1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn là một
trọng điểm quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự thành cơng của sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện thành cơng
nhiệm vụ đó, Đại hội XI đã xác định: “Phát triển nơng nghiệp tồn diện theo
hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, phát huy lợi thế của nền nông nghiệp
nhiệt đới” [17, tr.195] hướng tới “Phát triển nơng nghiệp sản xuất hàng hóa
lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, thân thiện
với mơi trường” [17, tr.196]. Trong tiến trình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
này, phát triển công nghiệp phục vụ nơng nghiệp đóng một vai trị hết sức
quan trọng, Đại hội XI cũng nêu rõ: “Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ
nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là cơng nghiệp sản xuất trang thiết bị, máy
móc làm đất, thu hoạch, bảo quản, chế biến nông - lâm - thủy sản, sản phẩm
xuất khẩu…” [17, tr.193-194]. Công nghiệp chế biến nơng sản là một bộ
phận trong đó, nó có mối liên kết chặt chẽ với phát triển nơng nghiệp và đóng
góp to lớn vào tốc độ tăng trưởng của ngành cũng như của toàn bộ nền kinh
tế. Hiện nay, công nghiệp chế biến nông sản đang trở thành một trong những
vấn đề rất được các ngành, các tỉnh và các vùng trong nước quan tâm để xây
dựng các đề án, chiến lược phát triển nơng nghiệp hàng hóa, đẩy nhanh q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh.
Tiền Giang là một tỉnh ven biển của Đồng bằng sông Cửu Long, được
Chính phủ quy hoạch là một trong tám tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam; nằm trong khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu kinh
tế mạnh, có những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thuận lợi cho việc phát
triển bền vững và lâu dài, Tiền Giang có tiềm năng lớn về phát triển nông
nghiệp, với nhiều loại cây trồng, vật nuôi cung cấp nguồn nguyên liệu nông
2
sản phong phú, có giá trị cao như: lúa, cây ăn quả, thủy sản,… Đặc biệt, ở
Tỉnh đang có nhiều thương hiệu trái cây đặc sản như: khóm (dứa) Tân Phước,
xồi cát Hịa Lộc, sầu riêng Ngũ Hiệp, vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim, thanh long
Chợ Gạo, sơ ri Gò Công… đã đứng vững và đáp ứng ngày càng cao nhu cầu
tiêu dùng tại các thị trường trong và ngoài nước.
Với những lợi thế lớn về các tiềm năng, công nghiệp chế biến nông
sản là một nội dung rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của Tỉnh giai đoạn hiện nay và những năm sắp tới. Đây là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, then chốt làm gia tăng giá trị, nâng cao chất lượng hàng
nông sản nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Để đáp
ứng đầy đủ những nhu cầu đó, hàng nơng sản trên địa bàn tỉnh khơng thể chỉ
dừng lại dưới dạng mua bán nhỏ lẻ ở thị trường trong nước, xuất khẩu “nông
sản tươi” hay chế biến thô mà cần phải phát triển mạnh mẽ hơn nữa công
nghiệp chế biến nông sản, thực hiện chế biến sâu trên cơ sở tận dụng tối đa
và hiệu quả nguồn nguyên liệu có được, sản phẩm tạo ra ngày càng phải được
nâng cao mức độ đa dạng về mẫu mã, chủng loại, bảo đảm chất lượng và an
toàn vệ sinh thực phẩm, hướng tới những thị trường lớn, khó tính và hiện đại
trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực tế những năm qua, công nghiệp chế biến nơng sản ở tỉnh Tiền
Giang vẫn cịn nhiều hạn chế, phát triển chưa phù hợp với những tiêu chuẩn
và nhu cầu của thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chưa gắn bó chặt
chẽ với sản xuất nơng nghiệp, mặc dù Tỉnh có nguồn ngun liệu dồi dào
nhưng cơng nghiệp chế biến nông sản vẫn chưa khai thác hiệu quả nguồn
ngun liệu đó. Chẳng hạn như, ngồi cây lúa và thủy sản thì nguồn nguyên
liệu từ cây ăn quả phục vụ cho công nghiệp chế biến nông sản của Tỉnh chủ
yếu là cây khóm (dứa) và sơ ri; quy mơ phát triển cơng nghiệp chế biến nơng
sản cịn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của Tỉnh và gặp nhiều khó
khăn như cơ sở chế biến cịn nhỏ lẻ, phân tán, chất lượng nông sản chế biến
3
chưa cao, khả năng cạnh tranh trên thị trường còn thấp,... gây nên sự mất cân
đối lớn giữa việc cung ứng nguồn nguyên liệu và khâu chế biến, ảnh hưởng
đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của ngành và của tồn Tỉnh.
Trong giai đoạn hiện nay, phát triển nền nơng nghiệp sản xuất hàng
hóa lớn là một yêu cầu tất yếu và phát huy vai trị của cơng nghiệp chế biến
nông sản phục vụ phát triển nông nghiệp là một động lực lớn để làm tốt yêu
cầu đó. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng bộ tỉnh đã xác định: “Phát triển nền
nơng nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, có sức cạnh tranh cao, gắn sản xuất với
chế biến và thị trường tiêu thụ, mở rộng xuất khẩu” [14, tr.162]. Chính vì vậy,
để phát huy tốt tiềm năng phát triển nơng nghiệp, đẩy nhanh q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn ở tỉnh Tiền Giang, cơng
nghiệp chế biến nơng sản thực sự đóng một vai trị rất quan trọng và rất cần
được quan tâm phát triển theo hướng hợp lý, hiện đại.
Để góp phần giải quyết vấn đề này, tác giả chọn đề tài: “Công nghiệp
chế biến nông sản ở tỉnh Tiền Giang trong giai đoạn hiện nay” để nghiên
cứu. Đây là một vấn đề quan trọng, có ý nghĩa đột phá trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển nơng nghiệp nói riêng của tỉnh
Tiền Giang trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đề tài luận văn là một vấn đề có rất nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu từ trước đến nay, được thể hiện ở nhiều bài viết, cơng trình khoa
học, sách, báo, luận văn, luận án liên quan như:
- Lê Minh Quang (2000), Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở
tỉnh Tiền Giang hiện nay, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài phân tích vai trò và sự cần thiết phát triển
công nghiệp chế biến nông sản đối với phát triển kinh tế - xã hội; đánh giá
thực trạng, vấn đề đặt ra và phương hướng, giải pháp phát triển công nghiệp
chế biến nông sản của tỉnh Tiền Giang.
4
- Đỗ Quốc Bình (2000), Phát triển cơng nghiệp chế biến nơng, lâm sản ở
Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài đã phân tích những đặc điểm và thực trạng của công
nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh và đưa ra những giải pháp
để phát triển hơn nữa doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản.
- Bua Khơng Nam Ma Vơng (2001), Vai trị của cơng nghiệp chế biến
nông sản và dịch vụ đối với sự phát triển nền nơng nghiệp hàng hóa ở Cộng
hóa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài trình bày những vấn đề chung về
vai trị của công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ đối với sự phát triển nền
nơng nghiệp hàng hóa; phân tích thực trạng và đưa ra phương hướng, giải
pháp chủ yếu nâng cao vai trị của cơng nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ
nông nghiệp đối với sự phát triển nền nơng nghiệp hàng hóa ở Lào.
- Mai Thị Thanh Xuân (2006), “Công nghiệp chế biến với việc nâng
cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế,
(Số 10), tr.66 - 70. Bài viết nêu những nét chủ yếu về hiện trạng công nghiệp
chế biến nông sản ở Việt Nam, tác động của nó đến hoạt động xuất khẩu và
giải pháp thúc đẩy công nghiệp chế biến phát triển theo hướng tăng nhanh giá
trị hàng nông sản xuất khẩu.
- Nguyễn Thị Ninh (2008), Cơng nghiệp chế biến nơng sản xuất khẩu
tỉnh Bình Phước, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh. Nội dung làm rõ lợi thế của công nghiệp chế biến
nông sản xuất khẩu và đưa ra giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nơng
sản xuất khẩu ở tỉnh Bình Phước, từng bước chủ động hội nhập hiệu quả.
- Ngô Thị Tuyết Mai (2011), Phát triển bền vững hàng nông sản xuất
khẩu của Việt Nam trong điều kiện hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cơng trình đã phân tích cơ sở lý luận, sự cần thiết, thực trạng và đưa ra những
dự báo, quan điểm, giải pháp về phát triển bền vững hàng nông sản xuất khẩu
của Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
5
Nhìn chung, các cơng trình khoa học được nêu ở trên và một số tài
liệu tham khảo khác đã phần nào làm sáng tỏ một cách khái quát hoặc đi sâu
phân tích công nghiệp chế biến nông sản đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề về vai trò cũng như nội dung phát triển công
nghiệp chế biến nông sản chưa được làm rõ; đồng thời, thực trạng phát triển
công nghiệp chế biến nơng sản trong thời gian qua cịn rất chậm chạp, gặp
nhiều khó khăn, trở ngại, phát triển cơng nghiệp chế biến nông sản chưa
tương xứng với những tiềm năng của các tỉnh nói chung và ở tỉnh Tiền Giang
nói riêng trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, luận văn nghiên cứu:
“Công nghiệp chế biến nông sản ở tỉnh Tiền Giang trong giai đoạn hiện
hiện nay” là đề tài có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về công nghiệp chế biến nông sản, đề
tài luận văn nghiên cứu làm rõ vai trị của cơng nghiệp chế biến nông sản, nội
dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp chế biến nông sản
trên địa bàn tỉnh. Từ đó, phân tích, đánh giá thực trạng, đưa ra phương hướng
và những giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở tỉnh Tiền
Giang đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đã đề ra, nội dung luận văn thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công nghiệp chế biến nông sản
trên địa bàn tỉnh như: khái niệm, đặc điểm và vai trị của cơng nghiệp chế
biến nơng sản; qua đó, góp phần làm rõ tiêu chí, nội dung và các nhân tố ảnh
hưởng đến phát triển công nghiệp chế biến nông sản trên địa bàn tỉnh.
Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển công nghiệp chế biến nông sản của
một số quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương trong nước có hồn cảnh tương
đồng, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho tỉnh Tiền Giang.
6
Phân tích những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và chính sách của
Nhà nước tác động đến phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở tỉnh Tiền
Giang. Từ đó, phân tích, đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp chế biến
nông sản ở tỉnh Tiền Giang giai đoạn từ 2006 - 2012.
Từ nghiên cứu lý luận và phân tích thực tiễn về phát triển công nghiệp
chế biến nông sản ở tỉnh Tiền Giang, luận văn đề xuất phương hướng và giải
pháp phát triển công nghiệp chế biến nông sản trên địa bàn tỉnh Tiền Giang
đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công nghiệp chế biến nông sản.
Luận văn sẽ tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về công nghiệp chế biến
nông sản, nội dung và nhân tố ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp chế biến
nông sản trên địa bàn tỉnh và những vấn đề có liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu cụ thể của luận văn là:
Về không gian: Công nghiệp chế biến nông sản ở tỉnh Tiền Giang;
Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng phát triển công nghiệp chế biến
nông sản ở tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2006 - 2012, trong đó tập trung vào
nghiên cứu ngành chế biến gạo và rau quả, từ đó đề xuất phương hướng, giải
pháp phát triển công nghiệp chế biến nông sản trên địa bàn tỉnh đến năm
2020, tầm nhìn 2030.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm và phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Những quan
điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, kế thừa và tiếp thu có chọn lọc
những kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học có liên quan.
7
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Nội dung luận văn sử dụng phương pháp biện chứng duy vật, phương
pháp lôgíc kết hợp với lịch sử. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học là
phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị kết hợp với phân tích, tổng hợp,
điều tra, thống kê, so sánh và khảo sát thực tế.
6. Những kết quả khoa học của luận văn
Thông qua việc phân tích khái niệm, đặc điểm và vai trị của cơng
nghiệp chế biến nơng sản, nội dung luận văn giúp cho chúng ta thấy rõ mối
quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau giữa công nghiệp chế biến nông sản
và nông nghiệp. Luận văn đưa ra các tiêu chí, phân tích nội dung và các nhân
tố ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp chế biến nông sản trên địa bàn tỉnh.
Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp chế biến nông
sản ở tỉnh Tiền Giang giai đoạn từ 2006 - 2012 và đề xuất những phương
hướng và giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông sản trên địa bàn tỉnh
Tiền Giang đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Nội dung luận văn là tài liệu quan trọng, phục vụ tích cực trong
nghiên cứu khoa học, giảng dạy và xây dựng đề án phát triển kinh tế - xã hội,
thực hiện thành cơng q trình đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thôn ở tỉnh Tiền Giang. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp
phần vào việc nhận thức đầy đủ hơn về lý luận, cũng như vai trị của cơng
nghiệp chế biến nông sản đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Tỉnh. Dựa trên
những lợi thế lớn về vị trí, tiềm năng, Tỉnh sẽ có chiến lược và giải pháp thích
hợp để thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến nông sản đạt được nhiều kết
quả to lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm: 3 chương, 8 tiết.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN
NÔNG SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRỊ CỦA CƠNG NGHIỆP CHẾ BIẾN
NƠNG SẢN
1.1.1. Khái niệm công nghiệp chế biến nông sản
Công nghiệp chế biến nông sản là một bộ phận thuộc ngành cơng
nghiệp nói chung và cơng nghiệp chế biến nói riêng, một mặt, nó phản ánh sự
phân cơng lao động xã hội trong nội bộ ngành; mặt khác, đối với nông nghiệp,
nó thể hiện sự phân cơng lao động xã hội trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Xuất phát từ ngành nông nghiệp, là ngành sản xuất vật chất đặc biệt,
cơ sở đầu tiên của đời sống xã hội, nông nghiệp đảm trách chức năng cung
cấp những tư liệu sinh hoạt cơ bản và cần thiết cho con người. Trong q trình
phát triển, khi cơng cụ lao động có những bước tiến bộ và trình độ sản xuất
của người lao động ngày càng nâng lên thì sự phân cơng lao động trong ngành
nông nghiệp ngày càng thể hiện rõ nét. Phân công lao động trong nông nghiệp
là sự phân công lao động đặc thù, dẫn đến xuất hiện ngành tiểu thủ công
nghiệp và công nghiệp nhằm sản xuất tư liệu lao động cho nông nghiệp và
chế biến nông sản. Trong ngành nông nghiệp, lúc đầu sản xuất và chế biến
nông sản gắn chặt với nhau như một chức năng kinh tế, dần dần chế biến
nơng sản hình thành một cách riêng biệt có chức năng kinh tế khác với sản
xuất nông nghiệp và tách khỏi sản xuất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, khi nền sản xuất hàng hóa phát triển, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển, sự phân công lao động xã hội trong nội bộ ngành và giữa các
ngành diễn ra ngày càng mạnh mẽ hơn, sự phân công lao động trong nội bộ
ngành cơng nghiệp dẫn đến hình thành cơng nghiệp chế biến. Trong tác phẩm
V.I. Lênin, tồn tập, tập 3, Về sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Nga, Lênin đã
9
viết: “Sự phân công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hóa. Cơng nghiệp chế
biến tách khỏi cơng nghiệp khai thác và mỗi cơng nghiệp đó lại chia thành
nhiều loại nhỏ và phân loại nhỏ, chúng sản xuất ra, dưới hình thức hàng hóa,
những sản phẩm đặc biệt và đem trao đổi với tất cả các ngành sản xuất khác”
[24, tr.21]. Công nghiệp chế biến nông sản chính là phân ngành thuộc công
nghiệp chế biến mà Lênin gọi đó là “nhiều loại nhỏ và phân loại nhỏ” của mỗi
công nghiệp, gắn liền với phân công lao động.
Phân công lao động xã hội đã được C.Mác nghiên cứu trong lý luận về
hàng hóa và tiền tệ, là một trong hai điều kiện cho sự ra đời, tồn tại của nền sản
xuất hàng hóa [25, tr.72], cho nên nó là cơ sở của kinh tế hàng hóa. Phân cơng
lao động xã hội tạo ra sự chun mơn hóa lao động, chun mơn hóa sản xuất
trong những ngành nghề riêng biệt, theo đó mỗi người chỉ sản xuất một hoặc
một vài sản phẩm khác nhau. Trên cơ sở đó, Lênin viết:
Kinh tế hàng hóa phát triển đưa đến chỗ làm tăng thêm số lượng các
công nghiệp riêng biệt và độc lập; xu hướng của sự phát triển này là
nhằm biến việc sản xuất không những từng sản phẩm riêng, mà cả
việc sản xuất từng bộ phận riêng của sản phẩm; và không những
việc sản xuất sản phẩm mà thậm chí cả từng thao tác trong việc chế
biến sản phẩm thành sản phẩm tiêu dùng, thành một ngành công
nghiệp riêng biệt [24, tr.21-22].
Như vậy, sự hình thành và phát triển của cơng nghiệp chế biến nơng
sản gắn liền với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, dựa trên sự phân
công lao động xã hội. Cùng với sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng, sự
tăng lên của thu nhập,… phương thức thỏa mãn nhu cầu về lương thực, thực
phẩm của con người thay đổi cả về số lượng lẫn chất lượng, từ đó phương
thức sản xuất ra sản phẩm và cách thức mà nông nghiệp đáp ứng nhu cầu về
lương thực, thực phẩm cũng thay đổi. Ngày nay, sự phát triển của nhu cầu xã
hội về nông sản và của công nghiệp đã thúc đẩy phân công lao động, tác động
10
tích cực tới sự phát triển của công nghiệp chế biến nông sản, với những thành
tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật, con người đã có thể giải quyết được
vấn đề cung cấp cho nhu cầu ăn uống bằng việc sản xuất cơng nghiệp.
Trong q trình vận động, phát triển, cơng nghiệp chế biến nơng sản và
nơng nghiệp có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Nơng nghiệp phát triển là
tiền đề để phát triển công nghiệp chế biến nông sản, nông nghiệp cung cấp
nguồn nguyên liệu đa dạng và phong phú về số lượng lẫn chất lượng phục vụ
cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản. Đồng thời, công nghiệp chế biến
nông sản phát triển sẽ tác động tích cực trở lại đối với phát triển nông nghiệp, tạo
điều kiện thuận lợi để thúc đẩy nơng nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng
hóa lớn, đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
dân cư ở nông thôn… Thông qua chế biến, nông sản được bảo quản, biến đổi,
nâng cao về giá trị sử dụng và giá trị. Với những tính năng đặc thù, nông sản đã
qua chế biến sẽ có sức cạnh tranh lớn trên thị trường quốc tế, thỏa mãn nhu cầu
ngày càng cao của con người trong xã hội hiện đại.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về công nghiệp chế
biến nông sản như sau: Công nghiệp chế biến nông sản là ngành sản xuất vật
chất đặc thù, là phân ngành công nghiệp dựa trên cơ sở yếu tố đầu vào là nơng
sản, nó thực hiện các hoạt động bảo quản, gìn giữ, cải biến nhằm nâng cao giá
trị sử dụng và giá trị của hàng nông sản bằng biện pháp công nghiệp để sản
xuất ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người.
Những năm qua, nông nghiệp nước ta được xem là động lực trực tiếp
cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nền sản xuất
nông nghiệp lạc hậu, nhập khẩu lương thực, đến nay đã trở thành một trong
những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu lương thực và hàng nông sản. Nông
nghiệp đã cung cấp một nguồn nguyên liệu lớn cho công nghiệp chế biến nông
sản. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, công nghiệp chế biến nông sản luôn
11
phát triển đa dạng về hình thức tổ chức sản xuất, vừa tuân thủ theo các quy luật
kinh tế khách quan, phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất,
vừa khai thác ngày càng hiệu quả lợi thế về tiềm năng của đất nước, cũng như
của địa phương trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.2. Đặc điểm của công nghiệp chế biến nông sản
Với mối quan hệ hữu cơ và theo đó là sự tác động qua lại lẫn nhau trong
hệ thống phân công lao động xã hội, làm cho hoạt động chế biến nơng sản có
những đặc điểm đặc thù, khác biệt so với các hoạt động công nghiệp khác cả về
đối tượng lao động và sản phẩm.
1.1.2.1. Quá trình sản xuất phụ thuộc rất lớn vào mức độ hiện có và
sự phát triển của nguồn nguyên liệu, chịu ảnh hưởng lớn của tính thời vụ
trong sản xuất nơng nghiệp
Nguồn nguyên liệu của công nghiệp chế biến nông sản xuất phát từ lợi
thế của điều kiện tự nhiên, có chi phí cơ hội thấp. Đối tượng lao động của công
nghiệp chế biến nông sản chính là các loại hàng hóa có từ hoạt động sản xuất
nơng nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi).
Sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất đặc thù biểu hiện trên nhiều
phương diện, cả về các yếu tố căn bản của quá trình sản xuất, bản thân
sản xuất, tái sản xuất và lẫn sản phẩm được sản xuất ra; hoạt động sản
xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào các điều kiện tự nhiên hiện có,
địi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ thể của quá trình sản xuất là
người nơng dân với tồn bộ q trình sản xuất gắn với quá trình sinh
trưởng của cây trồng và vật nuôi [56, tr.27-34].
Cây trồng, vật nuôi là những cơ thể sống, sinh trưởng và phát triển theo
quy luật sinh học riêng của từng giống, loài; chịu tác động trực tiếp của điều kiện
thời tiết khí hậu và biện pháp canh tác, nuôi trồng của con người nên sản phẩm
thu hoạch sẽ tồn tại ở nhiều dạng, chủng loại khác nhau và thể hiện tính đặc thù
riêng của nó. Những hàng hóa nơng sản này được cung ứng ra thị trường dưới
12
hai hình thức chủ yếu: một là, nơng sản tươi phục vụ cho nhu cầu của người tiêu
dùng (chủ yếu là trong nước) và hai là, cung cấp nguồn nguyên liệu cho cơng
nghiệp chế biến nơng sản. Q trình phát triển công nghiệp chế biến nông sản
phụ thuộc rất lớn vào quy mơ và trình độ phát triển của sản xuất nông nghiệp.
Việt Nam là một quốc gia thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, sản
xuất nơng nghiệp đóng một vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Mỗi vùng, mỗi địa phương đều có những tiềm năng phát triển đặc trưng với
nhiều loại cây trồng, vật nuôi đa dạng, cung cấp một số lượng lớn nông sản cho
thị trường và phát triển công nghiệp chế biến nông sản. Sự phát triển mạnh mẽ
của cách mạng khoa học và công nghệ, công nghệ sinh học đã làm cho sản xuất
nông nghiệp ngày càng phát huy tính hiệu quả, thúc đẩy thâm canh tăng vụ, đa
dạng hóa cây trồng, vật ni phù hợp với điều kiện của mỗi vùng, nâng cao năng
suất lao động trong sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp phát triển hướng đến mở
rộng quy mơ, dần dần hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên canh với
những sản phẩm chủ lực có thương hiệu và giá trị kinh tế cao, cung cấp nguồn
nguyên liệu dồi dào, chất lượng cho công nghiệp chế biến nông sản.
Trong sản xuất nông nghiệp, tính thời vụ cao là đặc điểm điển hình, do
thời gian lao động khơng hồn tồn trùng khớp với thời gian sản xuất, đồng thời
do sự biến thiên về thời tiết khí hậu trong năm, mỗi loại cây trồng có sự thích
ứng nhất định với điều kiện đó dẫn đến những mùa vụ khác nhau. Đây là nhân tố
ảnh hưởng đến tính liên tục trong hoạt động chế biến nông sản. Các doanh
nghiệp chế biến phụ thuộc rất lớn vào đặc tính cơ bản này của ngành nông
nghiệp, lúc nông nghiệp đến mùa thu hoạch thì nhà máy hoạt động với cơng suất
tối đa, nhưng sau mùa vụ thì giảm hoặc khơng hoạt động, dẫn đến lãng phí lao
động, vốn, máy móc thiết bị,... làm giảm hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Do
đó, trong mục tiêu chiến lược phát triển, các doanh nghiệp phải chủ động tính
toán hợp lý đối với các nguồn nguyên liệu này, liên kết chặt chẽ với các vùng,
các địa phương để đảm bảo tính liên tục trong sản xuất, hạn tối đa sự hao mịn
cơng nghệ sản xuất, giảm thiểu chi phí sản xuất.
13
1.1.2.2. Q trình sản xuất phụ thuộc vào tính chất đặc thù của nguồn
nguyên liệu
Công nghiệp chế biến nông sản được thực hiện trong nền kinh tế thị
trường, sản phẩm đã qua chế biến phải đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
người tiêu dùng. Với nguồn nguyên liệu đầu vào là nơng sản, thơng qua thực
hiện quy trình chế biến, hàng hóa sản xuất ra được trao đổi, mua bán trên thị
trường, mang lại lợi nhuận, làm tăng hiệu quả kinh tế - xã hội, góp phần vào tăng
trưởng kinh tế cho địa phương và quốc gia. Thực hiện công nghiệp chế biến
nông sản bao gồm ba giai đoạn:
Thứ nhất, giai đoạn thu mua, sơ chế và bảo quản. Giai đoạn này được
tiến hành ngay sau khi thu hoạch nông sản, bao gồm những công việc cụ thể
như phơi, sấy, tuyển chọn sản phẩm, lưu trữ vào kho... Nông sản sau khi được
thu hoạch tồn tại ở dưới dạng tươi, vì là sản phẩm của những cơ thể sống nên
sau khi thu hoạch nó khác với các nguyên liệu khác là rất nhanh chóng bị
hỏng. Mỗi loại nơng sản có thời gian tồn tại khác nhau, nhưng thời gian đó là
khơng lâu. Do đó, giai đoạn này cần phải nhanh chóng thực hiện sơ chế, bảo
quản, lưu trữ vào kho. Bởi vì, từ lúc thu hoạch, phơi, sấy, thu mua, tuyển chọn
cho đến giai đoạn chế biến còn một khoảng thời gian khá dài, nếu nông sản
không được bảo quản tốt thì khả năng tổn thất sẽ rất cao, ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng nguyên liệu đầu vào cho các xí nghiệp và sản phẩm chế biến
sau này. Vì vậy, đây là giai đoạn quan trọng có ý nghĩa xác định thứ hạng sản
phẩm ở giai đoạn sau.
Thứ hai, giai đoạn chế biến công nghiệp. Đây là giai đoạn có ý nghĩa
quyết định mức độ chất lượng và giá trị của nông sản chế biến. Giai đoạn này
diễn ra trong các xí nghiệp công nghiệp chế biến nông sản. Nguồn nguyên liệu
cung cấp để thực hiện quy trình chế biến rất đa dạng về chủng loại, mỗi loại
có đặc điểm, kết cấu khác nhau. Bằng biện pháp công nghiệp, với sự phân
công lao động hợp lý, các xí nghiệp sử dụng lao động kỹ thuật cùng với khoa
14
học và cơng nghệ (máy móc, thiết bị…) cần thiết để tiến hành công việc chế
biến nông sản theo đúng các quy trình sản xuất. Sản phẩm tạo ra được nâng
cao về giá trị, chất lượng, đa dạng và phong phú về mẫu mã, chủng loại đáp
ứng với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng.
Thứ ba, giai đoạn cung ứng sản phẩm ra thị trường. Đây là giai đoạn rất
quan trọng, giải quyết bài toán về mâu thuẫn của nền sản xuất hàng hóa, giai
đoạn mà thơng qua giá trị sử dụng được người tiêu dùng chấp nhận, giá trị của
hàng hóa được thực hiện trên thị trường; nơng sản chế biến phải đảm bảo các
yều cầu về tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Do tính chất đặc
thù của nguồn nguyên liệu như đã phân tích, nơng sản chế biến có thời hạn sử
dụng ngắn, cho nên các doanh nghiệp phải quan tâm đến vấn đề này để xây dựng
chiến lược kinh doanh, bán hàng hợp lý và mang lại lợi nhuận cao.
Nhu cầu của các thị trường hiện đại đang ngày càng trở nên rất ưa
chuộng nhưng cũng rất khó tính về việc tiêu dùng loại hàng hóa này. Do đó, các
doanh nghiệp chế biến nông sản phải đảm bảo thực hiện các quy trình sản xuất
phù hợp với cơng nghệ hiện đại và trình độ lao động chất lượng cao, thực hiện
sản xuất đúng theo các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm của quốc tế. Đồng thời,
các doanh nghiệp chế biến nông sản cần phải xây dựng thương hiệu, uy tín, tạo
sự tin cậy đối với người tiêu dùng, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản chế
biến trên thị trường. Trong việc đảm bảo thị trường đầu ra, các doanh nghiệp
phải tăng cường phát triển công tác xúc tiến thương mại, nắm bắt đầy đủ những
thông tin về xu hướng vận động của thị trường để xác định những mục tiêu phát
triển sản xuất đạt hiệu quả và chất lượng.
1.1.2.3. Nông sản chế biến có thời hạn sử dụng ngắn so với sản phẩm
của các ngành công nghiệp khác
Đây là một điều rất quan tâm đối với các doanh nghiệp, so với nông sản
chưa chế biến, sản phẩm của công nghiệp chế biến nơng sản có thời gian bảo
quản, sử dụng lâu hơn. Bởi vì, với nơng sản chưa qua chế biến, sản phẩm sau khi
15
thu hoạch tồn tại trong một thời gian rất ngắn, rất nhanh chóng bị hỏng. Với thời
gian sử dụng ngắn ngủi, nơng sản chưa qua chế biến khó có thể vận chuyển đi
xa, chủ yếu là tiêu thụ tại chỗ và một số thị trường địa phương trong nước. Còn
đối với nông sản đã qua chế biến, với việc sử dụng các quy trình sơ chế, bảo
quản, chế biến, đóng gói… bằng biện pháp cơng nghiệp thơng qua những kỹ
thuật, công nghệ hiện đại làm cho nông sản được tăng lên về giá trị. Đồng thời,
nơng sản chế biến có thời gian bảo quản, sử dụng lâu hơn, đảm bảo được những
tiêu chuẩn về chất lượng, là điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt khâu vận chuyển
và tiêu thụ sản phẩm ra các thị trường bên ngoài.
Tuy nhiên, do xuất phát từ tính chất đặc thù của nguồn nguyên liệu
(tính chất sinh - hóa) nên thời hạn sử dụng của nơng sản chế biến vẫn cịn hạn
chế so với sản phẩm của các ngành công nghiệp khác. Các loại nơng sản chế
biến khác nhau có thời hạn sử dụng khác nhau, đó là do đặc trưng riêng có
của mỗi loại sản phẩm, đồng thời là do hình thức bảo quản và công nghệ chế
biến quyết định. Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến giảm sút về chất lượng
và giá trị của nông sản chế biến một là, sự phát triển của vi sinh vật, nơng sản
trong q trình chế biến, gia công, vận chuyển, bảo quản và tiêu thụ rất dễ bị
nhiễm các loại vi sinh vật, khi tiếp xúc với nhiệt độ thích hợp, chúng sẽ phát
triển và phân giải các chất dinh dưỡng có trong sản phẩm. Hai là, tác dụng
của các men sinh vật, trong nông sản có rất nhiều loại men, dưới tác dụng của
men, các chất dinh dưỡng trong sản phẩm sẽ bị phân giải thành các sinh vật
cấp thấp, các loại sinh vật này sẽ phá hủy thành phần của sản phẩm. Ba là,
xảy ra q trình phản ứng hóa học, tác dụng của oxy có trong khơng khí gây
ra q trình oxy hóa một vài thành phần làm giảm chất lượng của nông sản
chế biến. Trên thị trường hiện nay, chất lượng và an toàn vệ sinh sản phẩm là
tiêu chuẩn hàng đầu mà người tiêu dùng luôn đặt ra. Cho nên, đối với loại sản
phẩm này địi hỏi phải có chế độ vận chuyển, bảo quản đặc thù để bảo đảm
nâng cao giá trị của nó trong thời hạn cho phép, vừa đảm bảo nguồn lợi nhuận
cho doanh nghiệp, vừa bảo vệ lợi ích và sức khỏe của người tiêu dùng.
16
1.1.2.4. Sản phẩm của công nghiệp chế biến nông sản có chất lượng
cao, đa dạng và phong phú về mẫu mã, chủng loại
Đây là đặc điểm thể hiện tính chất phong phú, hấp dẫn của sản phẩm
chế biến, góp phần lớn vào nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường, nó phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
Một là, tiềm năng của nền nông nghiệp. Trong điều kiện, môi trường
thuận lợi dẫn đến tồn tại nhiều loại cây trồng, vật ni có giá trị kinh tế cao.
Nền nông nghiệp phát triển, sản xuất ra nhiều loại hàng hóa nơng sản, một
mặt là đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng và mặt khác, cung cấp
nguồn nguyên liệu dồi dào, phong phú để công nghiệp chế biến nông sản sản
xuất ra nhiều loại sản phẩm đa dạng về chủng loại và mẫu mã.
Hai là, trình độ lao động kỹ thuật và cơng nghệ chế biến nông sản.
Phát triển công nghiệp chế biến nông sản phù hợp với xu thế tiến bộ của cách
mạng khoa học - công nghệ và phát triển kinh tế tri thức là một tất yếu khách
quan trong tiến trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Khoa học và cơng
nghệ đóng một vai trị rất quan trọng trong hoạt động chế biến nông sản của
các doanh nghiệp, làm biến đổi chất lượng lao động, góp phần sử dụng tiết
kiệm nguồn nguyên liệu trong quá trình sản xuất. Khoa học và công nghệ phát
triển với sự ra đời của các công nghệ mới tạo điều kiện thuận lợi để các doanh
nghiệp thực hiện chế biến sâu, gia tăng giá trị sản xuất, nông sản chế biến
được nâng cao về chất lượng, đa dạng và hấp dẫn hơn trên thị trường.
Ba là, nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Nông sản chế biến gắn liền
với nhu cầu hàng ngày của con người, được con người sử dụng ngày càng
nhiều. Trong môi trường phát triển của xã hội hiện đại, nhu cầu của con người
về chất lượng và an toàn thực phẩm đang tăng lên mạnh mẽ, xu hướng tăng
cường sử dụng các loại rau quả sạch, sử dụng các loại nông sản đã qua chế
biến với những yêu cầu đang ngày càng trở nên nghiêm ngặt, khó tính hơn.
Đây là một cơ hội lớn để phát triển công nghiệp chế biến nông sản dựa trên
17
những tiềm năng lớn về nông nghiệp, gắn với việc nâng cao trình độ lao động,
trình độ tổ chức quản lý sản xuất, ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại
tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, đa dạng và phong phú về chủng
loại, mẫu mã đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
1.1.3. Vai trò của công nghiệp chế biến nông sản
Nghiên cứu các đặc điểm của cơng nghiệp chế biến nơng sản, chúng ta
có thể nhận thức rõ được vai trị của nó đặt trong sự phát triển hài hòa của mối
quan hệ hữu cơ với nông nghiệp, dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất.
1.1.3.1. Công nghiệp chế biến nông sản đóng góp cho tăng trưởng kinh tế
Một xu thế phát triển là càng ngày giá trị gia tăng chuyển dọc lên
các nấc thang cao hơn của chuỗi giá trị, từ sản xuất nguyên nguyên
liệu đến sơ chế, chế biến, chế biến sâu, kinh doanh… Do đó, khi
tính tốn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thì giá trị tăng thêm của
sản xuất nơng nghiệp có xu hướng chuyển dần từ khu vực sản xuất
nguyên liệu sang khu vực chế biến [34, tr.26].
Ngày nay, sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đã tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển công nghiệp chế biến sâu, nâng cao năng suất lao động. Đồng
thời, điều kiện phát triển công nghiệp chế biến nông sản không bị hạn chế nguồn
nguyên liệu so với sự phát triển của nơng nghiệp, do đó, nó ln có tốc độ tăng
trưởng cao. Ở nước ta, trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơng
nghiệp chế biến nông sản ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế.
Trên địa bàn tỉnh, với lợi thế lớn về tiềm năng nông nghiệp, công nghiệp
chế biến nơng sản đang giữ một vai trị mũi nhọn, có điều kiện thuận lợi gia tăng
giá trị sản xuất trong nội bộ ngành và sẽ là ngành đột phá trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển bền vững của nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa lớn, cơng nghiệp chế biến nơng sản sẽ ngày càng phát triển mạnh
mẽ, quy mô sản xuất mở rộng, ứng dụng công nghệ sản xuất hiện đại vào nâng
18
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường,
góp phần lớn vào tốc độ tăng tưởng và khẳng định vị thế kinh tế của tỉnh.
1.1.3.2. Công nghiệp chế biến nông sản thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
Thứ nhất, thúc đẩy phát triển và gia tăng tỷ trọng của công nghiệp.
Công nghiệp chế biến nông sản là phân ngành thuộc công nghiệp chế biến,
một bộ phận cấu thành của ngành cơng nghiệp. Nó đóng góp tích cực vào q
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm gia tăng tỷ trọng của công nghiệp, tác
động trực tiếp tạo điều kiện cho nông nghiệp và dịch vụ phát triển. Công
nghiệp chế biến nông sản là chủ thể chủ yếu tham gia vào chuỗi các giá trị sản
phẩm, nâng cao giá trị gia tăng của hàng nông sản và mở ra những khả năng
tiêu thụ các nơng sản chế biến ở thị trường trong và ngồi nước, gia tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp, tăng kim ngạch xuất khẩu, thu ngoại tệ, thúc đẩy gia
tăng giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp. Đồng thời,
nó thúc đẩy sự phát triển của nơng nghiệp và các loại hình dịch vụ nơng thơn,
nâng cao đời sống của nông dân. Sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế nông
thôn và tăng trưởng cao của kinh tế nông thôn sẽ tăng nhu cầu sản phẩm công
nghiệp và dịch vụ, thúc đẩy phát triển và gia tăng tỷ trọng công nghiệp trong
cơ cấu ngành kinh tế.
Thứ hai, thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng
hóa lớn tập trung, ứng dụng tiến bộ cơng nghệ vào sản xuất nông sản chất
lượng cao theo tiêu chuẩn trong nước và quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác
định phát triển cơng nghiệp, cơng nghiệp hóa là bước đi tất yếu của một nước có
nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu như nước ta. Người chỉ ra rằng: “Cơng nghiệp
phát triển thì nơng nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp
phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì
tiến bước sẽ nhanh chóng đi đến mục đích” [27, tr.544-545].
Nơng nghiệp là lĩnh vực có sức lan tỏa mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế
nói chung. Tăng trưởng nông nghiệp sẽ hỗ trợ rất lớn cho sự phát triển của công
19
nghiệp chế biến nông sản [37, tr.32-35]. Công nghiệp chế biến nông sản là thị
trường đầu ra trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp, cho nên muốn phát triển
ngành này tất yếu địi hỏi nơng nghiệp phải phát triển theo hướng sản xuất tập
trung chuyên canh, mở rộng quy mô sản xuất, ứng dụng khoa học - công nghệ,
tạo ra năng suất cao với tỷ suất hàng hóa lớn. Sự phát triển của công nghiệp
chế biến nông sản làm tăng nhu cầu về sản phẩm của nơng nghiệp, thơng qua
đó, thị trường tiêu thụ nông sản được mở rộng, làm giảm sự phụ thuộc vào
yếu tố thời gian và khoảng cách đối với tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp.
Thực hiện đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn, dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công
lao động xã hội ngày càng sâu sắc tất yếu dẫn đến phá vỡ tính chất tự cấp tự túc
trong sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp chế biến nông sản phát triển sẽ tạo
điều kiện cho các hộ nơng dân thốt khỏi tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ,
năng suất thấp; có cơ hội phát triển, mở rộng quy mô sản xuất theo hướng sản
xuất hàng hóa lớn, nâng cao chất lượng sản phẩm; thúc đẩy mở rộng, phát triển
các hình thức kinh doanh đa dạng trong nơng nghiệp; các hộ gia đình, các
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước có xu hướng phát triển theo
các loại hình kinh tế trang trại, hợp tác sản xuất nông nghiệp, ứng dụng các
thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao năng suất lao động.
Với sự tác động mạnh mẽ của công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất nông
nghiệp tăng lên liên tục tạo cơ hội cho việc gia tăng xuất khẩu nông sản, đồng
thời sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản thúc đẩy trở lại phát triển của
công nghiệp chế biến nông sản. Nếu công nghiệp chế biến nơng sản ở trình độ
phát triển cao (nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tỷ trọng sản phẩm tinh
chế, đa dạng hóa mặt hàng, đáp ứng được nhu cầu về số lượng của những
khách hàng lớn...) thì giá trị xuất khẩu sẽ càng cao hơn [4, tr.10].
Như vậy, để đáp ứng yêu cầu về số lượng lẫn chất lượng của công
nghiệp chế biến nông sản đối với sản xuất nông nghiệp, phát triển nông nghiệp
20
theo hướng nền sản xuất hàng hóa lớn là một vấn đề cấp thiết. Đó là điều kiện
thuận lợi để ngành nông nghiệp chủ động đưa những tiến bộ khoa học và công
nghệ vào sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh
tranh của sản phẩm, tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích. Bởi vì cơng
nghiệp chế biến nơng sản là thị trường đầu ra của nơng nghiệp, nên nó trực
tiếp định hướng các tiêu chuẩn như: quy mô, cơ cấu, kích cỡ, chất lượng, giá
cả đối với sản xuất nông nghiệp. Nơng nghiệp sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của cơng nghiệp chế biến nơng
sản, nếu khơng có cơng nghiệp chế biến nơng sản thì phương án sản xuất
nơng nghiệp khó đưa lại hiệu quả cao, hàng hóa nơng sản được bán hoặc xuất
khẩu chủ yếu dưới dạng sản phẩm thô, khả năng cạnh tranh kém và bị thua
thiệt trên thị trường.
Thứ ba, công nghiệp chế biến nông sản thúc đẩy phát triển các
ngành dịch vụ liên quan. Phát triển cơng nghiệp chế biến nơng sản thúc đẩy
nâng cao trình độ công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, hạ giá thành, nâng
cao chất lượng nơng sản, nó kéo theo sự phát triển của những ngành công
nghiệp phục vụ đầu vào của sản xuất nông nghiệp như công nghiệp cơ khí
sửa chữa máy móc nơng nghiệp, thủy lợi, phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng, các loại hình dịch vụ sản xuất nông nghiệp và các dịch vụ đời sống
thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn. Sự phát triển của nơng nghiệp, nơng
thơn giúp cho q trình phát triển cơng nghiệp chế biến nông sản một cách
thuận lợi hơn, thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ thương nghiệp, thu
mua nông sản sau khi thu hoạch; các thương lái thu mua, bảo quản và vận
chuyển nông sản cung cấp cho các cơ sở, nhà máy chế biến theo hợp đồng
giao kết. Đồng thời, nó kéo theo hình thành và phát triển các dịch vụ khác
như tư vấn, đầu tư, tín dụng, bảo hiểm, khoa học và công nghệ, xúc tiến
thương mại và bảo vệ mơi trường trong q trình phát triển công nghiệp
chế biến nông sản.
21
1.1.3.3. Nâng cao sức cạnh tranh của nông sản, thúc đẩy xuất khẩu
và thu ngoại tệ
Thứ nhất, công nghiệp chế biến nông sản tạo ra sự đa dạng về giá trị sử
dụng, kéo dài thời gian sử dụng của hàng hóa nơng sản. Nó khơng chỉ gìn giữ,
khắc phục làm giảm hư hao nguyên liệu, mà còn bổ sung, làm tăng giá trị sử
dụng của chúng. Thông qua chế biến, từ một nơng sản có thể tạo ra nhiều loại
sản phẩm có những giá trị sử dụng rất khác nhau, thậm chí tạo ra những đặc
tính mới, những giá trị sử dụng mới; từ đó nâng cao mức độ và khả năng đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Hàng nông sản chế biến đa dạng và phong
phú về mẫu mã, chủng loại, kích thích nhu cầu mở rộng khả năng tiêu dùng
của xã hội. Người tiêu dùng với tâm lý sẵn sàng trả một giá cao hơn cho
những sản phẩm nếu chúng được ưa chuộng. Chính vì thời hạn sử dụng được
kéo dài, chất lượng sản phẩm được tăng lên nên nơng sản chế biến có khả năng
cạnh tranh cao trên thị trường.
Thứ hai, công nghiệp chế biến nông sản nâng cao giá trị và năng lực
cạnh tranh của hàng hóa nơng sản. Trong sản xuất tự cấp tự túc, quy mô nhỏ lẻ,
nông sản ở dạng sản phẩm thơ hoặc nếu được sơ chế thì chỉ bằng những phương
pháp thủ công, lạc hậu nên giá trị thấp và chủng loại ít. Cịn trong nền sản xuất
hàng hóa theo hướng quy mơ lớn, có điều kiện ứng dụng khoa học và công nghệ
hiện đại, sản phẩm được sản xuất ra ngày càng nhiều, giá trị và chất lượng nông
sản càng cao phù hợp với nhu cầu của thị trường. Phát triển công nghiệp chế
biến nông sản phải được đặt trong một hệ thống các chuỗi giá trị giữa nông dân doanh nghiệp chế biến - nhà xuất khẩu và thị trường. Trong chuỗi giá trị có
nhiều mắt xích được liên kết chặt chẽ với nhau, mỗi mắt xích sẽ bổ sung thêm
vào sản phẩm một lượng giá trị nhất định. Chẳng hạn theo tính toán của chuyên
gia, sau khi tinh chế, giá trị của nông sản trên thị trường thế giới có thể tăng lên
từ 4 đến 10 lần so với lúc chưa chế biến [28, tr.12]. Như vậy, cơng nghiệp chế
biến nơng sản ngày càng đóng một vai trị quan trọng trong tổng giá trị hàng hóa
22
nơng sản; trình độ lao động càng cao, cơng nghệ chế biến càng hiện đại thì sản
phẩm càng đa dạng, giá trị càng lớn, năng lực cạnh tranh càng cao.
Thứ ba, công nghiệp chế biến nông sản thúc đẩy nông nghiệp hội nhập
quốc tế, tăng kim ngạch xuất khẩu và thu ngoại tệ. Công nghiệp chế biến nông
sản càng phát triển thì sức cung hàng hóa nơng sản càng lớn, sức mua tăng lên
và khối lượng lợi nhuận thu được càng nhiều. Trong giai đoạn mở cửa và hội
nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển của công nghiệp chế biến nông sản thúc đẩy
nền nông nghiệp ở các tỉnh, các vùng trong nước hội nhập ngày càng mạnh mẽ,
tăng cường khả năng học tập, trao đổi những kinh nghiệm về hiệu quả sản xuất
nông nghiệp với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phát triển nông nghiệp
gắn với phát triển công nghiệp chế biến nông sản thúc đẩy tích tụ vốn nhanh
chóng để mở rộng quy mơ và nâng cao trình độ sản xuất, nâng cao giá trị và chất
lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ nơng sản trong và ngồi nước, từng
bước tăng dần thị phần nông sản nước ta trên thị trường thế giới. Với điều kiện
thương mại quốc tế phát triển, có nhiều nước hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết
với nước ta trong lĩnh vực sản xuất, chế biến và xuất khẩu hàng nơng sản. Do đó,
phát huy tính hiệu quả của công nghiệp chế biến nông sản sẽ làm tăng kim ngạch
xuất khẩu, mang lại nguồn ngoại tệ khá lớn, góp phần quan trọng vào việc cải
thiện cán cân thanh toán, cán cân thương mại và tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia.
1.1.3.4. Công nghiệp chế biến nông sản góp phần giải quyết việc
làm cho lao động ở nông thôn
Phát triển công nghiệp chế biến nông sản là điều kiện cần để hình
thành nền nơng nghiệp tập trung chun canh, quy mơ lớn. Từ đó sẽ thu hút
nhiều lao động từ nông nghiệp, chuyển nông thôn từ thuần nông sang cơ cấu
nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ, góp phần quan trọng vào việc giải quyết
việc làm cho lực lượng lao động nông nhàn; tạo điều kiện cho nhiều người
tham gia vào quá trình sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm với các hoạt động
phổ biến như sản xuất, thu gom, bảo quản vận chuyển, sơ chế nông sản,... làm
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng lao động
23
trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp ở nông thôn. Bên
cạnh, giải quyết việc làm, công nghiệp chế biến nơng sản cịn cải thiện điều
kiện sản xuất, nâng cao trình độ người lao động. Phát triển công nghiệp chế
biến nông sản gắn với phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung
chuyên canh sẽ thúc đẩy việc cải tạo, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, văn
hóa, xã hội ở nơng thơn, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống văn
hóa, tinh thần cho dân cư ở nông thôn.
1.1.3.5. Công nghiệp chế biến nơng sản góp phần đóng góp cho
ngân sách
Việc tăng trưởng nhanh và hiệu quả của công nghiệp chế biến nơng
sản một mặt sẽ có tác dụng gia tăng thuế, làm tăng nguồn thu cho ngân sách
nhà nước; gia tăng tích lũy của các doanh nghiệp, tăng thu nhập của người
dân, gia tăng tỷ lệ tiết kiệm, đáp ứng cho nhu cầu tái đầu tư phát triển kinh tế.
Mặt khác, phát triển công nghiệp chế biến nông sản theo hướng bền vững, nó
đóng góp tích cực vào chi ngân sách cho sự phát triển kinh tế - xã hội như
đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định; cải thiện mức sống người lao động, xóa
đói giảm nghèo, giảm bất bình đẳng trong thu nhập góp phần hạn chế những
tiêu cực trong xã hội; tăng cường sử dụng hiệu quả và đào tạo nâng cao chất
lượng nguồn lao động; khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, sử
dụng công nghệ sạch trong sản xuất và chế biến tạo ra sản phẩm theo quy
định quốc tế về đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, an tồn vệ sinh thực phẩm,
đóng góp vào bảo vệ mơi trường sinh thái.
1.2. NỘI DUNG VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
1.2.1. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển cơng nghiệp chế biến nơng
sản trên địa bàn tỉnh
1.2.1.1. Các tiêu chí đánh giá về quy mô, số lượng
Thứ nhất, sự gia tăng hàng năm về số lượng doanh nghiệp, đây là tiêu
chí mang tính tuyệt đối, đánh giá về quy mô phát triển của doanh nghiệp chế
24
biến nông sản, cũng như xác định những điều kiện thuận lợi về môi trường
đầu tư và các chính sách hỗ trợ phát triển. Chỉ số đo lường là số lượng cơ sở,
doanh nghiệp chế biến tăng thêm trong tổng số doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh, với diện tích và địa bàn hoạt động sản xuất được mở rộng.
Thứ hai, sự gia tăng hàng năm về sản lượng, giá trị sản xuất, giá trị gia
tăng, thu hút nhân lực, kim ngạch xuất khẩu… của ngành. Đây là các tiêu chí
quan trọng, phản ánh quy mô và chất lượng tăng trưởng, thể hiện mức độ
đóng góp của phát triển cơng nghiệp chế biến nông sản vào tốc độ tăng trưởng
kinh tế của tỉnh. Hiệu quả của sản xuất công nghiệp chế biến nông sản thể hiện
ở giá trị tăng thêm mà nó tạo ra cho nền kinh tế, tăng trưởng với tốc độ cao,
ổn định, nhưng giá trị gia tăng thấp thì khơng thể coi là phát triển. Vì vậy, phát
triển công nghiệp chế biến nông sản phải theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập vào sự phân cơng lao động của nền kinh tế khu vực và thế giới,
gắn với tiến bộ của cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại nhằm sử dụng có
hiệu quả các yếu tố đầu vào, nâng cao năng suất lao động. Chỉ số đo lường là
việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, mức độ giá trị gia tăng của sản
xuất thể hiện ở tỷ lệ giữa giá trị gia tăng và giá trị sản xuất; tỷ trọng hàng nông
sản chế biến sâu trong tổng kim ngạch xuất khẩu, khả năng cạnh tranh trên thị
trường; khả năng thu hút lao động thể hiện ở tỷ lệ lao động có việc làm tăng
thêm, đặc biệt là lao động có trình độ chun mơn, tay nghề kỹ thuật cao, nâng
cao thu nhập và giảm bất bình đẳng thu nhập trong dân cư giữa các vùng.
1.2.1.2. Các tiêu chí đánh giá về cơ cấu
Thứ nhất, mức độ phát triển của các tiểu ngành sản xuất. Đây là tiêu
chí cơ bản đánh giá sự phát triển của công nghiệp chế biến nông sản trên cơ
sở khai thác, tận dụng được các nguồn lực, thế mạnh và lợi thế so sánh của
tỉnh theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chỉ số đo lường là tỷ trọng giá
trị sản lượng của các tiểu ngành chế biến nông sản then chốt trong tổng sản
lượng cơng nghiệp và đóng góp của nó vào cơ cấu kinh tế nói chung.
25
Thứ hai, mức độ phát triển của vùng (địa bàn) sản xuất. Đây là chỉ tiêu
gắn bó chặt chẽ với chỉ tiêu phát triển của các tiểu ngành sản xuất, do sự khác
nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, lịch sử, xã hội, truyền thống, kinh nghiệm
sản xuất,… nên mỗi vùng phát huy được những lợi thế khác nhau về phát
triển các loại nông sản cung cấp cho công nghiệp chế biến nơng sản. Do đó,
chỉ số đo lường thể hiện ở khả năng đầu tư phát triển vùng sản xuất, diện tích
các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung chuyên canh ngày càng mở rộng, các
cơ sở, doanh nghiệp chế biến có sự gắn bó chặt chẽ với các vùng nguyên liệu,
phát triển mở rộng sản xuất đạt giá trị gia tăng cao.
Thứ ba, mức độ tham gia và phát triển của các thành phần kinh tế.
Cũng như các ngành khác, công nghiệp chế biến nông sản phải huy động
được tối đa mọi nguồn lực trong và ngoài nước để khai thác hiệu quả tiềm
năng hiện có của tỉnh. Các thành phần kinh tế tham gia chế biến nông sản
nhằm thực hiện mục tiêu tạo ra giá trị gia tăng, nâng cao hiệu quả, chất lượng
và lợi nhuận kinh doanh, hướng đến mở rộng quy mô sản xuất. Chỉ số đo
lường là số lượng và hiệu quả các mơ hình phát triển sản xuất ngày càng đa
dạng theo hướng liên kết, liên doanh, cổ phần, hợp tác xã, tư nhân... với quy
mô lớn. Các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại theo hướng tập trung
vào các tiểu ngành then chốt, trọng điểm, tuy có giảm nhưng vẫn giữ vai trị
chủ đạo. Các doanh nghiệp chế biến nơng sản có vốn đầu tư nước ngồi có xu
hướng phát triển nhanh và đóng vai trị quan trọng trong thu hút vốn, đổi mới
cơng nghệ, tạo việc làm, đóng góp cho ngân sách của tỉnh.
1.2.2. Nội dung phát triển công nghiệp chế biến nông sản trên địa
bàn tỉnh
1.2.2.1. Đối với doanh nghiệp
Phát triển, mở rộng sản xuất, kinh doanh, chế biến nông sản trong xu
thế vận động chung của nền kinh tế là một quy luật tất yếu khách quan. Để
tồn tại, phát triển ổn định và bền vững trong bối cảnh hội nhập kinh tế, các