1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với sự đa dạng hình thức sở hữu nhằm
phát huy mọi tiềm lực của đất nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Đây là quan điểm định hướng chiến lược đúng đắn trong điều kiện nền
kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong những năm qua, các
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nói chung đã từng bước thể hiện là bộ phận
nòng cốt của kinh tế nhà nước, đóng góp rất lớn trong q trình xây dựng và
phát triển kinh tế, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, góp phần thúc đẩy nhanh
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và góp phần thực hiện cơng cuộc cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là thành tựu không thể phủ nhận của
doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, cùng với những yêu cầu mới của
tiến trình phát triển, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các DNNN đã
bộc lộ nhiều mặt hạn chế, hiệu quả sản xuất kinh doanh có xu hướng kém dần,
năng lực cạnh tranh thấp, cơng nghệ lạc hậu, thậm chí một số DNNN cịn làm
ăn thua lỗ kéo dài gây thất thốt lớn của cải, vật chất của đất nước. Từ thực
trạng đó, vấn đề đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực DNNN
được đặt ra cấp bách đòi hỏi phải có những giải pháp đột phá. Một trong
những giải pháp mang tính đột phá chiến lược đó là là chuyển một bộ phận
DNNN không cần nắm giữ 100% vốn sang công ty cổ phần hay là thực hiện
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng trung du phía Bắc của nước ta, tiếp
giáp giữa vùng Đông bắc, Tây bắc và đồng bằng sông Hồng. Với vị trí địa lý
mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng Tây Đơng Bắc, Phú Thọ có một lợi thế
2
hết sức quan trọng cần được phát huy trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh. Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cũng có nhiều doanh nghiệp nhà nước
do tỉnh quản lý.
Cùng với tiến trình cổ phần hóa nâng cao hiệu quả hoạt động của
DNNN cả nước nói chung, trong những năm gần đây, tỉnh Phú Thọ cũng thực
hiện cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp nhà nước. Các DNNN sau cổ phần hóa
(CPH) ở Phú Thọ thời gian qua cũng đã thể hiện được tính hiệu quả rõ rệt, từ
đó góp phần thực hiện vai trị to lớn trong việc thúc đẩy kinh tế, xã hội của
tỉnh phát triển.
Mặc dù hiện nay trong hoạt động các DNNN sau CPH của tỉnh Phú Thọ
vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết, đặc biệt là vấn đề về lợi ích kinh tế của
người lao động nhiều lúc chưa được chăm lo đúng mức. Thậm chí có doanh
nghiệp sau cổ phần hóa người lao động bị mất việc làm mà không được hỗ trợ
thoả đáng, nhiều người lao động khơng được đóng bảo hiểm xã hội gây ra những
bức xúc trong người lao động, đây là vấn đề rất cần phải được nghiên cứu và có
giải pháp phù hợp.
Thực tế cho thấy, sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo nhằm mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”
có thực hiện được hay khơng chính là ở chỗ giải quyết đúng đắn quan hệ kinh tế,
trong đó lợi ích kinh tế của người lao động là một nhân tố có ý nghĩa quyết định
đối với quá trình sản xuất của cải vật chất xã hội. Lợi ích của người lao động
phải được sự quan tâm thích đáng, phải trở thành động lực để phát triển kinh tế xã hội. Tỉnh Phú Thọ muốn phát triển kinh tế, ổn định xã hội, ngồi việc giải
quyết nhiều vấn đề khác thì vấn đề đảm bảo lợi ích kinh tế cho người lao động
cần phải được quan tâm nhiều hơn nữa.
Xuất phát từ lý do đó, vấn đề “Lợi ích kinh tế của người lao động
trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa của tỉnh Phú Thọ” được
chọn để nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ kinh tế này.
3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề lợi ích kinh tế đã được Đảng ta bắt đầu quan tâm từ Hội nghị
lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (9 - 1979). Đến Đại hội VI
Đảng ta nhấn mạnh: Lợi ích của người sản xuất kinh doanh là động lực trực
tiếp đối với hoạt động kinh tế, và tạo cơ sở cho việc đáp ứng các lợi ích khác.
Ở nước ta, từ năm 1980 đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết về
lợi ích kinh tế, các doanh nghiệp cổ phần nhà nước… được công bố như:
- “Bàn về các lợi ích kinh tế” do Đào Duy Tùng chủ biên, Nhà xuất bản
Sự thật, Hà Nội, 1982.
- “Lợi ích kinh tế của người lao động, vai trị của cơng đồn với việc bảo
vệ lợi ích này trong các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân”, Nguyễn Lợi, Luận
văn thạc sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 1995.
- “Lợi ích, động lực phát triển xã hội” do Nguyễn Linh Khiếu chủ biên
Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, 1999.
- “Hệ thống các lợi ích kinh tế và cơ chế thực hiện các lợi ích kinh tế
trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay”, Bùi Thu Hà, Luận
án tiến sĩ (2000), Trường Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
- “Cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam hiện nay, mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Lê Hữu Nghĩa, Tạp chí Cộng sản, số 22/2004.
- “Cổ phần hóa DNNN kết quả, vướng mắc và giải pháp” Hồ Xuân
Hùng, Tạp chí Cộng sản, số 18/2004…
- Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội, Nguyễn Thị Minh Loan, Luận văn thạc sĩ
kinh tế (2007), Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Các cơng trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề lợi ích, lợi ích
kinh tế, vai trị của lợi ích kinh tế… dưới nhiều góc độ khác nhau; đề cập đến
mục tiêu, kết quả, những thuận lợi, khó khăn của q trình cổ phần hóa
DNNN… mà chưa đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về quan hệ lợi ích kinh tế giữa
4
người lao động và người sử dụng lao động trong các DNNN sau CPH. Do đó,
việc nghiên cứu đề tài này là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là phân tích, làm rõ vấn đề lợi ích kinh tế của
người lao động trong các DNNN sau CPH của tỉnh Phú Thọ. Từ đó đề xuất
quan điểm và giải pháp góp phần đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao động
trong các DNNN sau CPH.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Hệ thống hóa, làm rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích kinh
tế, lợi ích kinh tế của người lao động, lợi ích kinh tế của người lao động trong
các DNNN sau CPH.
- Phân tích thực trạng lợi ích kinh tế của người lao động trong các
DNNN sau CPH của tỉnh Phú Thọ, chỉ ra những những khía cạnh hạn chế cần
tiếp tục khắc phục.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản để đảm bảo lợi ích kinh
tế của người lao động trong các DNNN sau CPH của tỉnh Phú Thọ từ nay đến
năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lợi ích kinh tế của người lao động
trong các DNNN sau CPH của tỉnh Phú Thọ từ khi thực hiện Luật doanh
nghiệp năm 2005 đến năm 2011.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về lợi ích
kinh tế; luận văn cũng kế thừa, tham khảo, tiếp thu có chọn lọc những kết quả
nghiên cứu liên quan của các nhà nghiên cứu khác.
5
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp trừu tượng hóa khoa
học; phương pháp thống kê phân tích để làm rõ chủ đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về lợi ích kinh tế
của người lao động trong các DNNN sau CPH.
- Giúp cho các DNNN sau CPH ở tỉnh Phú Thọ nhận thức sâu sắc hơn
về việc đảm bảo lợi ích kinh tế đối với người lao động trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó có những chính sách giải
quyết tốt lợi ích kinh tế nhằm tạo động lực để phát triển sản xuất kinh doanh.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho quá trình nghiên
cứu soạn thảo các văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề đảm bảo lợi ích cho
người lao động.
- Luận văn có thể góp phần cung cấp thêm luận cứ khoa học cho Liên
đoàn lao động tỉnh Phú Thọ nói riêng và tổ chức Cơng đồn Việt Nam nói chung
trong việc đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt chức năng đại diện bảo về
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động ở các doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HĨA
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG, VAI TRỊ CỦA LỢI ÍCH KINH TẾ
1.1.1. Khái niệm lợi ích kinh tế
* Lợi ích
Trong tiến trình phát triển của xã hội lồi người, vấn đề lợi ích ln là
chủ đề được quan tâm đặc biệt. Bởi lẽ, lợi ích ln là động lực trực tiếp thúc
đẩy các hoạt động của con người. Chính vì vậy, đã có nhiều cơng trình, nhiều
cách tiếp cận khác nhau về chủ đề lợi ích cũng như vai trị của lợi ích, đặc
biệt là lợi ích kinh tế đối với sự phát triển của xã hội.
Có nhiều quan điểm khác nhau về lợi ích, nhưng hầu như các nhà lý
luận đều thống nhất khẳng định rằng lợi ích hình thành trên cơ sở nhu cầu và
những hoạt động thỏa mãn nhu cầu của con người. Vì vậy, tìm hiểu nhu cầu
của con người và các mối quan hệ xã hội trong đó con người hoạt động để
thỏa mãn nhu cầu là cơ sở khách quan để xem xét lợi ích.
Nhu cầu của con người được hình thành, phát triển, hồn thiện và được
đáp ứng chính trong thực tiễn lao động sản xuất và phân phối trao đổi sản
phẩm của lao động. Một mặt, con người thông qua q trình đó mà tạo ra sản
phẩm để đáp ứng những nhu cầu hiện có đang đặt ra, mặt khác, cũng chính
trong q trình đó mà những nhu cầu mới hình thành, nảy sinh. Nhu cầu của
con người rất đa dạng về chủng loại, hình thức, cấp độ, tính chất… đồng thời
những nhu cầu đó lại ln ln phát triển và mở rộng.
Lợi ích khơng phải là cái trùng lặp với nhu cầu, nhưng cũng khơng
hồn tồn tách biệt với nhu cầu. Phương tiện để thỏa mãn nhu cầu đối với chủ
thể hoạt động chính là lợi ích. Lợi ích là cái đáp ứng nhu cầu và do đó nó chỉ
có nghĩa là lợi ích khi được đặt trong mối quan hệ với nhu cầu.
7
Cũng cần nhấn mạnh thêm là trong mối quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích,
nhu cầu quyết định đối với chủ thể là lợi ích, do đó nhu cầu là cơ sở của lợi
ích, cịn lợi ích ngược lại xuất phát từ nhu cầu, dựa vào nhu cầu, là sự thể hiện
của nhu cầu. Khi nhu cầu bắt đầu xuất hiện thì con người chủ thể cũng bắt đầu
hướng sự nhận thức của mình vào việc tìm kiếm cái thỏa mãn nhu cầu đó, tức
là lợi ích chưa có thì hành động của con người nhằm đoạt lấy lợi ích cũng
chưa có. Khi lợi ích đã xuất hiện và đã được tìm thấy, đã được nhận thức, thì
nó trở thành mục tiêu của hành động con người. Nói cách khác, sự phản ánh
của lợi ích trong ý thức lúc này đã biến thành mục đích, thành động cơ tư
tưởng và chính động cơ tư tưởng đó trực tiếp thúc đẩy con người hành động
để dành lấy lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu.
* Lợi ích kinh tế
Lợi ích kinh tế gắn chặt với nhu cầu kinh tế. Là một phạm trù kinh tế,
lợi ích kinh tế biểu hiện tính khách quan trong hoạt động kinh tế của con
người. Nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở một quan hệ sản xuất nhất định
không tùy thuộc vào ý muốn con người. Vì vậy, các quan hệ kinh tế của mỗi
xã hội được biểu hiện trước hết là lợi ích.
Trước C.Mác, khi nghiên cứu về lợi ích kinh tế, các nhà kinh tế học cổ
điển Anh đã đề cao lợi ích kinh tế cá nhân. Họ cho rằng, lợi ích kinh tế cá
nhân là động lực đầu tiên của sự phát triển xã hội. Trong hoạt động kinh tế, sự
theo đuổi lợi ích cá nhân là nguồn gốc, nguyên nhân làm tăng của cải xã hội.
Theo Theo A. Smith (1723 - 1790), con người khi đã tham gia vào hoạt
động kinh tế thì ai cũng theo đuổi lợi ích của cá nhân, đó là tư lợi. Xuất phát
từ lịng ham muốn ham giàu có nên họ ln số gắng hồn thiện chính mình vì
mục đích vị kỷ và ơng tin rằng lòng vị kỷ của cá nhân sẽ đưa tới sự trù phú của
xã hội. Trong cuốn “Của cải của các dân tộc” A. Smith lý giải mỗi quốc gia sẽ
trở nên phồn thịnh nếu mọi cá nhân không ngừng nỗ lực để cải thiện sinh hoạt
của riêng mình… người bán thịt, người nấu rượu, người làm bánh mang đồ ăn
8
đến cho chúng ta chính là vì lợi ích riêng của họ, chúng ta kêu gọi khơng phải
bằng lịng nhân từ của họ, mà kêu gọi sự ích kỷ của họ, chúng ta khơng bao giờ
nói với họ về những nhu cầu của chúng ta, mà chỉ nói với họ về mối tư lợi của
họ. Nhưng xuất phát từ tính vị kỷ của con người, lợi ích của cá nhân này bị nạn
chế bởi lợi ích của cá nhân khác và trong q trình thực hiện lợi ích kinh tế thì
các chủ thể đều có mối quan hệ với nhau nghĩa là anh cho tơi thứ mà tơi thích,
anh sẽ có thứ mà anh u cầu. Đó là tồn bộ ý nghĩa của quan hệ kinh tế và cũng
bằng cách này mà người ta nhận được phần lớn dịch vụ cần thiết.
Như vậy, A. Smith đã nghiên cứu về lợi ích kinh tế trong mối quan hệ
qua lại giữa chúng. Theo ơng bất cứ lợi ích nào cũng chỉ được đáp ứng trong
trường hợp nó khơng mâu thuẫn với tăng năng xuất lao động. Ông nhận thấy
tăng năng suất lao động phụ thuộc vào phân công lao động xã hội và vì tư lợi
mới nẩy sinh phân cơng lao động, đến lượt nó phân cơng lao động xã hội lại
làm cho tư lợi gia tăng. Tiền lương tăng cao không mâu thuẫn với lợi ích xã
hội vì theo mức tăng tiền lương thì năng xuất lao động cũng sẽ tăng lên. Mặt
tích cực trong lý luận lợi ích kinh tế của A.Smith đó là: lợi ích kinh tế được
coi là động cơ của sự phát triển sản xuất xã hội. Ông thừa nhận yếu tố khách
quan trong nội dung của lợi ích kinh tế với tư cách là đầu mối trong hoạt động
kinh tế của con người.
Theo D.Ricardo (1772 - 1823), lợi ích kinh tế của các giai cấp khác
nhau được xây dựng trên cơ sở lý luận về giá trị. Ông coi tiền lương và lợi
nhuận chi là hai bộ phận của giá trị và cùng có nguồn gốc từ lao động. Việc
tăng hay giảm tiền lương của công nhân khơng ảnh hưởng đến giá trị của
hàng hóa mà chỉ ảnh hưởng đến thu nhập của nhà tư bản; hay nói cách khác
nó chỉ ảnh hưởng đến việc phân phối giá trị đã được tạo ra giữa công nhân và
nhà tư bản, do đó chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của họ về mặt số lượng. Trong số
giá trị mới được tạo ra, phần của công nhân nhỏ hơn, cịn phần của những
người đi th cơng nhân thì lớn hơn. D.Ricardo coi điều đó là kết quả của các
9
quy luật tự nhiên trong sự phát triển xã hội, là phù hợp với các nguyên tắc của
kinh tế chính trị.
Đến giữa thế kỷ XIX, C.Mác (1818 - 1883) và Ph.Ăngghen (1820 - 1895)
đã đưa ra phương pháp mới về nguyên tắc trong việc nghiên cứu lợi ích kinh tế.
Hai ơng đã tìm ra điều kiện lợi ích là các quan hệ kinh tế. Những quan hệ này ít
nhiều đã phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất hiện có.
Khi nhấn mạnh ý nghĩa xã hội và tính chất bao quát chung của phạm
trù lợi ích, C.Mác đã hình thành nên quan điểm cho rằng, tất cả những gì con
người đấu tranh vì nó đều gắn với lợi ích của con người, khơng chỉ những cá
nhân riêng lẻ mà còn cả các giai cấp khác nhau và cả xã hội nói chung. Con
người trong hoạt động thực tiễn của mình đều bị chi phối bởi các lợi ích,
trong đó lợi ích kinh tế giữ vai trị quyết định. Hai ơng cho rằng, lợi ích kinh
tế không chỉ là biểu hiện cụ thể của quan hệ sản xuất mà còn là “nguyên tắc
cơ bản chi phối hoạt động của con người” [21, tr.346].
Trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ đề lợi ích được
đề cập rất nhiều trong các tác phẩm kinh điển. Theo C.Mác thì phạm trù lợi
ích, ích lợi, có lợi được sử dụng cùng nghĩa và có thể thay thế nhau. Lợi ích
khơng phải là cái gì trừu tượng và có tính chất chủ quan, mà cơ sở của lợi ích
là nhu cầu khách quan của con người. Con người có nhiều loại nhu cầu (vật
chất, chính trị, văn hố, tinh thần) do đó có nhiều loại lợi ích (lợi ích kinh tế,
lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá, tinh thần).
Trong bất cứ nền sản xuất xã hội nào, lợi ích kinh tế ln là mối quan
tâm của tất cả các chủ thể kinh tế và mọi thành viên trong xã hội. Điều đó
được biểu hiện rất đa dạng, phong phú. Do đó, lợi ích kinh tế là vấn đề cơ bản
xuyên suốt mọi nền sản xuất, của tồn bộ tiến trình vận động và phát triển của
lịch sử. Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, lợi
ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những quan hệ xã hội, những quan hệ
kinh tế trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
10
Theo C.Mác: “nói về người…chỉ là người tượng trưng cho một phạm trù
kinh tế, là người mang những quan hệ giai cấp và lợi ích nhất định” [21, tr.213].
Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và đặc biệt trong bộ “Tư bản” vấn đề
lợi ích kinh tế và vai trị của nó trong q trình sản xuất xã hội đã được C.
Mác nghiên cứu một cách cặn kẽ và khoa học trên quan điểm làm rõ tính
khơng điều hịa về lợi ích kinh tế giữa giai cấp tư sản và giai cấp vơ sản.
Trong các tác phẩm của mình V. I. Lênin tiếp tục nghiên cứu cụ thể vấn
đề lợi ích kinh tế trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, Lênin cho rằng cần phải thấy những lợi ích
là khách quan khi nói: “Lợi ích thúc đẩy cuộc sống các dân tộc” [11, tr.82],
đồng thời lợi ích là phạm trù có tính chất chủ thể - xác định, tức là bất kỳ một
lợi ích nhất định nào cũng đều là cái vốn có của những chủ thể (những con
người, những giai cấp,…) tương ứng.
Trong tác phẩm “Vấn đề nhà ở” Ph.Ăngghen đã chỉ rõ “Những quan
hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức
lợi ích” [20, tr.376].
Ở Việt Nam, rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu đến vấn đề
lợi ích kinh tế. Tác giả Đào Duy Tùng đưa ra quan điểm: Lợi ích kinh tế là
hình thức biểu hiện những quan hệ kinh tế, quan hệ giữa người và người trong
sản xuất. Điều này thể hiện người nào nắm tư liệu sản xuất, điều hành quá
trình sản xuất, quyết định phân phối sản phẩm cũng chính là người giữa vai
trị quyết định trong hệ thống sản xuất. Tác giả Vũ Hữu Ngoạn cũng khẳng
định: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu
hiện trước hết của quan hệ sản xuất… Lợi ích kinh tế là cơ chế tác động
chung của tất cả các quy luật kinh tế.
Bàn về lợi ích kinh tế tác giả Khoa Minh lại cho rằng “Lợi ích kinh tế
là sự biểu hiện của những quan hệ kinh tế đối với việc thoả mãn những nhu
cầu vật chất cần thiết cho đời sống dưới hình thức mục đích xác định của hoạt
động kinh tế của con người… Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện cụ thể các
quan hệ kinh tế và quy luật phản ánh các quan hệ kinh tế đó” [23, tr.296].
11
Theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin thì lợi ích kinh tế là lợi
ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan của các chủ thể
kinh tế khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ
sản xuất quyết định.
Từ những quan điểm khác nhau trên đây có thể thấy rằng: Trong bất cứ
xã hội nào con người muốn tồn tại phải thoả mãn nhu cầu về ăn mặc, ở, đi lại,
bảo vệ sức khoẻ, học tập và giải trí. Nói cách khác con người muốn sống, tồn
tại cần thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần để phát triển thể lực và
trí lực của mình. Tồn bộ những nhu cầu đó được biểu hiện dưới một hình
thức chung nhất chính là lợi ích. Nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát
triển kinh tế - xã hội.
Trong xã hội có nhiều động lực như động lực kinh tế, chính trị … song
động lực chủ yếu, suy cho cùng, là động lực kinh tế vì nó có ý nghĩa quyết
định thúc đẩy con người hành động, chi phối nội dung các động lực khác.
Cuộc sống của con người bao giờ cũng địi hỏi nhu cầu vật chất và văn hố
ngày càng cao. Nhưng không phải bất kỳ nhu cầu nào của con người cũng
được thoả mãn và đều là lợi ích kinh tế, mà chỉ có những nhu cầu mang tính
vật chất (nhu cầu kinh tế) mới thuộc phạm trù lợi ích kinh tế. Nhu cầu đó phụ
thuộc vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất nhất định.
Như vậy, lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và
động cơ khách quan của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định. Mỗi một con người hay xã
hội muốn tồn tại và phát triển thì nhu cầu của họ phải được đáp ứng. Lợi ích
và nhu cầu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Lợi ích bắt nguồn từ nhu cầu và
là cái để đáp ứng nhu cầu, nhu cầu làm nảy sinh lợi ích.
Cũng giống như lợi ích của con người nói chung, lợi ích kinh tế gắn
liền với nhu cầu, song đây không phải là nhu cầu bất kỳ, mà là nhu cầu kinh
tế (nhu cầu vật chất). Chỉ có những nhu cầu kinh tế mới làm phát sinh lợi ích
12
kinh tế. Vì vậy lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế, một mặt, nó phản ánh
những điều kiện, những phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất của mỗi
con người, mỗi chủ thể. Suy cho cùng, lợi ích kinh tế được biểu hiện ở mức
độ của cải vật chất mà mỗi con người có được khi tham gia vào các hoạt động
kinh tế - xã hội. Mặt khác, nó phản ánh quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình tham gia vào các hoạt động đó để tạo ra của cải vật chất cho
mình - đó là quan hệ sản xuất trong xã hội. Vì vậy lợi ích kinh tế cịn là hình
thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất quyết định.
Quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất,
quyết định vị trí, vai trị của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham
gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Do đó, khơng có lợi ích kinh tế nằm
ngồi những quan hệ sản xuất, mà nó là sản phẩm của những quan hệ sản
xuất, là hình thức vốn có bên trong, hình thức tồn tại và biểu hiện của các
quan hệ sản xuất. Hệ thống quan hệ sản xuất của mỗi một chế độ xã hội nhất
định sẽ quy định hệ thống lợi ích kinh tế của xã hội đó.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại nhiều quan
hệ sản xuất, mà trước hết là nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất, nhiều thành phần kinh tế, do đó hệ thống lợi ích kinh tế cũng mang tính
đa dạng. Tuỳ góc độ xem xét mà ta có thể phân chia thành các nhóm, các loại
lợi ích kinh tế khác nhau sau đây:
- Dưới góc độ khái quát nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích kinh tế
thành: Lợi ích kinh tế cá nhân, lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội.
- Dưới góc độ các thành phần kinh tế, có lợi ích kinh tế tương ứng với
các thành phần kinh tế đó.
- Dưới góc độ các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích kinh
tế của người sản xuất, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng.
Dù cách phân chia có thể khác nhau nhưng các lợi ích kinh tế bao giờ
cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với
13
nhau. Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: chúng cùng đồng thời tồn tại trong một
hệ thống, trong đó lợi ích kinh tế này là cơ sở, là tiền đề cho lợi ích kinh tế
khác. Mặt mâu thuẫn biểu hiện ở sự tách biệt nhất định giữa các lợi ích đó dẫn
đến xu hướng lấn át của lợi ích kinh tế này đối với lợi ích kinh tế khác. Do đó,
nó có thể gây nên những xung đột nhất định, ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt
động kinh tế - xã hội. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, thì các lợi ích
kinh tế cũng mang tính đối kháng, do đó, nó dẫn đến những cuộc đấu tranh
khơng khoan nhượng giữa các giai cấp.
Trong xã hội hiện nay, lợi ích kinh tế thường được biểu hiện ở các hình thức
thu nhập như: tiền lương, tiền cơng, lợi nhuận, lợi tức, địa tơ, thuế, phí, lệ phí...
1.1.2. Đặc trưng của lợi ích kinh tế
Thứ nhất, lợi ích kinh tế luôn gắn với nhu cầu kinh tế, là động lực thúc
đẩy sự phát triển của xã hội.
Lợi ích và nhu cầu của con người ln gắn bó chặt chẽ với nhau, bởi lẽ
lợi ích là sự hiện thực hóa nhu cầu, đáp ứng nhu cầu của con người. Như vậy,
xét một cách khái quát, lợi ích là mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của
thế giới bên ngoài với nhu cầu của chủ thể, là điều kiện để thỏa mãn về nhu
cầu nhất định của con người.
Con người ln mong muốn có đời sống vật chất và đời sống tinh thần
ngày càng cao hơn, đầy đủ hơn, do đó các nhu cầu của con người là khơng
ngừng phát triển. Muốn thỏa mãn nhu cầu thì lợi ích phải được thực hiện. Lợi
ích khơng phải tự nhiên xuất hiện và ban phát đầy đủ cho mỗi cá nhân mà nó
địi hỏi con người phải hành động. Từng cá nhân, tập thể cho đến toàn xã hội
đều phải hành động mới đạt được mục đích. Điều đó đã gây nên những biến
đổi lớn lao trong đời sống cộng đồng. Vì vậy chúng ta có thể khẳng định: lợi
ích là một trong những động lực quan trọng, trực tiếp thúc đẩy hành động của
con người và thơng qua đó gây nên những biến đổi của thế giới vật chất và
lịch sử xã hội.
14
Thứ hai, lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, bắt nguồn
từ các quan hệ kinh tế của các chủ thể mang những lợi ích nhất định.
Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu
hiện trước hết của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là khách quan. Nó ln
ln tồn tại trong vận động. Sự vận động của quan hệ sản xuất biểu hiện ở sự
vận động của các quy luật kinh tế do nó trực tiếp sinh ra. Thông qua sự vận
động của các quy luật kinh tế mà quan hệ sản xuất ảnh hưởng tới q trình sản
xuất. Ở đây, tính khách quan của quy luật kinh tế thể hiện qua lợi ích để chi
phối người ta phải hành động theo quy luật, do đó đảm bảo quan hệ sản xuất
khách quan. Lợi ích kinh tế bao giờ cũng phản ánh một quan hệ sản xuất, quan
hệ kinh tế nhất định.
Khi không thực hiện được lợi ích kinh tế, nghĩa là khơng nhận được
những những khoản thu nhập nhất định, chủ thể kinh tế không thể tồn tại và
phát triển như là đại biểu độc lập của các quan hệ kinh tế. Như vậy quan hệ
kinh tế quyết định lợi ích kinh tế thơng qua vai trị, vị trí của các chủ thể lợi
ích trong một hệ thống xã hội nhất định.
Lợi ích kinh tế tuy là một phạm trù kinh tế khách quan, nhưng con
người có khả năng nhận thức được nó và vì nó mà hành động. Lợi ích kinh tế
khơng được nhận thức ngay sau khi xuất hiện, mà trước hết chúng biểu hiện
mối quan hệ có tính quy luật giữa sản xuất vật chất và nhu cầu vật chất của
con người. Trong việc hình thành lợi ích, vai trị quyết định thuộc về sản xuất
vật chất, quá trình sản xuất này, đến lượt mình lại được phát triển dưới tác
động của nhu cầu của con người. Đồng thời chính sản xuất có tác động ngược
trở lại đến q trình hình thành nhu cầu của xã hội. Khi là tiền đề cho hoạt
động của con người, nhu cầu đồng thời là sản phẩm của hoạt động đó và khi
xuất hiện trên cơ sở sản xuất xã hội, nhu cầu đến lượt mình lại có thể tác động
đến sản xuất vật chất, nhưng không phải là trực tiếp, mà là gián tiếp thông qua
tổng hồ các lợi ích kinh tế. Mối quan hệ giữ các phạm trù trên có thể được
biểu hiện như sau: SẢN XUẤT - LỢI ÍCH - NHU CẦU - LỢI ÍCH - SẢN XUẤT.
15
Nhờ thế, lợi ích kinh tế trở thành một trong những động lực cơ bản, phổ
biến của sự phát triển không ngừng của sản xuất và đời sống xã hội. Ăngghen
cho rằng: Lợi ích kinh tế là những động cơ đã lay chuyển quần chúng đông
đảo và khi chúng biến thành sự kích thích hoạt động của con người, thì chúng
“lay động đời sống của nhân dân”.
Nói đến lợi ích kinh tế là nói đến quan hệ phân phối kết quả sản xuất
hình thành thu nhập của những người tham gia vào quá trình sản xuất xã hội.
Theo C. Mác thì quan hệ phân phối này lại phụ thuộc vào quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất. Mỗi quan hệ sản xuất có một phương thức phân phối do đó có
một hình thức thực hiện lợi ích kinh tế. Tính chất của lợi ích kinh tế là do
quan hệ sản xuất quyết định, mà quan hệ sản xuất này lại do trình độ của lực
lượng sản xuất quyết định. Vì vậy lợi ích kinh tế có tính khách quan.
Lợi ích kinh tế biểu hiện mối quan hệ giữa người lao động và người sử
dụng lao động. Để tối đa hóa lợi ích kinh tế, người lao động và người sử dụng
lao động buộc phải quan hệ với nhau bằng cách này hay cách khác để đơi bên
đều có thể thụ hưởng phần lợi ích nhất định do sản xuất tạo ra.
Thứ ba, lợi ích kinh tế ln mang tính lịch sử
Lợi ích kinh tế là sự hiện thực hóa các nhu cầu. Song không phải mọi
nhu cầu của con người đều có khả năng hiện thực hóa mà chỉ có nhu cầu nào
xuất phát từ chính năng lực đáp ứng của nền sản xuất xã hội mới được hiện thực
hóa. Theo C.Mác: “quy mơ của nhu cầu được gọi là tất yếu và những phương
thức để thỏa mãn nhu cầu ấy chính là sản phẩm của lịch sử và phụ thuộc phần
lớn vào trình độ văn hóa của đất nước”. Vì vậy, lợi ích kinh tế phụ thuộc vào
hồn cảnh của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Lợi ích kinh tế
ln gắn với nhu cầu kinh tế, là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Ở Việt Nam, trong điều kiện nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, mục đích chung của tồn bộ nền kinh tế là thúc đẩy tiến
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất, tạo cơ sở
16
vật chất cho chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện giai cấp cơng nhân mà đại diện
của nó là Đảng cộng sản nắm chính quyền và mục đích của người lao động là
có việc làm, có thu nhập và nâng cao đời sống, thì mối quan hệ giữa người lao
động và người sử dụng lao động tốt nhất là mối quan hệ đơi bên cùng có lợi.
Ở đây, người nắm giữ các điều kiện vật chất của người lao động cũng cần
được thụ hưởng một phần thỏa đáng bộ phận giá trị mới do lao động tạo ra và
người lao động cũng cần nhận được một phần hợp lý bộ phận giá trị mới do
chính lao động của mình sáng tạo ra.
1.1.3. Vai trị lợi ích kinh tế đối với phát triển kinh tế - xã hội và sản
xuất kinh doanh
* Vai trị của lợi ích kinh tế đối với phát triển xã hội
Lợi ích vật chất có vai trị vơ cùng quan trọng, có tính chất quyết định
trong sự phát triển xã hội. Sở dĩ như vậy là vì:
- Lợi ích kinh tế là cơ sở, điều kiện đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
con người và xã hội loài người. Xã hội vận động về cơ bản là vận động thông
qua việc thực hiện các lợi ích kinh tế.
- Các quan hệ kinh tế giữ vai trị quyết định và chi phối đời sống chính
trị, tư tưởng của xã hội một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Vì động lực lợi ích kinh tế là nền tảng, là cơ sở cho việc hình thành và
giải quyết các động lực lợi ích khác của con người, cho nên đòi hỏi chúng ta
phải giải quyết hợp lý quan hệ lợi ích kinh tế và khơng ngừng nâng cao lợi ích
kinh tế cho con người để tạo cơ sở cho việc giải quyết mọi vấn đề khác của
đời sống xã hội.
- Để kích thích tính tích cực ở mức độ cao nhất, xã hội cần quan tâm
đặc biệt đến lợi ích kinh tế, đồng thời khơng qn các lợi ích khác của mỗi cá
nhân. Sự kết hợp đó khơng chỉ khai thác được thế mạnh của lợi ích kinh tế mà
cả thế mạnh của các lợi ích khác và thế mạnh tương hỗ giữa các lợi ích đó
trong mỗi con người.
17
* Vai trị của lợi ích kinh tế đối với sản xuất kinh doanh
Thứ nhất, lợi ích kinh tế góp phần thúc đẩy “khát vọng” sản xuất kinh doanh.
Lợi ích kinh tế là một trong những hiện tượng phổ biến nhất của đời
sống xã hội. Nó gần gũi trong quan niệm và hành động hằng ngày của quảng
đại quần chúng. Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản
xuất và đời sống xã hội. Lịch sử đã chứng minh, động lực thúc đẩy con người
hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội khơng phải là cái gì khác
ngồi lợi ích của họ. Chính lợi ích đó đã gắn bó con người với cộng đồng của
mình và tạo ra ở con người những sự kích thích, thơi thúc, khát vọng và sự say
mê trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bất cứ hoạt động nào của con người cũng bị chi phối bởi hai động lực
chính đó là động lực vật chất và động lực tinh thần. Để đạt được những kết
quả cao trong hoạt động kinh tế, không chỉ duy nhất là hoạt động kinh tế, mà
còn cả động lực tinh thần. Nhưng, ở đây hoạt động kinh tế ln giữ vai trị
quyết định nhất, là động lực quan trọng thúc đẩy hoạt động của con người.
Cho nên, các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế bao giờ cũng đặc
biệt quan tâm đến lợi ích thiết thân của người lao động, tức là lợi ích kinh tế,
vì nó ln là động lực kích thích đối với con người, đối với tập thể và đối với
toàn xã hội. Đồng thời, khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì nó cũng tạo cơ
sở, tiền đề để thực hiện các loại lợi ích khác. Đời sống xã hội phồn vinh thì
đời sống tinh thần mới được nâng cao.
Thứ hai, lợi ích kinh tế thúc đẩy sự phát triển của khoa học cơng nghệ
trong sản xuất kinh doanh.
Để tối đa hóa lợi ích kinh tế, những người sản xuất kinh doanh luôn tìm
mọi cách để giảm chi phí sản xuất. Một trong những biện pháp quan trọng đó là
phải đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ để giảm giá thành
sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh. Trên
thực tế đã chứng minh những nhà sản xuất kinh doanh biết ứng dụng thành tựu
18
của khoa học công nghệ tiên tiến sẽ cho phép họ có thể thu đượ lợi nhuận cao.
Điều đó cũng đồng nghĩa với việc lợi ích kinh tế của họ được thực hiện tốt.
Thứ ba, lợi ích kinh tế là động lực phát triển, mở rộng sản xuất tạo điểu
kiện quan trọng để phát triển SXKD trong nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, lợi ích kinh tế góp phần củng cố, duy trì các mối quan hệ kinh
tế giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh.
Một khi con người (chủ thể) tham gia vào các hoạt động kinh tế đều
nhằm đạt tới các lợi ích nhất định. Đạt được những lợi ích tương xứng với kết
quả SXKD thì mới đảm bảo nâng cao tính ổn định và sự phát triển của các chủ
thể lợi ích. Ngược lại, khi khơng mang lại lợi ích hoặc lợi ích khơng được
thực hiện đầy đủ thì sẽ làm cho mối quan hệ giữa các chủ thể xuống cấp. Nếu
tình trạng đó kéo dài thì sớm muộn sẽ dẫn đến tình trạng tiêu cực trong hoạt
động SXKD.
Quan tâm đến lợi ích cá nhân, tạo điều kiện để mỗi người lao động có
thể thực hiện được lợi ích cá nhân của mình, nhưng khơng khuyến khích họ
thực hiện lợi ích cá nhân bằng mọi cách. Việc khuyến khích lợi ích kinh tế cá
nhân phải nằm trong mối quan hệ hài hịa với các lợi ích kinh tế khác (lợi ích
kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội), nghĩa là quan tâm đến lợi ích kinh tế
cá nhân phải đặt trong mối quan hệ khơng làm tổn hại đến lợi ích xã hội và lợi
ích tập thể.
Thực tế cuộc sống đã chứng minh, trong cơ chế kinh tế cũ, chúng ta chỉ
tập trung quan tâm đến việc hồn thiện chính sách và cơ chế quản lý kế hoạch
hóa tập trung bao cấp mà ít quan tâm đến lợi ích của người lao động, có người
cịn coi lợi ích cá nhân là cái gì đó trái với nền tảng căn bản của xã hội mới
mà chúng ta đang xây dựng. Điều đó đã làm triệt tiêu động lực của con người
trong lao động sản xuất.
Từ khi Đảng và Nhà nước ta đề ra chính sách mới, phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, thực hiện phân phối theo lao động, đã tạo ra một động
19
lực rất lớn đối với người lao động, kích thích tính sáng tạo, khả năng lao động
của mỗi cá nhân trong sản xuất. Vì vậy, nhận thức đúng đắn lợi ích kinh tế là
động lực kích thích hoạt động của con người, có ý nghĩa sâu sắc trong việc
phát huy nhân tố con người.
1.2. CƠ CHẾ THỰC HIỆN VÀ NHỮNG HÌNH THỨC BIỂU HIỆN LỢI
ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP SAU CỔ
PHẦN HÓA
1.2.1 Cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động trong
doanh nghiệp sau cổ phần hóa
1.2.1.1. Thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động thông qua phân
phối theo kết quả lao động, theo hiệu quả kinh tế
Lợi ích kinh tế của người lao động được đảm bảo tới mức nào thì trở
thành động lực của sản xuất nghĩa là tạo ra sự tích cực chủ động, hăng hái,
tinh thần trách nhiệm cao trong lao động sản xuất, là sự gắn bó chặt chẽ giữa
người lao động và doanh nghiệp, sự phát triển của doanh nghiệp cũng là sự
sống còn của người lao động. Bên cạnh đó, động lực của người lao động còn
phụ thuộc vào việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ trong doanh nghiệp,
việc họ có được hưởng thoả đáng thành quả lao động của họ. Người lao động
chỉ thực sự yên tâm, hăng hái và có trách nhiệm cao trong cơng việc khi
doanh nghiệp trả công cho họ đầy đủ, kịp thời phù hợp với lao động bỏ ra
trong lao động sản xuất, như vậy, mới đảm bảo tái sản xuất sức lao động,
đồng thời đảm bảo đời sống của gia đình người lao động.
C.Mác viết: Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng
lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang
sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó.
Giá trị của sức lao động, cũng như bản thân của mọi hàng hóa khác
được quyết định bởi số thời gian lao động cần thiết để tái sản xuất ra thứ sản
phẩm đặc biệt ấy. Vì sức lao động là một giá trị nên bản thân nó chỉ đại biểu
20
cho một lượng lao động xã hội trung bình nhất định đã vật hóa... Muốn duy trì
cuộc sống của bản thân mình, một con người sống cần có một số lượng tư liệu
sinh hoạt nhất định. Như vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
sức lao động sẽ quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra tư
liệu sinh hoạt ấy. Hay nói cách khác, giá trị sức lao động là giá trị của những tư
liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì của con người có sức lao động ấy.
Mác chỉ rõ, giá trị của hàng hóa sức lao động là do hao phí lao động xã
hội để sản xuất ra sức lao động hoặc tái sản xuất ra sức lao động quy định.
Sức lao động bao gồm cả thể lực, trí lực trong cơ thể của người cơng nhân,
muốn tái sản xuất ra nó thì anh ta phải tiêu dùng đi một số lượng tư liệu sinh
hoạt nhất định. Nên có thể nói rằng giá trị hàng hóa sức lao động là giá trị
những tư liệu sinh hoạt, tư liệu tiêu dùng cần thiết cho người công nhân để
không những thỏa mãn cả nhu cầu về vật chất và tinh thần cho bản thân họ mà
cịn để ni sống gia đình họ. Đồng thời những chi phí cần thiết để đào tạo
công nhân “cũng gia nhập vào tổng số những giá trị được chi phí để sản xuất
ra sức lao động”. Hơn nữa, Mác còn nhấn mạnh rằng, do nhu cầu vật chất và
tinh thần của công nhân phụ thuộc vào những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử
nhất định nên giá trị hàng hóa sức lao động là một phạm trù lịch sử, không thể
là vĩnh viễn.
Mức lương mà doanh nghiệp trả cho người lao động phụ thuộc vào quy
mô và hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp, phụ thuộc vào tay nghề và năng suất
lao động của người lao động. Tiền lương cơ bản của người lao động là cơ sở xác
định đơn giá tiền lương trong đơn vị sản phẩm, hay đơn giá tiền lương trong đơn
vị thời gian. Như vậy, còn tuỳ vào thời gian lao động dài hay ngắn, dài hạn hay
theo mùa vụ mà người lao động được trả theo kết quả lao động của mình.
Để nâng cao năng suất lao động trong các doanh nghiệp, việc sử dụng
chế độ tiền lương, tiền thưởng hợp lý là điều kiện có tính quyết định tới hiệu
21
quả sản xuất của doanh nghiệp, đây cũng là chất kéo dính gắn chặt lợi ích của
người lao động với doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.
1.2.1.2. Thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động
thơng qua phân phối theo vốn, tài sản, tài năng đóng
góp trong quá trình sản xuất, kinh doanh
Sau khi CPH, người lao động với tư cách chủ thể chủ động tiến hành
sản xuất kinh doanh, họ được doanh nghiệp trả công dưới hình thức tiền
lương, theo số lượng và chất lượng lao động, đồng thời với tư cách là chủ sở
hữu vốn góp vào doanh nghiệp, họ nhận được một khoản lợi tức cổ phần do
góp vốn đem lại.
Quyền sở hữu một phần tài sản của doanh nghiệp tương đương với số
lượng vốn góp, quyền này được thể hiện cụ thể ở các quyền: được hưởng lợi
tức cổ phần tương đương với cổ phần tương đương với cổ phần đã góp, có thể
bán cổ phần theo giá thoả thuận ở thị trường chứng khốn, có thể cho một
phần hoặc tồn phần cổ phần, có thể biểu quyết hoặc phủ quyết bất kỳ chủ
trương, kế hoạch nào của doanh nghiệp mà mình đồng ý, hoặc không đồng ý.
Nhưng cổ đông phải chịu trách nhiệm như đền bù, mất mát, tổn thất trong
phạm vi số lượng vốn góp phải góp đủ vốn khi doanh nghiệp đã chính thức
hoạt động, phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc cho mọi điều lệ của công ty.
Quyền và nghĩa vụ của cổ đơng làm cho vai trị người chủ của người
lao động có cổ phần trong các DNNN sau CPH thể hiện một cách cụ thể, rõ
ràng và thiết thực, tạo ra cơ chế làm việc chủ động, tính trách nhiệm cao, vì
thế hiệu quả lao động tăng lên rõ rệt.
Quyền sở hữu một phần tài sản của doanh nghiệp là số vốn góp đã làm
cho người lao động trong DNNN sau CPH thu được lợi ích thiết thực từ lao
động do mình bỏ ra và do đồng vốn góp của mình, đã tạo cho người lao động
một động lực trực tiếp, chính đáng thúc đẩy họ chủ động, tâm huyết doanh
nghiệp. Đó chính là cơ sở vững chắc nhất gắn với lợi ích thiết thân của người
22
lao động với lợi ích doanh nghiệp, là một trong nhân tố thúc đẩy doanh
nghiệp phát triển. Người lao động chủ động tham gia xây dựng các quy chế
nội bộ, kiểm sốt, giám sát, đơn đốc hoạt động sản xuất của doanh nghiệp,
như vậy vai trị và vị trí của người lao động trong DNNN sau CPH đã thay đổi
căn bản, họ đã thực sự làm chủ doanh nghiệp. Lao động của người lao động
trong DNNN sau CPH là cho chính họ, vì lợi ích chính đáng của họ và của
doanh nghiệp, và vì lợi ích của tồn xã hội.
1.2.1.3. Thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động thông qua phân
phối quỹ phúc lợi
Bên cạnh thu nhập do lao động bỏ ra, do góp vốn có được, người lao
động trong DNNN sau CPH còn được hưởng thu nhập từ quỹ phúc lợi tập thể.
Vấn đề đảm bảo phúc lợi chung là cần thiết để cải thiện đời sống lao động,
gắn với lợi ích của họ với lợi ích doanh nghiệp, làm cho người lao động yên
tâm dốc tâm vào công việc của doanh nghiệp. Như vậy, để tạo ra động lực lao
động thì việc phân phối lợi ích theo lao động bỏ ra và theo vốn góp của người
lao động, là chưa đủ, mà cần phải chú ý đến quỹ phúc lợi tập thể nhằm điều
hoà thu nhập giữa người có thu nhập cao với người có thu nhập thấp, tạo nên
sự bình đẳng hợp lý của người lao động trong doanh nghiệp.
Hình thức phân phối lại lợi ích từ quỹ phúc lợi tập thể ở các doanh
nghiệp sẽ góp phần tăng thêm thu nhập thực tế của người lao động, cải thiện
cuộc sống gia đình họ, càng làm cho lợi ích của người lao động gắn chặt với
lợi ích của doanh nghiệp, trở thành nhân tố tích cực kích thích tính chủ động,
sáng tạo của người lao động, phát huy năng lực của mình trong lao động sản
xuất, đây là điều kiện chủ quan quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển.
Hiện nay, ở các nước phát triển, đều lấy việc xây dựng quỹ phúc lợi tập
thể để gắn lợi ích của người lao động với doanh nghiệp và lợi ích xã hội, thơng
qua hình thức hỗ trợ, tài trợ, từ thiện, khuyến khích … là cách đề cao thường
hiệu của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp ở nước ta luôn thực hiện tốt
23
chủ trương phát triển sản xuất, thực hiện phương châm phát triển bền vững, phải
chú ý lấy con người làm trung tâm, coi đó là yếu tố quan trọng và thiết thực cho
mỗi người lao động, cho doanh nghiệp và đất nước trong q trình đổi mới.
Quy mơ quỹ phúc lợi phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp, hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp càng cao thì quỹ phúc
lợi càng lớn, doanh nghiệp càng có điều kiện đảm bảo đời sống và thực hiện
tốt lợi ích của người lao động. Doanh nghiệp thực hiện quỹ phúc lợi thông
qua việc xây dựng nhà ở, nơi nghỉ, nhà ăn, chế độ ăn, chế độ nghỉ phép, điều
dưỡng, các khu vui chơi thể thao, công viên giải trí, thư viện… Tài trợ cho gia
đình khó khăn, người lao động bị tai nạn, mất sức khoẻ, tài trợ học bổng cho
con em người lao động … Xây dựng quỹ khen thưởng người lao động có
thành tích, tham gia các hoạt động xã hội từ thiện.
1.2.2. Những hình thức biểu hiện lợi ích kinh tế của người lao động
trong doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa
1.2.2.1. Thu nhập bằng tiền của người lao động
* Tiền lương
Thu nhập của người lao động là tổng những khoản tiền mà người lao
động nhận được từ doanh nghiệp do sự tham gia của họ vào quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Kết cấu thu nhập của người lao động bao gồm
tiền lương, tiền công, tiền thưởng, tiền làm thêm giờ, các loại phụ cấp, trợ cấp
phúc lợi, bảo hiểm hoặc một phần lợi nhuận của doanh nghiệp nếu người lao
động có cổ phần trong doanh nghiệp.
Tiền lương, tiền cơng là phần cơ bản nhất trong thu nhập của người lao
động, đảm bảo cho họ và gia đình họ các khoản chi phí cho cuộc sống. Đó là
số tiền lương mà doanh nghiệp trả cho người lao động tương ứng với số lượng
và chất lượng lao động mà họ đã hao phí trong q trình thực hiện những
cơng việc được giao. Vì là giá cả của sức lao động nên nó cũng bị tác động
của quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh nhưng cũng không thể thấp hơn
24
mức tối thiểu theo quy định của Chính phủ. Trong các DNNN sau CPH, tiền
lương, tiền cơng cũng được hình thành trên cơ sở áp dụng mức lương tối thiểu
đồng thời căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ sở lý luận của việc áp dụng mức lương tối thiểu đã được nhiều nhà
nhà kinh tế học nghiên cứu trong đó tiêu biểu nhất là Các Mác thơng qua học
thuyết về giá trị hàng hóa sức lao động trong nền kinh tế thị trường.
Như vậy có thể hiểu, lương tối thiểu mức lương thấp nhất trả cho người
lao động không qua đào tạo, làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao
động bình thường. Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt nhằm
bảo đảm cho người lao động bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích
lũy tái sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để tính các
mức lương cho các loại lao động khác.
Ở Việt Nam, lương tối thiểu do Chính phủ quy định căn cứ căn cứ vào
điều kiện kinh tế, xã hội từng giai đoạn, trong đó có tính đến các yếu tố như
tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng... và được điều chỉnh theo lộ trình
cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước ở mỗi thời
kỳ. Có sự phân biệt tiền lương tối thiểu giữa doanh nghiệp trong nước;
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; cơ quan nhà nước, lực lượng vũ
trang, các đơn vị hành chính sự nghiệp... hưởng lương từ ngân sách nhà
nước theo từng vùng khác nhau. Lương tối thiểu theo quy định được dùng
làm căn cứ để xây dựng các mức lương trong thang lương, bảng lương, phụ
cấp lương, tính các mức lương ghi trong hợp đồng lao động hay thực hiện
các chế độ khác do doanh nghiệp xây dựng và ban hành theo thẩm quyền mà
pháp luật lao động quy định.
Ở nước ta, Bộ luật Lao động năm 1994 (được bổ sung sửa đổi năm
2002, 2006, 2007, 2012) quy định tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng
lao động trả cho người lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận. Tiền
lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và
25
các khoản bổ sung khác. Mức lương của người lao động khơng được thấp hơn
mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định. Tại Điều 91 Bộ luật Lao động
(bổ sung sửa đổi năm 2012) quy định mức lương tối thiểu như sau:
Mức lương tối thiểu là mức thấp nhất trả cho người lao động làm công
việc giản đơn nhất, trong điều kiện lao động bình thường và phải bảo đảm nhu
cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Mức lương tối thiểu được
xác định theo tháng, ngày, giờ và được xác lập theo vùng, ngành. Căn cứ vào
nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ, điều kiện kinh tế - xã
hội và mức tiền lương trên thị trường lao động, Chính phủ cơng bố mức lương
tối thiểu vùng trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng tiền lương quốc gia.
Trên cơ sở mức lương tối thiểu, các doanh nghiệp xác định mức lương
thấp nhất trả cho người lao động. Mức tiền lương thấp nhất trả cho người lao
động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề) phải cao
hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng đã được quy định. Đồng thời
căn cứ mức lương tối thiểu vùng đã được quy định, doanh nghiệp điều chỉnh
lại các mức lương trong thang lương, bảng lương do doanh nghiệp xây dựng
và ban hành cũng như tiền lương trong hợp đồng lao động cho phù hợp với
các thỏa thuận và quy định của pháp luật lao động. Nhà nước khuyến khích
các doanh nghiệp thực hiện mức lương tối thiểu cho người lao động cao hơn
mức lương quy định.
Cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường thì sức lao động
của người lao động trong các DNNN sau CPH cũng được thừa nhận là hàng
hóa. Việc mua bán sức lao động đó được thực hiện thông qua hợp đồng lao
động giữa người lao động và chủ doanh nghiệp sử dụng sức lao động trên cơ
sở pháp luật hiện hành. Một khi sức lao động đã trở thành hàng hóa, thì tiền
lương thực chất là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hay giá cả sức lao
động của người lao động.