doanh nghiệp nước ta tồn tại trong điều kiện tự phát, tính liên kết yếu,
quy mơ nhỏ, thì tín dụng ngân hàng là một trong những cơng cụ quan trọng góp
phần thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân phát triển sản xuất, mở rộng quy mô, tiến
lên sản xuất lớn - hiện đại,... theo đường lối phát triển kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa, mà Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
- Tín dụng ngân hàng, đặc biệt là Ngân hàng thương mại nhà nước, là
công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mơ kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn
định tiền tệ và giá cả, từ đó tạo ra mơi trường kinh doanh thuận lợi cho các
doanh nghiệp tư nhân.
Thơng qua tín dụng ngân hàng, có thể giúp Ngân hàng Nhà nước kiểm
soát khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật
lưu thơng tiền tệ. Với việc cung ứng tín dụng cho các chủ thể trong nền kinh
tế, ngân hàng đã góp phần làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông, thực hiện
việc dẫn dắt các luồng tiền; tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều
khiển chúng một cách hiệu quả; thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mơ, góp
phần tạo ra một mơi trường kinh doanh ổn định, thuận lợi cho hoạt động của
các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng.
1.4. ĐẶC ĐIỂM, CÁC HÌNH THỨC VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NƠNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
1.4.1. Đặc điểm tín dụng của Ngân hàng nơng nghiệp và phát triển
nơng thôn đối với doanh nghiệp tư nhân
Về tổng thể, các doanh nghiệp tư nhân có nhu cầu vốn lớn trong nền
kinh tế, xét về quy mơ từng doanh nghiệp thì khoản vay đó thực sự khơng lớn
đối với các ngân hàng. Về khả năng, các ngân hàng luôn đáp ứng được các nhu
22
cầu này tại bất kỳ thời điểm nào mà không gặp một khó khăn gì về vấn đề
thanh khoản. Tuy nhiên, việc cấp tín dụng cho doanh nghiệp tư nhân ln gặp
những khó khăn mang tính quy luật là: rủi ro mất vốn, các doanh nghiệp không
đủ khả năng đáp ứng yêu cầu tối thiểu của ngân hàng. Với vai trò ngày càng
quan trọng đối với nền kinh tế đất nước, các doanh nghiệp tư nhân đang tạo
được sự chú ý của các ngân hàng và chính bản thân các ngân hàng cũng nhận
thấy rằng cần phải xem xét lại tính hiệu quả trong quan hệ tín dụng đối với
nhóm doanh nghiệp này, từ đó tạo cơ sở quan trọng nhằm xây dựng chiến lược
phát triển kinh doanh ổn định và bền vững. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng
nơng nghiệp và phát triển nông thôn đối với doanh nghiệp tư nhân có một số
đặc điểm chủ yếu là:
Thứ nhất, về quy mô và tốc độ tăng trưởng dư nợ
Do quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của phần lớn các doanh
nghiệp tư nhân không lớn, nên hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp
này cũng có quy mơ vừa phải, các khoản vay thường có giá trị thấp, nhỏ lẻ,
thuộc thị trường bán lẻ của ngân hàng. Tuy dư nợ của từng doanh nghiệp tư
nhân có thể nhỏ so với số vốn của ngân hàng, nhưng số lượng các doanh
nghiệp tư nhân khá đơng đảo. Vì vậy, xét về mặt tổng thể thì dư nợ của đối
tượng khách hàng là doanh nghiệp tư nhân chiếm một tỷ trọng đáng kể trong
tổng dư nợ của ngân hàng.
Thứ hai, về mức độ rủi ro
Các điều kiện vay vốn của doanh nghiệp tư nhân so với quy định hiện
nay thường không đầy đủ và mức độ tin cậy không cao. Xuất phát từ đặc
điểm về quy mô nhỏ, nên bộ máy tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp tư nhân thường giản đơn, việc chấp hành chế độ kế tốn tài
chính theo quy định của nhà nước còn bất cập. Những rủi ro ngân hàng
thường gặp khi cho doanh nghiệp tư nhân vay vốn là:
- Cho vay khơng thu hồi được nợ, mất vốn, giảm uy tín của ngân hàng;
23
- Doanh nghiệp không trả nợ đúng hạn, chậm trả gốc và lãi tiền vay
Vì hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay”, nên phần lớn
nguồn vốn của ngân hàng dùng để cho khách hàng vay được huy động từ
nền kinh tế với thời hạn và mức lãi suất đã được xác định. Việc không thu
hồi được nợ từ doanh nghiệp tư nhân sẽ khiến ngân hàng không có nguồn
tiền để trả nợ cho các khách hàng gửi tiền, từ đó dẫn đến mất lịng tin của
khách hàng, giảm uy tín và phát sinh nhiều chi phí khác cho ngân hàng.
Thực tế cho thấy, việc cho vay các doanh nghiệp tư nhân có rủi ro,
nhưng là rủi ro có thể phân tán được và khơng mang tính hệ thống. Hơn nữa,
quy mơ một món vay nhỏ khi phát sinh nợ quá hạn, thì chủ yếu tác động tới
thu nhập của ngân hàng, thường là không tạo thành các rủi ro như rủi ro thanh
khoản, rủi ro phá sản. Mặt khác, ngân hàng ln u cầu có tài sản thế chấp
đối với các khoản vay, nên phần nào giảm bớt tổn thất nếu rủi ro xảy ra. Kinh
nghiệm cho thấy hầu hết các ngân hàng gặp khó khăn về thanh toán, cũng như
dẫn đến phá sản, đều do sự đổ bể trong quan hệ tín dụng đối với doanh nghiệp
lớn tạo nên. Như vậy, trên một khía cạnh nhất định, thì cho vay đối với doanh
nghiệp tư nhân là giảm bớt rủi ro phá sản cho ngân hàng.
Thứ ba, khả năng sinh lời
Ngân hàng có nhiều cơ hội thu lợi nhuận từ quan hệ tín dụng đối với
các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả.
Với khách hàng là doanh nghiệp tư nhân, tuy giá trị của một món vay khơng
lớn, nhưng các ngân hàng có thể lấy số lượng bù quy mơ. Ngồi các khoản
lãi thu được từ hoạt động tín dụng, nếu ngân hàng khai thác tốt các nguồn
tiền gửi, nguồn ngoại tệ của các tổ chức tín dụng, các khoản phí dịch vụ
thanh tốn, dịch vụ chuyển tiền, bảo lãnh,…thì nguồn thu của ngân hàng
tăng đáng kể. Điều này làm cho ngân hàng khơng phải chịu nhiều áp lực từ
phía khách hàng doanh nghiệp tư nhân, so với việc đáp ứng các dịch vụ này
cho các đối tượng doanh nghiệp khác.
24
Thứ tư, chi phí thẩm định
Đối với một món vay của doanh nghiệp tư nhân, chi phí thẩm định
bình qn thường cao do dư nợ thấp, trong khi vẫn phải đảm bảo các bước
của quy trình tín dụng. Tuy nhiên, vì các doanh nghiệp tư nhân thường có số
lượng giao dịch ít, đơn giản, dễ kiểm tra và đánh giá, nên thời gian dành cho
việc lưu trữ, cập nhật và xử lý thơng tin liên quan đối với nhóm doanh
nghiệp này ít hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, tài
liệu lưu cho một doanh nghiệp tư nhân thể hiện ở hoá đơn thanh toán, giấy
nhận nợ, hợp đồng tín dụng, các báo cáo thẩm định của cán bộ tín dụng có
số lượng khơng nhiều. Hơn nữa, một cán bộ tín dụng có thể quản lý cùng
một lúc nhiều khoản vay, giao dịch của nhiều doanh nghiệp tư nhân.
Thứ năm, một số đặc điểm khác về tín dụng của Ngân hàng nơng
nghiệp và phát triển nơng thôn đối với doanh nghiệp tư nhân
Trước thời điểm năm 2000, trong đối tượng khách hàng là doanh
nghiệp, ngân hàng thường chú trọng đến những dự án lớn thuộc đối tượng
khách hàng là các tổng công ty nhà nước. Tuy có bề dầy hoạt động trong
lĩnh vực ngân hàng, nhưng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân
mới được chú trọng từ năm 2000, đặc biệt là từ năm 2005 trở lại đây. Hoạt
động tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với
doanh nghiệp tư nhân mang một số nét đặc thù cơ bản là:
- Các dịch vụ tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân rất đa dạng, nhiều
dịch vụ mới, hiện đại, như: cho vay gián tiếp, bảo lãnh, cho thuê tài chính,…
Thực tế, các doanh nghiệp tư nhân thường thiếu thông tin về các sản phẩm
của ngân hàng, nhất là các dịch vụ mới. Hơn nữa, doanh nghiệp tư nhân
không thường xuyên nhận được sự hỗ trợ tư vấn tài chính, pháp luật từ các tổ
chức chuyên nghiệp, nên trong quan hệ tín dụng với ngân hàng thường gặp rất
nhiều khó khăn. Chính vì vậy, đến nay hoạt động tín dụng đối với doanh
25
nghiệp tư nhân tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ yếu
phát triển ở dịch vụ cho vay và cho thuê tài chính.
- Là một ngân hàng thương mại nhà nước, đang trong quá trình chuyển
đổi cơ cấu hoạt động, nên việc phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp tư
nhân tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chậm hơn một số
ngân hàng thương mại khác. Vì một mặt, phía doanh nghiệp tư nhân còn tâm
lý e ngại khi tiếp cận với ngân hàng, mặt khác, phía ngân hàng chưa nhiều
kinh nghiệm trong việc tiếp cận khách hàng là doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy,
quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp tư nhân chủ yếu dựa trên cơ
sở tài sản đảm bảo, trong khi đây là một trong những hạn chế lớn của doanh
nghiệp tư nhân khi tiếp cận vay vốn tại ngân hàng.
- Hoạt động tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn đối với doanh nghiệp tư nhân vừa mang tính chất thương mại vừa mang
tính xã hội, nhằm thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Một
mặt, ngân hàng vừa phải cạnh tranh với các ngân hàng khác để tồn tại và phát
triển, hoàn thành mục tiêu lợi nhuận, mặt khác ngân hàng phải thực hiện
nhiệm vụ của một doanh nghiệp nhà nước là góp phần khơi dậy và phát huy
tiềm năng trong dân cư, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các
doanh nghiệp theo hướng mở rộng quy mô sản xuất, hướng đến sản xuất lớn. Vì
vậy, trong quá trình phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân, ngân hàng
vừa phải thực hiện nghiêm túc những quy định về tín dụng nhằm ngăn ngừa rủi
ro, vừa phải tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn
vốn để phát triển sản xuất kinh doanh.
1.4.2. Các hình thức tín dụng của Ngân hàng nơng nghiệp và phát
triển nông thôn đối với doanh nghiệp tư nhân
1.4.2.1. Tín dụng ngắn hạn
Doanh nghiệp tư nhân có thể vay ngắn hạn tại Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn để đáp ứng các nhu cầu về vốn cho hoạt động sản