Tải bản đầy đủ (.pdf) (411 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa trong cung đình nhà Nguyễn: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (38.34 MB, 411 trang )


DI SẢN VẪN HĨA CUNG ĐÌNH THỜI NGUN
NGHIÊN CỨU, BẢO m VÀ PHÁT HUY GIẢ TRỊ


TRUNG TÂM BẢO TỊN DI TÍCH CỚ ĐƠ HƯÉ

NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA
HUÉ-2016


Lịi nói đâu
Nằm giữa miền Trung Việt Nam, Huế trong một thời gian tùng
lc thu phù cua Đàng Trong thời các chúa Nguyễn (1636-1774), kinh
âì cùa nước Đại Việt thời Tây Sơn (1788-1801), rồi kinh đô cua nước
Vệt Nam, Đại Nam thời Nguvền (1802-1945). Vùng đất này đã tích
ti và hình thành nên một kho tàng di san văn hóa đồ sộ, phong phú và
có giá trị vổ song cho quốc gia, là bộ phận hợp thành của di sàn văn
h')a dân tộc và nhân loại, là thông điệp nối quả khứ với hiện tại và
tvơng lai. Đen nay, c ố đơ Huế đã có 5 di san của triều Nguyễn được
LNESCO vinh danh, là Quần thể di tích c ố đơ (1993), Nhã nhạc Án nhạc cung đình Việt Nam (2003), Mộc ban triều Nguyễn (2009),
Châu bán triều Nguyễn (2014), và Thơ văn trên kiến trúc cung đình
Huế (2016); xứng danh là vùng đất của di sản.
Trong những năm qua, sự nghiệp nghiên cứu, bảo tồn và phát
huy giả trị di sàn văn hóa Huế đã được Đảng, Nhà nước và chỉnh
quyền các cấp của Thừa Thiên Huế đặc biệt quan tâm, và trên thực
tế đã đạt được những thành quả quan trọng.
Để góp phần tổng kết những thành quả này, đồng thời chuẩn
bị cho một chiến lược lâu dài cho công cuộc bảo tồn và phát huy di
san Huế, mà trọng tâm là di sản văn hỏa cung đình, giữa thảng 9 vừa
qua, ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã giao cho Trung tâm


Bào tồn Di tích c ổ đơ Huế chủ trì tổ chức hội thảo quốc tế “Di sản
văn hóa cung đình thời Nguyễn - Nghiêu cứu, báo tồn và phát huy giá
trị Đầy là một sự kiện văn hóa quan trọng của c ổ đô Huế, thu hút
sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, các nhà quản ỉý về
văn hỏa trong và ngoài nước cùng cộng đồng nhân dân địa phương.
Trong 2 ngày 15 và 16/9/2016, gần 200 nhà nghiên cứu, nhà
quản lý đã nhiệt tình tham gia diễn đàn hội thảo và các hoạt động
khoa học có ý nghĩa bên lề hội thảo do Trung tâm Bào tồn Di tích c ố
đơ Huế tổ chức, như tham dự triển lãm tư liệu với chủ đề “Huế - một
5


điểm đến 5 di sản ”, triển lãm "Quốc hiệu Việt Nam qua tài liệu Mộc
bản ”, lễ khánh thành cơng tác trùng tu di tích Triệu Tổ Miếu (thờ ông
bà Nguyễn Kim - người có công trung hung lại triều Lê và đặt nền
tảng cho sự nghiệp của chúa Trịnh, chúa Nguyễn), tham quan cơng
trường trùng íu lăng Trường Cơ của chúa Nguyễn Hồng (vị chúa
đầu tiên của dịng họ Nguyễn) ...
Sự hưởng ứng tham gia nhiệt tình của các nhà khoa học, các
nhà quản lý và các đại biểu đã làm cho Ban tổ chức Hội thảo hết sức
bất ngờ, vui mừng và cảm động. Đây chỉnh là sự động viên khích lệ
lớn nhất khiến chúng tơi cố gắng làm tốt công tác tổ chức Hội thảo
cùng với việc biên tập, in ấn cuốn sách này.
Cuốn sách Di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn - Nghiên
cứu, bảo tồn và phát huy giá trị được biên soạn trên cơ sở các bài
tham luận và các phát biểu khoa học của các tác giả tham gia hội
thảo, bản kết luận hội thảo cùng một số kiến nghị. Sau khi cân
nhắc, lựa chọn, chủng tôi chỉ xin phép được sử dụng hơn 50 bài
viết trong tổng sổ hơn 70 tham luận được gửi đến Ban tổ chức hội
thảo. Các bài viết này đều đã được gửi lại cho các tác giả để xem

và bổ sung. Để tiện theo dồi, chủng tơi tạm thời chia các bài viết
thành 6 nhóm chủ đề sau:
1. Tổng quan về giá trị di sản văn hỏa cung đình thời Nguyễn
2. Giá trị mỹ thuật và kiến trúc của di sản văn hỏa cung đình Huế
3. Giá trị cảnh quan môi trường gắn liền với Quần thể di tích
Cổ đơ Huế
4. Nguồn gốc, giá trị và cơng tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể
5. Di sản tư liệu và công tác nghiên cứu, bảo tồn và phát huy
giả trị
6. Công tác nghiên cứu, bảo tồn và phục chế cổ vật cung đình.
Tuy vậy, sự phân chia này chi mang tỉnh chất tương đấi vì đa
phần các bài viết đều thơng qua một chủ đề nhất định nhưng lại bàn
rộng ra nhiều vẩn đề khác nhau.
Trên tinh thần tôn trọng tuyệt đổi ỷ kiến của các nhà khoa học,
chủng tôi đăng tải nguyên văn các bài tham luận sau khi đã gửi lại
6


lể các tác giá xem và chinh sưa, bổ sung. Việc biên tập cua chúng
ơi cũng chí nhằm đảm bảo tỉnh nhất quán về văn phạm ngữ pháp và
lình thức chứ không thêm bớt hay điều chinh nội dung bài viết.
Mặc dù dành nhiều thời gian cho công tác biên tập, nhưng
'húng tơi vẫn chưa cảm thấv hài lịng, rất mong nhận được sự góp ỷ,
m o đồi của các tác giả và bạn đọc.
Hy vọng cuốn sách này sẽ là một món quà có ỷ nghĩa đổi với
lạn đọc và các nhà nghiên cứu, những người đã luôn đồng hành, gắn
ló cùng sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.
Nhân dịp ra đời của cuốn sách, một lần nữa chủng tôi xin cám
m tất cả các các nhà khoa học, các nhà quản lý đã nhiệt tình tham
ụa hội thào. Trần trọng cám ơn sự chỉ đạo và tạo điều kiện của lãnh

ỉạo tỉnh cùng các ban ngành liên quan đã dành cho chúng tôi sự
lộng viên và giúp đỡ hết sức quý báu trong quá trình tổ chức Hội
háo và công tác biên tập, in ấn cuốn sách này.
Huế, tháng 10 năm 2016
Ban biên tập

7


B Ả O T Ò N VÀ P H Á T H U Y G IÁ T R Ị D I SẢN
V Ă N H Ó A C U N G Đ ÌN H T H Ờ I N G U Y Ễ N
T R O N G B Ó I C Ả N H H IỆ N NAY*
Nguyễn Văn Cao"
- Kỉnh thưa quỷ vị đại biểu!
- Thưa các nhà khoa học!
Thay mặt chính quyền và nhân dân tinh Thừa Thiên Huế, tôi
nhiệt liệt chào mừng và cảm ơn các nhà khoa học, các nhà quản lý
văn hóa cùng tồn thể quý vị đại biểu đã đến tham dự Hội thảo “Di
sán văn hóa cung đình thời Nguyễn - Nghiên cứu, bào tồn và phát huy
giá trị ” ngày hôm nay.
Huế từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn và là kinh đô của
vương triều Nguyễn nên đã thừa hưởng được nhiều di sản văn hóa vơ
cùng phong phú và mang giá trị đặc biệt. Đen nay, c ố đô Huế đã có 5
di sản của triều Nguyễn - triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam
được UNESCO công nhận, cùng hàng trăm di tích cấp quốc gia, cấp
tỉnh khac. Đây là những tài sản quốc gia đặc biệt do các thế hệ cha
ông đã sáng tạo một cách tài tình, khơng mệt mỏi để lại mà người dân
Huế vinh dự được giữ gìn; đồng thời, cũng mang trách nhiệm nặng
nề để không ngừng bảo tồn bền vững và phát huy hiệu quả các di sản
đó cho các thế hệ tương lai.

Nằm trong chuỗi các hoạt động văn hóa - nghệ thuật tầm quốc
gi a và quốc tế năm 2016 của Thừa Thiên Huế, Hội thảo “Di sàn văn
hóa cung đình thời Nguyễn - Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giả trị”
được tổ chức là hoạt động nhằm mục đích tổng kết q trình nghiên
cúm, đánh giá về các di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn trên các
phương điện: Giá trị di sản, quá trình nghiên cứu, khai thác, bảo tồn
vả phát huy giá trị di sản, từ đó xây dựng một chiến lược tồn diện
về bảo tồn bền vững, phát huy hiệu quả các giá trị di sản văn hóa do
triiều Nguyễn để lại.
* Phát biểu khai mạc Hội tháo
" Chủ tịch UBND tinh Thừa Thiên Huế

9


Hội thảo diễn ra trong thời điểm chúng ta đang rất vui mừng
và tự hào về Cố đô Huế vừa trở thành nơi hội tụ của 5 di sản với 3
loại hình khác nhau là: Di sản vật thể, di sản phi vật thể và di sản tư
liệu. Do vậy, việc tổ chức HỘI thảo lần này sẽ giúp các nhà quản lý và
chun mơn có cơ hội nhìn nhận, đánh giá về những vấn đề liên quan
đến công tác nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
cung đình thời Nguyễn trong những thập niên gần đây. Qua Hội thảo,
sẽ giúp cho chính quyền, các ban ngành của tỉnh Thừa Thiên Huế mà
trực tiếp là đơn vị quản lý nhìn nhận, đánh giá một cách đầy đủ các
giá trị của di sản, làm cơ sở cho việc xây dựng, ban hành các chính
sách, chiến lược mới để bảo tồn, gìn giữ và phát huy tài nguyên văn
hóa phong phú và độc đáo của c ố đơ Huế.
Thay mặt chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế, tơi trân trọng cảm
ơn đại diện các cơ quan của Trung ương, các nhà khoa học, các nhà
chuyên môn, nhà quản lý, cùng toàn thể quý vị đại biểu đã đến tham

dự Hội thảo lần này và chia sẻ mối quan tâm đối với các di sản vùng
đất Cố đô Huế; đồng thời, mong muốn các nhà khoa học, các nhà
quản lý và tất cả quý vị đại biểu với tâm huyết của mình về các di
sản của vùng đất c ố đô Huế sẽ đề xuất các giải pháp hữu hiệu nhằm
bảo tồn và phát huy giá trị di sản này, giúp Thừa Thiên Huế đẩy mạnh
phát triển dịch vụ - du lịch, xứng tầm là một trong những trưng tâm
văn hóa - du lịch đặc sắc của Việt Nam.
Hoan nghênh và biểu dương Trung tâm Bảo tồn Di tích c ố đô
Huế và các cơ quan liên quan của tỉnh đã nỗ lực, cố gắng để tổ chức
Hội thảo theo kế hoạch; đồng thời, yêu cầu Trung tâm tiếp thu nghiêm
túc ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý và tất cả quý vị đại
biểu để đề xuất những kế hoạch quản lý có tầm nhìn xa nhằm bảo tồn
và phát huy tốt hon nữa các di sản văn hóa cung đình triều Nguyễn.
Sự cơng nhận của quốc tế đối với các di sản văn hóa thuộc triều
Nguyễn là một đóng góp góp phần quan trọng trong việc nâng cao
nhận thức đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị tinh thần vô
giá của cha ơng để lại cho chúng ta, đồng thời, đó cũng là cơ sở có ý
nghĩa thực tiễn cho việc triển khai trùng tu, bảo tồn và phát huy giá trị
10


các Di sản văn hóa cố đơ Huế, góp phần xây dựng Thừa Thiên Huế
thành một “đô thị sinh thái, cảnh quan, di sản, văn hóa và íhân thiện
VỚI mơi trường”, xây dựng thành công thương hiệu du lịch Thừa Thiên
Huế mới: “Một điểm đến - Năm di sản” để thu hút du khách trong và
ngoài nước.
Một lần nữa, xin nhiệt liệt chào mừng và kính chúc quý vị đại
biếu, các nhà khoa học sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc quý
vị đại biểu trong thời gian lưu lại tại Huế có những trải nghiệm thú vị
và những ấn tượng khó qn về một vùng đất giàu lịng mến khách

và àm áp tình người
Chúc Hội thảo thành cơng tốt đẹp.
TÔI xin tuyên bố khai mạc Hội thảo “Di sản văn hỏa cung đình
thời Nguyễn - Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị
Xin trân trọng cảm ơn.

11


DI SẢN VĂN HĨA CUNG ĐÌNH T H Ờ I NGUYỄN NGHIÊN CỨU, BẢO TỒN VÀ PH Á T HUY GIÁ TRỊ*
T SP han Thanh Hải*'
Kính thưa:

- Đồn chủ tịch,
-Kỉnh thưa toàn thể quỷ vị đại biểu!

Triều Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng tại Việt Nam, VỚI
gần 400 năm tồn tại (1558-1945), các chúa Nguyễn và vương triều
Nguyễn đã để lại cho dân tộc những di sản văn hóa vơ cùng phong
phú và mang giá trị đặc biệt. Huế là thủ phủ của các chúa Nguyễn và
là kinh đô của vương triều Nguyễn nên đã thừa hưởng được nhiều di
sản văn hóa quan trọng. Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới và
phát triển của đất nước, sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị các di sản
văn hóa cung đình thời Nguyễn đã đạt được nhiều thành quả to lớn,
góp phần quan trọng xây dựng cố đơ Huế trở thành một trung tâm văn
hóa du lịch của đất nước, thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam.
Với tư cách là đơn vị chuyên môn được giao trọng trách trực
tiếp quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của quần thể di tích cố đơ, các
di sản văn hóa phi vật thể liên quan và di sản cảnh quan môi trường,
kể từ khi thành lập đến nay (1982-2016), Trung tâm Bảo tồn Di tích

Cố đơ Huế (dưới đây gọi tắt là Trung tâm) đã luôn nỗ lực để hoàn
thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, từng bước nghiên cứu, bảo
tồn, khôi phục và hồi sinh các di sản trọng yếu mà tiêu biểu là các di
sản đã được UNESCO vinh danh: Quần thể di tích c ố đơ Huế (1993);
Nhã nhạc- âm nhạc cung đình Việt Nam (2003); Thơ văn trên kiến
trúc cung đình Huế (2016)...
Xác định rõ, nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ then chốt để đảm
bảo cho công cuộc bảo tồn được triển khai đúng hướng và bền vững,

*Báo cáo đề dẫn Hội thảo
** Giám đốc Trung tâm Bào tồn Di tích c ố đơ Huế

12


trong những năm qua, Trung tâm đã không ngừng đầu tư cho lĩnh vực
này, đồng thời mở rộng các quan hệ họp tác với các đon vị, tổ chức
chuyên môn, các chuyên gia, nhà nghiên cứu để triển khai các đề tài ng­
hiên cứu, các dự án bảo tồn, tổ chức các diễn đàn khoa học, hội nghị, hội
thảo... Chỉ tính từ nám 1993 (thời điểm Huế được UNESCO cơng nhận
di sản đầu tiên) đến nay, Trung tâm đã tổ chức hàng chục cuộc hội nghị,
hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế quan trọng, tiêu biểu như: Hội
nghị quốc tế về bảo íồn và giữ gìn phục hồi văn hóa phi vật thể vùng Huế
(tháng 3/1994); Hội thào quốc tể lần thứ nhất (8/1997), lần thứ 2 (2009)
và lần thứ ba (8/2012) về nghiên cứu, báo tồn và phục nguyên điện cần
Chánh; Hội thảo khoa học về Tuồng cung đình Huế (tháng 7-2000);
Hội thảo quốc tế về Âm nhạc cung đình Huế- Nhã Nhạc (8/2002); Hội
tháo bào tồn và phát huy di sản Hán Nôm (tháng 4/2003); Hội thảo
quốc tế về “Bào tồn di sản kiến trúc gỗ Chầu Á: Nhìn từ trường hợp Việt
Nam và Nhật Bàn - Xây dựng kế hoạch quan lý tổng thể di sản Huế”

(tháng 10/2014); Hội nghị quốc tế về Bảo tồn và phát huy giả trị hệ
thống thơ văn trên hến trúc cung đình (tháng 5/2015); V.V..
Tuy nhiên, các hội nghị, hội thảo trên đây phần lớn mang tính
chuyên đề hoặc chỉ tập trung vào một loại hình di sản cụ thể, về tính
chất, hơi khác cuộc hội thảo của chúng ta ngày hơm nay.
VỚI mong muốn có một sự đánh giá tổng quan, tồn diện về
cơng tác nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa
cung đình thời Nguyễn, đồng thời tranh thủ ý kiến của các nhà khoa
học, các chuyên gia, các nhà quản lý về lĩnh vực bảo tồn và phát huy
giá trị di sản để xây dựng các chiến lược và kế hoạch cho tương lai,
cuộc hội thảo này đă được Trung tâm chuấn bị công phu, và rất may
mắn, đã thu hút được sự quan tâm, hưởng ứng của đông đảo các nhà
khoa học, các nhà quản lý trong nước và quốc tế. Có thể nói, đây là
thành cơng đầu tiên của hội thảo!
Cho đến thời điểm này, Ban tổ chức hội thảo (BTC) đã nhận
được hơn 70 bản tham luận của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia,
các nhà quản lý trong và ngoài nước. Đây là điều khiến chúng tôi bất
n;gờ và hết sức vui mừng Ị
13


Có thể nói, hầu như tất cả các tham luận gửi đến BTC đều là
những bài viết công phu, thể hiện tâm huyết và tri thức sâu rộng của
các tác giả trên nhiều lĩnh vực, tuy nhiên, đối chiếu với các quy định
của hội thảo, chúng tôi đã lựa chọn 55 bài phù hợp nhất; các bài viết
còn lại, BTC sẽ trao đổi cụ thể với các tác giả và xin phép được sử
dụng ở một diễn đàn khác. BTC xin chân thành cảm ơn sự tham gia
đóng góp nhiệt tình của tất cả các q vị.
Khơng chỉ có số lượng bài tham luận phong phú mà thành phần
tham gia hội thảo lần này cũng hết sức đa dạng. Ngoài các nhà nghiên

cứu, các nhà quản lý, các nhà khoa học tại địa phương cịn có các nhà
khoa học, chun gia đến từ các tổ chức quốc tế (nhóm nghiên cứu
của Đại học Waseda, Đại học Metropolitan- Tokyo, Nhật Bản, Hiệp
hội Kiến trúc sư và kỹ sư toàn Nhật Bản; Chuyên gia Cộng hòa Liên
bang Đức, nghệ nhân- chuyên gia phục chế nhạc khí cung đinh Hàn
Quốc); các nhà khoa học đến từ các cơ quan, viện nghiên cứu Trung
ương (Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Sử học, Học viện Âm nhạc
Quốc gia, Viện Khoa học Công nghệ và Xây dựng, Trung tâm Nghiên
cứu bảo tồn phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam ...); các bảo tàng, cơ
quan bảo tồn di sản trung ương (Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam,
Viện Bảo tồn di tích, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia IV - Cục Lưu trữ Nhà nước), các nhà quản lý, chuyên gia
đến từ các cơ quan quản lý Trung ương, tổ chức Tư vấn cao cấp của
Chính phủ (Cục Di sản văn hóa - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia)... Có thể khẳng định, đây là một
trong những hội thảo có sự tham gia đông đảo nhất của các nhà khoa
học, các chuyên gia từ trước đến nay trên địa bàn Thừa Thiên Huế.
Căn cứ vào nội dung các tham luận, BTC tạm thời sắp xếp các
bài viết theo 8 nhóm chủ đề sau:
1Các bài viết đánh giá tổng quan về giá trị di sản văn hóa cung
đình thời Nguyễn, về công cuộc bảo tồn và khai thác, phát huy giá trị
di sản (tiêu biểu trong nhóm này là các tham luận của GS.TSKH Lưu
Trần Tiêu, PGS.TS Đặng Văn Bài, TS Nguyễn Thế Hùng, GS.TS
Takeshi Nakagawa, Nhà nghiên cứu (NNC) Nguyễn Đắc Xuân, PGS.
14


"S Đỗ Bang, TS Phan Tiến Dùng, TS Phan Thanh Hải, CN Trần
‘Iguyễn Khánh Phong...);
2- Các bài viết về di sản kiến trúc cung đinh Huế, di sản

liến trúc truyền thống Nhật Bản nhìn trong sự so sánh và cơng
ùc trùng tu, bảo tồn di tích (tiêu biểu là NNC Phan Thuận An,
~s Trần Minh Đức, TS Nguyễn Tiến Binh, KTS Mitsuhiko Nakanura, KS Masatoshi Imai, TS Shiomi Saito, ThS Andrea Teuíel,
IS Nguyễn Thế Sơn...);
3- Các bài viết vê máng mỹ thuật, trang trí và một sơ đặc trưng
Ỳing miền trong kiến trúc cung đỉnh Huế (tiêu biểu là PGS.TS Phan
Thanh Bình, NCS. HS Nguyễn Thiện Đức, NCS Nguyễn Phước Bảo
tàn, ThS Nguyễn Đắc Thái...);
4- Các bài viết về gtá trị cảnh quan, môi trường gắn liền với khu
d sản Huế và công tác quy hoạch, bảo tồn (tiêu biểu là GS Shigeri Satoh, TS Lê Công Sơn, ThS Đỗ Thị Thanh Mai, ThS Trần Văn
lũng...),
5- Các bài viết về cơng tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể,
bio gồm: Nhã nhạc, tuồng cung đình, múa cung đình, nghi lễ cung
đnh... (tiêu biểu là GS Hoàng Chương, PGS.TS Lê Văn Tồn, NNC
\ĩnh Cao, NNC Trần Đình Sơn, ThS Nguyễn Phước Hải Trung, TS
huỳnh Thị Anh Vân, NSND Phan Thị Bạch Hạc, ThS Trương Trọng
Btnh, ThS Lê Mai Phương, TS Phan Thuận Thảo...);
6- Các bài viết về các di sản tư liệu (tiêu biểu là TS Nguyễn
Tỉấn Cường, PGS.TS Đinh Quang Hải, ThS Nguyễn Xuân Hùng.
TiS Hà Văn Huề- ThSNguyễn Thị Thu Hồi, ThS Phan Đăng, TS
Tĩần Đình Hằng, ThS Lê Thị An Hòa, NNC Phạm Đức Thành Dũng,
TiS Lê N a...);
7- Các bài viết về mảng cổ vật cung đình thời Nguyễn và cơng
tác nghiên cứu, phục chế cổ vật (tiêu biểu là TS Nguyễn Văn Cường,
TS Trần Đức Anh Sơn, Nghệ nhân lão thành Kim Hyun Kon, Nghệ
nhân Trịnh Bách...);
8- Các bài viết về các lĩnh vực khác như: lịch sử cơng trình, tiền
tệ. tơn giáo tín ngưỡng (tiêu biểu là PGS.TS Nguyễn Văn Đăng, ThS
15



Nguyễn Anh Huy, ThS Phan Thúy Vân, ThS Đặng Đức Diệu Hạnh,
ThS Hồ Châu. . .)
Tuy nhiên, sự phân chia theo nhóm như trên chỉ là tương đơi,
chưa phản ánh đầy đủ nội dung, tính chất của các tham luận, rất mtong
các tác giả thơng cảm.
Nhìn chung, các tham luận đều đánh giá rất cao quy mơ, tầm
vóc và giá trị to lớn của các di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn,
đánh giá cao thành quả của cơng tác nghiên cứu, bảo tồn và phát huy
giá trị di sản trong những năm qua. Bên cạnh đó, một số tham lluận
cũng phân tích rất sâu sắc những mặt cịn hạn chế, bất cập ờ mộtt số
lĩnh vực của công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hịa, tử đó
đưa ra những kiến nghị khoa học, những giải pháp thiết thực để khắc
phục cho giai đoạn trước mắt và tương lai.
Do thời gian có hạn vì hội thảo chỉ tổ chức trong một nigày
(16/9), nên chắc chắn sẽ khơng đủ thời gian để tồn bộ các tác giả
trình bày tham luận của mình. Tuy vậy, BTC mong muốn các nhà
khoa học, các nhà quản lý, các chuyên gia cùng tồn thể q vị đại
biểu tích cực tham gia trình bày, thảo luận hay nêu những ý kiến thật
tâm huyết, xác đáng tại diễn đàn hội thảo này.
Cuối cùng, thay mặt cho BTC hội thảo “Di sản văn hóa ciung
đình thời Nguyễn (1802-1945) - Nghiên cứu, bảo tồn và phát !huy
giá trị”, tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm chỉ đạo của ủ y ban
nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, sự
phối hợp của các ban ngành trong tỉnh, sự hưởng ứng nhiệt tình của
các chuyên gia, các nhà khoa học cùng tồn thể q vị đại biểu. Tơi
cũng trân trọng cảm ơn sự phối hợp, hỗ trợ của Khách sạn Saitgon
Morin, Khách sạn Duy Tân, và cuối cùng, cảm om sự nỗ lực hết mình
của các đồng nghiệp thuộc Trung tâm vì sự thành cơng của cuộc hội
thảo này.

Xin kính chúc tất cả quý vị sức khỏe, hạnh phúc và thành công!

16


KHO TÀNG DI SẢN VĂN HĨA CƯNG ĐÌNH THỜI NGƯYẺN BẢO TÒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ

TS Phan Thanh H ả i
Triều Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng tại Việt Nam, VỚI
ịần 400 năm tồn tại (1558-1945), các chúa Nguyễn và vương triều
Nguyễn đã để lại cho dân tộc những di sản văn hóa vơ cùng phong
phú và mang giá trị đặc biệt. Huế là thú phù của các chúa Nguyễn và
li kinh đô của vương triều Nguyễn nên đã thừa hưởng được nhiều di
sản văn hóa quan trọng. Cho đến nay, Huế đã có 5 di sản của triều
Nguyễn được UNESCO công nhận1. Trong những năm qua, cùng VỚI
sự đổi mới và phát triển của đất nước, sự nghiệp bảo tồn và phát huy
giá trị các di sản văn hóa cung đỉnh thời Nguyễn đã đạt được nhiều
thành quả to lớn, góp phấn xây dựng Huế trở thành một trung tâm văn
hóa du lịch của đất nước, thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam.
Bài tham luận dưới đây đề cập đến 3 nội dung chính: 1- Triều
Nguyễn với các di sản văn hóa cung đỉnh; 2- Công cuộc bảo tồn và
phát huy giá trị các di sản văn hóa cung đình tại c ố đơ Huế; 3- Một
số định hướng chiến lược cho công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị
di sản của c ố đơ Huế.
1. Triều Nguyễn vói các di sản văn hóa cung đình
Triều Nguyễn được thành lập đầu thế kỷ XIX sau khi chúa
Nguyễn Phúc Ánh thống nhất đất nước từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà
Mau. Huế đã được chọn làm kinh đô, và tại đây, một triều đại quân
chủ tập quyền đã được thành lập, bắt đầu bằng niên hiệu Gia Long,
trải qua 13 triều hoàng đế, kéo dài suốt 143 năm (1802-1945) với

quốc hiệu là Việt Nam (1804-1838), rồi Đại Nam (1838-1945).
*Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đơ Huế
1Đó là Quần thể di tích cố đơ Huế (1993); Nhã nhạc - Âm nhạc cung đình Việt
Nam (2003); Mộc bàn triều Nguyễn (2009); Châu bản triều Nguyễn (2014); Thơ văn
trên kiến trúc cung đình Huế (2016). 5 di sản này thuộc 3 loại hình: Di sản văn hóa vật
thẻ, di sản văn hóa phi vật thể và di sàn tư liệu.

17


Tuy nhiên, từ trước đó hơn 200 năm, các chúa Nguyễn, khởi
đầu từ Tiên chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613) đến chúa Nguyễn
Phúc Thuần (1765-1777), đã có cơng lao to lớn trong việc khai phá
và phát triển vùng đất Đàng Trong (bao gồm hầu hết đất Nam Trưng
bộ, Nam Bộ và Tây Nguyên hiện nay)1, đặt nền móng cho sự thống
nhất và phát triển về nhiều mặt: lãnh thổ, văn hóa, xã hội của đất
nước ở giai đoạn sau.
Công cuộc xây dựng kinh đô Huế thời Nguyễn bắt đầu từ năm
1804, kéo dài qua suốt thời Gia Long (1802-1820), qua gần hết thời
Minh Mạng (1820-1840) mới cơ bản hoàn chỉnh.
Vua Gia Long đã cho xây dựng Hoàng thành (từ 1804), rồi Kinh
thành cùng các cơng trình kiến trúc liên quan (từ 1805), xây dựng
đàn Nam Giao (1806), đàn Xã Tắc (1806), Kỳ Đài (1807), Văn Miếu
(1808), trùng kiến lăng các chúa Nguyễn và các phi (1807-1808), quy
hoạch và xây dựng Thiên Thọ lăng (tức lăng Gia Long)...
Vua Minh Mạng quy hoạch lại Hoàng thành và Tử cấm thành
(từ 1821 với việc xây dựng Thế Miếu), xây dựng Ngọ Mơn (1833),
hồn chỉnh việc xây tường gạch cho Kinh thành, xây dựng các vọng
lâu trên cửa thành (1829-1831), đào hồn chỉnh sơng Ngự Hà bên
trong Kinh thành (1825) cùng hệ thống hào, sông hộ thành vả thủy hệ

bên ngoài, xây dựng Hổ Quyền (1830), Võ Miếu, quy hoạch và xây
dựng Hiếu lăng (tức lăng Minh Mạng, từ 1840) ...
Đen thời vua Thiệu Trị (1841-1847) và vua Tự Đức (18481883), Kinh thành Huế vẫn được xây dựng bổ sung một số cơng
trình, đáng kể nhất là Xương lăng (lãng Thiệu Trị) và Khiêm lăng
(lăng Tự Đức), một số khu vườn hoàng gia bên trong và ngoài Kinh
1Năm 1558, Nguyễn Hoàng vâng mệnh vua Lê vào trấn thù đất Thuận Hóa, sau đó
là Thuận Quảng (từ năm 1570), ơng đã xây dựng và đặt nền móng cho sự phát triển
về nhiều mặt của Đàng Trong. Các đời chúa Nguyễn sau đó đã tiếp tục sự nghiệp của
ông để đẩy mạnh công cuộc Nam tiến, mở mang bờ cõi, mở rộng quan hệ qiuốc tế, phát
triển kinh tế hàng hóa và giao thương với các nước... Vùng đất Huế đã được các chúa
Nguyễn lựa chọn làm thủ phù/Kinh đô của Đàng Trong từ năm 1636 và xây dựng trở
thành một đô thị lớn của đất nước. Đây là cơ sở để đầu thế kỷ XIX Huế tiếp tục được
hồng đế Gia Long chọn làm kinh đơ của đất nước thống nhất.

18


hành cùng một số biệt cung, hành cung khác. Có thể nói, bốn vị vua
tầu triều Nguyễn đã tạo nên một kinh đơ Huế hồn bị và vẫn mang
tậm bản sẳc văn hóa phương Đơng truyền thống.
Nhưng từ thời vua Đồng Khánh (1885-1888) về sau, do ảnh
lương của văn minh phương Tây, một số công trinh đã sử dụng vật
ỉệu mới, thậm chí mang phong cách châu Âu được xây dựng thêm
loậc thay thế cơng trình cũ ở cả bên trong và bên ngồi Kinh thành,
ìhư lăng Đơng Khánh, lăng Khải Định, cung An Định, lẩu Kiến
"rung. Điều đó khiến diện mạo kiến trúc của kinh đô Huế càng thêm
phcng phú, đa dạng.
Như vậy, việc xây dựng kinh đô Huế đã được đặt cơ sở từ thời
chúa Nguyễn, nhưng các vua Nguyễn mới thực sự là những người
liến tạo và hoàn chỉnh về mọi mặt, từ quy hoạch đến cấu trúc đô thị.

Kinh đô Huế của triều Nguyễn là kinh đơ có quy mơ to lớn, hồn
ciỉtth nhất của một nước Việt Nam thống nhất với cương vực lãnh thổ
ròng lớn nhất trong lịch sử phát triển của dân tộc cho đến thời điểm đó.
fiâ} là sự kết tinh của cơng sức, trí tuệ và thành quả lao động sáng tạo
Cia bao nhiêu trí thức, nghệ nhân, thợ khéo của cả nước.
Tại kinh đô này, một triều đại quân chủ tập quyền với các thể
chế hoàn chỉnh nhất trong lịch sử, từ luật pháp, điển chế, nghi lễ, âm
nhạc đến bộ máy chính quyền từ Trung ương đến cơ sở đã được thiết
lập và hoạt động từ đầu thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX.
Tại kinh đô này đã từng có một nền học thuật phát triển thu hút
rát rhiều nhân tài đến làm việc, cống hiến, để lại một khối lượng công
tnnh tác phẩm khổng lồ do các cơ quan của triều đình và các cá nhân
tnróc tác, biên soạn, “nhiều hơn tất cả các triều đại trước đó cộng lại”1.
Chính vì vậy, khơng có gỉ đáng ngạc nhiên khi ngày nay Huế là
nơi có số lượng di sản văn hóa hàng đầu của Việt Nam, là địa phương
đâu tiên của nước ta được UNESCO vinh danh các di sản văn hóa,
bao gồm cả di sản vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu, trong đó nổi
bật là hệ thống di sản văn hóa cung đình của triều Nguyễn.
1Nhận xét của Giáo sư Trần Văn Giàu.

19


2.
Công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa
cung đình tại c ố đơ Huế
Năm 1945, triều Nguyễn chấm dứt. Huế trở thành cố đô. Tiếp
đó là 30 năm chiến tranh ác liệt (1945-1975). Sau ngày giải phóng
miền Nam, kho tàng di sản văn hóa của c ố đô Huế bị tàn phá, hủy
hoại nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân. Điều đó đã đặt ra những

thách thức vô cùng to lớn cho sự nghiệp bảo tồn1.
Bắt đầu từ cuối năm 1981, sau lời kêu gọi cứu vãn di sản Huế
của Tổng Giám đốc UNESCO, một cuộc vận động quốc tế để hỗ trợ
Huế đã được triển khai mạnh mẽ; sự nhìn nhận về triều Nguyễn và
các di sản của triều đại này cũng từng bước thay đổi theo hướng tích
cực. Tháng 6 năm 1982, Cơng ty Quản lý Di tích và Danh thắng Huế
được thành lập (từ năm 1992 đổi tên thành Trung tâm Bảo tồn Di tích
Cố đơ Huế) để quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của quẩn thể di
tích cố đơ và các di sản văn hóa phi vật thể liên quan. Dưới sự lãnh
đạo của tỉnh, sự hỗ trợ của các bộ, ngành Trung ương, năm 1992, bộ
hồ sơ về di sản vật thể của Huế đã được xây dựng xong và đệ trình
1Sau chiến tranh, tồn bộ khu vực Tử cấm thành gần như bị xóa sổ'. Khu vực
Hồng thành chỉ cịn lại 62 cơng trình so với 136 cơng trình kiến trúc lúc ngun thủy
(số liệu do Nguyễn Bá Lăng thống kê ưong bài Danh sách cung điện trong Đại Nội
Huế). Khu vực Kinh thành còn 97 cơng trình ừong tinh trạng hư hỏng nặng,. Lăng Gia
Long cịn 10/15 cơng trình, lăng Minh Mạng cịn 28/35 cơng trình, lăng Thiệu Trị cịn
16/25 cơng trình, lăng Tự Đức cịn 16/20 cơng trình, lăng Khải Định cịn 16/20 cơng
trình, khu vực Văn Miếu cịn 11/15 cơng trình... Tồn bộ Quần thề di tích c ố đơ Huế
sau chiến tranh cịn khoảng 300 cơng trình lớn nhỏ bao gồm thành quách, cung điện,
đền miếu, lầu gác, lăng mộ, cầu cống, đình tạ... hầu hết đều bị hư hỏng ở mhững mức
độ khác nhau, hoặc bị dột nát, nứt vỡ bờ nóc, bờ quyết, các cấu kiện chju lực mục
ruỗng, nhiều cơng trình hư hỏng nghiêm ứọng, có nguy cơ đồ sụp vào bất kỳ lúc nào.
Hệ thống tường thành ở khu vực Kinh thành, lăng tẩm đều bị cây cỏ xâm thực nặng nề;
hơn 100.000m2 ao hồ cần được nạo vét và tu sửa bờ kè; hàng chục cầu cống và hơn
20km đường đi trong các di tích bị hư hại nặng cần phải tu sửa cấp thiết...
Các di sản phi vật thể cũng bị hủy hoại, thất tán hầu hết. Hệ thống lễ hội cung đình
đã khơng cịn tồn tại sau khi triều Nguyễn chấm dứt; các hình thức diễn xaiớng cung
đinh như: Nhã nhạc, tuồng cung đinh, múa cung đình... tản mát và biến trướng trong
dân gian; hệ thống ngành nghề thủ công truyền thống phong phú vốn phục VÍUchính cho
chốn cung đình cũng thất tán, mai một; hệ thống sách vở, tư liệu đồ sộ của diều Nguyễn

cũng bị hủy hoại hoặc bị di chuyền đi phần lớn. Các cồ vật quý giá ở Hoàng, cung, láng
tẩm và cả ở các phủ đệ, dinh thự quan lại cũng bị cướp bóc, thất tán phần lớn...

20


INESCO. Ngày 11/12/1993, Quần thế di tích c ố đơ Huế đã được
\nh danh vào Danh mục Di sản thế giới của UNESCO. Cơng cuộc
láo tồn di sản văn hóa đã thực sự bước sang một trang mới.
Ngày 12/2/1996, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
D5TTg chính thức phê duyệt Dự án Quy hoạch, bao tồn và phát huy
ịá trị khu di tích c ố đơ Huế, giai đoạn 1996 - 2010, trong đó xác
cnh những định hướng và yêu cầu cơ bản, đồng thời xác đinh những
rục tiêu và biện pháp chủ yếu cho việc thực thi những nội dung đã
RU trong quy hoạch. Mục tiêu cơ bản và dài hạn của Dự án thể hiện
tên cả hai phương diện: Bảo tồn di sản văn hóa c ố đô Huế; và phát
hy mọi giá trị quý giá của Di sản văn hóa cố đơ Huế bao gồm giá
ti di sản văn hóa vật chất, giá trị di sản vãn hóa tinh thần và giá trị
c sản văn hóa môi trường cảnh quan đô thị và thiên nhiên trong việc
ịáo dục giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc và nâng cao
nức hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Có thể nói, Quyết định 105TTg là cơ sở pháp lý quan trọng nhất
đ Cố đô Huế triển khai thực hiện chiến lược bảo tồn và phát huy giá
ti văn hóa trong suốt 15 năm đầu tiên sau khi Huế được công nhận là
E sản thế giới, và cũng là cơ sở để Chính phủ ban hành Quyết định
8 8TTg phê duyệt dự án điều chỉnh Quy hoạch, báo tồn và phát huy
g i trị di tích Cố đơ Huế, giai đoạn 2010 - 2020.
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế và Bộ
\ăn hóa Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), cơng cuộc
bo tồn Di tích cố đơ Huế đã được triển khai và đạt kết quả to lớn Di

SĨ1 văn hóa Huế đã vượt qua giai đoạn cứu nguy khẩn cấp và từng bước
đrợc hồi sinh, diện mạo ban đầu của một cố đô lịch sử dần dần được
há phục. Theo đánh giá của UNESCO, công cuộc bảo tồn di tích Huế
hận đang chuyển sang giai đoạn ổn định và phát triển bền vững. Đặc
bật, việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa đã ln gắn chặt VỚI quá trình
kiai thác, phát huy và tạo điều kiện cho việc phát triển kinh xã hội của
tỉih và khu vực miền Trung, trọng tâm là kinh tế du lịch, dịch vụ.
Những kết quả quan trọng ấy được thể hiện trên các mặt: Bảo
tó, trùng tu di tích; bảo tơn văn hóa phi vật thể; bảo tơn và khai thác
21


hệ thống di sản tư liệu, di sản cổ vật; bảo tồn, tôn tạo cảnh quan môi
trường các khu di sản; họp tác quốc tế, ứng dụng thành tựu khoa học
bảo tồn và đào tạo nguồn nhân lực; và phát huy giá trị di sản.
- về công tác bảo tồn, trùng tu di tích
Đây là một trong những hoạt động cơ bản nhất của công tác bảo
tồn di sản Huế trong những năm qua, cũng là lĩnh vực được đầu tư
lớn nhất về kinh phí và chất xám1. Những thành tựu chính trên lĩnh
vực này là:
+ Hầu hết các di tích đều được bảo quản cấp thiết, bằng các biện
pháp chống dột, chống sập, chống mối mọt, chống cây cỏ xâm thực,
gia cố và thay thế các bộ phận bị lão hóa... nhờ vậy mà trong điều
kiện thiên tai khắc nghiệt xảy ra liên tiếp, các di tích vẫn được bảo
tồn và kéo dài tuổi thọ.
+ Đã có khoảng 130 cơng trình di tích lớn nhỏ được đầu tư
trùng tu, bảo tồn, trong đó tiêu biểu là: Kỳ Đài, Ngọ Mơn, Điện
Thái Hịa, Hiển Lâm Các, cụm di tích Thế Miếu, cung Diên Thọ,
Duyệt Thị Đường, cung Trường Sanh, hệ thống Trường lang (Tử
Cấm thành), lầu Tứ Phương Vô Sự, Đông - Tây Khuyết Đài, điện

Long An (Bảo tàng c ổ vật Cung đình Huế), cung An Định, tổng thể
đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc (khu vực đàn chính), tổng thể lăng vua
Gia Long, Minh Lâu, điện Sùng Ân, Hữu Tùng Tự, Bi Đình, Hiển
Đức Mơn (lăng vua Minh Mạng), điện Biểu Đức, Tả Hữu Tòng Viện
(lãng vua Thiệu Trị) Điện Hịa Khiêm, Minh Khiêm Đường, Ơn Kh­
iêm Điện, Khiêm Cung Môn, Xung Khiêm Tạ, Dũ Khiêm Tạ, Bửu
thành và bình phong (lăng vua Tự Đức), Thiên Định Cung, Bi Đình
1Tổng kinh phí tu bổ trong 15 năm (1996 - 2010) trên lĩnh vực ữùng tu và tơn tạo
di tích Cố đô Huế là: 586.312.000.000 đồng (đạt 81,4% kế hoạch dự kiến), trong đó:
+ Ngân sách Trung ương:
250,460 ti đồng
+ Ngân sách địa phương:
245,497 tỉ đồng
+ Tai ượ quốc tế :
90,355 tì đồng
Trong 5 năm (2011 - 2015), ngân sách tu bổ di tích đạt xấp xi 440 tỷ đàng, trong
đó nguồn từ Trung ương đạt 240 tỷ, ngân sách địa phương và tài trợ quốc tế đạt 200 tỷ.
Năm 2016, tổng nguồn vốn đầu tư cho công tác trùng tu bào tồn di sản đạt hơn 177,7
tỷ đồng, trong đó nguồn vốn Trung ương là 84 tỷ, nguồn địa phương là 80 ttỷ, còn lại
nguồn huy động từ xã hội hóa và tài ữợ quốc tế.

22


(lăng vua Khải Định), tổng thế chùa Thiên Mụ, Cung An Định, 10
cổng Kinh thành, tường thành mặt Nam và Quan Tượng Đài, sơng
Ngự Hà... Hiện nay, bên trong Hồng thành và lăng vua Gia Long,
lăng vua Thiệu Trị, lăng vua Tự Đức và lăng vua Đồng Khánh cũng
đang triển khai trùng tu nhiều hạng mục cơng trình sau khi các dự án
trùng tu được phê duyệt, như: vườn Thiệu Phương, Nhật Thành Lâu,

Triệu Tổ Miếu, lầu Tàng Thơ, điện Gia Thành, điện Lương Khiêm,
điện Ngưng Hy...
+ Cơ sở hạ tầng các khu di tích như: Hệ thống đường giao
thơng, điện chiếu sáng khu vực Đại NỘI, điện chiếu sáng nghệ thuật
cho Ngọ Môn, cửa Hiển Nhơn, Quảng trường Ngọ Môn- Kỳ Đài,
Phu Văn Lâu; điện đường đến các lăng Vua Gia Long, Minh Mạng,
Tự Đức, Khải Định, Đồng Khánh... đã được đầu tư, nâng cấp. Hệ
thống sân vườn sân vườn các di tích Triệu Miếu, Hưng Miếu, Thế
Miêu, cung Diên Thọ, cung Trường Sanh, vườn Cơ Hạ, vườn Thiệu
Phuơng, cung An Định, hệ thống phòng chống hỏa, chống sét, hệ
thống nhà vệ sinh trong di tích đã cơ bản được tu bổ hồn ngun
hoặc xây dựng tơn tạo hồn thiện.
Điều quan trọng là, các di tích đã được tu bổ đều đảm bảo các
nguvên tắc khoa học về bảo tồn của quốc gia và thỏa mãn các điều luật
của Hiến chương, Cơng ước quốc tế mà Chính phủ ta đã công nhận và
tham gia, được các nhà khoa học trong nước và quốc tế đánh giá cao.
Cũng chính qua thực tiễn của cơng cuộc bảo tồn tơn tạo di
tích Huế mà đội ngũ cán bộ, kỹ thuật viên của Trung tâm đã tích
luỹ iược nhiều kinh nghiệm quý báu và phong phú, đặc biệt đã nắm
vững cả 2 mặt cốt yếu của phương pháp trùng tu khoa học: Đó là
phương pháp luận khoa học và kỹ năng thực hiện. Vỉ vậy, các hoạt
động trùng tu không chỉ đem lại hiệu quả trên nhiều mặt mà còn
đào tạo được đội ngũ những người làm công tác bảo tồn di sản ngày
càng chun nghiệp.
Cơng tác bảo tồn, trùng tu di tích đã đem lại những hiệu quả tích
cực về mặt kinh tế và xã hội: góp phần quan trọng trong việc chỉnh
trang diện mạo đô thị và khu dân cư, thu hút du khách đến Huế, tăng
23



các nguồn doanh thu du lịch và dịch vụ, tạo ra sự quan tâm đặc biệt
của các tầng lóp xã hội đối VỚI di sản văn hóa truyền thống1. .
về cơng tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể và di sản tư liệu
Các di sản văn hóa phi vật thể của Huế hết sức phong phú vá đa
dạng. Tại Dự án Quy hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị di tích c ố đơ
Huế, 1996-2010 và dự án điều chỉnh đến năm 2020, việc nghiên cứu,
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trên chủ yếu được xác định
trong phạm vi văn hóa cung đình thời Nguyễn, gồm: Thơ văn Hán
Nơm trên di tích, văn bia, thơ Ngự chế được trang trí ở các cung điện,
các hoa văn họa tiết trang trí mỹ thuật gắn liền với di tích kiến trúc,
lễ nhạc cung đình, múa hát cung đình, lễ hội cung đình, tuồng Ngự,
ca Huế, ẩm thực, nghề truyền thống... .
Tính từ năm 1996 đến nay, trên lĩnh vực này, Trung tâm đã tổ
chức hàng chục cơng trình nghiên cứu khoa học, tổ chức biên soạn và
xuất bản nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học có giá trị, tổ chức đào
tạo nhân lực... Các kết quả chủ yếu bao gồm.
+ Tổ chức gần 20 cuộc hội thảo, hội nghị quốc gia và quốc tế
về chủ đề nghiên cứu, bảo tồn các tài sản văn hóa phi vật thể, như:
Hội thảo Bảo tồn và phát huy giá trị Tuồng cung đình Huế, hội thảo
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Hán Nôm Huế, hội thảo Bảo tồn
âm nhạc cung đình Huế, hội thảo Tổng kết dự án Bảo tồn Nhã nhạc
cung đình Huế, Hội nghị quốc gia về bảo tồn phát huy thơ văn trên
kiến trúc cung đình...
+ Đã tổ chức khảo sát, số hóa tồn bộ hệ thống văn tự chữ Hán,
các họa tiết trang trí trên các cơng trình kiến trúc, lập hồ sơ và đã đệ
trình thành cơng để UNESCO cơng nhận thơ văn trên kiến triúc cung
đình trở thành Di sản tư liệu thế giới thuộc chương trình Kỹ ức thế
giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
1
Có khơng ít cơng trình khi tu bổ xong đã phát huy tốt hiệu quả kinh tế, xã hội như:

Duyệt Thị Đường, Minh Khiêm Đường (noi biểu diễn múa, hát, tuồng và các mhạc khúc
cung đình phục vụ du khách), Quàng trường Ngọ Mơn - Kỳ Đài. Các cơng trình hạ tầng
Đại Nội, Quảng trường Ngọ Môn - Kỳ Đài, điện chiếu sáng Đại Nội, cung Am Định và
các lăng đã phục vụ tốt các lễ hội Festival và các hoạt động văn hóa xã hội khác.

24


+ Tổ chức nghiên cứu, biên soạn, dich thuật và xuất bản hàng
chục cơng trình về Di sản văn hóa Huế và cơng cuộc bảo tồn, trong
đó có những cơng trình đoạt giải thưởng cao của Trung ương và địa
phương, như: Khoa cử và khoa bang triều Nguyễn, Thần kinh nhị
thập canh - Thơ vua Thiệu Trị, Kinh thành Huế, Huế - Di sản văn hóa
thế giới, Âm nhạc cung đình Huế, Tuồng cung đình Huế, Khao cơ học
tại di tích Cổ đơ Huế (1999-2003), Di sản văn hỏa Huế - Nghiên cứu
và bao tồn (3 tập), Bao tàng Mỹ thuật cung đình Huế (6 tập), Khâm
định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (10 tập)...
+ Tổ chức sưu tầm, nghiên cứu ứng dụng và bảo tồn được hàng
chục tác phẩm âm nhạc cung đình quan trọng như: 10 nhạc khúc
trong lễ Tế Giao, 9 nhạc khúc trong Te Liệt miếu, 5 nhạc khúc trong
lễ Đoan Dương, Vạn Thọ và Tết Nguyên Đán, 37 nhạc khúc diễn tấu
với dàn Tiểu nhạc, 10 nhạc khúc diễn tấu trong các đợt vua ngự, 14
nhạc khúc kèn dùng trong Đại nhạc... Sưu tầm nghiên cứu và dàn
dựng thành công hàng chục điệu múa cung đình tiêu biểu như: Trình
tường tập khảnh, Tứ linh, Nữ tướng xuất quân, Bát dật... Nghiên cứu
dàn dựng nhiều vở tuồng cung đình cổ và 25 trích đoạn tuồng phục
vụ cho lễ hội và giao lưu văn hóa nghệ thuật...
Chính nhờ những nỗ lực trên mà tháng 11 năm 2003, UNESCO
đâ chính thức cơng nhận Nhã nhạc Cung đình Huế là Kiệt tác Di sản
ván hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại (từ 2008 gọi là Di

sản căn hóa phi vật thể đại diện nhân loại). Đây là một sự kiện có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện tầm vóc và sự phong phú, tồn
dnện của di sản văn hóa Huế trên cả hai phương diện văn hóa vật thể
vả văn hóa phi vật thể.
+ Nghiên cứu phục hồi một số lễ hội cung đinh quan trọng nhất của
triều Nguyễn như: lễ Tế Giao, lễ tế Xã Tắc, lễ Truyền Lô - Vinh quy bái
tở (lễ vinh danh Tiến sĩ dưới thời Nguyễn), lễ hội thi Tiến sĩ Võ, lễ Dựng
nêu: những lễ hội mang màu sắc văn hóa cung đỉnh như: Huyền thoại
sõng Hương, Đêm Hồng cung, Hành trình mở cõi, Thiên hạ thái bình...
+ Đặc biệt là trong các dịp lễ hội Festival Huế, các loại hình
nghệ thuật cung đình, bao gồm cả lễ hội, âm nhạc, nghệ thuật thư
25


pháp, nghệ thuật ẩm thực, trò chơi... đã thực sự đóng vai trị trung
tâm trong các hoạt động của Thừa Thiên Huế, trở thành đại diện tiêu
biểu của văn hóa Huế trong sự đối thoại, giao lưu với bạn bè quốc tế.
về công tác bảo tàng, triển lãm và phát huy giả trị cơ vật
+ Với một bảo tàng cổ vật có lịch sử lâu dài và số lượng cổ vật
tuy khơng lớn nhưng rất q, bên cạnh đó cịn có một số lượng cổ vật
cung đình khác gắn liền với hồng cung, lăng tẩm, đàn miếu1... cơng
tác bảo tàng và phát huy giá trị cổ vật rất được Trung tâm quan tâm
và có nhiều giải pháp triển khai trong những năm qua. Toàn bộ các
cổ vật đã được kiểm kê, lập hồ sơ khoa học; một số cổ vật/ nhóm cổ
vật đặc biệt quý hiếm đã được lập hồ sơ công nhận bảo vật quốc gia2.
Trung tâm cũng đã phối hợp với một số đối tác và các nghệ nhân thực
hiện một số dự án nghiên cứu phục hồi, phục chế cổ vật và hiện vật,
như dự án phục chế trang phục cung đình với nghệ nhân Trịnh Bách,
dự án phục chế đồ sứ ký kiểu, dự án phục hồi một số mẫu trang phục
cung đình với nghệ nhân Nguyễn Thị Tường Vy...

+ Trung tâm đã giao cho Bảo tàng nghiên cứu tổ chức trưng
bày, tái trưng bày các nhóm cổ vật/ hiện vật tại điện Long An và các
điểm di tích do Trung tâm quản lý để phục vụ việc phát huy giá trị,
phục vụ du khách và cộng đồng. Bên cạnh đó, đã phối hợp để mượn
một số sưu tập cổ vật quý đưa về trưng bày tại Bảo tàng để tàng tính
phong phú, hấp dẫn cho điểm đến này3.
+ Hàng chục cuộc triển lãm để giới thiệu, quảng bá về giá trị cổ
vật cung đình và di sản văn hóa Huế đã được tổ chức trong vả ngồi
nước, các cuộc triển lãm này ln thu hút sự quan tâm của cộng đồng
và dư luận.
1Bào tàng Cổ vật cung đình Huế do vua Khải Định thành lập năm 1923, và từng là
một trong các bảo tàng hàng đầu của Đông Dương đầu thế kỳ XX. Hiện Bảo táng quản
lý khoảng 13.500 cồ vật.
2Cho đến nay đã có 7 cổ vật/ nhóm cồ vật do Trung tâm quản lý đã được Nhà nước
công nhận là Bảo vật quốc gia (Cừu Đỉnh, Cửu Vị Thần Công, chuông đổng chùa
Thiên Mụ, sưu tập vạc đồng thời chúa Nguyễn, bia đá Khiêm Cung Ký tại lănig vua Tự
Đức, Ngai vàng ở điện Thái Hòa, Áo tế Giao của vua Nguyễn).
3Chẳng hạn các sưu tâp báu vật hoàng cung (sưu tập trang sức cổ Việt Nam, sưu
tập Kim sách và Kim bảo mượn của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia...) đã được trưng bày
tại Bảo tàng cổ vật Cung đinh Huế trong các năm 2015, 2016.

26


+ Phối hợp VỚI Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I và Trung tâm Lưu
trừ quốc gia IV (thuộc Cục Lưu trữ Nhà nước) tổ chức nhiều cuộc
triến lãm quảng bá về các di sản tư liệu đã được UNESCO công nhận
(Châu bản triều Nguyễn, Mộc bản triều Nguyễn, và Thơ văn trên kiến
trúc cung đình Huế).
v ề cơng tác bảo tồn, tôn tạo cảnh quan môi trường các khu

di sản
Năm trong lòng của “một kiệt tác về thơ kiến trúc đơ thị”, phần
lớn các di tích của Huế đều là những kiến trúc nghệ thuật được bố trí
hài hịa VỚI thiên nhiên trong những không gian rất rộng lớn. Cũng
chính vỉ thế mà việc bảo tồn, tơn tạo cảnh quan mơi trường các khu di
tích gặp khơng ít khó khăn. Thêm vào đó, số lượng dân cư sống trong
các khu vực bảo vệ di tích rất lớn, chiếm xấp xỉ 1/2 dân số thành phố.
Vì vậy, mọi hoạt động liên quan đến bảo vệ di tích đều có ảnh hưởng
nhất định đến cuộc sống của người dân và nhu cầu phát triển1.
Trong những năm qua, phần lớn các di tích chính đã được đầu
tư tu bổ và tơn tạo hệ thống sân vườn, cảnh quan và trồng cây bổ sung
ở cac khu vực đệm. Nổi bật như việc trồng lại vành đai xanh lăng
vua Minh Mạng, tôn tạo phục hồi cảnh quan vườn Cơ Hạ... Trung
tâm đã thành lập phịng Cảnh quan Mơi trường VỚI hon 80 cán bộ, kỹ
sư, nghệ nhân chuyên làm công tác vệ sinh môi trường, gây dựng và
trồng mới cây xanh, hoa kiểng, nghiên cứu tơn tạo mơi trường cảnh
quan. Chính cơng việc đó đã làm thu hẹp khơng gian hoang phế, từng
bưóc trả lại các giá trị cảnh quan vốn có của c ố đơ, mang lại sinh khí
cho di tích, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân, góp
phần quan trọng trong việc giao lưu và hợp tác văn hóa trong nước và
quốc tế.
Bên cạnh đó, việc nâng cấp cơ sở hạ tầng và các trục đường
thiành phố Huế đã được quan tâm, nhất là các trục đường trong Kinh
thiành, đường đến một số điểm di tích. Đặc biệt là việc chỉnh trang, tôn
1Xem thêm Phan Thanh Hải: “Cư dân trong vùng di tích - Lịch sử, hiện trạng và
nhiững ảnh hưởng đối với cơ cấu dân cư và chính sách phát triển của Thừa Thiên Huế”,
ĩạ/p chí Nghiên cứu & Phát triển, số 3/2008.

27



×