'dũộì Lảnạ rĐúe {'Diễn
Thị
: Thổ lệnh Quốc thống đại vương, thần trán giữ
thành Bạch Hạc tam giang Đào Trường thượng đảng thần
Đia điêrn : Thôn Đức Diễn xã Phú Diễn huvên Từ Liém
Thòi gian : 10 đến 13/2
Đặc điểm : Tế, rước
Phú Diễn huyện Từ Liêm ngày nay gồm 4 thơn
Kiều Mai, Đức Diễn, Đình Qn và Phú Diễn. Mỗi thơn
đều có đình chùa riêng và thờ các vị th à n h hồng khá:
nhau. Ba thơn Kiều Mai, Phú Diễn và Đức Diễn thờ Bạch.
Hạc tam giang, thôn Văn Trì thờ thần Đồng cổ...
Mn đến Đức Diễn, ta đi theo đường 32, qua cầi
Diễn khoảng 300m thì rẽ phải vào đường lớn của các thôr .
TỚI ngã tư đầu, ta rẽ phải vào thôn Đức Diễn.
Đây là một làng cổ, có tên nơm na là Làng Vàng, tên
cũ là Phù Diễn, trong mấy chục năm trở lại đây nổi tiên!
là vùng có giơng bưởi ngọt. Người ta thường nói "cam Cam
bưởi Diễn" là chỉ đặc sản vùng quê này.
Đình làng Đức Diễn tọa lạc trên một khu đất rộnf,
cửa đình hướng nam, phía tây của đình là một cái ao lới,
bị ao chạy dọc theo đất đình tạo nên một khoảng khơrg
gian thống đãng, mát mẻ. Đi vào đình Đức Diễn, ta qia
cổng ngồi có 4 trụ cao, trong cửa là vườn cảnh với hàig
nhãn ven hồ tỏa bóng mát và những cây hoa lưu niên như
548
th iên tuỏ, vạn tuế tạo thành vườn cảnh đẹp cho khu vực
tín ngưỡng. Đi qua vườn cảnh, tới cửa ngũ quan. Hai cột
giữa cao vút. trên đầu mỗi cột là 4 tượng chim phượng
chụm đuôi vào nhau cùng vươn tỏa. Hai cửa bên tả và hữu
đều có mái và khung tị vị trang trọng. So với một sơ nơi
khác, kiến trúc th ế là đã đủ. nhưng ở Đức Diễn cịn có
thêm hai cửa nách hai bên để người qua lại ngày thường.
Sân đình Đức Diễn khá rộng, đê xứng với nhà tiền tế
5 gian, chạy hêt chiều ngang của sân. Kiến trúc của đình
theo kiểu chữ cơng gồm đại đình, thần đạo và cung cấm.
Đại đình 5 gian, nối VỐI 2 gian nhà cầu (thần đạo). Các cấu
kiện gỗ theo lơi cổ. Những hình chạm khắc có trang trí tứ
linh, ổ long, tứ quý, hoạt cảnh ca múa. Tại di tích cịn giữ
được 31 đạo sắc qua các triều vua và một quyển thần tích.
Càn cứ theo bản dịch bộ thần tích "Bạch Hạc Tam giang
lỉại vương phả lục" thì sự tích của vị thần được thờ là một
lạc tướng thời Hùng Duệ vương.
T hần tích kê rằng: Xưa tại huyện An Lão, phủ Kinh
Mịn có ơng Đào Bột, 16 tuổi đã nối danh trí dũng song
tồn. Ong kết duyên cùng bà Phạm Thị Điểm. Đào Công về
trân giữ Hoan Châu (Nghệ An), sau chuyên vê Hải Dương
bộ Một đêm bà Điểm nằm mơ thấy có một cánh buồm đỏ
bay lướt đến, từ đó bà có thai, đó là mộng ứng bài thơ:
Pho hưa Đào gia ngủ noãn thần
N h át bào cự xuảt ngủ long quản
Thiên tài công giáng phủ gia quốc
Phúc triệu hà nghi hữu quái văn.
549
Tạm dịch:
Giao cho họ Đào năm quả trứng thần
Một bào thai sẽ sinh ra năm rồng thần
Đó là những bậc thiên tài giáng xuống đô giúp nước
Đừng ngại mộng này là điềm xâu.
Đến ngày 02 tháng 12 năm Đinh Mùi bà sinh được 5
con trai, ông mừng lắm, đặt tên lần lượt: Đào Cự, Đào
Hồng, Đào Trường, Thạch Khanh và Đào Lý. Khi lớn lên.
năm người con tỏ ra tài giỏi hơn người, vua Hùní? vịi vào
cung và phong chức cho:
Người
Người
Người
Người
Người
thứ
thứ
thứ
thứ
thứ
nhất là Đông Long thái sư
hai là Tây Long thái phó
ba là N am Long thái vương
tư là Bắc Long thái bảo
năm là Thiếu Long
Khi có giặc, nhà vua cử các ông thứ nhất, thứ hai và
thứ năm đi dẹp. Thắng tr ậ n về, các ông mở tiệc khao
quân. Mãn tiệc, bỗng nhiên các ơng đều hóa vổ trời. Vua
vô cùng thương tiếc truy phong ba ông là "thượng đang
thần" ban cho nhiều nơi thờ. Khi đó nhà Thục đưa qn
sang xâm chiếm nước ta. Vua cho vịi ơng thứ ba là Đào
Trườnẹ tức Thô lệnh công Lạc tướng quân đang cai quán
bộ Phú Xuyên. Thô lệnh công đã cầm quân tấn công nhà
Thục, cả hai trận ta đểu chiến thắng. Ong cùng ông
Thạch Khanh được phong đại tướng. Dẹp xong giặc Thục o
biên giới, hai ông lại cất quân dẹp loạn ở Hồng Châu.
Đánh xong giặc ở Hồng Châu, ngày 10 th án g 6 truyển
lệnh đi Lương Giang. Khi đến Bạch Hạc Tam giang thì
550
hai ỏng đểu hóa. Tin dua về, nha vua 1'ất thương tiêc,
tru y ền cho 172 nơ] thờ, đăp tượng hai vị to lớn như người
thường. ĐẮp tướng quân hầu cắp long đao hai bên đê
tưởng nhớ. Như vậy, theo th ầ n phả, vị th ầ n được thờ tại
hai dinh Kiều Mai và Đức Diễn là Thô lệnh đại vương Đào
Trường, con thứ ba của ông Đào Bột.
Làng Đức Diễn xưa có 4 giáp là giáp Trung, giáp
Chính, giáp Đông và giáp Tây. Hàng năm mỗi giáp lần lượt
được đăng cai tổ chức lễ hội, làng gọi là vào đám. Lễ hội
của Đức Diễn xua có nhiều yếu tô dân gian, tục lệ như
ngày 9 tháng hai: làng giao cho các trai tráng dẫy cỏ ở gò
bên cạnh giêng, tạo thành bậc tam cấp. Sau khi dẫy cỏ,
khiêng một cái chum sành đến, gánh nước đổ đầy chum và
tuần phái trông qua đêm không đê vật bẩn rơi vào.
Sáng ngày 1 0 tháng hai, làng tô chức đám rước đi từ
(tình làng qua cổng "Ma hóp" vịng đường sang cơn^ Giếng
rồi về đình. Đám rước gồm: dẫn đau là cị hội, cờ thần sau
(ĩó là cờ ngũ hành, tứ linh, sau cờ là các ông trong ban tế
vác đồ b á t bửu theo hầu, rồi đội chấp kích. Tiếp là ban
nhạc bát âm. trơng khẩu, sau đội bát âm là tám cô gái
cồng trinh thay nhau khiêng một giá gỗ sơn son thếp vàng
cụng chóe sứ đẹp. Đó là chóe sứ trong lễ rước nước. Tới gị
cồn dừng lại dể chuyến nước sạch từ chum sang cho đầv
chóe rồi rước vê đình. Đi tiếp, trong đồn rước ngày xưa có
nột chiếc
cáng mấy vng lụa đỏ tốt thành võng (chưa
hiêu ý nghĩa) nay thây nhân dân xem rước cứ đặt tiền vào
\õng nên ban lãnh đạo hội ý bỏ đi, vì đê khiêng võng đi
rh ư th ế thành ra đi khuyến giáo, mất ý nghĩa trang trọng
của buổi lễ. Sau võng đào là long đình, kiệu bát công và
551
các hương lão cùng nhân dân đi theo. Kiệu bát công đều do)
trai chưa vợ mặc áo nâu, th ắ t lưng xanh, đỏ cùng khiêng..
Ngày nay để thực hiện nam nữ bình đẳng trong mọi cơng,r
việc, các bà cũng tổ chức đội dâng hương đi trong đárrn
rước, có 1 lá phướn nhà P h ậ t dẫn đường. Hoặc long đìnhi
xưa bày bài vị của thành hồng, nhưng; nay đặt tượng chủi
tịch Hồ Chí Minh.
Đám rước tới đình, các cụ được phân công (thường làt
hai hay ba cụ cao tuổi, gia đình song tồn, thịnh vượng...))
vào hậu cung bao sái đồ thị và tượng thánh. Lễ mộc dục:
xong thì tổ chức tế. Đội tế ở đây có 2 ơng đông, tây xướng, &
ông chấp sự và 3 ông bồi tê.
Thức cúng dùng xôi gà, thịt lợn. Theo thành ngữ "lợm
quay ra. gà chầu vào" người ta bày trên hương án con gài
trông to mô moi nằm phục hoa đỏ cài ỏ mỏ như phượngỊ
chầu, còn cái thủ lợn bày quay đáu ra, miệng cài cái đuôii
lợn ra ý cúng con lợn nghiêm chỉnh, đủ cả từ đầu đến đuôi.
Ngày lễ ỏ Đức Diễn theo hương lệ rất chặt chẽ về lễ
phục. Khi ra đình phải theo bậc tuổi như sau:
- Dưới 70 tuổi mặc quần trắng, áo the đen, khăn đen
- Dưới 80 tuổi mặc quần trắng, áo vàng, khăn vàn?
- Dưới 90 tuổi mặc
quần
đỏ, áo đỏ, khăn đỏ
- Trên 90 tuổi mặc quan xanh, áo xanh, khăn xanh
Riêng bộ lễ phục tế, rước thì màu sắc theo lối cổ. Cũng
trong ngày vào đám này, nhà ai có người chêt, con cháu
khơng được khóc lóc làm kinh động đến bội làng, phải đắp
chiếu buông màn chờ rã đám mới cử hành lễ tang. Nếu cần
đưa đám thì lặng lẽ đi tắ t qua đình làng. Ngày thường các
552
đám ma khi đi qua đình làng đều phải hạ địn, ngưng kèn
trơng.
Cảnh hội làng những ngày vui trong nơng thôn xu'a
đã được bà con nhớ mãi. Ong Nguyễn Đắc Nhàn nhân dịp
hội làng năm Canh Thìn (2000) đã viết:
Làng Vàng - Đức Diễn quê m ình
A i về xin nhớ đến đ in h làng ta
M ái đình tinh nghĩa đậm đà
Tôn thờ đức thánh tên là Tam giang...
Hội làng Đức Diễn có n hữ ng cỗ b án h riêng để cúng
th ần như: bánh dầy, bánh cuốn và mía. Cọ bánh phải lo
củ để chừa p h ần theo suất đinh gọi là lộc hội gồm: 1 cái
l á n h dầy, 1 cái bánh cuốn rán, 1 k h ẩu mía. Cũng chưa ai
r.ói rõ tại sao lại dùng mía khấu. Với lợn được giao ni,
rg ày xưa, n h à nào nuôi lợn p h ải chăm cho tốt, đến ngày
lễ, gia đình khiêng lợn ra đình giao cho hàng giáp mổ thịt
\à cân. Nếu thiếu, phải dùng tiền chinh treo vào cho đủ
cân.
Làng Đức Diễn vốn là làng nông nghiệp, chỉ lo việc
trồng lúa khơng có cây gì khác. Người làng kể lại có ông Lý
Năm trong một lần về quê vợ ở Đoan Hùng ăn giỗ, thấy
£ÌỐng bưởi quá ngon đã xin một cành chiết đem về Đức
piền. Khi chưa coi trọng kinh tế vườn, thì những giơng
tưởi n h ân từ nhà ông Năm chưa có giá trị cao, nên chưa
Ị h ổ b i ế n nhiều. L ú c g i á tr ị c ủ a c â y q u ả . . . được coi trọng,
Igưòi ta mới chú ý nhân giông đại trà bưởi Diễn. Và cũng
(ặc biệt là bưởi Đức Diễn bao giờ cũng ngon hơn. Có một
lơng dân đã viết thành thơ để ca ngợi:
553
Đức Diễn quê m ình người xinh cảnh đẹp
Bưởi làng m ình m át ngot thơm ngon
Mỏng cùi, vàng óng, tơm giịn
Một lần khách nếm chắc cịn nhớ lâu.
Ngày nay trong khí thê đi lên xây dựng nơng thơn
mới. Đức Diễn vừa xây dựng phong trào sản xuât, vừa giữ
gìn những nét tiêu biểu của phong tục lễ hội quê hương,
hẳn rồi đây sẽ là một vùng đẹp ngay tại cửa ngõ phía tây
thành phơ’ Hà Nội.
Vũ K iêm N in h
554
Tơội đình (Jầ/f rBăụ
Thờ
:
Đìa điém
Thịi gian :
Đặc điểm
:
Lã Lang Đường, Hạnh l)ung còng chúa
Chán Dung còng chúa
Thon Cầu, xã Thạch Bàn, huyện Gia Làm
10/2 đến 12/2
11/2 chính hội
Đuổi lợn trong đêm
@ầu Bây là tên một làng của xã Thạch Bàn, huyện
Gia Lâm. Sông c ầ u Bây xưa là một nhánh của sông Nghĩa
Trụ bắt nguồn từ ô Cách, Lệ Mật (xã Việt Hưng) chảy qua
Gia Thuỵ, Thạch Bàn sau nôi với sông Đại Bi, xưa vôn là chi
lưu của sơng Hồng chảy qua Đa TơrL, Kiêu Kỵ. Bên dịng
sơng có cầu đá xây dựng từ thời Chúa Trịnh định xây hành
cung ở Cổ Bi (Trâu Quỳ). Dân gian lưu một truyền thuyết:
c.êm đêm thường có một bầy tiên nữ lẻn từ thượng giối xuống
(ùng hiệp lực xây cầu đá. Một lần chẳng may, thành cầu va
xào mỏ con Rồng. Đang ngái ngủ, Rồng thần hiện thành gà
fấy kêu to báo tròi sáng. Bầy tiên vội vàng nhặt cánh bay về
trời. Một cầu xây hoảng thành còn một cầu lơ lửng ở giữa
cịng sơng cho đến hơm nay. Tấm bia đá năm Vĩnh Hựu gần
cầu năm 1738 do Tiến sĩ Phạm Khiêm Ich ghi người thợ cả
Um cầu là cụ Nguyễn Văn Bây ở làng Sấy. Có lẽ vì gọi làng
Sấy khó gọi sau dân gian chuyên làng Sấy thành làng Cầu
Bây (làng cầu) để ghi nhớ công ơn người thợ cầu chàng?
Đình thơn Cầu (trước là Cầu Bây) thị Lã Lang
íường. Theo các cụ kể lại, th ầ n quê chính ở Văn Giang,
555
làm tướng theo Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn Thập Nhị sứ
quân. Tướng Lã Lang Đường là môn sinh của Lý Công
Uẩn, ông được thầy Lý dạy văn, dạy võ, sau ông tập hợp
dân binh kéo quân theo nhà Đinh. Đoàn thuyền mang
quân về Nam Định, Ninh Bình, rồi vào khu Bãi Sậy (Hưng
Yên). Ong đánh ta n bọn đầu trộm đuôi cướp, chở thuyền về
Thăng Long. Quân bại trận, ngựa ngã chết nhiều, chất
đông thàn h cánh đồng Mả Ngựa, v ề đến c ầ u Bây ông gặp
ba mẹ con bà bán nước, ông dừng chân. Bà bán nước phát
hiện máu ở cổ ơng đang rỉ chảy, ơng sị tay lên vai mới biết
mình bị thương nặng, õ n g vượt cầu qua sông Nghĩa Trụ
rồi m ất ở cánh đồng Cuốc. Ba mẹ con sau cũng bị giặc bắn
chết, mộ mối đùn th à n h nấm to. Sau được dân thờ được th^í
ở Nghè Ngơ. Một năm có dịch tả, trâu bị chết q nhiều,
dân lập miếu thờ ơng và xin ơng âm phù. Gị mộ ở c á m
đồng Cuốíc nay vẫn cịn.
Về thăm đình c ầ u năm 1937, cụ Nguyễn Xuân Quản*
(cử n h ân 1869) người Tây Mỗ, Từ Liêm có làm câú đối:
- Vân đằng song phượng thiên giáng Lưỡng LonỊ
Thánh tích hậu truyền tiên truyền dị lục
■Tơ dực Hịa đao trận p h ù thạch mã
Thần uy trung ngoại lẫm linh thanh.
Tạm dịch:
- H ai con phượng như mảy nổi, hai con rang
bay xuống
Tên tuôi thánh lưu trong sử sách.
- Tung cánh múa đao, phù ngài có ngựa đá
D anh thần vang mãi cùng m ai sau.
Khoảng ngày 10 tháng chạp, các giáp lo tìm lợn thí.
Lợn thờ phải là lợn đen tuyền của gia chủ khơng có tanỊ
556
ima. Đến ngày 25 tháng chạp, các giáp bắt lợn vê giao cho
(ông bầu (ông đăng cai), ô n g bầu làm chuồng mới trước nhà,
!hàng ngày cho ăn ba bữa bàng cháo gạo và tắm rửa lợn, kỳ
(CỌ chuồng sạch. Ngày 10/2 mang lợn ra đình. Đêm 11/2 có
Ihội thi đuổi lợn náo nhiệt dưới trăng non, cuộc V U I diễn ra
llý thú, bôn giáp phân công người mang lợn ra đình nhốt
Ttrong chuồng riêng. Đúng giờ Tý, bốn con lợn được thả ra.
BỊ nhốt lâu nên cuồng chân, lợn phóng rất khỏe. Dân đinh
4 giáp ở sân đình đua nhau đuổi bắt lợn để đem về mổ tế
th ần . Bơn ngưịi bắt được lợn thì ngồi ăn cùng mâm VỚI
Tiên Chỉ. Khi mổ lợn buổi tôi cần lưu ý mỗi người một việc:
ingười chặt đầu, người chặt đuôi, người khoét khấu đuôi,
người chặt chân... Riêng đầu, đuôi rửa sạch đem cúng sông.
Dân làng vây quanh xem trị đuổi bắt lợn, hị reo, cổ
vũ. cười nói hun náo. Ong chủ tế kiểm tra thấy mọi việc
chu đáo là được. Trong cuộc thi, giáp nào xong trước là giáp
th ắ n g cuộc. Tế lễ xong, mọi phẩm vật mang về nhà người
đăng cai bớt một phần làm cỗ ăn ngay, còn lại đem chia
đều cho tấ t cả nam giới, từ cụ già đến trẻ sơ sinh. Hội làng
Cầu Bây là sự nối tiếp của hội vùng ba làng ở xã Thạch
Bàn. Ngày 8 / 2 làng Ngô chạy ngựa, ngày 9/2 làng Cự kéo
co, ngày 1 1 / 2 làng c ầ u đuổi lợn.
Trò đuổi lợn của làng Cầu chính là trị săn thú gợi lại
bóng dáng của những bi đi săn trong rừng xa xưa. Đó là
hình thức tập dượt lao động, thao diễn các động tác cho
thành thạo, hiệp đồng chặt chẽ để laơ động và chiến dấu có
kết quả hơn. Cuộc đọ sức thi tài vừa là nhu cầu giải trí trong
những ngày đầu xuân mặt khác cũng là sự khuyên khích
rèn luyện thân thể, nâng cao ý chí chiến đấu cho con ngươi.
Văn Hậu
557
'1C)Ội rĐ i u h (JỎ1KỊ ^ ĩll U ỌíK Ị
Thờ
:
Địa điểm :
Thời gian :
Đặc điêni
:
- Chàng Công Sơ Đỏng Hải đại vưưng
- Ba anh em ho Trần
Định Cóng thượng huvện Thanh Trì
- 10-2 đến 12-2
- Chính hội 11-2
Tục hèm kiêng múa bổng
Làng anh là thợ kim Hòan.
Đê anh đánh nhẫn cho nàng đeo tay
(Ca dao)
Từ trung tâm Hồ Gươm đi về Ngã Tư sỏ theo phò
Khương Trung, ph
tối cụm di tích của Định Công thượng, huyện Thant Tri,
Hà Nội. Qua cổng tam quan ta thấy đình ỏ bên tr a CỊỈ1
đền ở bên phải. Đình gồm có tam quan và đại đình. T an
quan xây kiểu tứ trụ. Đại đình bơ" cục mặt kiểu chuôi vồ c5
đại bái 5 gian, hậu cung 3 gian. Đại bái xây kiểu “tườig hci
bít đổc” gồm 6 bộ vì, gian giữa kiểu “chồng giường bả/
hiên”, phía sau kèo kẻ suốt. Bơn vì cịn lại kiêu kèo SI,
trụ trơn. Các vì kèo ở hậu cung làm kiểu “chồng gờig gií
chiêng”. Kiến trúc được tu bơ nhiều lần, có trang tú hoi
dây, tích Phật, tích Tiên, cánh sen, tứ q, vân mây Cố:
mảng chạm có niên đại vào đầu thê kỷ XVII. Cịn khi đềi
có niên đại vào đời vua Lê Ý Tơng, năm 1737. Đền tríi qm
nhiều lần trùng tu, lần trùng tu lớn vào cuôi dời Ngayễi.
Kiến trúc kiểu chuôi vồ tiền tế 5 gian, hậu cung 3 gan, 3
558
gian giữa có 2 tầng mái, bờ nóc là rồng chầu mặt trời. Tiền
té có 3 bộ vì kèo, kiểu chồng giường, trang trí ván xoắn,
vân mây. Chân cột kê táng đá hình vng chạm khác đẹp.
Các bức cửa võng, hồnh phi đều sơn son thếp vàng. Trong
hậu cung có ba bài vị tổ nghê họ Trần. Đó là những bức
chạm khắc hình mặt trời, đao lửa, các nhânh lá uốn quanh.
Tấm bia hậu và bức hồnh phi có ghi: “Vạn đại ân sư” (Vạn
đời ơn thày dạy nghề). Đình, đền được cơng nhận di tích
LSVH năm 1994. Đình thờ th ầ n Chàng Công Sơ (một vị
tướng thời Hùng Vương), kiếp sau là Đồn Thượng (Đơng
Hải đại vương). Đền thờ ba vị tô su' nghề vàng, thực ra là
đền thị xưa ở phường Đơng Các, nay là nhà sơ 51 phô
Hàng Bạc. Vào năm đầu thê kỷ XX. người Định Công
nhượng lại đền cho chủ hiệu pháo Tự Ký, đem tiền của về
xây đền tại làng một cách uy nghi lộng lẫy hơn.
Theo truyền thuyết thì tơ sư nghề kim hồn là ba anh
em họ Trần: Trần Hịa, T rần Điện, Trần Điền. Vào thời Lý
Nam Đê (khoảng thê kỷ VI), ở vùng đất nay là xã Định
Công, huyện Thanh Trì, Hà Nội, có ba anh em họ Trần,
cha mẹ m ấ t sớm. Họ phải đùm bọc lẫn nhau kiếm sơng.
Nhờ có bàn tay khéo léo, lại thêm đức tính cần cù, chịu
khó, an h em củng tạm sông đủ qua ngày. Nhưng cuộc sống
không trôi đi yên ả như vậy. Sau khi Lý Nam Đế bại trận,
đ ấ t nước rên xiết dưới ách thổng trị hà khắc của bọn xâm
lược. Quê hương bị tàn phá, nhà cửa tan nát, ba anh em
phải dua nhau di chạy loạn. Khi qua huyện Quê Dương,
thuộc tỉnh Bắc Ninh, không may họ bị lạc nhau, mỗi người
một ngả. Người anh là Trần Hòa chạy sang phương bắc,
xin vào học nghề ở phường làm đồ nữ trang. Trần Điện và
T rần Điền chạy sang nuàc khác, vào làm thuê cho một
559
phường thợ bạc. Mặc dù đều trở thành những ngưòi thợ
giỏi, được dân nước sở tại trọng đãi, song nỗi nhớ q
hương, làng xóm, khơng lúc nào ngi trong họ. T h ế là
không hẹn mà cả ba anh em đểu tìm đưịng trỏ về. Cuộc
gặp m ặt th ậ t vừa mừng, vừa tủi. Đê ghi nhớ ngày đoàn tụ,
họ cùng n h au mở cửa hàng làm nghề vàng bạc, lấy tên là
kim hồn (vịng vàng). Từ đó những đồ kim hoàn do ba anh
em làm rấ t tinh xảo, nổi tiếng khắp nước.
Hội Định Công thượng tổ chức hàng năm 1 ngày, Đại
hội thì tổ chức 5 năm 1 lần. Ngày 10-2 mở cửa đình, rửa đồ
thị, tổng vệ sinh, treo cò thần, cò tổ quốc. Ngày 11-2, trangtrí làm cổng chào ở các giáp như Thiên Phúc, Yên Thành,
Yên Mỹ, Tam Đa và Thọ Trường. Chiều tối hơm đó mỗi
giáp thịt một con lợn khoảng 40kg đê sáng hơm sau mang
cả con lên tế thần. Đồn rưóc trong ngày 11-2 khoảng 200
người vói cờ, tàn, tán, lọng, kiệu võng, kiệu bành, kiệu long
đình, gươm trường, bát bửu... Giữa đoàn rưốc là 4 chàng
trai áo hồng, khăn hồng khênh kiệu rước ơng ỷ. Trên mình
ơng là cị đi nheo, giấy màu cắt theo hình hoa lá, bơng
lúa. Còn 1 0 mâm oản chay cùng hoa quả là do các thiếu nữ
áo lụa nhiều màu đội đi theo rấ t nhịp nhàng. Đám rước đi
quanh xóm 6 , xóm 7, xóm 8 , rồi xuống đền Thiên Bồng,
cách đình khoảng nửa cây số. Đi trong đồn rước có cả các
làng kết chạ như Đại Kim, Khương Đình, Định Công hạ
Buổi trưa th ụ lộc, buổi chiều mối rước về. Theo các cụ cao
niên kế lại, Thiên Bồng là vị th án h đầy sức mạnh đã giúp
dân làng san ruộng, khơi mương, đào sông Tô... Trong một
lần đi cày ở khu đồng Hai Cây, ngài bị sét giáng. Chết vào
giò thiêng nên dân làng lập miếu thò. Trong dịp hội, làng
tổ chức trò vui: kéo co, chọi gà, bắt vịt.
560
Hội Định Cơng thượng khơng chỉ có người làng mà
những người thợ xa quê ở khắp nước cũng về thắp nén
hương để tỏ lịng thành kính VỚI vị tổ nghề. Nhờ có nghề
nghiệp, đời sống người dân ngày một no đủ. Niềm vui hịa
vào mọi gia đình tạo nên khơng khí thiêng liêng, xúc động.
Nó để lại dấu ấn khơng phai giữa các th à n h viên về nghê
nghiệp, một sự gắn bó bển vững mn đời. Đây là cố hương
của dòng họ Bùi. Tiến sĩ Bùi Xương Trạch, đỗ Tiến sĩ năm
Mậu T uất (1478), giữ các chức vụ Thượng Thư bộ Binh, Đô
Ngự sử, Tế tửu Quốc Tử Giám. Năm 1492 có bài ký “Quảng
Yăn Đình” viết về Cửa Nam th à n h Thăng Long.
Con ông là Tiến Sĩ Bùi Vịnh đỗ khoa Nhâm Thìn
('1532). Cháu ông là Tiến sĩ Bùi Huy Bích đỗ năm Kỷ Sửu
(1769). Dòng họ Bùi sau chuyển cư sang Thịnh Liệt.
V ăn H ậ u
Tham kháo:
1/ Ra anh em họ Trần chỉ là hậu tơ SƯ của nghề kim hồn. BỞI lẽ
Giao châu (Viột Nam xưa) vào năm 187*226 sau CN, Thối thú Sĩ Nhiếp
dã đưa về Trung Quốíc cơng phẩm trong đó có đồ vật chạm vàng bạc.
Thời Tiền Lê, vua Lê Đại Hành sai thợ khéo làm đồ vàng bạc để công
tiên cho phương Bắc.
2/ Sách “Làng nghề, p h ố nghề Thăng Long Hà Nội” Trung tâm
triển lãm VHNT Việt Nam - năm 2000.
561
7JC)Ộì lủ nạ rĐào C7'luie
Đức thánh Đưotìg Giang, Đức thánh Tam Giang
và Phi nưưng Hoàng hậu
Địa điểm : Làng Đào Thục, Thụy Lâm, Đóng Anh
Thịi gian : Mồng 10 tháng giêng
Đặc điểm : - Rước kiệu
- Múa rối nước
- Hát chèo
Thờ
:
í ^ à n g Đào Thục xưa là trang Đào Xá, thuộc tổng
Phương La, vùng Kinh Bắc, nay thuộc xã Thuỵ Lâm,
huyện Đơng Anh - Hà Nội.
Nhìn trên tấm bản đồ huyện Đào Thục nằm ven con
sông Cà Lồ, dòng nước trong xanh uốn lượn như một dải
lụa quanh co, nơi giáp gianh giữa hai tỉnh Hà Nội và Ba?
Ninh, nổi bật giữa những cánh đồng lúa xanh ngát. Đây la
một vùng đất cổ, theo truyền thuyết đã có từ thời Hùng
Vương. Theo dân gian kể thì xung quanh làng có 73 cái
chm từ phía Mã Mường đến Đồng Chai được xếp thành
đơi so le đều nhau. Góc làng có bụi tre đẳng ngà cách đìnỉi
khoảng lkm hướng về đền Sóc Sơn. Nghè Nhạn Tái cũnj
có một bụi tre đằng ngà, tương truyền những cái ao là bướchân ngựa của Phù Đổng Thiên Vương truy đuổi giặc Ân
Còn những búi tre đằng ngà là do ngài nhổ tre làm vũ kh'
đuổi giặc đã đánh rơi lại.
Đình tọa lạc trên một khu đất rộng ở đầu làng, m ặ
tiền hướng tây nam, xung quanh được bao bọc bởi nhữnr
562
r:âv cơ thụ. những khóm hoa khoe sác. Đình xùa rất bề thế
(được dựng theo dáng cố từ thòi Lê, trước ở phía Đơng của
Hàng. Trải thịi gian năm 1952, đình bị giặc phá mới được
:xây lại ở vị trí ngày nay có 5 gian 2 dĩ. Sân đình rất rộng,
phía trái là nhà tảo mạc. Trước đình là một hồ lớn xung
q u anh được kè đá, dưới hồ là nhà thủy đình tám mái, nơi
diễn trị múa rối nước, sau đình là chùa.
Di tích thờ đức thánh Tam Giang - đức thánh Đương
Giang và Phi nương hoàng hậu. Đức thánh Tam Giang là
tướng tài có cơng giúp vua Triệu Quang Phục đánh quân
xâm lược nhà Lương từ thời h ậu Lý Nam Đê (544 - 548).
Đức thánh Đương Giang là tướng giỏi phù giúp vua Đinh
Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân cùng Phi nương hoàng
hậu. Theo các cụ già làng kể lại thì đình có tới 60 đạo sắc
phong từ thời hậu Lê đến thòi Nguyễn. Hiện tại chỉ có 10
đạo. Trong đình cịn lưu giữ nhiều hiện vật như: Kiệu bát
cơng - long đình - bát bửu - những bức chạm rồng mây hoa
]á - câu đơi hồnh phi được sơn son thếp vàng lộng lẫy và
nhiêu đồ đồng, đồ sứ giá trị. Đình cịn bức đại tự chạm bốn
C-hữ “Thiên tử đại vương”. Nhà nước xếp hạng di tích LSVH
năm 1995.
Chùa Đào Thục có tên là chùa Thánh Phúc được xây
từ thời xưa, thờ Phật và đức thánh Huyền Thiên Trấn Vũ.
Theo tấm văn bia có khắc bài minh của vua Lý Thái Tố’ ở
chùa Sái cùng xã đề ngày 24 tháng 6 năm 1011. ơ đoạn
cuối có viêt:
Nay trẫm lập thêm ngơi đền chính rước
duệ hiệu vê nơi kinh đơ thị phụng để quốc đơ thêm bền
vững. Dân chúng ở đền chính có việc thờ cúng cũng như cũ.
Vậy ghi bài này làm tích”.
563
Theo tru y ền thuyết dân gian An Dương Vương xây
thành Cổ Loa luôn bị Bạch Kê Tinh (ma gà) quấy nhiễu.
Nhà vua cầu tròi đã được thần tiên phán rằng: Núi Thất
Diệu Sơn (núi Sái xã Thuỵ Lôi) cách làng Đào Thục khoảng
3km có Bạch Kê Tinh, ln chơng phá việc xây thành. Vua
Thục bèn cử th ầ n T rấ n Vũ đi diệt Bạch Kê Tinh. Khi ngài
qua đất chùa gặp th ầ n Kim Quy phù trợ, diệt được Bạch
Kê Tinh xây th à n h bền vững. Nhờ đó th ầ n Trấn Vũ đã tu
tạo chùa T h á n h Phúc, hiện phía sau tam bảo của chùa cói
bức tượng thờ Huyền Thiên Trấn Vũ.
Lại có truyền thuyết kể rằng: Khi xây thành c ổ Loa
có nhiều nàng tiên gánh đất, khi qua vùng Đào Thục nghe
tiếng gà gáy (ấy là tiếng Bạch Kê Tinh gáy sớm nhằm làm
chậm việc xây thành). Các nàng tiên tưởng trời sáng liền
đổ đất xuống, để lại một cái giành gánh đất cạnh làng. Vì
th ế làng có bốn gị đất, và sau này làng có nghề đan giành
gánh đất. Cho đến nay chỉ còn lại một gị.
Trước đây ngồi đình, chùa làng cịn có đền và nhà
thị ơng tổ nghề m úa rối nưốc là Nguyễn Đăng Vinh. Cụ đồ
tiến sĩ đã được bổ nhiệm các chức: Quan Nội giám, Đại
Ngun Sối (Đào Tướng Cơng) triều đại Lê Ý Tơng (Vĩnh
Hựu 1735-1740). Đến cuối địi Lê Chiêu Thơng triều đình
suy vong nên cụ đã bỏ việc quan về quê hương cùng vợ là
bà Nguyễn Thị c ả n h xây dựng lại đình chùa - làng xóm cung tiến cho làng hơn 4 mẫu ruộng và 500 quan tiền, đặt
ra các ngôi lệ cho làng, quy hoạch lại làng xóm. Đón thầy
về dạy chữ, dạy võ, dạy nghề đóng cối, trồng bơng dệt vải,
trồng dâu ni tằm, cấy lúa nước. Đặt biệt là dạy cho dân
làng Đào Thục nghệ th u ậ t múa rối nước.
564
“H ậu th ầ n bi ký” có ghi tên cụ ơng và cụ bà, tiền
ruộng và các cơng trình xây dựng - và đặt tên các ngôi lệ
cho làng, ngày lệ nào cúng cái gì...
Tấm bia đặt ở phía tây làng cách đình khoảng lõm,
rnộ của cụ hình vng xây bằng đá ong rộng chừng 25m2,
bốn góc mộ có 4 con linh cẩu và 2 con sấu bằng đá xanh
canh mộ.
H àng năm cứ đến ngày 10-1 dân làng lại tưng bừng
mỏ hội. Trước đêm đó dân làng thường có lệ rưốc đuốc từ
đền về đình. Trai tráng trong làng đã làm đường Riêng
T h ần (con đường không qua làng chỉ dành cho rưốc lễ), để
hàng tră m bó đuốc cùng vối đồ tê lễ được dân làng thắp
sáng rước đi trên cánh đồng. Đồn rưóc vừa đi vừa “hú
háo” để đuổi tà ma. Trên cánh đồng lúa đêm xuân sương
bay mờ ảo, đám rước như con rồng lửa nhấp nháy sao sa
đẹp đến bỡ ngỡ. Sáng hôm sau tiếng trơng, tiếng chiêng
vang dội thì sân đình dân làng đã tề tựu đông đủ, cơ nào
đội ấy. Sân đình, trong các đường làng, rỢp cờ th ầ n ngũ
sắc. Khi các cụ quan văn trong đình làm lễ thánh, xong nổi
3 hồi trơng, thì cuộc rước bắt đầu.
Đi đầu là đoàn múa sư tử, múa rồng, đoàn cờ th ầ n
ngũ sắc, tiếp đến là đoàn các vãi bà mặc áo tứ thân, cổ đeo
tràng hạt, cầm cò phướn nhà P h ật VỚI giải cầu vàng dài
suốt, vừa đi vừa tụng niệm. Tiếp đến là đoàn bát âm với
tròng cái, tròng khẩu, tròng bảng và nhiều loại nhạc cụ
dân tộc, vừa đi vừa tấu lên những khúc nhạc lễ th ậ t rộn
ràng náo nức. Tiếp đến là chiếc long đình được những cơ
'.hiếu nữ tuổi 18 đôi mươi, mặc áo tứ th â n nhiều mầu, th ắ t
ưng hoa lý, tóc bỏ đi gà, mơi hồng má đỏ khiêng hương
565
hoa ngũ quả. Rồi đẻn dàn bát bửu được những trung niêm
VỚI trang phục võ quan đi hai hàng tê chỉnh. 3 kiệu báu
công được 24 trai làng tuổi đang sung sức, đầu đội n ó n
dấu, áo vàng, ghi nê đỏ lửng, hài đen, chân quấn xà cạp.,
khiêng kiệu nhịp nhàng bước đi theo nhịp trông, x u n g
quanh có kíp đổi qn túc trực. Nhảy múa quanh kiệu lịi
đồn múa sênh tiền vờn trước lượn sau th ậ t náo nức, cù n g
với tá n vàng, lọng tía và các quản tổng cờ tiền hơ hậu ủ n g .
Đi sau là các quan văn, đầu đội mũ quan, áo thụng x a n h ,
quần trắng, đi hài đen, hộ giá. Tiếp đến là đoàn các cụ ơ n g ,
cụ bà, đồn đội mâm lễ vật của các dịng họ, đồn th a n h
niên, nam nữ cùng dân làng các khách thập phương nơ nức
kéo theo.
Từ phía Tây làng, đồn rước theo đường "Riêng
T h ần ”, lúa xanh ngát mắt lên phía sông Cà Lồ, giữa cánh
đồng xanh ngát của mùa xuân, đồn rước kéo dài. Tiếng
trơng, tiếng chiêng, tiếng nhạc tạo một khơng khí h â n
hoan hồ hơi. Lọng tía, kiệu vàng, cờ bay và hoa đỏ tròi, đỏ
đất. Theo các già kể lại khi rước đến bờ sơng thì thường
thấy xuất hiện rắn mào ở dưói sơng. Mỗi khi gặp rắn đoàn
rước lại dừng kiệu làm lễ tạ, đội rắn mào lặn đi, đoàn rước
mới lại đi tiếp. Rước đến nơi dừng kiệu làm lễ rồi lại rước
về đình. Trong ngày hội ỏ sân đình và các bãi rộng trong
làng thường tổ chức những trò chơi dân gian như: H át
chèo, chầu văn, đấu vật, chọi gà.
Tiếp ngày hội tháng giêng cịn có ngày hội 1 2 - 2 kỷ
niệm ngày giỗ của cụ tổ nghề rối. Người ở các nơi đổ về
xúm đen xúm đỏ quanh nhà thủy đình.
Phường rối thường để “chú tễu ” ra giáo trị:
566
“Nước Đao Thục vừa trong vừa m át
Đường Đào Thục bơn góc bàn cờ
Đẹp n hư phường phơ Đê Đơ
Đẹp như một bức hoạ đồ trong tranh".
Sau trò “đốt pháo b ật cờ” là 16 trị diễn lơi cuốn khán
giả như “chú Tễu”, “Nhà Nông”, “Đánh đu”, “Trâu chui
ông”, “úp cá”, “Người đánh hổ”, “Cô Tấm đi hội”, “Thạch
S an h ”... Múa rối Đào Thục vượt khỏi luỹ tre làng đi diễn ở
Bắc Ninh, Ninh Bĩnh, Hà Nội, xa hơn ở Bằng Tường, Côn
Minh (Trung Quốc)...
Đất nước đang bước vào đổi mới, theo đường lơi chấn
hưng văn hóa dân tộc của Đảng và Nhà nước, thì mọi giá
trị tinh th ầ n mà cha ơng ta xưa đã có đang được khơi dậy,
bảo vệ và phát triển trong đó có làng múa rối Đào Thục.
V ăn S á u
567
1K)Ội làníỊ '7ỖẶCLJlttie
Thờ
Địa điểm
Thời gian
Đặc điểm
: Bà Phạm Thị Uyển tức Mai Thúc Loan phu nhân
Ông em Phạm Miên tướng quân thời
Phùng Hưng (thế kỷ VIII)
Ông em Phạm Huy tướng quân thời Phùng Hưng
: Đình Trong và đềnDục Anh thuộc làng Hòa Mục
xã Trung Hòa (quận Cầu Giấy)
: Ngày 12 tháng 02
: Ca hát vui chơi
'^Õ àng năm vào tiết xn tháng hai, cả một vùng
phía tây kinh đơ Thăng Long thuộc huyện Từ Liêm xưa
đều có lễ hội. Cảnh lễ hội rước sách tưng bừng kéo dài từ
10/2 đến hết ngày 14/2, liên tiếp rộn ràng theo lịch.
- Ngày 10/2: hội làng Nghi Tàm, N hật Tân, Yên Thái
(Bưởi)
- Ngày 11/2: hội làng Mọc, làng Dịch Vọng, làng Mai
Dịch.
- Ngày 12/2: hội làng Hịa Mục, làng Cót, làng Dịc.1
Vọng trung
- Ngày 13/2: hội làng Hồ Khẩu
- Ngày 14/2: hội làng Trung Kính.
Làng Hịa Mục xưa thuộc về xã Nhân Mục, mãi đẽ .1
đầu th ế kỷ XX mới đổi là Hòa Mục (căn cứ địa danh ghi trêi
tò sắc phong năm Duy Tân thứ 3 ngày 11/8 năm đó 1909».
Nay là một thơn thuộc xã Trung Hịa huyện Từ Liêm.
568
Mn đên làng Hịa Mục. ta đi theo đường Láng, đến
c.:ầu Trung Hịa. rẽ vào đi theo bờ sơng đến địa phận Trung
lKính, ta đã thấy đền Dục Anh, phía trong làng là đình
Trong. Đó là noi thờ của ba chị em họ Phạm. Ngôi đền
Thục Anh nằm sát bờ sơng Tơ Lịch, có 3 gian ngồi vừa là
ta m quan, vừa là nhà khách, thông với hậu cung bằng một
đường thần đạo, có lầu tám mái nhơ cao. Phía sau đền là
s â n rộng, một hồ bán nguyệt có tường bao quanh, tạo cảnh
th ê m đẹp.
Thần tích lưu lại đây ghi rằng: Thời xưa có hai vợ
chồng là ông Phạm Huyên và bà Phùng Thị Thảo chăm lo
l.àm lụng, ăn ở thuận Hòa, nhưng hiềm nỗi muộn con, ngày
đêm hai vọ' chồng thường cầu xin trời Phật mong được có
người con nơi dõi. Một đêm, bà vợ nằm mộng thấy một vị
th ầ n hiện đến và nói: "Lịng th àn h của vợ chồng nhà ngươi
đã thấu đên thiên đình, nay ta vâng sắc chỉ Ngọc Hoàng
thượng đê xuống báo cho ngươi biêt rằng vợ chồng ngươi ăn
ở có phúc, sẽ sinh một gái, hai trai đê giúp dân giúp nước".
Đôn ngày 1 0 / 2 năm Giáp Dần bà Thảo đang nằm ngủ lại
mơ thấy một trái đào cùng hai bông sen trắng bay hưống
về phía bà. Từ đây, bà thụ thai, đúng một năm sau, bà
sinh một lẩn, gồm một gái, hai trai. Gái thì mắt phượng
mày ngài, trai thì khơ ngơ tu ấn tú, ông bà mừng lắm đặt
tên theo thứ tự ra đời: Cô chị là Phạm Thị Uyển, trai thứ
n h ất là Pham Miên, người thứ hai là Pham Huy.
Cô Phạm Thị Uyển lớn lên nối tiêng xinh đẹp, bấy giị'
có Mai Thúc Loan ở Đường Lâm cầu hơn, họ Phùng và họ
Mai vốn cùng quê nên bà mẹ vui lịng gả con cho Mai Thúc
Loan. Cơ về nhà chồng thường cùng chồng bàn định vê thê
569
nước, quan quân nhà Đường áp bức bóc lột, dân tình ai
ốn, Mai Thúc Loan liền dựng cờ khởi nghĩa. Bà tuy là phu
nhân nhưng cũng chỉ huy thủy quân lập nhiều chiên công.
Nhà Đường cho Dương Tư Húc đem quản sang đàn áp,
trong trận thủy chiến trên sông Tô Lịch, bà đã hy sinh anh
dũng. Nhân dân ven sông tìm vớt thi hài đem chơn tại bị
sơng, nơi đó dựng ngơi đền thờ bà, đó là đền Dục Anh. Cuộc
khởi nghĩa của Mai Thúc Loan th ấ t bại.
Tiếp theo Mai Thúc Loan mấy chục năm sau, Phùng
Hưng ở Đường Lâm lại dựng cờ khởi nghĩa, đánh đuổi
quân Đường. Hai người em đã theo nghĩa quân, lập nhiều
công trạng, khi hóa. được nhân dân tơn thờ tại đình Trong
và rước bài vị của bà chị cùng thờ tại đó. Từ đấy làng Nhân
Mục (sau là Hịa Mục) có hai nơi thời: Đình Trong và đền
Dục Anh cùng thờ ba chị em họ Phạm.
N hân dân ta thường truyền tụng câu ngạn ngữ "sinh
vi tướng, tử vi thần" (sông là tướng, chết là thần) để nói
về những bậc hào kiệt đã chiến đấu hy sinh đời mình vì
sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ba chị em bà Phạm Thị
Ưvển sinh thòi là chiên tướng đánh đuối ngoại xâm, khi
m ất đi được tôn thờ như th ần thánh, và các vị đã âm p h i
cho địi sau.
Thần tích ghi thêm rằng vào năm Lê Lợi dấy bin .1
đánh giặc Minh, có lần ơng mộng thấy ba chị em bà Uyểi
hiện đến trong dáng một phu n h ân quyền q và hai chiết
tướng anh hùng. Bà phu nhân nói: "Chúng tôi là nhũn?
chiến tướng của Mai Hắc Đế, Bô" Cái đại vương năm XƯÍL,
nay nghe tin nhà vua khởi binh đánh giặc, xin được theo
xa giá để âm phù đánh đuối giặc Minh". Vua cá mừng, tí
570
đó đánh trận nhiều phen thắng lọi lỏn, cháng bao lâu giêt
được Liễu Thăng, đuổi được Vương Thông lập lại nước Đại
Việt. Bình định xong giặc Minh, vua Lê nhớ ơn, sai người
đên dựng bia ghi công, ban sắc phong thần, sai sửa sang
đình, đền, miễn trừ sai dịch cho dân tạo lệ. Nhân dân Hịa
Mục thường kính cẩn gọi các vị là Đức th án h Chị và Đức
thánh Cậu.
Hiện nay đền Dục Anh và đình Trong đều được Bộ
YHTT cấp bằng Di tích lịch sử - Văn hố. Nhân dân cũng
dóng góp nhiều cơng sức tơ điểm làm cho các di tích đều
đẹp nổi tiếng trong vùng.
Trên khn viên rộng địa th ế đẹp, một ngơi đình cổ
hướng mặt tiền về phía tây, trước đền có hồ núớc rộng, thả
sing lăn tăn, bóng những cột tam quan rung rung đáy
nước. Hai bên sân có nhà tảo mạc, kiên trúc cố. nóc có hình
rỗng cách điệu. Kiến trúc chính của đình là nhà tiền tế và
hậu cung, theo kiểu chữ đinh, 5 gian rộng rãi, nền gian bên
cao hơn so với gian giữa, là nơi đê các cỗ kiệu, đê ngựa thị.
Cian giữa từ ngồi vào hậu cung liên nhau, qua mấy lần
tai trí hương án mới đến nơi khám thờ đặt long ngai bài vị
eia 3 chị em họ Phạm.
TYonsí nội cung cũng như tại ngồi sân, trên các cột
tiụ đình có treo nhiều câu đơi ca ngợi công đức các vị thổn.
Sự tôn vinh được trân trọng bằng cá vật chất và văn tự.
nh cịn giữ đươe nhiều đao sắc phong thời Nguyễn. Theo
CÍ.C cụ các dạo sắc thịi Lê do q cũ, lại có thời gian khơng
đìỢc báo quản kỹ nên đã mục n át phải hóa đi. Những đạo
SÌC thời Nguyễn mang nội dung: Các vua Minh Mệnh,
T nệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Thành Thái,
571
Khải Định đã ban sắc phong tặng các vị tôn thán bơi đíã
nhiều năm âm phù quốc gia, giúp dân giúp nước, nay tiêp
tục để cho làng Nhân Mục (tên cũ) Hịa Mục (tên có từ n ăm
Duy Tân thứ 3) tiếp tục được thờ cúng.
Tên các vị th ần được tôn là:
- Dực Bảo Trung Hưng Kha đại nương. Chính lệnh
nghi Uyển Khiêm xung mi chi thần.
- Hộ phúc, Chính trực Hữu Lang
- Dũng dực Bến Lang
Tuy sắc phong của n h à Nguyễn có khác nhưng n h â n
dân trong làng vẫn kính cẩn gọi là Tam vị Đại vương.
Đền Dục Anh: Đền này xây dựng sát bờ sông Tô Lịch,
tương truyền đây là nơi an táng Phạm phu nhân. Bà là
ngưòi đã chỉ huy thủy quân đánh lại quân Đường, nhùng
thê cô đã tử chiến trên sông. Nhân dân vớt thi hài bà, an
táng tai bờ sông, lập đền thờ và gọi là đền Dục Anh. Đây là
ngơi đền thờ một ngưịi phụ nữ Việt Nam đã hy sinh trong
chiến đấu, bà lại có nguồn gổc thủy phủ nên dân ta coi bà
như Mẫu, thường gọi là Đức Chúa Bà. Trong đền. thờ
chung với bà là các tầng lớp trong Tam tồ Thánh Mầu vói
đủ các vị trí chầu, ơng Hồng, bà Chúa, các Cơ, các Cậu.
Do tín ngưỡng khác như vậy nên dân làng Hịa Mục
coi đền Dục Anh là nơi thò vọng, nơi thờ bà Mai Thúc Loan
phu nhân tại đình Trong.
Lễ hội:
Hàng năm làng Hịa Mục tơ chức lễ th á n h vào céc
ngày:
572
12
tháng hai - ngày sinh của ba chị em