LẼ TRUNG VŨ
[Ỵ1 NHÀ XUẤT BẢN VĂN HĨA - THƠNG TIN
u n & VIỆN VĂN HÓA
'2ƠỘÌ l à n t ị ~ỉ()ù Q ĩ ỏ i
LÊ TRUNG VŨ
IịộJ LKĨtũ lịÀ TLỘ2
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THƠNG TIN
& VIỆN VĂN HĨA
HÀ NỘI - 2006
J íị ’i g i ớ i th iê u
M ộ t số cơng trình khoa học, lịch sử... với những
thơng tin bổ ích và xác thực về sinh hoạt văn hóa - tơn giáo
của cộng đồng người Việt đã hình thành từ rất sớm trên
đất đế đơ này.
Chẳng hạn, ngày hội đua thuyền có từ thời tiền Lê:
"Năm Thiên Phúc thứ 6 (985) đòi Lê Đại Hành, gặp ngày
sinh... vua mở cuộc đua thuyền cho dân chúng thi. Từ đó
năm nào cũng có hội đua thuyền"0'. Nhưng sử khơng ghi
vua mở hội trên dịng sơng nào.
Đời Lý, các vua càng hâm mộ hội này hơn. Vua cho
xây nhiều cung điện nguy nga ở phía đơng kinh thành,
trên bờ sơng Nhị đê vua cùng bá quan và hoàng hậu, phi
tần, công chúa dự; như điện Hàm Quang (1011), điện Linh
Quang (1058), hoặc sau đó vua Anh Tơng (1138 - 1175) cho
xây cung Thánh từ và cung Thủy tinh... Còn dân chúng và
qn lính tụ tập 2 bên bờ sơng rấ t đơng"(2).
Đua thuyền là loại hội nước, triều đình coi là hội
thượng võ, vừa là để rèn luyện thủy quân dành cho các
cuộc thủy chiến (đã từng xảy ra và sẽ còn xảy ra trong
tương lai) như lịch sử đã chứng minh trước đó (thịi Ngơ
Quyển) và sau đó (thời Trần); vừa đê’ giải trí cho quần thần
và dân chúng.
" 'N h ữ n g đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam . Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ
Trọng Huề. NXB Văn học, 1992.
121 Xã Kỳ Bô*, huyện Vũ Tiên (Thị xã Thái Bình ngày nay) - Theo N hững
đại lễ... sđd các tran g 89, 90.
5
Hội tuy do triều đình tổ chức song nó mang tính tồn
dân và được các bơ lão làng q giải thích theo ý nghĩa
khác. Các cụ nói rằng, đua thuyền là việc đánh thức thủy
th ần mong nưốc nh u ần tưới cho .đồng ruộng. Quy lại, đua
thuyền là một dạng thức cầu mùa nghề nơng.
Chúng ta cịn biết các triều đại Lý, Trần là những thời
đại cực thịnh của chế độ phong kiến Việt Nam, cũng là
những triều đại rấ t quan tâm đến địi sơng nhân dân, trước
hết là nông nghiệp. Cho nên không chỉ hội đua thuyền mà
một nghi lễ khác gần gũi với nghề nông hơn, là "lễ tịch
điền" từng được thực hiện.
Lễ này tổ chức lần đầu vào năm Thiên Phúc thứ 8
(987). Mùa xuân năm đó vua Lê Đại Hành đích thân cày
ruộng ở Đội Sơn, bắt được một chum vàng. Năm sau vua
cày ở Bàn Hải(1>, lại được một chum bạc. Vì th ế những thửa
ruộng ấy được gọi là "Kim ngân điền"(2).
Đời Lý, vua Thái Tông, năm Thông Thụy thứ 5
(1038), sai quan Hứa Ty đắp đền thị thần Nơng. Vua đích
th ân đến cầu cho mùa màng tươi tốt, rồi đích thân ra cày
ruộng tịch điển ở Bô" Hải(3). sử cũ ghi tiếp, năm sau vua cày
ruộng tịch điền ỏ Đỗ Động(,). Mùa hè, vua ra xem dân gặt,
có người nơng dân dâng một cụm thóc chiêm, mỗi bẹ nảy
được 9 bông.
Đời Trần đắp đàn xã tắc(5), hàng năm vua cử quan ra
tế, không làm lễ tịch điển.
(l) 1,1‘"'Thuộc Hà Tây.
U) Kim ngân điền: ruộng bạc.
c5) Xã tắc:
- Đàn Xã thờ trời đ ất và thần Thái Xã (trông bờ cõi).
- Đàn Tắc thờ th ầ n Thái Tắc, tức vua Thần Nông.
6
ĐỜI Lê, năm 1484 (Hồng Đức thứ 15), vua Thánh
Tông dựng đàn Tiên Nơng ỏ làng Hồng Mf i(1) ngồi kinh đô
Thăng Long. Đàn cao 7 thước'“' rộng 36 thước, tường đất
bao quanh. Hàng năm vua và các quan ra tê Thần Nơng và
làm lễ tịch điền.
Ngồi ra lại có lễ lập xuân và lễ tiến xuân ngưu và tục
"đả xuân ngưu'f<3). Con trâu đất nhỏ gọi là xuân ngưu (trâu
xuân) đặt lên kiệu. Sau lễ lập xuân rước xuân ngưu dâng
lên vua, gọi là lễ tiến xuân ngưu. Trên đưịng đi, quan phủ
dỗn và quan huyện, mỗi người cầm một cành dâu đánh
vào con trâu đất, như một nghi thức cầu mùa.
Vài nét đại cương vể một quá khứ xa, để thấy rõ đất
Hà Nội này từ nghìn năm trước đã trọng lễ và thực hiện
những nghi lễ cầu mùa nghề nông nghiêm chỉnh, cầu cho
đất nước lấy nghề nơng làm nghề sống chính ngày một
hưng thịnh lên.
Như một sự tích luỹ, khi Hà Nội đã khoanh vùng
xong khu địa lý, hồn thành cơ cấu hành chính thì bộ mặt
sinh hơạt văn hóa tinh th ần cũng sẽ được định vị, lấy làng
làm đơn vị xã hội gổc.
Một thòi dài lâu, làng giàu mạnh nhò tài sản vật chất
cung cấp, ni sơng ngưịi làng như ruộng đất, ao chm,
‘"Thuộc khu vực Bạch Mai ngày nay.
121Thước ta = 0,40m. Đàn cao 2,8m.
01 Tục "đả xuân ngưu" đánh trâu vào mùa xuân. Đời hậu Lê cho nặn
tượng trâu đất và tượng mục đồng vào tháng chạp. Tháng chạp là
tháng Sửu. Sửu là trâu, thuộc h à n h thổ (đất). Đất ngăn được nước,
chông được rét. Nên đánh tượng trâ u vói ý xua khí lạnh đi và khuyến
khích nghề nơng. Lễ tế xuân ngưu và tục đả xuân ngưu xưa thực hiện
ở đền Bạch Mã. Nhưng nay chi còn là kỷ niệm hồi cố.
7
cây côi... Làng là nơi để mồ mả. Làng trỏ nên thiêng liêng
mỗi khi xa quê, được trở về thắp nén hương tưởng niệm tổ
tiên, người ta có dịp ơn lại q khứ để từ đó, suy tưởng tới
hơm nay, về nhiệm vụ của cháu con đối với quê hương đất
nước.
Làng cũng hình thành dần dần chứ khơng đột nhiên
mà có. Như vậy từ thuở ban đầu, Hà Nội cũng từng là một
"làng Hà Nội nhỏ" nào đó với núi Nùng, sơng Tơ. Rồi do
tính chất trung tâm đất nước, Thăng Long đã thu hút được
những tinh hoa văn hóa của các vùng miền về đây. Mặt
khác, Hà Nội tuy đã định danh là đô thị - kinh đô từ lâu,
song dấu vết nơng thơn vẫn cịn đậm nét. Bởi đây là một đô
thị tru n g cổ kiểu phương Đông, loại đô thị phát triển chậm.
Mặc dầu vậy, Hà Nội vẫn được coi là đô thị phát triển
hàng đầu của cả nước.
Nhưng Việt Nam, trong quá trình trưởng thành ln
bị qn xâm lược dịm ngó, tấ n cơng. Sự chông trả không
mệt mỏi của cả nước cũng như của người Hà Nội, đê cuối
cùng chúng ta luôn giành chiến thắng, đã tạo lập một
Thăng Long - Hà Nội không chỉ có dinh thự, 36 phơ'
phường vối nhà cửa như bát úp, mà cịn có một số đình,
đền, chùa, miếu thờ các anh hùng lịch sử, anh hùng văn
hóa đã bảo vệ và tô điểm cho đất nước, đê đô này ngày một
sáng lạn văn minh hơn.
Thảng Long - Hà Nội, vùng dất dịa linh nhân kiệt đã
cùng cả nước bước vào thiên niên kỷ mới trong niềm hân
hoan lớn, bởi trong tất cả các tỉnh thành, chỉ riêng Hà Nội,
đúng hơn là Thăng Long - Hà Nội sẽ đón mừng nghìn năm
tuổi (1010 - 2010). Thật là một kinh thành hiếm quý trên
8
thê giới. Với ngót một thiên niên ký tạo cìựng, kinh thành
đã là nơi giao lưu văn hóa của đất nước va về nhiều mặt, có
thê COI Hà Nội như trung tâm của nến văn minh sơng
Hồng. Vói những đặc điểm đó, Hà Nội đã được UNESCO
cơng nh ận là "Thành phố vì hịa bình".
Người Hà Nội được hun đúc trong nền văn minh đó,
đồng thời là chủ n h ân sáng tạo ra nó, càng làm tăng thêm
giá trị của cả con người lẫn đời sông cộng đồng thông qua
những hoạt động văn hóa mang bản sắc kinh th àn h của
mình, mà một trong những nội dung ấy là Lễ hội. Có thể
quan sát nền văn minh lúa nưốc Việt Nam hiển hiện trong
lễ hội Thăng Long - Hà Nội dưới nhiều dạng vẻ như th ế
nào.
Tuy nhiên, cũng nên dành một ít dịng điểm qua tình
hình giới thiệu, nghiên cứu hội làng trong một vài giai
đoạn vừa qua.
Được biết, mỗi khi làng vào đám thì người làng, bất
kê già, trẻ, gái, trai đểu náo nức chờ đón hội, cũng là chờ
đón cuộc vui lốn n h ất của làng hàng năm. Bởi mỗi lần hội
mỏ, người ta thấy lại được hình ảnh, gặp lại những hoạt
động tuy đã biết, tuy đã quen, song vẫn là luôn luôn mới
bởi sức m ạnh nội dung của nó song song với sự lôi cuốn vể
màu sắc, âm thanh, ánh sáng... n h ất n h ất đều trán g lệ,
huy hồng do tập thể ngưịi làng sắm vai, thể hiện trong
một trậ t tự nghiêm ngặt thông qua nghi lể, và đặc biệt là
đám rước của hội. Mỗi lần hội mở chính là dịp để người
làng ơn lại q khứ của làng, của nước thông qua những vị
.anh hùng - anh hùng lịch sử hay anh hùng văn hóa - mà
mình tơn thị và ngưỡng vọng. Đó là những người có cơng
9
lớn với dân với nước lúc sinh thời, nay cần để n h ân dân ghi
nhớ và giáo dục các t h ế hệ tiếp theo.
Tuy nhiên, tình hình từ xưa tới nay khơng phải hồn
tồn th u ậ n chiều như vậy. Đã có lúc - nhiều lúc - ở một SC)
nơi (ngồi Thăng Long - Hà Nội) thị những vị th ầ n khơng
có giá trị đích thực. Chẳng hạn, có làng thờ th ần ăn cắp, ăn
cướp (ta gọi là tà thần) hoặc thờ th ần ăn xin hay đi bn
(tạp thần).
Ơn lại một thống hội làng ấy để thấy rằng, với hôm
nay, trong việc nhà nước cho mở lại các lễ hội cổ truyền,
n h ất là đốì vối Hà Nội, đất ngàn năm văn hiến, thì tiêu chí
đầu tiên phải lưu tâm là vị thần được tơn thờ. .Vị thành
hồng nào cũng phải là chính thần (phúc thần), người đã
đem lại niềm vui cho địa phương, cho đất nước. Một vị th ầ n
như t h ế mới đủ uy tín, có sức mạnh (vơ hình) quy tụ dân
làng về một mốì, tạo ra lịng tin tuyệt đối của dân trong
việc th ầ n bảo vệ sinh mệnh của cả làng.
Mỗi lần hội mở cũng là một lần người dân hiểu thêm
được hệ thống nghi lễ, tức phương thức tơn thị thành
hồng làng, được coi như là một đức độ, là dịp con người
bày tỏ lịng th à n h kính với th ầ n linh, và đồng thời cũng là
dịp con người trầ n t h ế giao lưu vói giới siêu hình, thơng
qua cuộc tê thần. Nói cách khác, đây cũng là một phương
thức làm thoả mãn tâm linh, điều hòa cuộc sống con người.
Mỗi lần hội mỏ cũng là cơ hội nhắc lại th u ầ n phong
mỹ tục mà ngày nay con cháu cần duy trì, p hát huy.
Chẳng hạn, những cuộc đua tài như thi nấu cơm, thi dệt
vải, khuyến khích -nữ cơng, gia chánh, hoặc vì lý do khác
nữa, rằn g xưa, đây là con đường quân ta lên biên giới phía
10
bắc đuối kẻ th ù xâm lược. Cuộc chuyển ụuân rấ t gấp nên
các địa phương phải nấu cơm chín nhanh, ngon, kịp trao
cho quân đội làm lương lên đưòng. Các cuộc thi nấu cơm,
đồ xôi là để kỷ niệm những thời xưa ấy, và cũng là một
hìn h thức rèn luyện nếp sống gia đình cho con cháu hơm
nay. Hoặc hội mơ cuộc thi trâu khỏe, lợn to, gà béo là
khun khích chăn ni; thi thơ, kéo chữ là mang ý nghĩa
khuyên học. Thi vật, võ, đánh phết, đua thuyền, thi bơi,
thi chạy... là cốt đề cao tinh th ầ n thượng võ, rèn luyện thể
lực, ý chí tự cường trong th a n h niên, trung niên. Hoặc cao
hơn, người ta diễn trận để nhắc lại lịch sử vẻ vang của
d ân tộc như hội Phù Đổng (huyện Gia Lâm) thờ th án h
Gióng, diễn lại hội tr ậ n "Thánh Gióng đánh giặc Ân",
(hoặc như hội Trường n (Hoa Lư, Ninh Bình) diễn lại
trị "Cị lau tập trận", nhắc lại thời nịên thiếu của đế Đinh
Tiên Hoàng.
Lễ hội cố truyền cịn có trị chơi (ngồi trị diễn như
vừa dẫn), đặc biệt là trò chơi phong tục là trị chơi buộc
phải có để thực hiện tín ngưỡng nào đó trong nhân dân,
tuỳ thuộc từng địa phương, ví dụ trị chơi "cướp cầu" ở hội
làng Xn Dục, huyện Sóc Sơn vào ngày 4 tháng giêng.
Quả cầu bằng gỗ, sơn đỏ là biểu tượng của mặt trời. Vào
cuộc, ngưòi ta tran h nhau giành quả cầu ném vào hai hố
cầu đào theo hưống đông và hưống tây. Quả cầu sẽ được
tra n h đi cưốp lại, và đó là hình ảnh về sự vận động biểu
kiến của mặt trời, phản ánh tục thờ mặt trời, cầu ánh
sáng, cũng là cẩu mưa nắng thuận hịa cho nghề nơng.
Hoặc cũng ở hội này có tục rưốc và cướp hoa tre, thực hiện
tín ngưỡng phồn thực, là nội dung của tín ngưỡng về nghề
nơng. Bởi hoa tre được các cụ cho biết, đó là "linga".
11
Nhìn chung, từ thời "mở cửa" - 1986 - tỉnh, thành nào
cũng cho phép nh ân dân tô chức lễ hội của địa phương đê
thỏa m ãn nhu cầu tâm linh và nhu cầu văn hóa của con
người.
Mỗi lễ hội thường có đặc điểm riêng, song nội dung
hội thường hướng về nông nghiệp, bởi người tổ chức và
thưởng thức hội chủ yếu vẫn là nơng dân.
Từ đó Hà Nội, do vai trị trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hóa to lớn và quan trọng - thủ đơ - thì sm h hoạt lễ hội
càng mang những đặc điểm đáng lưu ý hơn.
Có th ể nhìn lại lịch sử một lần nữa.
Chỉ Thăng Long - Hà Nội mới có "tứ trấn" và đền, quán
ở tứ trấn, một phương thức sáng tạo khơng gian thiêng, phủ
lên bốn phương trịi, từ đó sinh ra sức mạnh huyền diệu,
thần quyền hỗ trợ thê quyền để uy lực triều đình ngày càng
vững mạnh, đất nưốc ngày càng yên vui. Đó là:
- Đền Bạch Mã, thờ th ần Long Đỗ, thần trấn phương
đông.
- Đền Voi Phục, thờ thần Linh Lang, thần trấn
phương tây.
- Quán T rấn Vũ, thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, thần trấn
phương bắc.
- Đền Kim Liên, thò Cao Sơn đại vương, thần trấn
phương nam.
Lễ hội tứ trấ n đã được tổ chức để khẳng định giá trị
của phương thức sáng tạo không gian thiêng trên.
Một kỷ niệm hết sức xúc động là ngày 19 tháng 2 năm
1976, cơ" Thủ tưóng Phạm Văn Đồng đã vào thăm tứ trấn
Thăng Long này.
12
Trong sô lưu niệm ở đền, Thu tướng viết "Đây là một
di tích lịch sử cán được giữ gìn chu đáo".
Một loại lễ hội khác cũng mang đặc trưng của Thăng
Long - Hà Nội. Đó là lễ hội thập tam trại. Thăng Long được
mở rộng diện tích ở phía tây kinh thành hồi th ế kỷ XI là do
khai hoang lập được 13 trại dân'1' nhờ cơng lao của ơng
Hồng Phúc Trung người làng Lệ Mật (huyện Gia Lâm).
Hàng năm 13 trại đều tổ chức lễ hoặc mở hội riêng tuy
cùng thờ chung một tổ Hoàng Phúc Trung (sau gọi là ơng
Hồng Lệ Mật). Vào ngày 23 tháng 3 cả 13 trại rưóc 13
mâm cỗ về dự hội làng đất tổ là Lệ Mật (huyện Gia Lâm).
Lễ hội thập tam trại cũng là một hình thức biểu dương nội
dung và tinh thần kết chạ - kết nghĩa, vổn là một mỹ tục
của lễ hội cổ truyền Việt Nam cũng như của Hà Nội. Mỗi lễ
hội của thập tam trại đều có đặc điểm của mình, hoặc đó là
món ăn đặc sản như thịt bò thui (hội Kim Mã), hoặc thú
chơi chọi chim tao nhã (hội Công Yên), hoặc lễ dâng hoa
(hội Đại Yên)... đều tạo nên mỹ cảm cho người dự hội.
Thăng Long - Hà Nội cũng giữ cho mình hình ảnh về tứ
bất tử bằng hội về tứ bất tử. Đó là hội Tầm Xá (huyện Đơng
Anh) thờ Tản Viên sơn thánh với đặc điểm múa 13 mặt nạ múa hóa trang - mà nội dung tới nay vẫn là ẩn số (tại sao lại
là 13 mặt nạ) và ý nghĩa của nó. Hội làng Phù Đổng (huyện
Gia Lâm) thị Thánh Gióng với hội trận "Thánh Gióng đánh
giặc Ân" nổi tiếng; Hội Chử Dồng Tử (huyện Gia Lâm) tương
nhố cơng lao một vị anh hùng văn hóa là anh hùng khai
,n 13 trại dân: Vạn Phúc, Công Vị, Đại Yên, Thủ Lệ, Liễu Giai, Hữu
Tiệp, Ngọc Hà, Kim Mã, Đồng Nước, Giảng Võ, Công Yên, Ngọc
Khánh, Vĩnh Phúc.
13
phá, chinh phục đầm lầy mở mang nơng nghiệp góp phần
đáng kể trong việc ổn định địi sơng cộng dồng dân cư trên
đất phù sa màu mở vùng ven sông Hồng; hội Phủ Tây Hồ
thờ bà chúa Liễu với tục hát chầu văn...
Cũng hiếm thấy nơi nào xảy ra bi kịch đau thương
như trong lễ hội đền c ổ Loa (huyện Đơng Anh) phản ánh
sự tan rã mau chóng của một vương triều ổn định tới 50
năm, rồi chỉ do sự thỏa mãn, hưởng lạc của ông vua (vua
cha) và sự nhẹ dạ của nàng công chúa (Mỵ Châu)... đê cho
kẻ th ù phương bắc có cơ hội cướp nước ta.
Triều đình phong kiến Đại Việt vững mạnh nhiều thê
kỷ, phần nào nhị có "hội thề" hàng năm do nhà nước tổ
chức. Từ vua tói bá quan đều phải th am dự đê tỏ lịng
trung hiếu của mình đơi vói tổ quốc, tạo nên sức m ạnh cố
kết toàn dân tộc.
Một hội kỳ lạ khác cũng chỉ thấy ở Thăng Long - Hà
Nội. Đó là hội đấu thần. Các th ần đấu nhau và tiêu diệt
nhau. Đó là hội chùa Láng (quận Đông Đa). Nhà sư Đại
Điên (giúp Diên Thành Hầu) giết Từ Vinh, là người đã can
tội thông dâm với vợ ngưòi khác. Từ Vinh bị chặt làm 3
khúc trôi nổi trên sông Tô Lịch. Từ Đạo Hạnh (con Từ
Vinh) đã đánh chết Đại Điên trả th ù cho bô". Họ đều là
những thiền sư lớn, lại là những đạo sĩ nổi danh. Thì ra
"tính con người trần tục" vẫn không xa rời họ, mặc dầu họ
uyên thâm về phật pháp.
Thăng Long - Hà Nội cịn có hội múa rắn, múa hổ, đều
nằm ở mạn Gia Lâm, nơi xưa kia lả rừng rậm (với tên
huyện và nhiều làng xóm có chữ "lâm" như Mai Lâm,
Trường Lâm...)- Điều này vừa hợp lý, vừa đặc sắc (Hội múa
14
rắn làng Lệ Mật, hội múa hô làng Phù Đổng...) và mang ý
nghĩa nhân văn tốt đẹp.
Nhu đã trình bày, lễ hội ỏ Thăng Long - Hà Nội cũng
là - chủ yếu là - hội làng như các tỉnh tru n g du và đồng
bằng Bắc bộ. Thăng Long - Hà Nội đã thu hú t vào cho
mình đủ loại đề tài, nếu có khác nơi nào đó chỉ là ở tỷ lệ sơ
lượng hội và nó đã được "kinh đơ hóa " ít nhiều mà thơi, v ả
chăng, khơng phải cứ hội nào nhập vào Hà Nội là đều có sự
biến đổi, "thanh lọc" như vậy. Nhiều khi chỉ là sự "đậm
nhạt" mà phải tốn cơng chút ít mói nhận ra được. Chẳng
hạn, về tín ngưỡng phồn thực. Trong hội làng các nơi có trị
"Bắt trạch trong chum" thì Hà Nội cũng có, song đã khác ít
nhiều về hình thức biêu hiện. Nếu như ỏ P h ú Thọ, nơi còn
lưu lại nhiều tục cổ của người Việt, trò "Bắt trạch trong
chum" mang tính tự nhiên thì ở Hà Nội đôi nam nữ thanh
niên đi thong dong sánh đôi, tay nắm tay đi đến chum nước
đê bắt trạch. Chúng ta nhận ra ngay, động tác của đôi nam
nữ thanh niên Hà Nội thanh nhã hơn. Đây là kỷ niệm hồi
cố, nay đặc điểm này cũng khơng cịn.
Chẳng h ạn nữa, về đề tài nông nghiệp và chế biến sản
phẩm nông nghiệp như hội nấu cơm thi Lương Quy (huyện
Gia Lâm) thì lại rấ t cầu kỳ, phải qua 7 bước mới xong như:
Thi bổ cau, thi chạy thẻ, thi kéo nưốc, thi xay thóc giã gạo,
thi kéo lửa, thi bắt gà và thịt gà, thi nấu cơm.
Ngồi ra cịn nhiều cuộc thi về tài chẻ biến nông sẩn
như "Thi cây xôi" (hội làng Phú Mỹ - Kiều Mai, huyện Từ
Liêm). Hoặc cuộc thi có vẻ bình thường song đoạt được giải
nhất chưa h ẳn đã dễ, như "Thi cơm nắm muối vừng" chẳng
hạn (hội làng Tó, huyện Thanh Trì) là để kỷ niệm những
15
ngày tháng nhân dân địa phương chuẩn bị cho quân đội
nước ta do vua Lê Đại Hành trên đường đánh đuổi giặc
Tông xâm lược, cần đi gấp đê tiêu diệt kẻ thù.
Hoặc như thi cỗ 7 tầng (hội đền Kim Liên) không chỉ
là biểu hiện tài chế biến nông sản và thực phẩm mà còn là
biểu hiện của vụ mùa phong đăng hịa cốc, trồng trọt và
chăn ni đều viên mãn.
Hà Nội cịn có r ấ t nhiều hội làng nghề, phô" nghề (thủ
công, mỹ nghệ). Từ những hội này, người ta hiểu thêm cơ
sở tạo nên nền văn hóa - văn minh của kinh đô trải dần
theo n ăm tháng. Những làng nghề này có xuất xứ khác
nhau về địa lý. Có làng - có nghề từ nơi khác(1), do thương
nhân chuyển sản phẩm thủ công mỹ nghệ và hàng tiêu
dùng tới mà trước đó Hà Nội có thể chưa có. Dần dần,
chính những nghệ n h â n (cùng cả gia đình và cơng cụ - có
thể cả xưởng th ủ công) về cư ngụ tại kinh đô. Những ngưòi
thợ cùng nghề lập ra phường hội và phát triển, về sau
th à n h phô' nghề. Tới lúc nào đó, kinh đơ mang danh là "Hà
Nội 36 phơ' phường". Người ta đọc cho nhau nghe và tuyên
truyền cho "văn minh Hà Nội":
R ủ nhau chơi khắp Long thành
Ba mươi sáu p h ố rành rành chẳng sai
H àng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,
H àng Buồm, hàng Thiếc, hàng H ài, hàng Khay.
M ã Vì, hàng Điếu, hàng Giầy
H àng Lờ, hàng Cót, Mã Mây, hàng Đào...
(l) Ví dụ phơ' hàng Thiếc (quận Hồn Kiếm) có trên 20 gia đình có
nguồn gốc từ Khương H ạ (quận Thanh Xn).
16
Như vậy, có nghề sản xuất ra hang tiêu dùng như
hàng dệt, đồ gơm, đồ rèn...; có nghe sản xuất ra hàng mỹ
phẩm như đồ thêu, ren; và có cả làng nghề nghệ thuật
ngồi vịng "36 phơ’ phường" như làng ca trù, hát trông
quân...
Nhưng Thăng Long - Hà Nội chỉ thực sự tiêu biểu cho
đô thị văn minh xứng đáng với kinh đơ ngàn năm văn hiến
khi có một lực lượng trí thức cao cấp ngày càng đơng, vừa
phục vụ cho triều đình, vừa chịu trách nhiệm đào tạo
thường xuyên nhân tài cho cả nước. Cho nên, chỉ Thăng
Long - Hà Nội có Văn miếu song song với Quổíc tử giám,
trường đại học đầu tiên của nước ta, xây.dựng cách nay đã
gần mười thê kỷ (1070) với mục đích thực hiện sự nghiệp
lớn lao và cần thiết đó.
Cũng từ đó, vành đai quanh kinh đơ vốn là làng xóm
nơng nghiệp thì nay lại có một loại làng mới là các danh
hương hay các làng khoa bảng, những làng có nhiều người
đỗ đạt cao.
Có thể kể ra đây một sơ" làng rất tiêu biểu, nổi tiếng
xưa nay về sô" người đỗ Tiến sĩ như: làng Đơng Ngạc
(huyện Từ Liêm): 25 ngưịi; làng Tả Thanh Oai (Thanh
Trì): 12 người, làng Nguyệt Áng (Thanh Trì): 11 người,
làng Hạ Yên Quyết (Từ Liêm): 10 người; làng Phú Thị (Gia
Lâm): 10 người...
Cả ngàn trang sách tiếp theo đây là toàn cảnh hội
làng Hà Nội được văn bản hóa, khơng chỉ cốt giói thiệu
những nét đặc sắc và giá trị nguồn văn hóa phi vật thể của
Thăng Long - Hà Nội, mà còn là phương thức lưu giữ tài
sản tinh th ầ n quý giá này (do cơng lao đóng góp ngàn năm
17
của người Thăng Long - Hà Nội) như bằng chứng về một
nét đẹp của nền văn hóa - văn minh xóm làng Việt Nam
mà Thăng Long - Hà Nội là đại diện.
Đồng thời cũng là giữ gìn cho ngưịi Hà Nội một loại
hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng truyền thống mà ngày
nay nó vẫn có ích trong cơng cuộe xây dựng thủ đô văn
minh, hiện đại mang đậm bản sắc dân tộc.
Chúng tơi, nhóm tác giả biên soạn cơng trình lễ hội
Hà Nội này xin chân thành cảm ơn các già, các nghệ nhân
đã vui lòng kể lại và chỉ dẫn cho chúng tôi về hội làng; xin
chân th à n h cảm ơn các đồng chí lãnh đạo cùng các cán bộ
văn hóa các quận huyện và các phường, các làng xã nội
ngoại th à n h đã luôn luôn tạo điều kiện th u ậ n lợi cho chúng
tôi khi về địa phương làm việc.
Hà Nội, tháng 11 năm 2005
TM NHÓM TÁC GIẢ
CHỦ BIÊN
P G S . L ê T r u n g Vũ
18
Q l k ê t)ề t à OĩjạMỤẦn đổLíL XlíCL
ả ^ ó à Q tè i
Q ế t Nguyên đán là thòi điểm mở đầu năm mới, cũng
là mở đầu vòng quay của vũ tr ụ sau 4 mùa chu chuyển.
Ngưịi Việt sơng bằng nghề nơng, đã hịa nhập thành một
khối giữa trời, đất và con người.
Tết Nguyên đán là Tết cả, bởi đây là tết lớn nhất
trong năm mang tính cộng đồng mạnh mẽ và thơng n h ất
trong nếp sông từ lâu đời. c ả dân tộc náo nức chuẩn bị
trong niềm hy vọng tràn đầy. Sau một năm lao động cật
lực, ai cũng thấy cần được ngừng nghỉ chôc lát - dăm ba
ngày - để lấy đà cho hoạt động ỏ chặng đưịng mới cả năm,
trong khơng gian xã hội là làng xã, phơ" xóm và khơng gian
tình cảm là gia đình, gia tộc.
Quê hương - làng xóm - vơ cùng thiêng liêng vì đó là
nơi ta sinh ra, trưởng th à n h và yên hưởng tuổi già. Mộ tổ
để ỏ quê hương, việc thờ cúng tổ tiên là hoạt động tâm lmh,
gìn giữ mơi dây liên hệ dòng máu và là nguồn gổc của sức
mạnh và sự vững bền trong tinh th ầ n cô kết cộng đồng.
*
*
*
Hà Nội là đất nghìn năm văn hiến, nơi tập trung
tinh hoa của cả nước. Bởi vậy ngày tết ở đây cũng có
những nét độc đáo riêng biệt. Tết Hà Nội đa dạng do con
người sống ỏ đây từ nhiều nơi tụ hội. Hơn thế, Hà Nội có
19
“36 phô* phường” và chợ đông vui sầm uất, thường xuyên
hoạt động không kể ngày giờ. Khu vực buôn bán lớn n h ấ t
tập trung vào ba mươi sáu phô" phường của kinh th à n h
xưa. Khu vực này nằm ở phía bắc Hồ Gươm, nơi có nhiều
cửa hàng và phường nghề thủ công nổi tiếng, s ả n vật
nhiều, kỹ th u ậ t tinh xảo, cách chế biến phong phú tạo nên
một nếp sinh hoạt riêng cho con người th à n h thị. T ất cả
những n ét đặc trưng của các địa phương được tập trung,
chắt lọc. Qua thời gian, cái hay cái đẹp được giữ lại và
p h át triển theo cấp sinh hoạt thị thành, tạo nên một lối
sông phong lưu của những con người lịch thiệp tinh tê về
mọi mặt.
Người Hà Nội cũng có tiếng là khéo léo và lịch lãm
trong việc chê biến và thưởng thức các món ăn. Đến ngày
tết, sự khéo léo và lịch lãm ấy càng có dịp phát triển.
Những ngày cuối năm, khi Hà Nội đang chìm trong
giá.lạnh của những đợt gió mùa đơng bắc thì ngồi đường
phơ' lại bừng lên các màu sắc cổ truyền của tết Nguyên
đán. Màu x an h của cây cối, lá dong. Màu đỏ của hoa đào,
của pháo, của câu đôi và màu vàng của bưởi, quất, phật
thủ... T ất cả của ngon vật lạ ở từng miền theo mọi nẻo
đường qua năm cửa ô tràn vào các cửa hàng, các gian chợ,
sẵn sàng phục vụ cho cái tết của ngươi Hà Nội.
Ngay từ tháng một (tức tháng mươi một), các bà nội
trợ đã bắt đầu chuẩn bị tết. Gạo nếp, đậu xanh gói bánh,
nấu chè là cái trước tiên phải lo tối. Sau đến các loại đồ khô
khác cũng được chú ý mua ngay như măng khơ, miến, bóng
bì, bóng cá, long tu, nấm hương, mộc nhĩ, hạnh nhân, hồ
tiêu, lạc... Nhà nào có điều kiện ni gà thì trước tết bốn,
20
năm tháng đã mua về vài con gà trông hoa mới biết gáy đê
thiên và vỗ béo.
Đầu thán g chạp người ta b ắt đầu lo đến vại dưa hành,
ít lạp xưịng và hũ trứng muối. Sang trọng thì làm thêm
món ăn cầu kỳ đắt tiền: chè mạn ngon đun lấy nưốc, độ
đậm đặc như nước trà khi pha uống. Dùng nước trà ấy để
tôi vôi, cho thêm chút đinh hương, hoa hồi, quế chi. Sau đó
thả từng quả trứng vào nưốc vôi đang sôi. Để trứng trong
nước vôi độ vài giây rồi lần lượt vớt ra. xếp trứng vào hũ,
đậy kín để bên cạnh bếp, mỗi ngày xoay hũ hai ba lần cho
hơi nóng thấm đều qua thành hũ. Độ 20 hơm sau thì ăn
được, khi cắt ra, quả trứng có màu nâu đen sẫm. Trứng
đen là món ăn quý trong ngày tết vì chất bùi ngậy của
trứng, vị thơm lạ lùng của chè và gia vị, mùi nồng đậm của
vơi. Chính chất vơi ngấm trong trứng làm cho người ta ăn
chóng tiêu, tạo cảm giác ngon miệng, đỡ ngấy vì lượng thịt
mỡ quá cao trong những bữa ăn ngày tết.
Trước đây, Hà Nội có hai loại bóng bì: bóng bì rán và
bóng bì nướng. Bóng bì nướng cịn gọi là bóng Sài Gịn vì
bóng có nguồn gơc từ Sài Gịn. Gần tết, người ta thường
gánh những đơi bồi đầy bóng Sài Gịn đến ngồi bán ở vỉa hè
Hàng Ngang, Hàng Đường. Bóng bì rán thơm ngon và
mềm hơn bóng Sài Gịn. Những miếng bóng rán to, cuộn
cong, được xâu vào dây treo trong các hiệu bán hàng khô ở
phơ' Hàng Cân, Hàng Đưịng. Những hiệu đồ khơ này bán
các loại hàng ngon và sang hơn hàng khô trong chợ. Nhà
phong lưu chỉ mua bóng bì rán để nấu cỗ tết. Ngoài ra, nhà
nào cũng mua một quả gấc chín treo trên giàn bếp, đến 30
tết thổi xơi cúng tấ t niên và thắp hương sáng mùng một.
Ngày tết, b ất kể giàu nghèo nhà nào cũng đồ xôi gấc vì gấc
21
đỏ, màu đỏ tươi sáng ưa nhìn được coi là màu may mắn
đem lại điều tốt đẹp. Đến giữa tháng chạp, các chợ bán đầy
lá dong, lá được bó thành từng bó, mua về dựng vào góc
sân râm m át đê gói bánh chưng và giị.
Có một món mang hương vị đặc biệt tết, đó là mứt.
Trừ những ai bận bn bán, hoặc những ngưịi sát tết mói
lo được tiền, cịn rấ t nhiều gia đình đều thích nấu mứt để
ăn và thết khách trong ngày tết. Công việc làm mứt này
thường dành cho các cơ gái trong gia đình. Mứt có nhiều
loại: mứt sen, mứt dừa, mứt dứa, mứt cà rốt, mứt bí...
Ngồi mứt cịn có các loại bánh: bánh chè lam, bánh Vẽ,
bánh Huê Cầu làm bằng gạo nếp. Bánh Vẽ to bằng quả
trứng gà, nở phồng, bên trong rỗng xốp, ăn dòn và ngọt
thanh, là đặc sản của làng Vẽ. Cịn bánh H c ầ u vng
bằng hai ngón tay, mỏng như giấy, nhuộm đủ các màu do
làng Xuân c ầ u làm. Khi ăn, rán trong chảo mỡ đang sôi
bánh sẽ nở xoè như bông hoa rất đẹp. Người ta cho rằng
sáng mồng một tết rán bánh, nếu bánh nở to và đẹp thì cả
nhà sẽ gặp nhiều may mắn.
Khoảng giữa năm 30 th ế kỷ XX bắt đầu phổ biến các
loại bánh chế bằng bột mỳ như bánh quy bơ, săm pa, bánh
quạt kẹp đương, và các loại kẹo gói giấy.
H ạt dưa là món “tí tách” khơng thể thiếu trong ngày
tết. Đĩa h ạ t dưa nhuộm đỏ rang thơm nổi bật giũa các đĩa
bánh kẹo trơng th ậ t hấp dẫn. Món này được mọi người nhất là phụ nữ và trẻ con ưa thích. Đây là sản phẩm của
Nam Bộ nhưng nay đã là của chung cả nước. Từ năm
1955, người Hà Nội đã dùng h ạt bí. Càng gần đến tết,
đường phô' và các chợ càng tấp nập đông vui, trong chợ
22
tràn ngập hàng hóa, các cửa hiệu ngồi phố cũng đầy ắp
sản vật. Có những ndi chuyên bán từng loại hàng. Hàng
Đào bán nhung, dạ, vải vóc, tơ lụa. Ai muốn có quần áo
mới, phải đến đây mua vải và đưa hiệu may từ tháng mười
một mới kịp có quần áo mặc tết. Hàng Ngang bán các loại
chè: chè mạn, chè ướp sen, ướp hoa tuỷ tiên, chè Sinh
Thái, Ninh Thái, Thiết Quan Âm đựng trong bao thiếc và
lọ sứ. Những loại chè này tuy đắt nhưng cả năm chỉ có ba
ngày tết, ai cũng muốn mua để thưởng thức và thết khách
cho lịch sự. Phô Hàng Bồ bán đầy tran h dân gian, câu đôi
tết. T ran h và câu đôi được bày lên chiếu trải trên hè, đủ
các loại tranh: tran h gà lợn, phúc-lộc-thọ, th ấ t đòng, Trần
Hưng Đạo, đám cưới chuột, cờ lau tập trận, tran h thờ Ngũ
hổ... của các dòng tra n h dân gian nổi tiếng ở làng Hồ
(Thuận Thành, Bắc Ninh), Kim Hồng (Hồi Đức, Hà Tây)
và Hàng Trơng (Hà Nội). Tranh dân gian thể hiện những
ước mơ về một cuộc sống thái bình sung túc. Ngày tết nhà
nào cũng phải m ua mấy cái tranh, vài đôi câu đối tết về
dán ở cửa hoặc treo trong nhà, thiếu thứ này thì dù cỗ bàn
có sang trọng đến đâu cũng chưa đủ khơng khí tết. Câu
đối viết bằng mực tàu trên giấy hồng điều hoặc giấy đỏ có
dán nh ũ vàng. Cạnh hàng bán câu đối cịn có các ơng đồ
nho viết câu đối và chữ Hán theo nội dung khách hàng
đặt. Cảnh viết câu đối ngày tết trước năm 1945 đã được
nhà thơ Vũ Đình Liên miêu tả th ật thàn h cơng trong bài
thơ “Ơng Đồ”, sáng tác vào những năm 30 th ế kỷ XX. Mỗi
năm một lần, khi hoa đào bắt đầu khoe sắc là ông đồ lại
đem giấy đỏ mực tàu ra hè phô" viết chữ nho để bán hay
tặng cho những người biết thưởng thức loại chữ tượng
hình này.
23
Thời kỳ đó ở Việt Nam Nho học cịnđược hâm
Ơng đồ viết câu đôi ngày têt được “Bao nhiêu người
viết, tấm tắc ngợi khen tài. Hoa tay thảo những nét,
phượng m úa rồng bay”. Tuy nhiên, sau đó khi chữ
khơng cịn thơng dụng nữa thì cảnh ơng đồ ngày tết
chữ thuê trở nên ít dần và gần như m ất hắn.
mộ.
thuê
như
Hán
viết
Hàng Bồ còn bán pháo, pháo bày trên những cái bàn
con, có đủ các loại: pháo tép, pháo dây, pháo đùng, pháo cối,
pháo đập, pháo hoa hoa cải... Hàng Đường san sát hiệu mứt
và hàng khô. Các thẩu mứt đầy, đủ các màu sắc nằm san
sát trên giá gỗ. Người mua ngắm nghía lựa chọn, ngưịi bán
ln tay gói hàng thu tiền, vừa làm vừa mời chào đon đả.
Trên các quầy bán ở phố Hàng Mã bày đầy các loại đồ
dùng bằng giấy. Ngày tết mọi người mua tiền, vàng và đồ
mã về để cúng th ầ n linh, gia tiên. Cửa chợ Đồng Xuân bán
đủ loại hương: hương vòng, hương trầm, hương thẻ, hương
đen...
Tết đến, trên bàn thò mọi nhà đến các đình chùa, đền
miếu chỗ nào cũng nghi ngút khói hương làm cho ngày tết
càng ấm cúng và thêm hương sắc.
Ngã tư chợ Đồng Xuân - Hàng Khoai tràn sang phố
Hàng Lược là cả vườn hoa di động. Đó là chợ hoa của Hà
Nội. Ven Hồ Tây, phía đơng bắc th à n h phơ" có những làng
chun nghề trồng hoa như Ngọc Hà, Nhật Tân, Nghi
Tàm, Yên Phụ... trong đó làng có lịch sử trồng hoa lâu đời
n h ất là Nghi Tàm. Trước đây hoa thường được bày bán ở
khu chợ Đồng Xuân và đầu Hàng Đường ngày nay, sau đó
chuyển th à n h chợ hoa kéo qua Cống Chéo, Hàng Lược đến
đầu Hàng Cót. Chợ họp từ sáng ngày tết ông Công (23/12)
24
cho đến đêm giao thừa. Ngày nào cũng suốt từ sáng đến
tối, nườm nượp người. Người đủ mọi lứa tuổi, lại có cả
khách nước ngồi chen nhau mua hoa, chọn hoa... Những
người đi chợ hoa đểu ăn mặc đẹp vì người ta đi chợ khơng
chỉ để mua hoa mà cịn đê ngắm người. Thơi thì đủ mọi
hương sắc hình vẻ, đáp ứng đủ mọi thú chơi hoa: quất, cúc,
đào, mai, thủy tiên, hồng nhung, đỗ quyên, mẫu đơn, thược
dược... Nhưng mấy loại hoa được người Hà Nội ưa chuộng
nh ất trong ba ngày tết là đào, quất, cúc và nhà phong lưu
hơn thì chọn thêm giị thủy tiên.
Đào có nhiều loại: hồng đào, bích đào, bạch đào...
Cành đào thường được uốn tỉa thành tán tròn. Người
thưởng thức hoa phải biết chọn cành đẹp, nụ “ẩn ” để hoa
nở nhiều vào đúng ngày đầu xuân năm mới. Người thành
thạo lại phải biêt thúc nụ, hãm hoa cho hoa nở đúng lúc
mong muốn. Cho nên cành đào mua vê thường được đốt gốc
rồi mới cắm vào lọ lộc bình, bày vào nơi đẹp n h ất của
phòng khách.
Hoa đào màu hồng như ánh mặt tròi, tuỳ theo độ
đậm n h ạ t mà gọi là đào thắm hay đào phai.
Quất và cúc trồng trong chậu. Cây quất có tán trong
hoặc được tỉa thành hai, ba tầng dưới to trên nhỏ dần. Quý
và hiếm n h ất là những cây quất nhỏ nhưng quả nhiều hơn
lá. Quả quất tròn mọng vàng ửng lúc lỉu khắp cành. Quất
là cây biểu tượng “tài lộc” của người kinh kỳ nên những
nhà bn bán thích mua. Nhà nào mua được cây quất đẹp,
quả nhiều và sai là hy vọng năm đó có nhiều tài, nhiều lộc.
Cúc có nhiều loại: cúc vàng, cúc trắng, cúc mốc, cúc
long trảo, cúc bánh mi, đại đóa... Cúc là loại cây dễ trồng
25
lại lâu tàn. Cúc có vẻ đẹp độc đáo cả về hương sắc lẫn dáng
vẻ. Cúc tượng trưng cho nếp sổng khiêm tơn, giản dị, kín
đáo như cuộc đời thanh bạch của người hàn sĩ, vì thê cúc
được các bậc túc nho ưa thích.
Thủy tiên vốn từ Trung Quốc sang. Ngay từ đầu
tháng chạp đã có hàng sọt củ thủy tiên bán ở phơ" Hàng
Buồm. Những người thích chơi và biết tỉa gọt thủy tiên
mua củ về nuôi thành những giị hoa trắng ngần có cả lá,
rễ và hoa. Củ hoa được ngâm trong bình pha lê trong suốt,
củ có cả một chùm rễ dài trắng muốt. Hoa thủy tiên cũng
trắng, nở th à n h chùm có hương thơm nhẹ nhàng êm dịu.
Ngồi bơn loại cây nói trên, hoa mẫu đơn cũng được
nhiều người ưa chuộng vì vẻ đẹp vương giả viên mãn của
nó. Hoa đỗ quyên đỏ chói, hoa hồng nhung, hồng bạch hợp
vói những căn buồng nhỏ, tạo sự cân đối và cảm giác ấm
cúng cho con người. Nhiều nhà cịn cầu kỳ thích chơi lan
chân cua ghép vào cây xương rồng trồng trong chậu cảnh.
Lá lan chân cua rấ t giống hình chân con cua bể, gần tết
cây nở hoa đỏ rực và tươi mãi cho đến hêt giêng.
Người đi xem chợ, xem hoa trong gió lạnh và mưa
bay. Có người đi cả buổi mà khơng tìm được cây quất hay
cành đào ưng ý, đành về để hơm sau lại đi tìm cho được cây
hoa đẹp.
Ngày 23 tháng chạp mọi nhà làm lễ tiễn ông Công lên
chầu trời. Ông cưỡi cá chép lên báo cáo mọi hành vi tốt xấu
của gia chủ vói Ngọc Hồng thượng đế. Bởi vậy, hơm đó
phải cúng cho ơng một con cá chép và một cỗ ba bộ mũ mã:
cái màu vàng là mũ bà còn hai cái mũ đen là mũ hai ông.
Từ sáng tinh mơ hôm ấy, trên đường phô" đã réo rắt tiếng
26