1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ lâu trên thế giới, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế phát triển
nhanh đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các nước có chiến lược phát triển cơ
cấu ngành kinh tế hợp lý. Ngày nay, du lịch đã trở thành một trong những
ngành kinh tế quan trọng trong mỗi quốc gia và trong nền kinh tế trên thế
giới. Ở nước ta, Đảng và nhà nước ta đã xác định vai trò hết sức quan trọng
của du lịch trong nền kinh tế quốc dân, khẳng định mục tiêu phát triển du lịch
thành “ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước” (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX, 2001; Luật du lịch năm 2005), và định rõ chủ trương
“Khuyến khích đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng hiệu quả du
lịch”(Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, 2006), “có cơ chế, chính
sách huy động mọi nguồn lực, tăng đầu tư phát triển du lịch”(Luật du lịch,
2005) để đảm bảo đạt và giữ vững mục tiêu trên.
Ninh Bình nằm ở cực Nam của Đồng bằng sơng Hồng, nơi tiếp giáp với
Bắc Bộ và Trung Bộ bởi dãy núi Tam Điệp hùng vĩ. Phía Tây Bắc tỉnh Ninh
Bình giáp tỉnh Hồ Bình; Phía Đơng Bắc giáp tỉnh Hà Nam; phía Tây Nam
giáp tỉnh Thanh Hố; phía Đơng Nam giáp tỉnh Nam Định. Ninh Bình là một
trong những tỉnh có đường quốc lộ 1A chạy qua rất thuận lợi cho việc phát
triển giao thông, giao lưu kinh tế, văn hoá với các vùng miền trong cả nước.
Tỉnh Ninh Bình có diện tích gần 1400 km 2; dân số 898.459 người (theo số
liệu thống kê ngày 1/4/2009). Địa hình của tỉnh Ninh Bình rất phong phú và
đa dạng bao gồm cả đồng bằng, đồi núi, đầm hồ, vùng ven biển. Với đặc điểm
đa dạng về cấu trúc như vậy đã tạo điều kiện cho Ninh Bình sự đa dạng về
cảnh quan sinh thái có giá trị cho phát triển nhiều loại hình du lịch phong phú,
hấp dẫn như: du lịch sinh thái, văn hoá, lịch sử, nghỉ dưỡng, thể thao, nghiên
cứu khoa học, hội chợ, hội nghị dài ngày và ngắn ngày. Ninh Bình có các
cảnh quan, danh thắng ngoạn mục của thiên nhiên được nhiều bạn bè trong
2
nước và quốc tế biết đến như: Tam Cốc - Bích Động; Tràng An - Bái Đính;
vườn quốc gia Cúc Phương; khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân
Long; suối khống nóng Kênh Gà - Vân Trình; hồ Đồng Chương…đồng thời
tỉnh Ninh Bình cũng có những nguồn tài ngun văn hố, lịch sử q giá như:
Cố đơ Hoa Lư; nhà thờ đá Phát Diệm; phòng tuyến Tam điệp - Biện Sơn;
chiến khu cách mạng Quỳnh Lưu…Chính nhờ các điều kiện đó mà Ninh Bình
trở thành một tỉnh có tiềm năng du lịch phong phú và vượt trội so với các tỉnh
phía Bắc khác.
Trong những năm qua du lịch Ninh Bình đã và đang phát triển đúng hướng.
Cơ cấu kinh tế đang dịch chuyển từ nông nghiệp sang dịch vụ, du lịch theo định
hướng phát triển du lịch bền vững. Phát triển du lịch đã góp phần phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc và tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác như: Nông
nghiệp, giao thông, thương mại, xây dựng… phát triển. Du lịch phát triển đã giải
quyết được việc làm cho hàng vạn lao động của địa phương và làm thay đổi
nhận thức của các ngành, các cấp ở địa phương và đặc biệt là nhân dân ở các khu
các điểm du lịch; thu nhập từ các hoạt động du lịch mang lại đã phần nào nâng
cao đời sống nhân dân, góp phần xố đói giảm nghèo tại một số địa phương.
Mặc dù hoạt động du lịch của tỉnh Ninh Bình trong những năm gần đây
đã có những bước tiến vượt bậc và thu được những thành tựu quan trọng, góp
phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và nếp sống văn minh của dân cư
trên địa bàn tỉnh, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế, yếu kém như:
- Hoạt động du lịch phần lớn còn khai thác tự nhiên, chưa tạo ra được
những sản phẩm mới độc đáo để thu hút khách, có nơi còn làm nghèo nàn đi
các sản phẩm du lịch tự nhiên. Tình trạng đầu tư xây dựng các cơng trình, do
san lấp mặt bằng đã dẫn đến thu hẹp diện tích cây xanh và biến đổi cảnh quan
làm giảm thiểu đáng kể nguồn khách;
- Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phát triển du lịch còn nhiều
bất cập;
3
- Việc đầu tư cơ sở hạ tầng mới chỉ bắt đầu, đầu tư còn dàn trải, chưa thu
hút các nhà đầu tư có năng lực cao, các tập đồn kinh tế mạnh trong nước và
quốc tế để phát triển du lịch;
- Công tác tuyên truyền và quảng bá du lịch cịn yếu, đội ngũ cán bộ làm
cơng tác quản lý, hướng dẫn viên, thuyết minh và nhân viên phục vụ kinh
doanh du lịch cịn thiếu và phần lớn khơng được đào tạo có hệ thống, trình độ
chun mơn cịn yếu. Chất lượng dịch vụ cịn yếu kém, do đó hiệu quả kinh tế
chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ khách;
- Phát triển du lịch chưa thực sự đem lại lợi ích cho cộng đồng dân cư
địa phương vốn cịn nhiều khó khăn;…
Những hạn chế, yếu kém nêu trên trở thành rào cản cản trở việc phát
triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn như Đại hội đại biểu tỉnh đã đề
ra. Du lịch chưa góp phần tương xứng vào q trình phát triển kinh tế xã hội
của địa phương như tiềm năng vốn có của nó.
Trong xu thế tăng cường hội nhập và giao lưu quốc tế, nhu cầu về du lịch
tăng nhanh, yêu cầu đặt ra là phải có sự quan tâm hơn nữa của các ngành, các
cấp nói chung và của các địa phương trong tồn tỉnh nói riêng nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả của ngành du lịch, khai thác tối ưu tiềm năng của ngành
du lịch của tỉnh, góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Để du lịch Ninh Bình phát triển tương xứng với tiềm năng của nó, đóng
góp ngày càng nhiều giá trị cho tăng trưởng kinh tế xã hội, từng bước thực sự
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn cần có những nghiên cứu hệ thống, tìm
kiếm giải pháp phù hợp cả trong giai đoạn trước mắt và lâu dài. Chính vì vậy,
tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình trong hội nhập
quốc tế” làm luận văn thạc sĩ, chun ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Du lịch là một hiện tượng khách quan tồn tại cùng với sự tồn tại của
xã hội loài người từ thời cổ đại cho tới nay. Du lịch nằm trong nội tại phát
4
triển của loài người do nhu cầu thẩm nhận về giá trị vật chất, tinh thần và
tâm linh của con người. Ngày nay, du lịch trở thành hiện tượng kinh tế - xã
hội phổ biến trên nhiều quốc gia trên thế giới khơng chỉ ở các nước phát
triển mà cịn ở cả các nước đang phát triển. Phát triển du lịch không những
chỉ thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học mà còn thu hút cả
những người hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn,. Do đó các cơng
trình nghiên cứu về du lịch phát triển du lịch khá phong phú cả trên thế giới
cũng như ở trong nước.
- Tình hình nghiên cứu trên thế giới: Du lịch trở thành đối tượng nghiên
cứu kinh tế có hệ thống từ sau chiến tranh thế giới thứ II. Sự thành lập Hiệp
hội quốc tế các chuyên gia khoa học về du lịch đã thúc đẩy việc nghiên cứu
du lịch ở các nước. Nhiều cơng trình nghiên cứu với trình độ cao về kinh tế du
lịch và giải trí ngồi trời, về kinh tế học giải trí, về marketing du lịch, thị
trường du lịch, quản lý du lịch… Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu có thể
kể đến như: Kinh tế du lịch, của tác giả Robert Lanquar, Nxb Thế giới, Hà
Nội 2002. Cơng trình nghiên cứu này đã giới thiệu các mốc lịch sử của ngành
du lịch và đi sâu phân tích những ảnh hưởng của du lịch đến kinh tế, những
phương tiện và cơng cụ phân tích kinh tế học du lịch và kinh doanh du lịch.
Cuốn sách Marketing du lịch do Robert Lanquar và Robert Hollier biên soạn,
Nxb Thế giới, Hà Nội 2002. Cuốn sách này giới thiệu những mốc lịch sử của
Marketing du lịch, các định nghĩa và quan niệm về marketing du lịch; phân
tích cung, cầu du lịch và phát triển du lịch.
- Tình hình nghiên cứu trong nước:
Trong thời gian qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học về du
lịch và phát triển du lịch trên phạm vi cả nước nói chung và du lịch Ninh Bình
nói riêng. Các cơng trình tiêu biểu có thể kể đến như sau:
Nguyễn Văn Lưu, Thị trường du lịch, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội,
1998. Cuốn sách đã đưa ra những vấn đề tổng quan về thị trường du lịch:
5
Khái niệm, đặc trưng của thị trường du lịch, phân loại thị trường du lịch, phân
tích một số yếu tố cơ bản trên thị trường du lịch…
Nguyễn Hồng Giáp, Du lịch và kinh doanh du lịch, Nxb. Văn hố thơng
tin, Hà Nội 1996. Tác giả đã trình bày hiện tượng, bản chất và khái niệm du
lịch, phân tích các nguồn lực để phát triển du lịch, các thể loại du lịch và kinh
doanh du lịch.
Nguyễn Hồng Giá, Kinh tế du lịch, Nxb. Trẻ, 2002. Cuốn sách đã giới
thiệu chung những khái niệm về du lịch, sản phẩm du lịch, kinh tế du lịch trên
những góc độ khác nhau của nhiều học giả. Từ đó tác giả đã phân tích vị trí
của ngành du lịch, các thành phần chủ yếu của sản phẩm du lịch và các đơn vị
hoạt động du lịch theo quan điểm du lịch của mình.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Lài (2008), Khai thác tiềm
năng du lịch để phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Quảng Bình, Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả tập trung nghiên cứu
tiềm năng và đề xuất giải pháp nhằm khai thác tiềm năng, điều kiện tự nhiên,
văn hoá, lịch sử ở tỉnh Quảng Bình mà theo tác giả đến nay vẫn chưa khai thác
hết.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu nêu trên cịn phải kể đến các cơng trình
khác có nhiều giá trị trong q trình xây dựng, quy hoạch và chỉ đạo thực tiễn
phát triển du lịch như: Trần Đức Thanh, “Cơ sở khoa học trong việc thành lập
các bản đồ phục vụ quy hoạch DL cấp tỉnh ở Việt Nam (lấy ví dụ ở Ninh
Bình)”, Luận án PTS, Hà Nội 1995 - 170 trang; Vũ Tuấn Cảnh (Chủ nhiệm đề
tài), “Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà
nước 1998 - 2000 (Tài liệu lưu trữ tại Viện nghiên cứu phát triển Du lịch. Tổng
cục Du Lịch Việt Nam); “Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Ninh Bình 1995
- 2010”, Viện Nghiên cứu chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam…
Du lịch Ninh Bình đã và đang từng bước vươn lên khẳng định vai trị vị
trí trong q trình phát triển du lịch của Việt Nam, trở thành điểm đến yêu
6
thích của du khách trong nước và quốc tế. Ngành du lịch Ninh Bình đang trên
đà phát triển, đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng và phát triển kinh tế của
địa phương đòi hỏi cần phải được nghiên cứu, đánh giá một cách hệ thống,
toàn diện nhằm phát huy những thành quả đã đạt được, khắc phục những hạn
chế, khai thác tiềm năng vốn có của ngành đảm bảo sự phát triển bền vững
trong tương lai lâu dài. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có cơng trình nào đề cập
trực diện đến phát triển Du lịch Ninh Bình trong bối cảnh mới dưới góc độ
Kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình, đề xuất được những giải pháp hữu hiệu, thiết thực, phù hợp với điều
kiện của địa phương, góp phần thúc đẩy du lịch Ninh Bình phát triển hơn nữa và
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của du khách trong thời kỳ hội nhập.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu lý luận chung về phát triển du lịch;
- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển du lịch của một số tỉnh, thành trong
nước những năm qua;
- Đánh giá thực trạng phát triển du lịch của Ninh Bình từ năm 2001 đến
nay (2011). Từ đó rút ra những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên
nhân của những hạn chế;
- Nghiên cứu đề xuất một số các giải pháp cho phát triển du lịch ở Ninh
Bình, nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng của du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình giai đoạn 2011 - 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
7
Phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong bối cảnh hội nhập
quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Hoạt động của ngành du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Về thời gian:Từ năm 2006 đến 2011; đề xuất phương hướng, nhiệm vụ
và các giải pháp phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình từ nay đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và
Nhà nước về phát triển kinh tế được thể hiện trong các văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng lần thứ IX, X, XI; Các văn bản pháp luật đã ban hành, đặc
biệt là Luật Du lịch, Luật Di sản văn hố, Luật Bảo vệ mơi trường…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Về phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Về phương pháp cụ thể:
+ Phương pháp thống kê;
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp;
+ Phương pháp hệ thống, đánh giá, dự báo;
+ Phương pháp chuyên gia.
6. Những đóng góp mới về lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần hệ thống hoá một số lý luận cơ bản về du lịch;
- Chỉ rõ những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế hoạt động du
lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Đề xuất được những giải pháp cơ bản, có khả năng áp dụng trong thực
tiễn, góp phần phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành du lịch trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình.
7. Kết cấu của luận văn
8
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. DU LỊCH VÀ VAI TRÒ CỦA DU LỊCH ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
XÃ HỘI
1.1.1. Các khái niệm
* Du lịch là gì?
Từ lâu du lịch đã xuất hiện và trở thành một hiện tượng quan trọng trong
đời sống của con người. Đến nay, du lịch khơng cịn là một hiện tượng riêng
lẻ, đặc quyền của cá nhân hay một nhóm người nào đó, mà du lịch đã trở
thành một nhu cầu xã hội phổ biến không ngừng đáp ứng mục tiêu nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho con người. Tuy nhiên, khái niệm du lịch có
nhiều cách hiểu do được tiếp cận bằng nhiều cách khác nhau. Sau đây là một
số khái niệm về du lịch theo các cách tiếp cận phổ biến.
- Tiếp cận du lịch dưới góc độ nhu cầu của con người
Thứ nhất, du lịch là một hiện tượng: Trước thế kỷ XIX đến tận đầu thế
kỷ XX du lịch hầu như vẫn được coi là đặc quyền của tầng lớp giàu có, quý
tộc và người ta chỉ coi đây như là một hiện tượng cá biệt trong đời sống kinh
tế xã hội. Trong thời kỳ này, người ta coi du lịch như một hiện tượng xã hội
góp phần làm phong phú thêm cuộc sống và nhận thức của con người. Đó là
hiện tượng con người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên để đến một nơi xa lạ
vì nhiều mục đích khác nhau ngoại trừ mục đích tìm kiếm việc làm (kiếm
tiền) và trong thời gian đó họ phải tiêu tiền mà họ kiếm được. Các giáo sư
Thuỵ Sỹ là Hunziker và Krapf (Viện nghiên cứu Học viện kinh tế Zurich) đã
khái quát: Du lịch là tổng hợp các hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ
9
việc đi lại và lưu trú của những người ngoài địa phương - những người khơng
có mục đích định cư và không liên quan tới bất cứ hoạt động kiếm tiền nào.
Quan niệm này được Hiệp hội quốc tế các chuyên gia khoa học về du lịch
(International Association of Scientific Experts in Tourism - IASET) thừa
nhận. Với quan niệm này du lịch mới chỉ được giải thích ở hiện tượng đi du
lịch, tuy nhiên đây cũng là một khái niệm làm cơ sở để xác định người đi du
lịch và là cơ sở hình thành cầu về du lịch sau này.
Thứ hai, du lịch là một hoạt động: Theo Mill và Morrison (R.C. Mill and
A.M. Morrison, The tourism system: an introductory text, Prentice-Hall
International, New Jersey, 1985), du lịch là một hoạt động xảy ra khi con
người vượt qua biên giới một nước (hay ranh giới một vùng, một khu vực) để
nhằm mục đích giải trí hoặc cơng vụ và lưu trú tại đó ít nhất 24 giờ nhưng
khơng q một năm. Như vậy, có thể xem xét du lịch thơng qua những hoạt
động đặc trưng mà con người mong muốn qua các chuyến đi. Du lịch có thể
được hiểu “là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của
mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời
gian nhất định.”
Từ các góc độ nói trên, bản chất của du lịch được chỉ rõ thơng qua 5 đặc
điểm chính như sau:
+ Du lịch nảy sinh từ sự di chuyển và lưu trú của con người ở các nơi
đến khác nhau.
+ Có hai yếu tố trong hoạt động du lịch: hành trình tới nơi đến và lưu lại,
trong đó bao gồm cả các hoạt động ở nơi đến.
+ Chuyến đi và lưu trú xảy ra bên ngoài nơi cư trú và làm việc thường
xuyên, do đó du lịch làm nảy sinh những hoạt động của người đi du lịch ở nơi
đến khác biệt với những hoạt động của cư dân sinh sống và làm việc ở đây.
+ Sự di chuyển tới nơi đến mang tính tạm thời, thời gian ngắn và sau đó
quay trở về trong khoảng vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng.
10
+ Chuyến đi với nhiều mục đích song khơng vì mục đích định cư hoặc
tìm kiếm việc làm tại nơi viếng thăm.
Với các cách tiếp cận nói trên, bản chất của du lịch chủ yếu mới chỉ
được giải thích dưới góc độ là một hiện tượng, một hoạt động thuộc nhu cầu
của khách du lịch.
Thứ ba, du lịch dưới góc độ là khách du lịch: Một quan niệm khác xem
xét khái niệm và bản chất của du lịch dưới góc độ người đi du lịch. Theo cách
tiếp cận này, nhà kinh tế học người Anh Ogilvie đã đưa ra khái niệm khách du
lịch là “tất cả những người thoả mãn hai điều kiện: rời khỏi nơi ở thường
xuyên trong một khoảng thời gian dưới một năm và chi tiêu tiền bạc tại nơi họ
đến thăm mà không kiếm tiền ở đó.” Khái niệm này chưa hồn chỉnh vì nó
chưa làm rõ được mục đích của người đi du lịch và qua đó để phân biệt được
với những người cũng rời khỏi nơi cư trú của mình nhưng lại khơng phải là
khách du lịch.
Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch tại Rome (1963) thống nhất quan
niệm về khách du lịch ở hai phạm vi quốc tế và nội địa, sau này được Tổ chức
du lịch thế giới (World Tourism Organisation - WTO) chính thức thừa nhận.
(1). Khách du lịch quốc tế (International tourism): Là một người lưu trú
ít nhất một đêm nhưng không quá một năm tại một quốc gia khác với quốc
gia thường trú với nhiều mục đích khác nhau ngoài hoạt động để được trả
lương ở nơi đến.
(2). Khách du lịch nội địa (Domestic tourism): Là một người đang sống
trong một quốc gia, không kể quốc tịch nào, đi đến một nơi khác không phải
là nơi cư trú thường xun trong quốc gia đó, trong thời gian ít nhất 24 giờ
nhưng không quá một năm với các mục đích có thể là giải trí, cơng vụ, hội
họp, thăm gia đình ngồi hoạt động làm việc để lĩnh lương ở nơi đến.
Quán triệt quan niệm của Tổ chức du lịch thế giới, trong Pháp lệnh Du
lịch của Việt Nam có quy định: “Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài,
11
người Việt Nam ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch và cơng dân Việt Nam,
người nước ngồi cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch” và “khách du
lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi
du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”.
- Tiếp cận du lịch dưới góc độ là một ngành kinh tế
Cùng với sự phát triển của xã hội, du lịch phát triển từ hiện tượng có tính
đơn lẻ của một bộ phận nhỏ trong dân cư thành hiện tượng có tính phổ biến và
ngày càng có vai trị quan trọng trong đời sống của mọi tầng lớp xã hội. Lúc
đầu, người đi du lịch thường tự thoả mãn các nhu cầu trong chuyến đi của
mình. Về sau, các nhu cầu đi lại, ăn ở, giải trí của du khách đã trở thành một
cơ hội kinh doanh và du lịch lúc này được quan niệm là một hoạt động kinh tế
nhằm thoả mãn các nhu cầu của du khách. Một ngành kinh tế được hình thành
nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người trong chuyến đi rời khỏi nơi cư trú
thường xuyên - đó là ngành du lịch. Theo các học giả Mỹ Mc Intosh và
Goeldner, du lịch là một ngành tổng hợp của các lĩnh vực lữ hành, khách sạn,
vận chuyển và tất cả các yếu tố cấu thành khác kể cả xúc tiến quảng bá nhằm
phục vụ các nhu cầu và mong muốn đặc biệt của khách du lịch. Hội nghị Liên
hợp quốc về du lịch năm 1971 cũng đi đến thống nhất cần phải quan niệm
rộng rãi ngành du lịch như là người đại diện cho tập hợp các hoạt động cơng
nghiệp và thương mại cung ứng tồn bộ hoặc chủ yếu các hàng hoá và dịch vụ
cho tiêu dùng của khách du lịch quốc tế và nội địa.
Như vậy, khi tiếp cận du lịch với tư cách là một hệ thống cung ứng các yếu
tố cần thiết trong các hành trình du lịch thì du lịch được hiểu là một ngành kinh
tế cung ứng các hàng hoá và dịch vụ trên cơ sở kết hợp giá trị các tài nguyên du
lịch nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn đặc biệt của du khách.
- Tiếp cận du lịch một cách tổng hợp
Các quan niệm trên tiếp cận du lịch dưới góc độ một hiện tượng, một
hoạt động với các yếu tố tách biệt. Với cố gắng xem xét du lịch một cách toàn
12
diện hơn, các tác giả Mc Intosh và Goeldner cho rằng cần phải cân nhắc tất cả
các chủ thể (thành phần) tham gia vào hoạt động du lịch mới có thể hiểu được
bản chất và đưa ra khái niệm về du lịch một cách đầy đủ. Các chủ thể (thành
phần) đó bao gồm:
(1). Khách du lịch: Đây là những người tìm kiếm các kinh nghiệm và sự
thoả mãn về vật chất hay tinh thần khác nhau. Bản chất của du khách sẽ xác
định các nơi đến du lịch lựa chọn và các hoạt động tham gia thưởng thức.
(2). Các doanh nghiệp cung cấp hàng hoá và dịch vụ du lịch: Các nhà
kinh doanh coi du lịch là một cơ hội để kiếm lợi nhuận thông qua việc cung
cấp các hàng hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng cho nhu cầu của thị trường khách
du lịch.
(3). Chính quyền sở tại: Những người lãnh đạo chính quyền địa phương
nhìn nhận du lịch như một nhân tố có tác dụng tốt cho nền kinh tế thông qua
triển vọng về thu nhập từ các hoạt động kinh doanh cho dân địa phương,
ngoại tệ thu được từ khách quốc tế và tiền thuế thu được cho ngân quỹ một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
(4). Dân cư địa phương: Dân cư địa phương thường coi du lịch là một
nhân tố tạo ra việc làm và giao lưu văn hoá. Một điều quan trọng cần nhấn
mạnh ở đây là hiệu quả của sự giao lưu giữa số lượng lớn khách du lịch quốc
tế và dân cư địa phương. Hiệu quả này có thể vừa có lợi và vừa có hại.
Như vậy, để phản ánh một cách đầy đủ và toàn diện các hoạt động, các
mối quan hệ của du lịch, theo cách tiếp cận này, du lịch được hiểu là tổng hợp
các hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ sự tác động qua lại giữa khách
du lịch, các nhà kinh doanh, chính quyền và cộng đồng dân cư địa phương
trong quá trình thu hút và tiếp đón khách du lịch.
Với cách tiếp cận này, khách du lịch là nhân vật trung tâm làm nảy sinh
các hoạt động và các mối quan hệ để trên cơ sở đó thoả mãn mục đích của các
chủ thể tham gia vào các hoạt động và các mối quan hệ đó.
13
Tóm lại: Du lịch là q trình hoạt động, di chuyển của con người rời
khỏi nơi cư trú của mình để đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là để
được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo khác với
nơi họ ở và có thể với một số mục đích khác, nhưng khơng phải nhằm mục
đích sinh lợi. Xuất phát từ tính chất phong phú và sự phát triển của hoạt động
du lịch, nên du lịch là một khái niệm có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Song
hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, khái niệm du lịch luôn phải
chuyển tải được 3 nội dung:
- Cách thức sử dụng thời gian rỗi bên ngoài nơi cư trú thường xuyên.
- Dạng chuyển cư đặc biệt.
- Là một ngành kinh tế thuộc lĩnh vực phi sản xuất nhằm phục vụ nhu
cầu tinh thần của con người.
* Một số khái niệm liên quan
- Lữ hành (Travel): Ở Việt Nam, khái niệm lữ hành là một lĩnh vực kinh
doanh trong ngành du lịch liên quan đến việc tổ chức các chuyến đi (tour) cho
du khách.
- Ngành khách sạn (Hospitality Industry): Với thuật ngữ bằng tiếng Việt,
khái niệm này chỉ được hiểu là như là lĩnh vực kinh doanh lưu trú trong ngành
khách sạn. Tuy nhiên với thuật ngữ bằng tiếng Anh thì nó có ý nghĩa rộng hơn
nhiều. Nó được thừa nhận rộng rãi là bao gồm hoạt động của tất cả các loại
hình cơ sở phục vụ lưu trú và ăn uống cho những người đi xa nhà.
- Khách du lịch (Tourist): là người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên để
đến một nơi nào đó nhằm mục đích tham quan, nghỉ dưỡng với khoảng thời
gian lớn hơn 24 giờ.
1.1.2. Vai trò của du lịch đối với phát triển kinh tế xã hội
Trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như là một sở thích,
một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã trở
thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hoá, xã hội ở các
14
nước. Về mặt kinh tế, du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế
quan trọng của nhiều nước, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển. Phát
triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng; đồng thời
cũng nâng cao nhận thức của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần
nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội của đất nước, cho
nên, hoạt động của ngành du lịch có mối quan hệ tương tác đến các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội..., cụ thể:
- Việc phát triển du lịch sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế
khác, vì sản phẩm du lịch mang tính liên ngành và có quan hệ đến nhiều lĩnh
vực trong nền kinh tế. Khi một khu vực nào đó trở thành một điểm du lịch, du
khách ở mọi nơi sẽ đổ về làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá, dịch vụ tăng lên
đáng kể (nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công mỹ nghệ,
giao thông, vận tải, bưu điện...).
Xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng đó của du khách mà ngành kinh tế du lịch
không ngừng mở rộng hoạt động của mình thơng qua mối quan hệ liên ngành
trong nền kinh tế, đồng thời làm biến đổi cơ cấu ngành trong nền kinh tế quốc
dân.
- Hoạt động du lịch làm biến đổi cân bằng thu chi ngoại tệ của đất nước.
Du khách vào mang theo ngoại tệ làm tăng thêm nguồn thu ngoại tệ cho đất
nước mà họ đến. Trong phạm vi một quốc gia, hoạt động du lịch tác động
mạnh mẽ đến quan hệ hàng hoá - tiền tệ, điều hoà nguồn vốn từ vùng kinh tế
phát triển sang vùng kinh tế kém tăng trưởng hơn, kích thích tăng trưởng kinh
tế ở vùng sâu, vùng xa...
- Du lịch thu hút sử dụng lao động xã hội. Du lịch tạo ra nhiều việc làm
cho người lao động. Bên cạnh đó, ngành du lịch còn tạo ra các nguồn thu làm
lợi cho cư dân địa phương nhờ việc phát triển các hoạt động kinh tế. Các
khoản thuế thu từ kinh doanh du lịch do khách du lịch đóng góp giúp chính
quyền địa phương chi tiêu cho giáo dục, y tế và các dịch vụ khác. Tiền do
khách chi tiêu ở các nhà hàng, khách sạn góp phần chi trả lương cho cơng
15
nhân và các cơng việc khác. Ngồi ra, khách cịn bỏ tiền mua các hàng hố
dịch vụ, đây chính là hình thức xuất khẩu tại chỗ đem lại lợi ích kinh tế rất tốt
cho đất nước.
- Du lịch quốc tế xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng, không phải qua
nhiều khâu nên tiết kiệm được lao động, hạ giá thành sản phẩm. Người tiêu
dùng mua hàng hoá với giá thấp, người sản xuất bán được giá cao so với chi
phí, điều này có tác dụng kích thích sản xuất và tiêu dùng. Cũng do xuất khẩu
tại chỗ nên có thể xuất được những mặt hàng tươi sống khó bảo quản mà lại ít
rủi ro như: hoa, rau quả tươi, thực phẩm... Nhiều mặt hàng phục vụ khách tiêu
thụ tại chỗ nên khơng cần đóng gói, vận chuyển, bảo quản phức tạp, tốn kém.
- Du lịch cịn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc tuyên
truyền, quảng bá hình ảnh của đất nước ra thế giới bên ngồi. Những ấn tượng
về đất nước, phong cảnh thiên nhiên, phong tục tập quán, nghệ thuật ẩm thực,
con người... tại nơi đến sẽ theo chân các du khách ra với thế giới, giới thiệu
một cách tích cực về hình ảnh của đất nước, từ đó lại kích thích bộ phận
khách du lịch quốc tế tiềm năng đến với đất nước. Du lịch phát triển sẽ cịn
góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế của đất nước trên trường quốc tế, trợ giúp
đắc lực cho q trình hội nhập quốc tế. Có thể nói, du lịch chính là phương
tiện quảng cáo hữu hiệu nhất về một đất nước với phần còn lại của thế giới.
Qua phân tích trên có thể thấy du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi
bộ mặt kinh tế ở các vùng, đem lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội cho quốc gia.
Nhiều nước trên thế giới đã coi du lịch là cứu cánh để vực dậy nền kinh tế yếu
kém, què quặt của mình. Chính từ những lợi ích nêu trên mà người Pháp đã
gọi du lịch là “con gà đẻ trứng vàng”.
1.1.3. Đặc điểm và yêu cầu phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế
1.1.3.1. Đặc điểm
- Đặc điểm của phát triển du lịch trong thời kỳ hội nhập quốc tế:
16
Thị trường du lịch có rất nhiều thay đổi, từ đầu thập kỷ 90, cung du lịch
đã vượt cầu, ngày càng có nhiều điểm du lịch được đưa vào khai thác, sử dụng,
sản phẩm du lịch đa dạng và liên tục phát triển. Thị trường du lịch trở nên cạnh
tranh hơn, du lịch thế giới phát triển nhanh trong lĩnh vực quảng bá tun truyền,
có nhiều thơng tin hơn đến người mua, do vậy họ chỉ quyết định mua một sản
phẩm du lịch khi đã có đủ thơng tin và hiểu rất rõ về sản phẩm đó.
Do kết quả của q trình hội nhập, hồ bình và ổn định xã hội của thế
giới, du lịch có xu hướng hợp tác khu vực và toàn cầu. Thị trường du lịch thế
giới và khu vực ngày càng mở rộng. Đồng thời những tiền bộ kỹ thuật, đặc
biệt trong viễn thông, cho phép khách hàng tiếp cận với nhà cung cấp và với
sản phẩm du lịch được tốt hơn.
Khách du lịch đến Châu Á - Thái Bình Dương ngày một tăng, đặc biệt là
đến thị trường du lịch ASEAN. Một số nước như Thái Lan, Singapore và Nam
Phi có tốc độ phát triển du lịch nhanh, tuy nhiên các nước này vẫn chưa lọt
được vào danh sách 10 nước đứng đầu thế giới. Tương lai phát triển của du
lịch thế giới bị ảnh hưởng bởi các xu hướng phát triển kinh tế xã hội và các xu
hướng phát triển nhu cầu du lịch. Dưới giác độ thị trường, ngành du lịch trong
thời kỳ hội nhập sẽ có những đặc điểm chủ yếu sau:
(1). Cung và cầu có quan hệ mật thiết
Nhu cầu thăm quan các danh lam thắng cảnh và những điểm du lịch nổi
tiếng thế giới của du khách ngày càng tăng làm cho nhiều điểm du lịch trở nên
quá tải, việc có q đơng khách đến thăm gây ra nhiều ảnh hưởng xấu đến
tuổi thọ của các điểm du lịch. Trước tình hình này, các điểm du lịch sẽ phải
quản lý sao cho vừa thoả mãn được nhu cầu của khách vừa bảo vệ được sản
phẩm du lịch. Ví dụ để bảo vệ môi trường, một số công viên quốc gia sẽ
không cho phép ô tô đi vào; 1 số khu vực sẽ hạn chế giờ thăm quan, áp dụng
chế độ đặt trước đối với xe du lịch muốn vào trung tâm thành phố.
(2). Phát triển các sản phẩm du lịch năng động với thời gian thích hợp
17
Xu hướng khách du lịch có nhu cầu thưởng thức nhiều sản phẩm dịch vụ
trong một khoảng thời gian ngắn đã thúc đẩy việc tạo ra các sản phẩm và
chương trình du lịch gây nhiều hứng khởi trong cùng một thời gian. các công
viên chuyên đề kết hợp cảnh quan đẹp với các trung tâm vui chơi giải trí tổng
hợp sẽ được xây dựng nhiều hơn. Du khách tàu biển cũng sẽ trở nên phổ biến
bởi hành khách có thể tham quan nhiều điểm du lịch và hưởng thụ được
nhiều hơn. Xuất hiện nhiều hình thức nghỉ ngơi mới, đồng thời khách du
lịch muốn thử nghiệm một cái gì đó trong kỳ nghỉ ví dụ thể thao, các thú
vui, du lịch đồng q, hồ mình vào thiên nhiên, tăng cường sức khoẻ, tìm
hiểu văn hố... Các kỳ nghỉ truyền thống cùng gia đình ở bãi biển sẽ khơng
cịn giữ vị trí chủ đạo nữa, tương lai một kỳ nghỉ sẽ kết hợp nhiều mục đích
khác nhau. Khách hàng địi hỏi sản phẩm du lịch có chất lượng hơn khơng
có nghĩa là sang trọng mà là có ý nghĩa, điểm du lịch phải xanh và sạch.
Khách hàng khác nhau có các yêu cầu khác nhau về sản phẩm du lịch. Ví
dụ, khách lớn tuổi muốn khung cảnh an tồn hơn cịn khách du lịch độc
thân muốn có quan hệ xã hội hơn...
(3). Ứng dụng công nghệ điện tử trong du lịch
Với các phương tiện thông tin hiện đại khách hàng được thử nghiệm
trước chuyến đi nghỉ của mình trước khi ra quyết định. Các chương trình máy
tính sẽ giúp cho việc lựa chọn chuyến đi thích hợp và dễ dàng hơn. CD-ROM
được sử dụng rộng rãi vì chứa đựng nhiều lượng thông tin và tiết kiệm thời
gian tra cứu hơn so với sách hướng dẫn. Việc đặt chỗ qua mạng Internet sẽ
tăng mạnh trong vòng 10-15 năm tới.
(4). Nhu cầu về du lịch tăng lên dưới một hình thức khác
Tốc độ tăng số lượng kỳ nghỉ nhanh chóng hơn tốc độ tăng số người
đi nghỉ, một người có thể có nhiều kỳ nghỉ trong một năm hơn. Số kỳ nghỉ
tăng sẽ đẩy cầu du lịch tăng và điều này sẽ làm cung du lịch phát triển, thị
trường du lịch được mở rộng, xây dựng nhiều điểm du lịch và chương tình
18
du lịch thích hợp cho từng loại kỳ nghỉ. Ví dụ đối với kỳ nghỉ chính có thể
thiết kế các chương trình du lịch dài ngày và ở nơi xa xơi, cịn đối với các
kỳ nghỉ phụ và nghỉ lễ thì lại có các chương trình du lịch ngắn ngày và
gần...
Các xu hướng phát triển và sự thay đổi nêu trên về nhu cầu du lịch của
khách sẽ dẫn đến sự phát triển nổi trội của một số loại hình du lịch trong
tương lai như:
- Du lịch sinh thái:
Du lịch sinh thái được hiểu như là một kiểu du lịch có trách nhiệm trong
việc bảo vệ mơi trường thiên nhiên và sự duy trì cuộc sống tốt đẹp cho dân
địa phương. Du lịch sinh thái rất phù hợp với một nhịm nhỏ khách du lịch có
mục đích nghiên cứu nghiêm túc về tự nhiên và cũng phù hợp với những đoàn
lớn muốn kết hợp chuyến đi nghỉ với thăm quan thưởng thức những khu bảo
tồn thiên nhiên. Một phần tiền do khách du lịch mang lại được tái đầu tư để
bảo vệ và giữ gìn nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Du lịch văn hố
Du lịch văn hố cũng có nhiều hình thức và mức độ khác nhau, một số ít
người có động cơ đi học, nghiên cứu văn học, lịch sử, khảo cổ, nghiên cứu
chuyên ngành...Còn đa số khách khác là muốn nâng cao hiểu biết, kết hợp
chuyến đi nghỉ với việc tìm hiểu văn hố địa phương. Cũng như du lịch sinh
thái một phần tiền do khách du lịch mang lại được tái đầu tư để bảo vệ và giữ
gìn các di sản văn hố. Các vùng thu hút nhiều khách du lịch văn hố là Châu
Âu, Trung Đơng và Châu Á.
- Du lịch chuyên đề
Trong mấy năm gần đây du lịch chuyên đề là chất xúc tác tạo ra một số
điểm du lịch mới phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi giải trí. Cơng viên theo chủ đề
ngày càng hấp dẫn khách du lịch, thơng qua thiên nhiên nó cung cấp một sản
19
phẩm súc tích. Ví dụ khu “vương quốc thú rừng” ở cơng viên Disneyland
bang Florida có thể thay thế các cơng viên động vật hoang dã trong khi chính
các cơng viên động vật hoang dã ở Đông Phi khách không được đảm bảo chắc
chắn rằng sẽ nhìn thấy chúng.
- Du lịch bằng tàu biển
Du lịch đường biển đã phát triển với tốc độ cao và xu hướng sẽ tiếp tục
phát triển như thế trong thập kỷ tới. Năm 1997, có khoảng 7 triệu người đã đi
du lịch bằng tàu biển, đến năm 2000 có 9 triệu người. rất nhiều hàng du lịch
đã đưa các chương tình du lịch bằng tàu biển vào sách giới thiệu của họ. Mặc
dù số lượng khách tàu biển tăng lên nhanh chóng nhưng cơng suất của các tàu
du lịch lại tăng nhanh hơn do đó sẽ dẫn đến việc cung vượt cầu trong những
năm trước mắt.
- Du lịch mạo hiểm
Thế giới ngày càng trở nên quen thuộc, chỉ cịn lại một số ít điểm du lịch
mới cho khách du lịch ưa khám phá. Xuất hiện xu hướng thích leo lên các
đỉnh núi cao, du lịch xuống đại dương, du lịch đến các cực của trái đất, thậm
chí du lịch đến các vì sao. Năm 1999 trên 2,5 triệu khách du lịch đi thám hiểm
đại dương, du lịch dưới đại dương được coi là mặt trận mới cho các nhà thám
hiểm - khách du lịch. Du lịch đến các cực của trái đất trước mắt sẽ chỉ phục
vụ được cho một số rất ít khách.
1.1.3.2. Yêu cầu của phát triển du lịch trong thời kỳ hội nhập quốc tế
Trước những đặc điểm của phát triển du lịch nêu trên, yêu cầu đặt ra đối
với phát triển du lịch trong quá trình hội nhập quốc tế là:
+ Phát triển du lịch với vai trò là một ngành kinh tế mũi nhọn là hướng
tích cực để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy các ngành khác
phát triển, góp phần thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
20
+ Phát triển du lịch nhanh và bền vững, tranh thủ mọi nguồn lực trong và
ngoài nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế; nâng cao
chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng yêu cầu phát triển.
+ Phát triển cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa, đảm bảo đạt hiệu quả
cao về kinh tế, chính trị và xã hội, lấy phát triển du lịch quốc tế là hướng
chiến lược.
+ Phát triển du lịch kết hợp chặt chẽ với an ninh, quốc phịng, trật tự, an
tồn xã hội, góp phần phục vụ đắc lực sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
1.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.2.1. Nội dung phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế
1.2.1.1. Phát triển sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hoá cung cấp cho du khách, được
tạo nên bởi việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các
nguồn lực: cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay
một quốc gia nào đó.
Với khái niệm trên, ta thấy sản phẩm du lịch bao gồm cả những yếu tố
vơ hình và yếu tố hữu hình. Yếu tố hữu hình là hàng hố, yếu tố vơ hình là
dịch vụ.
Xét theo tiến trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến hành trình du
lịch thì chúng ta có thể tổng hợp các thành phần của sản phẩm du lịch theo
các nhóm cơ bản sau: dịch vụ vận chuyển; dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống,
đồ ăn thức uống; dịch vụ tham quan giải trí; hàng hoá tiêu dùng và đồ lưu
niệm; các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch.
Sản phẩm du lịch có nét đặc trưng là về cơ bản không tồn tại dưới dạng
vật thể. Thành phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ(thường chiếm 80%
- 90% về mặt giá trị).
Do vậy việc đánh giá chất lượng của sản phẩm du lịch là rất khó khăn, vì
thường mang tính chủ quan và phần lớn không phụ thuộc vào người kinh
21
doanh mà phụ thuộc vào khách du lịch. Chất lượng của sản phẩm du lịch
được xác định dựa vào sự chênh lệch giữa mức độ kỳ vọng và mức độ cảm
nhận về chất lượng của khách du lịch, đặc biệt là càng khó đánh giá chất
lượng sản phẩm du lịch hơn trong bối cảnh hội nhập quốc tế do có sự khác
nhau về văn hoá, nhu cầu thị hiếu và mức độ cảm thụ của du khách ở các
quốc gia khác nhau.
Sản phẩm du lịch được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch. Do
vậy sản phẩm du lịch không thể dịch chuyển được. Trên thực tế, khơng thể
đưa sản phẩm du lịch tới nơi có khách du lịch mà bắt buộc khách du lịch phải
đến nơi có sản phẩm du lịch để thoả mãn nhu cầu của mình thơng qua việc
tiêu dùng sản phẩm du lịch.
Đặc điểm này của sản phẩm du lịch là một trong những nguyên nhân gây
khó khăn cho các nhà kinh doanh du lịch trong việc tạo ra sản phẩm.
Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng các sản phẩm du lịch trùng nhau
về không gian và thời gian. Chúng không thể cất đi, tồn kho như các loại hàng
hố thơng thường khác.
Do vậy để tạo ra sự ăn khớp giữa sản xuất và tiêu dùng là rất khó khăn.
Việc thu hút khách du lịch nhằm tiêu thụ sản phẩm du lịch là vấn đề vô cùng
quan trọng đối với các nhà kinh doanh du lịch.
Muốn phát triển được sản phẩm du lịch trong bối cảnh hội nhập quốc
tế như hiện nay thì các nhà kinh doanh du lịch phải tập trung nghiên cứu
nắm bắt được xu hướng về nhu cầu, thị hiếu của từng thị trường du
khách(bao gồm cả thị trường du khách quốc tế và thị trường du khách nội
địa), từ đó tạo ra các sản phẩm du lịch phù hợp với nhu cầu của các đối
tượng du khách khác nhau, tăng khả năng cạnh tranh thu hút du khách với
các quốc gia khác trên thế giới.
1.2.1.2. Phát triển cơ sở kinh doanh du lịch
- Phát triển cơ sở lưu trú.
22
Cơ sở lưu trú du lịch là cơ sở cho thuê buồng, giường và cung cấp các
dịch vụ khác phục vụ khách lưu trú, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú du
lịch chủ yếu.
Các loại cơ sở lưu trú du lịch bao gồm: Khách sạn; Làng du lịch; Biệt
thự du lịch; Căn hộ du lịch; Bãi cắm trại du lịch; Nhà nghỉ du lịch; Nhà ở có
phịng cho khách du lịch thuê; Các cơ sở lưu trú du lịch khác.
Trước thực tế nhu cầu ngày càng cao của du khách, đặc biệt là trong thời
kỳ hội nhập, khách du lịch quốc tế ngày càng tăng, nhu cầu đòi hỏi các dịch
vụ du lịch có chất lượng cao và chun nghiệp thì việc phát triển du lịch
khơng thể khơng chú trọng tới hệ thống cơ sở lưu trú. Do đó một trong những
nội dung quan trọng trong q trình phát triển du lịch trong thời kỳ hội nhập
hiện nay là phải đầu tư nâng cấp, xây mới các cơ sở lưu trú có chất lượng cao,
phong phú, đa dạng nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của du khách. Có
như vậy mới lưu giữ được khách du lịch và tăng doanh thu cho ngành du lịch.
- Phát triển cơ sở dịch vụ vui chơi, giải trí, chăm sóc khách du lịch.
Bên cạnh nhu cầu tham quan thắng cảnh của du khách vui chơi, giải trí,
ẩm thực, nghỉ dưỡng chữa bệnh là những nhu cầu thiết thực của khách du
lịch. Vì vậy kinh tế du lịch phải hướng tới xây dựng các khu vui chơi giải trí
với nhiều loại hình phong phú, đa dạng đáp ứng được nhu cầu của mọi đối
tượng; đồng thời cũng phải phát triển các dịch vụ chăm sóc, chữa bệnh và nghỉ
dưỡng của du khách. Có như vậy, du lịch mới có được cơ sở vững chắc cho sự
phát triển bền vững nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế như hiện nay.
1.2.1.3. Phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ du khách
Kết cấu hạ tầng là tiền đề, là đòn bẩy của mọi hoạt động kinh tế, trong
đó có kinh tế du lịch. Trong kết cấu hạ tầng, mạng lưới và phương tiện giao
thông là những nhân tố quan trọng hàng đầu, đồng thời hệ thống thông tin liên
lạc (TTLL), mạng lưới cung cấp điện - nước sạch cũng là những thành phần
phục vụ trực tiếp cho hoạt động du lịch.
23
Du lịch gắn với sự di chuyển của con người trên một khoảng cách nhất
định. Chính vì thế, du lịch phụ thuộc vào giao thông (mạng lưới đường sá
và phương tiện giao thơng). Một đối tượng có thể có sức hấp dẫn đối với
khách du lịch nhưng vẫn không thể khai thác được khi thiếu nhân tố giao
thông. Việc phát triển giao thơng cho phép mau chóng khai thác nguồn tài
nguyên du lịch.
Hệ thống thông tin liên lạc là một phần quan trọng trong cơ sở hạ tầng của
các hoạt động du lịch. Nó là điều kiện cần thiết để đảm bảo giao lưu cho khách
du lịch trong nước và quốc tế. Trong hoạt động du lịch, TTLL đảm nhiệm việc
vận chuyển các tin tức một cách nhanh chóng và kịp thời, góp phần thực hiện
các mối giao lưu giữa các vùng, các nước. Đặc biệt trong đời sống kinh tế - xã
hội hiện đại nói chung cũng như ngành du lịch không thể thiếu được TTLL.
Mạng lưới TTLL ngày càng trở nên phong phú và hiện đại hơn trước đã tạo
những điều kiện tiện ích, rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian, giảm
giá thành sản phẩm cho du khách. Đây là những điều kiện thuận lợi hấp dẫn
khách du lịch và triển khai các hoạt động kinh doanh của các công ty du lịch.
Hệ thống các cơng trình cung cấp điện và nước sạch là điều kiện cần
thiết đảm bảo nhu cầu tối thiểu của khách du lịch tại các điểm đến. Hệ thống
điện đảm bảo cho các hoạt động du lịch diễn ra thường xuyên, liên tục. Hệ
thống thiết bị xử lí cấp thốt nước, giảm lượng chất thải và xử lí chất thải
đúng tiêu chuẩn, kĩ thuật quy định vừa tạo ra những điều kiện đáp ứng nhu
cầu về nước sạch cho khách du lịch và các hoạt động về du lịch, vừa tạo ra
môi trường trong sạch hấp dẫn du khách. Đồng thời đó cũng là một trong
những yêu cầu quan trọng để mỗi doanh nghiệp du lịch, mỗi địa phương, quốc
gia phát triển du lịch bền vững.
1.2.1.4. Khai thác tiềm năng và mở rộng thị trường du lịch
Tiềm năng du lịch bao gồm các tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên
nhân văn. Trong q trình phát triển du lịch, các nhà chính sách các cấp chính
24
quyền, các cơ quan, ban ngành quản lý du lịch cần phải có tầm nhìn chiến
lược, phân tích được tiềm năng du lịch của từng địa phương, từng vùng để có
những biện pháp tác động nhằm khai thác tối ưu tiềm năng du lịch của các địa
phương, các vùng.
Khi tạo ra bất kỳ một sản phẩm nào trong kinh doanh ở bất kỳ ngành nào
cũng cần có thị trường tiêu thụ. Du lịch cũng vậy, việc tìm kiếm thị trường là
hết sức quan trọng. Tuy nhiên kinh tế du lịch lại có tính đặc thù, khác với các
ngành kinh tế khác ở chỗ, người ta không thể đem sản phẩm du lịch đến nơi
có khách hàng có nhu cầu tiêu thụ sản phẩm du lịch mà khách du lịch có nhu
cầu tiêu thụ sản phẩm du lịch phải đến nơi có sản phẩm du lịch để thỏa mãn
nhu cầu của mình. Vì vậy muốn mở rộng thị trường du lịch thì ngành du lịch
phải nắm bắt, dự báo được xu hướng phát triển của du lịch và thông qua việc
tuyên truyền, quảng bá hình ảnh du lịch nhằm thu hút du khách (bao gồm cả
thị trường nội địa và thị trường quốc tế).
1.2.1.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ lao động phục vụ trong hoạt
động du lịch
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, sự thành công của bất cứ
ngành nào, lĩnh vực nào đều phụ thuộc trước hết vào nhân tố con người. Con
người ở đây được đánh giá theo các tiêu chuẩn: sự hiểu biết về lý luận và kỹ
năng làm việc mà họ có được; phẩm chất đạo đức và sức khoẻ của họ. Sự hiểu
biết và kỹ năng lao động của con người có được là nhờ q trình đào tạo bồi
dưỡng và lao động.
Chính vì vậy việc nâng cao chất lượng đội ngũ lao động trong ngành du
lịch đảm bảo cho họ có đủ trình độ chun mơn, kỹ năng lao động, đạo đức
nghề nghiệp để phục vụ du khách và đặc biệt là phải chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng trình độ ngoại ngữ cho nguồn nhân lực du lịch để giao tiếp, phục vụ
khách du lịch quốc tế là một nội dung vô cùng quan trọng trong quá trình phát
triển du lịch trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Làm tốt công tác này vừa tạo sự
25
hứng thú cho du khách, vừa có thể làm cho du khách nhận thức đúng và có ý
thức trách nhiệm về mơi trường, các giá trị văn hố truyền thống.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch trong hội nhập
quốc tế
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển du lịch, đặc biệt
là trong thời kỳ hội nhập quốc tế như ngày nay. Theo nghiên cứu của René
Baretje về yêu cầu du lịch, năm 1972, đã lưu ý rằng: “Trước vô số nhân tố
được kể đến thì có xu hướng lớn là đề nghị một sự phân loại nhưng xuất hiện
ngay một khó khăn, ranh giới giữa các tiêu chí xét đến vẫn khơng rõ ràng”.
Bản thân du lịch cũng có nhiều cách hiểu, nhiều cách tiếp cận khác nhau, ta
vẫn có thể xác định những nhóm nhân tố giải thích sự phát triển của kinh tế
du lịch. Có thể coi các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của du lịch trình
bày trong một hàm số kiểu Y = f(X1, X2, X3…Xk). Ở đó Y là yêu cầu du lịch
và f là hàm số thao tác nối liền các thừa số X1, X2, X3…,Xk. Tuy nhiên có
thể kể ra một số nhân tố cơ bản sau:
1.2.2.1. Điều kiện tự nhiên (Thời tiết, khí hậu, địa hình…) và các
nhân tố nhân văn
+ Điều kiện tự nhiên:
Trong quá trình phát triển kinh tế du lịch, vị trí địa lí được coi là một
trong những nguồn lực quan trọng. Vị trí địa lí bao gồm vị trí địa lí về mặt tự
nhiên (phạm vi lãnh thổ có giới hạn và toạ độ địa lí), vị trí về kinh tế - xã hội
và chính trị. Vị trí địa lí có ý nghĩa về mặt giao thơng, giao lưu trao đổi. Khi
phân tích và đánh giá vị trí địa lí cần đặt nó trong khung cảnh vùng, quốc gia,
khu vực và quốc tế. Vị trí địa lí quy định tài nguyên du lịch tự nhiên như địa
hình, khí hậu, nguồn nước, sinh vật… góp phần thu hút khách du lịch. Như
vậy khơng thể phủ nhận vị trí địa lí tự nhiên hay do chính con người tạo nên
là một trong những yếu tố góp phần phát triển kinh tế du lịch, hay địa phương