1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nơng nghiệp, nơng thơn
ln ln chiếm vị trí quan trọng trong q trình phát triển, là chủ trương lớn
của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây
dựng nông thôn mới ở nước ta đang bước vào giai đoạn mới, sản xuất phát
triển theo chiều sâu, lấy chất lượng hiệu quả làm mục tiêu, đời sống của nhân
dân được nâng cao. Bối cảnh của quá trình phát triển mới là quá trình hội
nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và tiến trình CNH, HĐH ngày càng nhanh,
những thay đổi đó đã tạo cơ hội cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt
Nam gắn kết với thị trường thế giới và tạo ra thế và lực cho nơng nghiệp,
nơng thơn hịa nhập vào q trình CNH, HĐH đất nước.
CNH, HĐH nơng nghiệp, nông thôn trong những năm đổi mới vừa qua
đã tạo ra bước phát triển có tính đột phá, tác động mạnh mẽ đến phát triển
công nghiệp, nông nghiệp, các ngành dịch vụ và đến các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội. Tuy nhiên so với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn, nhất là đứng trước địi hỏi của q trình hội nhập quốc tế
ngày càng sâu, rộng như hiện nay, thì những thành tựu đạt được của CNH,
HĐH nơng nghiệp, nơng thơn vẫn cịn nhiều bất cập so với yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước và là một trong những lực cản cơ bản nhất đối
với tiến trình phát triển về kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
Tỉnh Thái Nguyên, là trung tâm chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc nói
riêng, của vùng trung du Đơng bắc nói chung, là cửa ngõ giao lưu kinh tế xã
hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ; phía bắc tiếp
giáp với tỉnh Bắc Kạn, phía tây giáp với tỉnh Vĩnh Phúc, Tun Quang, phía
đơng giáp với tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và phía nam tiếp giáp với thủ đơ Hà
Nội (cách 80km); diện tích tự nhiên 3.562,82 Km 2. Thái Nguyên có 1,2 triệu
2
người với 8 dân tộc anh em, đất đai màu mỡ, khí hậu thuận lợi cho việc phát
triển nơng nghiệp. Cùng với sự phát triển chung của cả nước, đến nay việc
thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Thái Nguyên trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN đã đạt được những thành tựu đáng kể, tạo sự
chuyển biến tích cực cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
đồng thời kéo theo nhiều thay đổi khác của đời sống xã hội nông thôn. Tuy nhiên,
trong q trình CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn của tỉnh thời gian qua phát
triển chưa vững chắc, chất lượng tăng trưởng chưa cao. Việc áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm sau thu
hoạch chưa mạnh mẽ, môi trường sống nông thôn bị ô nhiễm và suy thối nghiêm
trọng, đời sống của nhân dân cịn gặp nhiều khó khăn.
Để góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đề ra chính
sách và những giải pháp cho quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn nhằm khai thác và phát huy tiềm năng, lợi thế của tỉnh, vì vậy
"Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn tỉnh Thái Ngun"
được chọn làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
CNH, HĐH NN, NT là một vấn đề được Đảng, Nhà nước và các nhà
khoa học quan tâm. Đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu, các bài viết,
luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ đã được đăng tải công bố như:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành TW khố IX về Nơng
nghiệp, nơng dân nơng thơn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001
Một số văn kiện của Đảng về phát triển nông nghiệp, Nhà xuất bản Sự
thật năm 1993.
- Lê Huy Ngọ (2002), Con đường CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, Nông thôn Việt Nam thời kỳ
đổi mới, Nxb Thống kê, Hà Nội.
3
- Một số vấn đề về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong phát triển nơng
nghiệp và kinh tế nơng thôn thời kỳ 2001 - 2020, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội,
năm 2001.
- Phát triển bền vững nông thôn vùng Đồng bằng Bắc bộ trong quá trình
xây dựng phát triển các khu công nghiệp, Đề tài khoa học cấp bộ (2008), Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đỗ Thanh Bình (2000), “Phát triển kinh tế nơng nghiệp, nông thôn
huyện Vĩnh Thuận tỉnh Kiên Giang trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh.
- Hồng Đức Tiến (1999), “Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp
ở huyện miền núi Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đặng Kim Sơn (2008), "Nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam
hơm nay và mai sau”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Tỳ, “Nguồn nhân lực trong quá trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn ở tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn thạc sỹ kinh
tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Hải Yến (2008), “Hợp tác xã kiểu mới trong q trình Cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nông thôn ở tỉnh Nghệ An”, Luận văn
thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Ngồi ra cịn có một số sách báo, tạp chí các văn kiện của Đảng khác, có
liên quan đến luận văn như: Ban Tư tưởng văn hoá TW - Bộ Nông nghiệp
phát triển nông thôn năm 2000; Con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội …
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau về
CNH, HĐH nơng nghiệp nơng thơn nói chung và CNH, HĐH nơng nghiệp,
nơng thơn nói riêng của một số địa phương. Hầu hết các cơng trình này đều
4
tập trung đến vấn đề nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Nhìn
chung, cho đến nay vẫn cịn rất ít các cơng trình nghiên cứu sâu về CNH,
HĐH nơng nghiệp, nông thôn tỉnh Thái Nguyên - một tỉnh miền núi có nhiều
tiềm năng, lợi thế để phát triển nơng nghiệp, nơng thơn nhanh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH nơng
nghiệp, nơng thơn và phân tích đánh giá thực trạng CNH, HĐH NN, NT tỉnh
Thái Nguyên. Từ 2000- 2011 từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến
trình CNH, HĐH NN, NT tỉnh Thái Nguyên từ nay đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn tập trung giải quyết
một số nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, nơng nghiệp, nơng thơn.
- Phân tích đánh giá thực trạng q trình thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2000 - 2011.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiến trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài chủ yếu liên quan đến lĩnh vực cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn tỉnh Thái Nguyên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là phân tích đánh giá q trình thực hiện
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thôn tỉnh Thái Nguyên từ 2000
- 2011 và đề xuất phương hướng giải pháp tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn tỉnh Thái Ngun đến năm 2020.
5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước
ta về tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn nói
chung và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nơng nghiệp, nơng thơn tỉnh Thái
Ngun nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng, đồng thời sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu của khoa học kinh tế chính trị như: Trừu tượng hóa khoa học,
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lơ gích - lịch sử, tổng kết thực tiễn...
để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận văn
Trên cơ sở trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực
tiễn về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn, từ đó phân tích
đánh giá đúng thực trạng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn ở tỉnh Thái Ngun; từ đó đề xuất các giải cơ bản pháp nhằm đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CÔNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA NƠNG NGHIỆP,
NƠNG THƠN
1.1. Những vấn đề lý luận chung
Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta đang được triển khai trong bối cảnh
cuộc cách mạng khoa học, công nghệ trên thế giới diễn ra mạnh mẽ chưa từng
có. Khoa học, cơng nghệ cùng với lượng tri thức tăng nhanh đang trở thành
nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội. Những thành tựu to lớn của
cuộc cánh mạng khoa học, công nghệ hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát
triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm dịch chuyển
mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của
đời sống xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ:
Phát triển nơng nghiệp tồn diện, hiệu quả, bền vững theo hướng
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, phát huy ưu thế của nền nơng nghiệp
nhiệt đới gắn với giải quyết tốt các vấn đề nông dân, nơng thơn.
Khuyến khích tập trung ruộng đất, áp dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ, phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hố lớn, có năng xuất, chất
lượng, hiệu quả cao. Gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, mở rộng
xuất khẩu. Xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nơng dân [20, tr.38-39].
1.1.1. Cơng nghiệp hố
Trong lịch sử đã diễn ra các loại hình cơng nghiệp hóa khác nhau: cơng
nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa và cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Xét về mặt
lực lượng sản xuất, khoa học và cơng nghệ thì giống nhau; song giữa chúng
có sự khác nhau về mục đích, phương thức tiến hành và sự chi phối bởi quan
7
hệ sản xuất thống trị. Nhận thức về khái niệm cơng nghiệp hóa có tính lịch sử.
Nó ln có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của
khoa học công nghệ và điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Do đó, việc nhận
thức đúng đắn khái niệm này là cần thiết cả về lý luận và thực tiễn:
Theo tổ chức phát triển công nghiệp của liên hiệp quốc (UNIDO).
CNH là quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận nguồn nhân lực
quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều
ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra phương tiện sản xuất, hàng tiêu
dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp độ tăng trưởng cao trong toàn bộ nền
kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ về kinh tế và xã hội
Theo từ điển kinh tế chính trị: CNH là q trình biến một nước nông
nghiệp thành một nước công nghiệp, bằng cách phát triển công nghiệp nặng
nhanh hơn nông nghiệp và ưu tiên phát triển sản xuất các ngành sản xuất ra
tư liệu sản xuất so với các ngành sản xuất ra tư liệu tiêu dùng.
Theo nghĩa chung và khái quát nhất: CNH là q trình biến một nước
có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại với trình độ cơng
nghệ kĩ thuật tiên tiến có năng xuất lao động cao trong các ngành kinh tế
quốc dân.
Công nghiệp hóa là q trình nâng cao tỷ trọng cơng nghiệp cả về lao
động, giá trị toàn bộ các ngành kinh tế của một địa phương, một quốc gia.
Đây là quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội từ nền kinh tế nông nghiệp với
mức tập trung tư bản nhỏ sang nền kinh tế công nghiệp với mức tập trung tư
bản cao. Cơng nghiệp hóa là một phạm trù lịch sử. Cơng nghiệp hóa là một
phần của q trình hiện đại hóa. Theo Từ điển Bách khoa tồn thư Việt Nam:
Cơng nghiệp hóa là q trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử
dụng lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
8
tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao. Quá trình xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí
có khả năng cải tạo, trước hết là nơng nghiệp và toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, nhằm biến một nước kinh tế chậm phát triển, sản xuất
nhỏ là phổ biến sang nền sản xuất lớn chun mơn hóa [48].
1.1.2. Hiện đại hố
Hiện đại hóa là biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành nước công
nghiệp hiện đại. Có cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến hiện đại trong tất cả các
ngành của nền kinh tế quốc dân.
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam: "Hiện đại hóa là q trình
xây dựng cơ cấu kinh tế mới, mà nịng cốt là cơ cấu kinh tế cơng - nông
nghiệp hiện đại" [48].
1.1.3. Nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đối với một nước chậm phát triển như Việt Nam thì CNH, HĐH là con
đường tất yếu của quá trình phát triển kinh tế-xã hội nhằm đưa đất nước thốt
khỏi tình trạng đói nghèo, kém phát triển và rút ngắn khoảng cách tụt hậu so
với các nước trong khu vực và thế giới. Do vậy, nhận thức về CNH, HĐH có
sự thay đổi, phát triển theo thời gian.
Trước đây, theo truyền thống, CNH được hiểu là quá trình cải tiến kỹ
thuật của tồn bộ nền kinh tế, tức là q trình chuyển lên một nền kinh tế
nơng nghiệp dựa trên kỹ thuật cơ khí hiện đại. Ngày nay, quan niệm truyền
thống đó khơng cịn phù hợp với thời kỳ tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và
phát triển kinh tế tri thức. Hội nghị lần thứ bẩy Ban Chấp hành Trung ương
(khóa VII), đã đưa ra khái niệm: CNH, HĐH là q trình chuyển đổi căn bản,
tồn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lí kinh tế - xã hội
từ sử dụng lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự
9
phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao
động xã hội cao [13, tr.65]. Quan điểm này có 3 vấn đề cần lưu ý:
Một là, CNH diễn ra đồng thời với HĐH và gắn chặt với HĐH.
Hai là, CNH, HĐH diễn ra trong xu thế tồn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức.
Ba là, Quá trình CNH, HĐH diễn ra trong môi trường mở cửa và hội
nhập quốc tế.
Trong Nghị quyết Đại hội IX, Đảng ta cho rằng CNH, HĐH ở Việt Nam
có thể rút ngắn, đi tắt, đón đầu khi gắn với kinh tế tri thức:
Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian... vừa có bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt phát huy
những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ
tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học,
tranh thủ những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng
bước phát triển kinh tế tri thức [15, tr.13].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng ta lại nhấn mạnh:
Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chúng ta
cần tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm
năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước
theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi tri
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH [17, tr.87].
Đây là mơ hình CNH, HĐH rút ngắn theo định hướng xã hội chủ nghĩa
của Việt Nam trong môi trường và điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đến
Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
Đổi mới mơ hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu
phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và
chiều sâu; vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng,
hiệu quả, tính bền vững; từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn
đầu tư, khai thác tài nguyên và sử dụng lao động giá rẻ sang tăng
10
trưởng chủ yếu do áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nguồn
nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng xuất lao động và chất lượng
sản phẩm, phát triển công nghiệp, nơng nghiệp, dịch vụ cơng nghệ
cao, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh lớn gắn với phát triển kinh
tế tri thức; gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường [20, tr.37-38].
- Về bản chất, CNH kiểu rút ngắn và rượt đuổi lấy thông tin hóa thúc đẩy
CNH. Ở các nước phương Tây, CNH giai đoạn đầu chủ yếu vận hành theo
quy luật của nền kinh tế thị trường tự do. Nền kinh tế tri thức chỉ thực sự xuất
hiện sau khi CNH đã hoàn tất. Là nước đi sau, so với các quốc gia phát triển,
tiến trình CNH ở nước ta tuy bắt đầu muộn hơn mấy thập niên nhưng thừa
hưởng nhưng thành tựu to lớn của cách mạng thơng tin, chúng ta có thể rút
ngắn thời gian lấy kỹ thuật thông tin làm động lực, thúc đẩy thơng tin hóa
trong tiến trình CNH. Lấy thơng tin hóa thúc đẩy CNH, lấy CNH thúc đẩy
thơng tin hóa nhằm tạo nên sự tương tác hài hịa giữa CNH và thơng tin hóa là
con đường tối ưu để thực hiện CNH,HĐH kiểu rút ngắn trong môi trường và
điều kiện hội nhập quốc tế.
- Thực hiện CNH đúng đắn bằng cơ chế phát triển bền vững. CNH kiểu
mới là CNH phát triển bền vững, chú trọng việc bảo vệ môi trường sinh thái,
phát triển kinh tế trên cơ sở khai thác hợp lý và hiệu quả tài nguyên, bảo vệ
môi trường, tạo nên mối quan hệ hài hòa giữa con người với tự nhiên.
- CNH kiểu mới là CNH theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích
của phát triển phải là đem lại hạnh phúc cho nhân dân, sự cường thịnh cho
đất nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động và sự công bằng xã hội.
Dân số nước ta khá đông, giá cả sức lao động lại thấp, vì vậy, trong tiến
trình CNH, phải xử lý tốt mối quan hệ giữa ngành nghề kỹ thuật cao với
ngành nghề truyền thống, mối quan hệ giữa kinh tế ảo và kinh tế thực.
Những biến đổi kinh tế thế giới đang diễn ra quá trình điều chỉnh cơ cấu,
11
và tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. Do vậy, chúng ta phải nhanh chóng
phát triển các ngành nghề có hàm lượng kỹ thuật cao; đồng thời, điều chỉnh
và đổi mới các ngành nghề truyền thống nhằm tăng thêm việc làm và thu
nhập cho nhân dân. Có như vậy chúng ta mới giải quyết được vấn đề tăng
trưởng kinh tế với đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, xã hội và thực hiện
cơng bằng xã hội.
1.1.4. Cơng nghiệp hóa nơng nghiệp
Là q trình đưa máy móc, thiết bị, ứng dụng các phương pháp sản xuất
công nghiệp vào các lĩnh vực sản xuất NN. Theo định nghĩa về CNH, HĐH
Đảng ta đã nêu ra tại Hội Nghị BCH TW 7 Khố VII. CNH, HĐH NN là một
q trình kép về kinh tế - kỹ thuật và kinh tế - xã hội được diễn ra trong NN.
Về kinh tế - kỹ thuật, CNH, HĐH NN chính là q trình đưa tiến bộ khoa
học và công nghiệp vào NN qua việc thực hiện thuỷ lợi hố, cơ giới hố, điện
khí hố, sinh học hoá, hoá học hoá NN. Trên cơ sở nâng cao năng suất lao
động trong NN. Tăng năng suất cây trồng, vật ni, mở rộng diện tích gieo
trồng, phát triển đàn gia súc, gia cầm, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm
NN. Cung ứng ngày càng nhiều lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng và
nguyên liệu cho chế biến để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Về kinh tế - xã hội, CNH, HĐH NN là quá trình tổ chức lại sản xuất,
phân công lại lao động xã hội trong NN, phát triển các hình thức lao động phù
hợp, hình thành hệ thống kinh tế NN tiến bộ và có cơ cấu kinh tế NN hợp lý
tiên tiến, phù hợp với đặc điểm chính trị - xã hội nước ta.
1.1.5. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng thơn
CNH, HĐH nơng thơn là q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế NT. Gắn
liền với đổi mới căn bản về công nghệ kỹ thuật ở NT. Tạo nền tảng cho việc
phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế NT.
Với ý nghĩa đó, q trình CNH, HĐH NT đồng thời cũng là q trình
thúc đẩy phân cơng lại lao động NT và phân công lại lao động xã hội ở
12
từng vùng trong cả nước làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo
định hướng XHCN.
1.1.6. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa IX), đã đưa
ra nội dung tổng qt của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn là, q trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn,
gắn công nghiệp chế biến và thị trường tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản
phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản
phẩm cũng như lao động trong nông nghiệp. Nội dung này được cụ thể hóa
ở quan điểm, mục tiêu sau:
Quan điểm:
Thứ nhất, phát triển cơng nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ
đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn.
Thứ hai, Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy
nguồn lực con người.
Thứ ba, dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn
lực từ bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế.
Thứ tư, Kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn.
Thư năm, Kết hợp chặt chẽ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn với tiềm lực và thế trận quốc phịng toàn dân, thế trận an
ninh nhân dân.
Mục tiêu:
Xây dựng một nền sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững có
năng xuất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành
tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất
khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn
kinh tế-xã hội phát triển ngày càng hiện đại.
13
Để thực hiện mục tiêu tổng quát trên, Hội nghị đã đề ra chủ trương và
giải pháp lớn sau:
Một là, Về chủ trương. Tập trung phát triển lực lượng sản xuất, chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp;
phát triển kết cấu hạ tầng và đơ thị hóa nơng thơn; xây dựng đời sống văn
hóa xã hội và phát triển nguồn nhân lực. Đây là những chủ trương lớn, cơ
bản đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn từ nay
đến năm 2020, xác định rõ phương hướng, mục tiêu bước đi cho phát triển
kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta.
Hai là, Về các giải pháp. Hội nghị đã tập trung vào các giải pháp quan
trọng như: công tác quy hoạch, khoa học cơng nghệ và các chính sách.
Trong các chính sách tập trung nhấn mạnh đến vấn đề đất đai; vấn đề tài
chính tín dụng; về lao động và việc làm; về thương mại và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Như vậy, đường lối cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn được Đảng ta đề ra trong các nghị quyết từ đại hội VI đến đại hội IX
là một q trình tiếp tục bổ sung và hồn thiện. Đó là những quan điểm
đúng đắn sáng tạo, thể hiện rõ sự quan tâm đúng mức của Đảng và Nhà
nước ta đối với nông nghiệp, nông thôn.
1.2. Chủ trương cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn trước đổi mới
Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (Tháng 9 năm 1960) Đảng Cộng sản
Việt Nam lần đầu tiên đề ra:
Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết
hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền
tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng
thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến
14
nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công
nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại [21, tr.66-67].
Quán triệt Nghị quyết Đại hội, Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương khóa III
(6/1962), Đảng ta đã đề ra phương hướng chung về xây dựng và phát triển công
nghiệp ở Việt Nam: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý; kết hợp
chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp; ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ, song song với ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; ra sức phát triển
công nghiệp Trung ương, đồng thời phát triển công nghiệp địa phương.
Quan điểm này tiếp tục được nêu lên ở các Đại hội sau, Đại hội lần thứ
IV (12/1976) đã chỉ ra: "Điều đó có ý nghĩa quyết định là phải thực hiện cơng
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tạo ra một cơ cấu công - nông nghiệp hiện đại. Con
đường cơ bản để tạo ra cơ cấu ấy là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ " [8, tr.24].
Đại hội cũng đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho kế hoạch 5 năm 1976-1980,
trong đó có các nhiệm vụ chủ yếu: tạo ra một bước phát triển vượt bậc về
nông nghiệp; ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp; phát triển công nghiệp
nhẹ và công nghiệp thực phẩm; phát huy năng lực sẵn có và xây dựng thêm
về cơng nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí. Những mục tiêu lớn cần đạt được là
21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 10 triệu tấn than sạch, 5 tỷ kwh
điện, 2 triệu tấn xi măng... [8, tr.34]. Do, chủ trương mang nặng tính chủ
quan, duy ý chí, cộng với những sai lầm trong tổ chức thực hiện, trong cơ chế
quản lý và chính sách. Đồng thời lại phải đương đầu với 2 cuộc chiến tranh ở
biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, cho nên tất cả kế hoạch 5 năm
1976-1980 đều không đạt được. Sản xuất nơng nghiệp trì trệ khơng đáp ứng
được u cầu trong nước. Công nghiệp nặng đầu tư lớn, nhưng hiệu quả thấp.
Nhiều mặt hàng tiêu dùng cho nhân dân thiếu nghiêm trọng.
Trước sai lầm về chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp, Đại hội
V (3/1982) đã điều chỉnh một bước:
15
Trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80, cần tập trung sức phát
triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu..., ra sức
đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số
ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công
nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công nông nghiệp hợp lý [9, tr.62.].
Do nhiều kho khăn khách quan và chủ yếu do những khuyết điểm, sai
lầm chủ quan cho nên từ cuối những năm 70 đến năm 1986, nền kinh tế lâm
vào khủng hoảng. Sau Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương khóa (IV), nhất là
sau Đại hội V của Đảng, một số chủ trương, biện pháp đã được đề ra nhằm
sửa chữa nhưng sai lầm khuyết điểm. Song trong chỉ đạo thực hiện đã không
"kiên quyết khắc phục chủ quan nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu
kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế "[10, tr.212].
1.2.2. Giai đoạn từ đổi mới đến nay
Với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự
thật, Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về
những sai lầm mang nặng tính giáo điều, chủ quan, duy ý chí, xem đó là
"những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ
đạo chiến lược và tổ chức thực hiện "[10, tr.213]. Đồng thời, Đại hội đã chỉ ra
đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa nước ta ra khỏi khủng khoảng, đi vào
thế ổn định và phát triển, chỉ ra nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục xây dựng những
tiền đề cần thiết cho CNH, HĐH, "trong những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên, trước mắt là kế hoạch 5 năm 1986-1990, phải thật sự tập trung sức
người, sức của vào việc thực hiện bằng được ba chương trình mục tiêu về lương
thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu "[10, tr.47].
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (1981), nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, khóa
VI (4/1988) về phát triển kinh tế hộ tự chủ và đổi mới quản lý nông nghiệp
(khoản 10) đã thật sự tạo ra một giai đoạn mới trong phát triển nông nghiệp,
16
nông thôn. Nghị quyết Trung ương 5 về "tiếp tục đổi mới kinh tế - xã hội
nông thôn "(1993) đã tạo ra những đột phá về sản xuất nnông nghiệp, phát
triển nông thôn và nâng cao đời sông vật chất và tinh thần của nông dân, cơ
chế quản lý ngày càng được hoàn thiện tạo ra động lực mạnh mẽ cuốn hút
hàng triệu hộ nông dân vào mặt trận nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Cuốc năm 1998, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 06 về "Một số vấn đề về
phát triển nông nghiệp và nông thôn "đã làm rõ hơn vai trị của CNH nơng
nghiệp, nơng thơn trong tồn bộ đường lối CNH đất nước: "đưa nơng nghiệp,
kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt
và lâu dài, là cơ sở ổn định tình hình kinh tế, chính trị và xã hội, củng cố liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa "[11].
Đại hội lần thứ VII (1991), thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cương lĩnh đã nêu rõ phương
hướng cơ bản: phát triển lực lượng sản xuất, CNH đất nước theo hướng hiện
đại, gắn liền với phát triển nơng nghiệp tồn diện là nhiệm vụ trọng tâm. Hội
nghị Đại biểu giữa nhiệm kỳ (12/1994) đã nêu bật 3 thành tựu nổi bật: khắc
phục một bước rất quan trọng về khủng khoảng kinh tế, xã hội; tiếp tục giữ
vững ổn định chính trị; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo môi trường
quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Mặt khác, hội nghị cũng đã nêu
những mặt yếu kém về kinh tế, xã hội. Lần đầu tiên Đảng Cộng sản Viêt Nam
đã vạch ra bốn nguy cơ. Ba nguy cơ bên trong: tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với các nước trong khu vực và thế giới; tệ tham nhũng quan liêu; chệch hướng
xã hội chủ nghĩa. Một nguy cơ bên ngoài: diễn biến hịa bình. Sự lãnh đạo của
Đảng, đã phạm 2 sai lầm cần kiên quyết khắc phục: sai lầm về đường lối, sai
lầm về công tác quản lý. Những nguy cơ và sai lầm có thể làm cho sự nghiệp
cách mạng bị đổ vỡ.
17
Từ sự đánh giá đúng đắn những thành tựu đã đạt được, những hạn chế yếu
kém phải khắc phục, Đảng đã nhận định một cách cân nhắc thận trọng hơn để
tránh chủ quan duy ý chí trong việc thực hiện nhiệm vụ trung tâm: "Chuyển dần
sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ từng bước đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa" và rất quan tâm đến CNH, HĐH nơng nghiệp, nông thôn.
Đại hội lần thứ VIII (1996) mở đầu thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đã
quyết định và chỉ đạo phải coi trọng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thơn. Đại hội IX (4/2001) nêu rõ: "cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cần
và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước
nhảy vọt”. Đối với nông nghiệp, nông thôn: "Tăng cường sự chỉ đạo và huy
động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp và nông thôn" [15, tr.91-93]. Đặc biệt Nghị quyết lần thứ 5
BCH Trung ương khóa IX ra Nghị quyết chuyên đề về "đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010
"Nghị quyết nêu bật quan điểm, mục tiêu phát triển, chủ trương những nội
dung tổng quát và giải pháp lớn để đẩy nhanh CNH, HĐH nơng nghiệp,
nơng thơn ở nước ta phải là:
Q trình chuyển dịch kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa lớn, gắn với cơng nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện
cơ khí hóa, hiện đại hóa, thủy lợi hóa, đưa ứng dụng các thành tựu
khoa học vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh của nơng sản hàng hóa trên thị trường;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị
sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần
tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch và phát triển nông thôn, tổ chức lại
sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông
18
thôn dân chủ, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
văn hóa của nơng dân [16, tr.79].
Song chủ trương cịn xa thực tế, chính sách lại khơng đảm bảo được chủ
trương của Đảng.
Đại hội X (4/2006) chủ trương: Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh
quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH,
HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi tri thức là xu hướng tất
yếu, yếu tố của nền kinh tế. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có
giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri
thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Coi trọng cả
số lượng và chất lượng, tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất
nước, ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế - xã hội.
Về nông nghiệp, nông thôn, Đại hội X khẳng định: "Đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông
nghiệp, nông thôn và nông dân" [17, tr.88]. Lần đầu tiên Đại hội đã tập trung
làm rõ nội dung CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn về giải quyết đồng các vấn
đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, với các nội dung chủ yếu:
Một là: Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo
hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và
thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, sinh học hóa và thủy lợi hóa,
đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất,
nâng cao năng xuất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng
vùng, từng địa phương. Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động
công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
Sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác của các hộ nơng dân,
khuyến khích việc dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất;
phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trông trọt và chăn nuôi
tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với việc hình thành các
19
ngành nghề, làng nghề, trang trại, hợp tác xã, tạo ra những sản phẩm mà thị
trường cần và hiệu quả kinh tế cao.
Hai là: Thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng; đổi mới
chính sách giao đất, giao rừng, bảo đảm cho người làm nghề rừng có cuộc
sống ổn định và cải thiện. Phát triển rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp
chế biến lâm sản với công nghệ hiện đại.
Ba là: Phát triển đồng bộ và có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến
và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Coi trọng khâu sản xuất và cung cấp giống tốt,
bảo vệ môi trường, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.
Bốn là: Tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến
lâm, khuyến ngư, công tác thú y bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác
ở nông thôn. Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học, công nghệ nhất là
công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kỹ
thuật canh tác, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến.
Năm là: Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn. Thực
hiện trương trình xây dựng nơng thơn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có
cuộc sống no đủ, văn minh, mơi trường lành mạnh. Hình thành các khu dân cư
đơ thị với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ. Phát huy dân chủ ở nông thôn
đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ
nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Sáu là: Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết
ở các vùng thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch
vụ, giao thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn
theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao
động phi nông nghiệp. Tạo điều kiện để lao động nơng thơn có việc làm trong
và ngồi khu vực nơng thơn, kể cả ở nước ngồi. Đầu tư mạnh hơn cho các
chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa biên giới,
hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
20
Đến Đại hội lần thứ XI Đảng ta chỉ rõ: "Phát triển nơng nghiệp tồn diện
theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vừng" [20, tr.113] Khai thác lợi thế của
nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hóa lớn với năng suất,
chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao.
Tăng nhanh sản lượng kim ngạch xuất khẩu nông sản, nâng cao thu nhập
và đời sống nông dân, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia.
Khuyến khích tập trung ruộng đất, phát triển trang trại, kinh doanh nông
nghiệp phù hợp với quy mô, điều kiện của từng vùng, bên cạnh đó phải gắn
kết hài hịa lợi ích người sản xuất, người chế biến và người tiêu dùng... Đẩy
mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong chế biến,
sản xuất, bảo quản.
Phát triển lâm nghiệp bền vững, quy hoach các lọai rừng, Nhà nước đầu
tư và có chính sách đồng bộ để quản lý và phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc
dụng, đồng thời bảo đảm cho người nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng có
cuộc sống ổn định. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần
kinh tế đầu tư trồng rừng sản xuất; gắn trồng rừng nguyên liệu với công
nghiệp chế biến ngay từ trong quy hoạch và dự án đầu tư; lấy nguồn thu từ
rừng để phát triển rừng và làm giàu từ rừng.
Khai thác bền vững nguồn lơi thủy sản, phát triển đánh bắt xa bờ, gắn
với bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường biển. Phát triển nuôi
trồng thủy sản, theo quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng vùng nuôi, sản xuất
và chế biến. Áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và chế biến,
nâng cao năng xuất, chất lượng, sức cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu vệ sinh,
an toàn thực phẩm.
Từ những định hướng của Đảng về quan hệ công - nông nghiệp, qua
các Đại hội và các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, chúng ta
thấy việc xác định vị trí quan trọng của nông nghiệp, nông thôn và nông
21
dân trong quá trình HĐH đất nước trong thời kỳ đổi mới là thực tế khách
quan. Với tỷ lệ lớn dân cư Việt Nam hiện nay, khơng có sự giàu có của
nơng dân, thì khơng có sự giàu có của đất nước, khơng có HĐH nơng thơn,
thì khơng có hiện đại hóa quốc gia.
1.3. Kinh nghiệm thực tiễn về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn của một số địa phương - Bài học rút ra đối với tỉnh
Thái Ngun
1.3.1. Kinh nghiệm về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp,
nơng thơn của một số tỉnh trong nước tương đồng với tỉnh Thái Nguyên
1.3.1.1. Kinh nghiệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn ở tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang là tỉnh miền núi, được tái lập năm 1997; diện tích tự nhiên
3.827km2, gồm 9 huyện và một thành phố trực thuộc tỉnh, với 230 xã,
phường, thị trấn. Dân số 1,6 triệu người, với nhiều dân tộc anh em cùng sinh
sống (Kinh, Nùng, Tày, Sán Dìu, Sán Chí, Cao Lan, Hoa, Dao...), trong đó
gần 1 triệu người trong độ tuổi lao động.
Những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong
tỉnh ln đồn kết, nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, thi đua hoàn thành
tốt nhiệm vụ. Giai đoạn 2006-2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của
tỉnh đạt 9%/năm thu nhập bình quân đầu người đạt 650 USD/năm, gấp hơn 2
lần so với giai đoạn 2001-2005. Thu hút đầu tư tăng nhanh, huy động có hiệu
quả các nguồn lực cho phát triển.
Với tinh thần thẳng thắn, đánh giá đúng hạn chế, khuyết điểm rút ra bài
học kinh nghiệm trong tiến trình thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn và đổi mới về cách nghĩ, cách làm tập trung mọi nguồn lực để phát triển
kinh tế địa phương; xóa bỏ rào cản làm chậm quá trình CNH, HĐH của tỉnh.
Trên cơ sở tiềm năng, lợi thế, Bắc Giang lựa chọn 5 cây, 3 con (cây vải,
cây lúa, cây lạc, cây rau chế biến an toàn, cây lấy gỗ và đàn lợn, gà, cá) là sản
22
phẩm chủ yếu của địa phương để tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm
nơng nghiệp hàng hóa. Trong đó, cây vải giữ ổn định khoảng 30-33 nghìn héc
ta, sản lượng vải hàng hóa 135-150 nghìn tấn. Tiếp tục đầu tư nguồn lực để hỗ
trợ các mơ hình sản xuất vải theo tiêu chuẩn VietGap; bảo quản, chế biến vải,
nhất là quả tươi; sử dụng có hiệu quả thương hiệu vải thiều Lục Ngạn, đồng
thời tăng cường quảng bá, giới thiệu sản phẩm để mở rộng thị trường tiêu thụ.
Quản lý chặt chẽ diện tích đất nơng nghiệp đã quy hoạch, phấn đấu đến năm
2015 diện tích lúa hàng hóa chất lượng đạt 20 nghìn ha, sản lượng 106 nghìn
tấn. Mở rộng diện tích đất trồng cây rau chế biến, rau an tồn khoảng 3-4
nghìn ha, sản lượng đạt 49-60 nghìn tấn (dưa chuột bao tử, ngơ bao tử, cà
chua bi, hành, tỏi, cà rốt...). Phát triển và giữ ổn định diện tích cây lạc từ
12.000-13.000 ha, năng suất đạt 30 tạ/ha, sản lượng đạt 12.000-15.000 tấn.
Phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp, bảo đảm
chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và xa khu dân cư; phấn đấu đưa giá trị
chăn nuôi đến năm 2015 đạt 53% trong giá trị sản xuất ngành nông nghiệp;
đàn lợn đạt 1,35-1,5 triệu con. Khai thác, sử dụng hiệu quả diện tích mặt nước
để ni thủy sản; mở rộng diện tích ni trồng thủy sản lên khoảng 12 nghìn
ha, sản lượng đạt 27 nghìn tấn.
Trồng lại, trồng mới rừng sản xuất tập trung 20.000-25.000 ha (bình quân
mỗi năm trồng 4.000-5.000 ha). Quản lý, bảo vệ và sử dụng hiệu quả các loại
rừng ( sản xuất, phòng hộ và đặc dụng). Hình thành vùng ngun liệu cho
cơng nghiệp chế biến gỗ và các sản phẩn từ rừng. Hoàn thành việc giao đất,
giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rừng cho các tổ chức và
hộ gia đình. Khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông
nghiệp nông thôn.
Phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa gắn với xây dựng nơng thơn
mới, coi đó là nhiệm vụ trọng yếu của hệ thống chính trị và toàn xã hội; là
cuộc vận động toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; là cơ sở để xây dựng nông
23
thơn tỉnh Bắc Giang ngày càng giàu đẹp, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội phát triển ngày càng hiện đại.
Tiến hành quy hoạch, sắp xếp lại mạng lưới đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh,
gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng và đào tạo theo địa chỉ, đặc biệt đào tạo nghề
cho lao động nông thôn, hỗ trợ lao động nghèo học nghề, thực hiện mục tiêu
chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động từ nông thôn sang cơng nghiệp, dịch vụ.
Tóm lại, CNH, HĐH nơng nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Giang đã đạt được
nhiều kết quả thiết thực, đó là sự nỗ lực, cố gắng và đồng lịng của Đảng bộ,
chính quyền, nhân dân các dân tộc trong tỉnh thời gian qua, tạo tiền đề cho
tiến trình CNH, HĐH trong những năm tiếp theo. Qua đó, Bắc Giang sẽ rút ra
những bài học quý báu trong công tác chỉ đạo, điều hành, tiếp tục phát huy thế
mạnh để tỉnh đạt những bước phát triển mạnh hơn.
1.3.1.2. Kinh nghiệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nông
thôn của tỉnh Tuyên Quang
Cũng như các tỉnh ở khu vực phía Bắc, Tuyên Quang, là một tỉnh miền
núi, với diện tích đất tự nhiên là 5.870 km2 Phía Bắc giáp các tỉnh Hà Giang
và Cao Bằng, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc, phía Đơng giáp tỉnh
Thái Nguyên, Dân số năm 2003 là 70,2 vạn người, gồm 22 dân tộc, trong đó
dân tộc thiểu số chiếm gần 50%. Tỉnh có 6 đơn vị hành chính gồm 1 thành
phố và 5 huyện: huyện Na Hang, huyện Chiêm Hoá, huyện Hàm Yên, huyện
Yên Sơn, huyện Sơn Dương và thành phố Tuyên Quang (trong đó có 2 huyện
đặc biệt khó khăn, 3 huyện vùng kinh tế - xã hội khó khăn); có 137 xã, 3
phường, 5 thị trấn, 2260 thơn bản. Mật độ dân số 116 người/1Km 2, riêng
huyện Na Hang 44 người/1Km2.
Những năm gần đây, vượt lên khó khăn của một tỉnh miền núi, Đảng bộ và
nhân dân Tuyên Quang nỗ lực khai thác tiềm năng phát huy nội lực trong tiến
trình CNH, HĐH, nơng nghiệp, nơng thơn đã đạt được những thành tựu đáng kể:
24
Trong giai đoạn 2006 - 2010, nền kinh tế của tỉnh Tuyên Quang tăng
bình quân 15,3%/năm cao hơn giai đoạn 2001-2005 (12,6%/năm) và gấp đơi
mức bình qn chung của cả nước (7,5%/năm). GDP bình quân đầu người
theo giá trị hiện hành tăng từ 4,8 triệu đồng năm 2005 tăng lên 14,5 triệu đồng
năm 2010.
Trong giai đoạn 2005-2010 tốc độ tăng giá trị sản xuất trồng trọt dưới
1,5%/năm, trong khi đó chăn nuôi tăng 4,3%/năm và dịch vụ cũng tăng
2,8%/năm. Lương thực ổn định là điều kiện thuận lợi cho phát triển chăn ni
và thực hiện an tồn lương thực.
Sản xuất lương thực: Cây lương thực chủ yếu là lúa và ngơ. Năm 2010
diện tích trồng cây lương thực là 61.714ha (chiếm 68.3%)
Cây công nghiệp: Cây công nghiệp chủ lực là mía và chè, đã được đầu
tư tập trung thành vùng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến trong tỉnh.
- Cây mía: Năm 2010 diện tích mía tồn tỉnh đạt 6.755ha, sản lượng đạt
374.279 tấn.
- Cây chè: Năm 2010 diện tích chè tồn tỉnh là 8.155ha trong đó diện
tích cho thu hoạch là 6.628ha, tăng 872 ha so với năm 2006.
- Cây công nghiệp hàng năm: Chủ yếu là Lạc và Đậu tương và một số
loại cây ngắn ngày khác. Năm 2010 tổng diện tích cây trồng Lạc, Đậu là
7.665 ha (Lạc 4.911ha, Đậu tương 2.754ha), diện tích cây Mía 6.755ha.
- Cây ăn quả: Hiện nay mới hình thành được một số vùng cây ăn quả tập
trung như Nhãn, Vải ở Yên Sơn, Sơn Dương; Cam, Quýt ở Hàm Yên, Chiêm Hố.
Đến nay diện tích cây ăn quả tồn tỉnh có 8.193 ha, với các loại cây chủ yếu là
Nhãn, Vải 2.805 ha; Cam, Quýt 2.789 ha còn lại là một số loại cây ăn quả khác.
Chăn nuôi là thế mạnh của tỉnh Tuyên Quang, nhưng chưa được đầu tư
phát triển cho đúng với tiềm năng. Chăn ni cịn mang tính tự cung, tự cấp,
chưa có các cơ sở chăn ni tập trung mang tính sản xuất hàng hố.
25
- Đàn gia súc: Đàn trâu tăng chậm năm 2010 khoảng 146.592 con, tăng
13.448 con.
- Đàn lợn có xu hướng tăng nhanh năm 2010 đàn lợn đạt 519.630 con.
- Đàn gia cầm cũng được đầu tư nên số lượng gia cầm trong những năm
qua tăng khá nhanh. Với số lượng gia súc, gia cầm được chăn nuôi ngày càng
tăng như vậy đảm bảo cho Tuyên Quang một nguồn thực phẩm dồi dào.
Về lâm nghiệp, theo tài liệu sử dụng đất tỉnh Tuyên Quang năm 2010,
tổng diện tích đất lâm nghiệp là 447.119 ha, trong đó đất rừng sản xuất là
257.948 ha chiếm 57% đất lâm nghiệp, đất rừng phòng hộ là 141.677 ha
chiếm 32% đất lâm nghiệp, đất rừng đặc dụng là 47.492 ha chiếm 11% đất
lâm nghiệp. Giá trị sản xuất lâm nghiệp trong tỉnh ngày một tăng năm 2010
đạt 1.036,215 tỷ đồng tăng lên 722,275 tỷ đồng so với năm 2005.
Độ che phủ của rừng tăng nhanh, năm 2007 đạt 62%, tăng lên trên
64,1% năm 2010, là tỉnh có độ che phủ của rừng lớn nhất cả nước.
Những năm gần đây diện tích và sản lượng ni trồng thuỷ sản có xu
hướng tăng, năm 2000 diện tích ni 1.281ha đạt sản lượng 1.428 tấn, giá trị
17,617 tỷ đồng; năm 2007 diện tích ni tăng lên 1.830ha đạt sản lượng 2.485
tấn, giá trị 46,976 tỷ đồng đến nay diện tích ni tăng lên 2.098 ha đạt sản
lượng 3.227 tấn với giá trị ước đạt 135,33 tỷ đồng.
Tóm lại, CNH, HĐH NN, NT tỉnh Tuyên Quang bước đầu đã đạt được
nhiều hiệu quả thiết thực. Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã biết
khai thác lợi thế tiềm năng của mình. Đồng thời phát huy được sức mạnh tổng
hợp của các cấp, các ngành, của toàn thể nhân dân lao động của các thành
phần kinh tế để tạo ra tính hiệu quả tốt đẹp trong sản xuất.
1.3.1.3. Kinh nghiệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn của tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh là một tỉnh đồng bằng Sơng Hồng, có diện tích tự nhiên
822,71 km2, Dân số trung bình năm 2011 là 1.096.342 người, mật độ dân số