Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

TRỌN GÓI KHOI KIEN THUC 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.64 KB, 37 trang )

1

Câu 1: Phân tích sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam? (5 điểm)
ủa Đảng Cộng sản, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và của phong trào công
nhân châu Âu, Lênin nêu hai yếu tố, đó là sự kết hợp chủ nghĩa Mác và phong trào công
nhân.
Còn khi đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố là chủ
nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân, còn kể đến tư tưởng của Hồ Chí Minh và
phong trào yêu nước. Đây là một Luận điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về sự hình thành
Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trên cơ sở thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
+ Đúng vậy sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3–2–1930 không phải là một
hiện tượng ngẫu nhiên, mà là kết quả của sự tác động, vận động và phát triển tất yếu, chín
muồi của ba nhân tố kết hợp : chủ nghĩa Mác Lênin, phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác Lênin trang bị lí luận, chỉ ra mục tiêu, lí tưởng, nhiệm vụ, phương pháp
khoa học, soi đường dẫn lối cho giai cấp vô sản và quần chúng lao động tiến hành đấu
tranh cách mạng xoá bỏ chế độ xã hội cũ, chế độ người áp bức bóc lột người và xây dựng
xã hội mới, xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác Lênin còn chỉ ra : Trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù giai cấp và trong
sự nghiệp xây dựng xã hội mới, giai cấp công nhân cần phải lập ra Đảng vơ sản của mình,
Đảng đó phải là bộ tham mưu, đội tiên phong của giai cấp công nhân, trung thành với lợi
ích của giai cấp cơng nhân và dân tộc, Đảng đó phải là Đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân. Chủ nghĩa Mác Lênin được truyền bá, thâm nhập vào Việt Nam trở thành nhân tố
quan trọng dẫn tới sự ra đời của Đảng.
Chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam, một nước thuộc địa, Người chú ý đến lý
luận và mơ hình tổ chức. Người tiếp thu nhiều tri thức và kinh nghiệm, đồng thời chú ý
đến đặc điểm xã hội và con người phương Đông để vận dụng nguyên lý xây dựng đảng
kiểu mới của Lênin ở Việt Nam. Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng


sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân. Nếu chỉ bản thân phong trào cơng nhân thì khơng thể dẫn tới thành lập Đảng Cộng
sản, điều mà Lênin đã từng chỉ ra: "Lịch sử tất cả các nước chứng thực rằng, chỉ do lực
lượng của độc bản thân mình thơi thì giai cấp cơng nhân chỉ có thể đi đến ý thức cơng liên
chủ nghĩa”. Trong điều kiện Việt Nam và các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng, tính
chất Đảng Cộng sản không chỉ ở thành phần xuất thân từ công nhân hết thảy, mà là ý thức
tư tưởng chính trị và theo đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong hoàn cảnh một
nước thuộc địa lạc hậu, Việt Nam chưa có đủ những tiền đề cơ bản cho một Đảng Cộng
sản ra đời như ở Nga và một số nước khác. Hồ Chí Minh đã sáng tạo trong việc kết hợp
nhân tố dân tộc và nhân tố giai cấp để thành lập Đảng Cộng sản. Nhân tố dân tộc là chủ
nghĩa yêu nước, nhân tố giai cấp là chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân. Trong


2

điều kiện giai cấp công nhân Việt Nam chưa phát triển về số lượng, để tổ chức thành lập
Đảng Cộng sản, Người coi trọng việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Theo Người, một đảng chân chính khơng thể
là tổ chức biệt lập, đóng kín, mà phải gắn bó mật thiết, hữu cơ với dân tộc và giai cấp, phải
tiêu biểu cho cuộc đấu tranh của dân tộc và giai cấp, phải là hạt nhân lãnh đạo và đoàn kết
dân tộc và giai cấp, phải đại biểu cho giai cấp dân tộc. Người đã khẳng định: "Chủ nghĩa
dân tộc là động lực lớn của đất nước"
Bằng việc tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, gồm những người thanh niên yêu
nước có học vấn, Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin trong phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam. Hai phong trào này hấp thụ mạnh mẽ chủ nghĩa Mác Lênin tạo nên sự thay đổi về chất, trở thành hành động cách mạng của các giai cấp, tầng
lớp trong dân tộc Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thích hợp với hồn
cảnh Việt Nam lúc đó. Trên thực tế, tổ chức này đã làm nhiệm vụ chuẩn bị về chính trị, tư
tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phương thức truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam là sáng tạo
của Hồ Chí Minh trên đường thành lập Đảng.

Yêu nước là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Phong trào yêu nước ở
Việt Nam được Hồ Chí Minh nhận thức, đưa vào là một nhân tố cấu thành Đảng Cộng sản
Việt Nam. Phong trào cơng nhân dù có tiên tiến, nhưng nếu khơng gắn bó mật thiết với
phong trào yêu nước, không trở thành nòng cốt của phong trào u nước thì khơng đứng
vững được trong lòng dân tộc, khơng đưa được sự nghiệp giải phóng dân tộc đi đến thắng
lợi. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh thấy rõ, trong thời đại mới,
phong trào yêu nước ở Việt Nam có khả năng hấp thụ chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách mạng
lại diễn ra tại địa bàn quốc gia, dân tộc, nên trước hết giai cấp vô sản phải tự quyết định về
vận mệnh của dân tộc mình, "trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành
giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc". Do đó, đối tượng để Hồ Chí Minh truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là giai cấp công nhân, mà còn là những người yêu
nước trong dân tộc Việt Nam. Sau này, Người đã tổng kết thành một luận điểm quan trọng:
Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn
đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam : cứu nước theo con đường cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin. Từ năm 1921 đến
1930, Người đã tích cực hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam. Nhờ
những đóng góp thiết thực của Người : xuất bản báo chí, viết bài, báo cáo tham luận... đặc
biệt là hai tác phẩm nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp và Đường Kách mệnh những tư
tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin đã ngày càng được thâm nhập rộng rãi vào Việt Nam.
Thông qua việc sáng lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và các hoạt động của
nó, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện được việc truyền bá và giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin
cho quần chúng lao động và giai cấp công nhân Việt Nam.


3

+ Qua đó, vai trò của chủ nghĩa Mác Lênin đã được thể hiện : những tư tưởng về cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN đã thức tỉnh những người Việt Nam hướng
theo con đường cách mạng đúng đắn, đó là con đường cách mạng vơ sản ; Đảng Cộng sản

là lực lượng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN ; xác định đúng
vấn đề động lực cách mạng, liên minh giai cấp ; vị trí của cách mạng thuộc địa, phương
pháp cách mạng bạo lực... ; đó là cơ sở lí luận cho cương lĩnh cách mạng của Đảng sau
này. Nhờ có chủ nghĩa Mác Lênin mà phong trào cơng nhân đã chuyển từ tự phát sang tự
giác.
Sự lớn mạnh của phong trào cơng nhân đòi hỏi phải có một chính Đảng duy nhất và
thống nhất lãnh đạo. Phong trào công nhân là điều kiện cơ bản, quyết định dẫn tới sự ra
đời của Đảng.
Đầu thế kỉ XX, giai cấp công nhân Việt Nam đã được hình thành và bước vào trận
tuyến đấu tranh chống áp bức, bóc lột. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào
công nhân chưa trở thành lực lượng riêng biệt, còn hoà lẫn vào phong trào dân tộc. Từ sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất đến 1925, giai cấp công nhân được tăng cường về số lượng
và chất lượng, phong trào công nhân đã trưởng thành, xuất hiện những cuộc bãi công lớn
đòi các quyền lợi về kinh tế, chính trị, trở thành lực lượng riêng biệt và bước đầu xuất hiện
những tổ chức sơ khai.
Từ năm 1926 – 1930, do tiếp thu được chủ nghĩa Mác Lênin, phong trào công nhân đã
phát triển dần lên trình độ tự giác với sự xuất hiện của ba tổ chức cộng sản trong năm 1929
: Sự thống nhất ba tổ chức cộng sản được đặt ra thành một yêu cầu cấp bách của cách
mạng nước ta ; đồng thời đánh dấu bước trưởng thành và chín muồi của một chính Đảng
vơ sản duy nhất. Như vậy, phong trào công nhân ngày một trưởng thành, đi từ tự phát đến
tự giác là một trong những điều kiện tất yếu dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời còn là do nhu cầu đòi hỏi của phong trào yêu nước Việt
Nam.
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta với tinh thần yêu nước nồng nàn đã liên
tục vùng dậy đánh đuổi đế quốc Pháp để giành độc lập dân tộc.Từ nửa sau thế kỉ XIX đến
đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước tiêu biểu đã xuất hiện : phong trào nông dân và
phong trào Cần vương... Từ năm 1919 đến 1930, phong trào yêu nước Việt Nam phát triển
theo hai khuynh hướng rõ rệt : khuynh hướng tư sản và khuynh hướng vô sản.
Khuynh hướng tư sản : bao gồm các phong trào của giai cấp tư sản và tiểu tư sản, tiêu biểu

như : Phong trào chấn hưng nội hoá, bài trừ ngoại hoá, chống độc quyền cảng Sài Gòn... ;
những phong trào mít tinh, biểu tình của tầng lớp tiểu tư sản : phong trào đòi thả Phan Bội
Châu, phong trào truy điệu Phan Châu Trinh... và đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Yên Bái do
Việt Nam quốc dân đảng phát động... Các phong trào theo khuynh hướng tư sản diễn ra rất
sôi nổi, anh dũng nhưng kết quả cuối cùng đều thất bại.


4

Khuynh hướng vô sản : Do ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và những hoạt
động truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin của Nguyễn Ái Quốc trong những năm 1920 – 1930,
phong trào theo khuynh hướng vô sản ngày càng phát triển mạnh mẽ, điển hình nhất là các
hoạt động của các tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt cách mạng
đảng, đã có nhiều thanh niên yêu nước được giác ngộ trở thành đảng viên cộng sản.
=> Như vậy, đến cuối năm 1929 đầu 1930, cả ba yếu tố : Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ CHí Minh phong trào cơng nhân và phong trào yêu nứớc đã được kết hợp chặt chẽ với
nhau. Sự kết hợp đó đã tạo điều kiện thuận lợi để Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Câu 2. Trình bày những nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử của Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương khóa II (tháng 1-1959) về cách mạng
miền Nam và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khóa III
(tháng 7-1973)? (5 điểm)
1. Nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 BCH
Trung ương khóa II (tháng 1-1959) về Cách mạng miền Nam
a. Nội dung cơ bản:
Nghị quyết chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam:
- Một là, mâu thuẫn giữa một bên là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa chủ
phong kiến và bọn tư sản mại bản quan liêu thống trị cả miền Nam và một bên là dân tộc
Việt Nam, nhân dân cả nước Việt Nam, bao gồm nhân dân miền Bắc và nhân dân miền
Nam;
- Hai là, mâu thuẫn giữa con đường Xã hội chủ nghĩa với con đường tư bản chủ

nghĩa ở miền Bắc.
Hai mâu thuẫn này mang tính chất khác nhau, song chúng quan hệ biện chứng với
nhau và tác động mạnh mẽ lẫn nhau.
Từ 2 mâu thuẫn trên, Nghị quyết chỉ ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới là: Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững
hồ bình: Thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành nhiệm
vụ cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; ra sức củng cố miền Bắc và đưa miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh; tích cực góp phần bảo vệ hồ bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Về cách mạng miền Nam, Nghị quyết phân tích tình hình xã hội miền Nam sau năm
1954 có hai mâu thuẫn cơ bản:
- Thứ nhất, mâu thuần giữa nhân dân miền Nam với bọn đế quốc xâm lược, chủ yếu
là đế quốc Mỹ;
- Thứ hai, mâu thuẫn giữa nhân dân mìên Nam, trước hết, là nơng dân với giai cấp
địa chủ phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Mỹ xâm lược và tập
đồn thống trị Ngơ Đình Diệm là mâu thuẫn chủ yếu trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống
trị đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam
hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.


5

Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc xâm
lược và gây chiến, đánh đổ tập đồn thống trị độc tài Ngơ Đình Diệm, tay sai của đế quốc
Mỹ;
Con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân.
Nghị quyết dự báo: Đế quốc Mỹ là tên hiếu chiến nhất, nên trong bất kỳ điều kiện

nào, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc khởi
nghĩa vũ trang trường kỳ và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta.
Nghị quyết xác định: Lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư
sản và tư sản dân tộc, lấy liên minh công nông làm cơ sở.
Nghị quyết khẳng định: Sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền Nam dưới chế
độ độc tài phát-xít là một yếu tố quyết định thắng lợi của phong trào cách mạng miền
Nam. Vấn đề là phải củng cố, xây đựng Đảng bộ miền Nam vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức.
b. Ý nghĩa lịch sử:
Một là, Nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển của cách mạng
miền Nam. Phản ánh đúng và giải quyết kịp thời yêu cầu của cách mạng miền Nam trong
việc khẳng định phương pháp đấu tranh dùng bạo lực cách mạng để tự giải phóng mình là
đúng đắn, phù hợp với tình thế cách mạng đã chín muồi, khi địch đã dùng bạo lực phản
cách mạng thẳng tay giết hại cán bộ và nhân dân ta.
Hai là, Nghị quyết đánh dấu bước trưởng thành của Đảng, thể hiện sâu sắc tinh thần
độc lập tự chủ, năng động sáng tạo trong đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch, trong
vận dụng lý luận Mác - Lênin vào cách mạng miền Nam.
Ba là, Nghị quyết đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, đã xoay chuyển
tình thế, dẫn đến cuộc "Đồng khởi" oanh liệt của toàn miền Nam năm 1960, làm tan rã
hàng loạt bộ máy kìm kẹp của chính quyền địch ở thơn xã, từng bước giành quyền làm
chủ, tạo tiền đề cho những bước phát triển tiếp theo của cách mạng miền Nam. Có thể nói,
Nghị quyết 15 là tiền đề quan trọng dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của nhân dân ta trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 BCH trung ương khóa III (tháng 7-1973)
a. Nội dung cơ bản
Nghị quyết khẳng định: "cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trở
thành cuộc đọ sức điển hình, thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt giữa
cách mạng và phản cách mạng trên thế giới; là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo
vệ Tổ quốc mang tính chất thời đại rất sâu sắc".
Về tình hình miền Nam sau Hiệp định Pari, Nghị quyết chỉ rõ: Mặc dù Mỹ đã rút

quân nhưng ở miền Nam vẫn chưa ngừng bắn, hoà bình chưa thật sự được lập lại: Ngụy
quyền Sài Gòn được Mỹ giúp đỡ tiếp tục làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới
ở miền Nam Việt Nam. Chính sách cơ bản của đế quốc Mỹ ở Việt Nam vẫn là thực kiện
"học thuyết Nichxơn ", áp đặt chủ nghĩa thực dân mớì kiểu Mỹ ở miền Nam, chia cắt lâu
dài đất nước ta".
Nghị quyết nhận định tình hình miền Nam có thể phát triển theo hai khả năng:
Một là, tích cực đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao buộc
địch từng bước thực hiện Hiệp định Pari;


6

Hai là, địch ngoan cố gây chiến, ta lại phải tiến lành chiến tranh cách mạng gay go,
quyết liệt để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn.
Nghị quyết nhấn mạnh: Chúng ta hết sức tranh thủ khả năng thứ nhất và chuẩn bị
sẵn sàng cho khả năng thứ hai. Song, dù phát triển theo khả năng nào "Con đường của
cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta
cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt
để đưa cách mạng miền Nam tiến lên".
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: "tiếp tục thực hiện chiến lược cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân.... thực hiện một miền Nam Việt Nam hồ bình, độc lập,
dân chủ, trung lập, phồn vinh, tiến tới thống nhất nước nhà".
b. Ý nghĩa lịch sử:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 về thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam từng giai
đoạn mới là Nghị quyết cơ bản và quan trọng nhất kể từ sau Hiệp định Pari, trực tiếp chỉ
đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn quyết định.
Trên cơ sở tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, bước đầu rút ra những kinh
nghiệm chủ yếu cho cách mạng miền Nam, Nghị quyết đã đề ra chủ trương, biện pháp cơ
bản khi cách mạng bước sang một giai đoạn mới, mở ra con đường đưa sự nghiệp giải

phóng hồn tồn miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước tiến sang giai đoạn quyết định.
Trên cơ sở các phương hướng chính của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
21, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương cùng các đồng chí lãnh đạo chủ chốt trên các
chiến trường xác định thời cơ đã đến. Thống nhất kế hoạch chiến lược giải phóng miền
Nam trong vòng hai năm 1975, 1976. Dự kiến khả năng nếu thời cơ đến thì lập tức giải
phóng miền Nam trong năm 1975.
Thực hiện kế hoạch trên, ngay từ cuối năm 1974, ta kiên quyết phản công địch, chủ
động mở những cuộc tiến cơng mới nhằm hồn thiện thế trận, tạo điều kiện thực hiện các
đòn tiến công chiến lược lớn, mở ra thời kỳ phát triển nhảy vọt của cuộc chiến tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất nước nhà./.

Câu 3: Đồng chí hãy trình bày sự cần thiết phải đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam ?
Theo đồng chí để tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH gắn với
phát triển kinh tế trí thức trong giai đoạn hiện nay, cần tập trung những vấn đề gì?
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và ngày càng nhanh chóng như hiện nay,
quốc gia nào muốn phát triển phải đi nhanh vào nền kinh tế tri thức. Bởi vậy, cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là bước đi tất yếu mà Việt Nam sẽ phải
trải qua. Qua mỗi kỳ Đại hội Đảng đều đưa ra những chủ trương, đường lối, chính sách
thiết thực nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc
biệt trong bối cảnh tồn cầu hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay.
Khái niệm:
- Cơng nghiệp hóa: là q trình chuyển dịch từ kinh tế nơng nghiệp lên kinh tế công
nghiệp, từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp lên văn
minh cơng nghiệp. Tức là cơng nghiệp hóa khơng chỉ đơn thuần là biến đổi về kinh tế mà
bao gồm cả biến đổi về xã hội từ trạng thái nông nghiệp lên lên xã hội cơng nghiệp, túc là
trình độ cao hơn.


7


-

-

- Hiện đại hóa: là q trình làm cho mang tính chất thời đại ngày nay đó là q trình
biến đổi từ tính chất truyền thống cũ lên trình độ tiên tiến của thời đại hiện nay.
Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở
nước ta được bắt nguồn từ các yêu cầu chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức là con đường tất yếu của mọi
quốc gia trong quá trình phát triển ngày nay:
CNH, HĐH là tất yếu đối với mọi quốc gia trên con đường trở thành một XH hiện
đại. Thêm vào đó một nền KT thị trường, các doanh nghiệp và các nền kinh tế phải đối
mặt với cạnh tranh. Để tồn tại và phát triển các chủ thể kinh tế phải đổi mới cơng nghệ, tiết
kiệm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm sư dụng, khai thác có hiệu nguồn
nhân lực. Đồi hỏi đó tất yếu thúc đẩy quá trình chuyển dịch chuyển dịch sản xuất chủ yếu
dựa vào công cụ lao động thủ công lên bằng máy móc và lên trình độ ngày còn cao hơn.
Đây chính là q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Kinh tế thị trường ngày còn phát triển thì mức độ cạnh tranh ngày còn gay gắt hơn.
Việc tìm tòi tạo ra lợi thế cạnh tranh , tham gia phân công lao độngtrong nước và quốc tế
để tồn tại và phát triển là yêu cầu bắt buộc của chủ doanh nghiệp và mọi quốc gia. Trong
bối cảnh đó những lợi thế, những biến đổi chủ quan thông qua hoạt động của con người.
Chính vì thế CNH, HĐH tất yếu ngày còn đạt trình độ cao hơn hoạt động kinh tế có năng
suất và hiệu quả hơn.
Thứ hai, CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là cách thức để đất nước
sớm ra khỏi tình trạng nghèo và kém phát triển.
- Nước ta tiến hành CNH, HĐH trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ trên thế giới đang diaanx ra mạnh mẽ, các nước đang xu thế tồn cầu hóa và hội nhập
quấc tế chuyển mạnh lên kinh tế thi thức. Ở trong nước tuy đã có phát triển tích cực,
nhưng về cơ bản chúng ta vẫn chưa thốt khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển.

Một mặt, tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản của đất nước như lương thực, thực phẩm
sạch, giao thông, trường học, cơ sở hạ tầng, mặt khác phải nắm bắt kịp thời xu thế của thế
giới và thu hẹp dần về khoảng cách. Khi các yếu tố phát triển kinh tế xã hội không chỉ đơn
thuần là vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên mà còn là yếu tố tri thức nó có ý nghĩa ngày
còn quan trọng quyết định trong phát triển
- Chỉ có mạnh dạn đi vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng đẩy nhanh tốc
độ CNH, HĐH hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức
còn là cần thiết để cải thiện và nâng cao mức sống người dân.
Thứ ba, đẩy mạnh CNH –HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là yêu cầu bắt
buộc để tạo lập cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội , củng cố an ninh , quốc
phịng trong thời đại tồn cầu hóa.
Trình độ phát triển của cơ sở vật chất là tiêu thức dùng để xác định một thời đại kinh tế ,
phân biệt phương thức sản xuất chứa đựng nó thuộc loại hình kinh tế - xh lịch sử nào.
Cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH là nền côg nghiệp lớn, hiện đại với cơ cấu kinh tế
hợp lý, trình độ xã hội cao, dựa trên nền tảng KH và CN tiên tiến , đưa hình thành có kế
hoạch trên tồn bộ nền kinh tế quốc dân. Nó ko chỉ kế thừa những thành quả văn minh
nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản, mà còn được phát triển và hoàn thiện trên cơ
sở những thành tựu mới nhất của KH và công nghệ , tham gia tích cực và có hiệu quả vào
phân cơng lao động và hợp tác quốc tế.
Thứ tư, đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức bắt nguồn từ y êu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế sâu hơn đầy đủ hơn.


8
-

-

-


Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một xu hướng phát triển nổi trội hiện nay. Trong xu
hướng này, nhân loại đang đẩy nhanh việc đi đến 1 thị trường thế giới thống nhất, một hệ
thống tài chính tín dụng tồn cầu, phát triển, phân cơng lao động quốc tế hướng mạnh theo
chiều sâu, giao lưu khoa học và công nghệ giữa các nước ngày càng mở rộng.
Đối với nước ta , để chủ động hội nhập sâu hơn, đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế tồn
cầu, khu vực và song phương có hiệu quả, một đòi hỏi mang tính chất bắt buộc là phải
đẩy mạnhCNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. phải coi tri thức là đòn bẩy làm tăng
sức cạnh tranh của sản phảm, của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, thúc đẩy q trình hội
nhập.
Ngồi những triển kinh tế tri thức còn bắt nguồn từ vai trò của nó trong việc đẩy mạnh
tạo ra những điều kiện cần thết về con cần thiết nêu trên , việc đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với
phát người và khoa học, công nghệ để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phép khai
thác và phát huy có hiệu quả các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế ,tạo khả năng thỏa mãn
ngày càng cao nhu cầu của mọi người dân.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng nhằm phấn đấu
sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Muốn đẩy mạnh sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền vững và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng không còn con đường nào khác hơn con đường phát triển mạnh kinh tế tri thức,
chăm lo phát triển văn hóa và con người, đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế tạo ra thế và lực để chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Những điểm mới trong tư duy
của Đảng về chiến lược cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa được nêu ra trong Đại hội Đảng lần
thứ XII, một mặt là sự tiếp nối những quan điểm, tư tưởng nhất qn của Đảng về cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các kỳ đại hội trước, mặt khác là sự bổ sung, phát triển cụ
thể hóa hơn để triển khai có hiệu quả những nhiệm vụ cụ thể trong tình hình mới. Đại hội
lần thứ XII khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua khó
khăn, thách thức... thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”./.
* Ý 2:
Theo đồng chí để tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng u cầu cơng

nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần
tập trung vào những vấn đề gì?
MB: Trong điều kiện đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế, phát triển nguồn nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển
đổi mơ hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời phát triển nguồn nhân lực
trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Trình độ
phát triển của nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự phát triển của các quốc gia. Vì
vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát triển nguồn nhân lực.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi con người là trung
tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, trong điều
kiện đẩy mạnh cơng nghiệp hố và hội nhập quốc tế, phát triển nhân lực được coi là một
trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mơ hình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước; đồng thời, phát triển nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi
thế cạnh tranh quốc gia.
Vì vậy, để tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức trong giai đoạn hiện nay, theo tôi, chúng ta cần tập trung vào những
vấn đề sau:


9

Một là, đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển nhân lực
Trong đó, cần tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân lực, đổi
mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản
lý về phát triển nhân lực. Cần hình thành một cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng
hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực trên địa bàn cả nước nhằm bảo đảm cân đối
cung - cầu nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới các chính sách, cơ chế, cơng cụ
phát triển nhân lực (bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm,
thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định cư,

chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài). Cải tiến và tăng
cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành, các chủ thể tham gia phát triển nhân lực.
Hai là, bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực
Ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia đến năm
2020. Tăng đầu tư phát triển nhân lực cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng nguồn
vốn đầu tư toàn xã hội. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng
tập trung chi để thực hiện các chương trình, nhiệm vụ, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên
và thực hiện công bằng xã hội (hỗ trợ đào tạo, phát triển nhân lực ở các vùng sâu, vùng xa,
cho các đối tượng là người dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách,…). Nghiên cứu đổi mới
cơ chế phân bổ và hỗ trợ bằng ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực từ hỗ trợ cho
các đơn vị cung ứng sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng và bảo đảm công bằng
giữa các cơ sở cơng lập và ngồi cơng lập.
Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân
lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân đầu tư và
đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo
dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hố, thể dục thể thao; Góp vốn, mua cơng trái, hình thành các
quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực. Cần quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sự phát
triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế, chính sách mạnh để doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế tăng đầu tư phát triển nhân lực nói chung và đào tạo, bồi
dưỡng, dạy nghề nói riêng. Mở rộng các hình thức tín dụng ưu đãi cho các cơ sở giáo dục,
đào tạo và cho học sinh, sinh viên để học nghề, học đại học, cao đẳng, hỗ trợ người lao
động học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát
triển nhân lực Việt Nam; sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ trợ phát triển
nhân lực (ODA); thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển nhân lực
(đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..).
Ba là, đổi mới giáo dục và đào tạo
Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu để phát triển nhân lực Việt Nam trong
giai đoạn từ nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo. Cần quán triệt và triển khai quyết
liệt Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 của Hội nghị Trung ương 8 khoá XI và

Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09-6-2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trước mắt, cần tập trung vào
một số nội dung sau đây:
- Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân
luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Tổ chức lại mạng lưới
giáo dục đào tạo, sắp xếp lại hệ thống giáo dục quốc dân cả ở quy mô đào tạo, cơ cấu
ngành nghề, cơ sở đào tạo, quy hoạch lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại


10

học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, vùng, miền và địa phương.
Thực hiện phân tầng giáo dục đại học.
- Đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thơng, khung chương trình đào tạo ở
bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học,
tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, kỹ năng người học,
doanh nghiệp và xã hội cần, đảm bảo liên thông giữa các bậc học, cấp học, giữa giáo dục
nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đa dạng hoá các phương thức đào tạo. Có cơ chế để tổ
chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương
trình đào tạo và đánh giá năng lực người học.
- Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Cải cách mục tiêu,
nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin. Từng bước áp dụng kiểm định, đánh giá theo kết quả đầu ra của
giáo dục và đào tạo.
Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao chất lượng
nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo. Đặc biệt chú
trọng việc tổ chức sắp xếp lại và hồn thiện cơ chế, chính sách đối với các trường sư phạm
trên phạm vi cả nước.

Bốn là, chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
Xây dựng, thường xuyên cập nhật hệ thống pháp luật về phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông lệ và
luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam tham gia, ký kết, cam kết thực hiện.
Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây dựng nội
dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo theo định hướng phù hợp chuẩn
quốc tế và đặc thù Việt Nam; tăng cường quan hệ liên thông chương trình đào tạo giữa các
cơ sở giáo dục và các ngành đào tạo của Việt Nam và quốc tế; thực hiên cơng nhận lẫn
nhau chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam và của thế
giới; thỏa thuận về việc công nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa Việt Nam với các
nước.
Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo đại học, sau
đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại
học Việt Nam và thế giới.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài
năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá
trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục
đại học Việt Nam.
Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn
lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng một số trường đại học, cao đẳng và
dạy nghề đạt chuẩn quốc tế. Thu hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào
Việt Nam hoạt động.
Tăng cường dạy và bồi dưỡng ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh), văn hoá thế giới,
kỹ năng thích ứng trong mơi trường cạnh tranh quốc tế cho người Việt Nam.
Để thực hiện thành công các giải pháp trên, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
làm cho cán bộ, cơng chức của tồn bộ hệ thơng chính trị các cấp, các tầng lớp nhân dân,
các nhà trường, các doanh nghiệp, tổ chức hiểu rõ vai trò và trách nhiệm đào tạo và sử
dụng nhân lực, biến thách thức về nhân lực thành lợi thế để phát triển kinh tế, xã hội và
nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.



11

Tóm lại, việc phát triển nhân lực, một mặt, cần phải có tầm nhìn chiến lược phát
triển tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kỳ nhất định, cần xây dựng
những định hướng cụ thể, để từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, những khó khăn, hạn chế
và nguyên nhân… để đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển thích hợp cho giai đoạn đó phù
hợp với bối cảnh kinh tế-xã hội trong nước và quốc tế nhằm đáp ứng u cầu cơng nghiệp
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trong giai đoạn hiện nay./.

Câu 4: Trình bày tác hại của tham nhũng, lãng phí và những giải pháp chủ yếu
để phịng chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả? (5 điểm)
Tác hại của tham nhũng:
1. Tác hại về chính trị
Tham nhũng phá hoại đội ngũ cán bộ, tầm thường hoá hệ thống pháp luật, là nguyên
nhân liên quan trực tiếp đến sự sống còn của Nhà nước. Tác hại của tham nhũng không chỉ
dừng lại ở phương diện thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu USD của Nhà
nước mà tham nhũng sẽ làm tầm thường hoá hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ cương
xã hội không thể giữ vững, gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà
nước trước nhân dân và là cơ hội để cho kẻ thù phá hoại, xâm lược. Nếu các nhà hành
pháp mà tự mình phá hoại luật pháp thì làm sao có thể duy trì được phép nước. Những kẻ
tham nhũng chính là những tên đầu trò trong việc làm tê liệt hệ thống hành pháp, làm cho
Nhà nước trở thành đối lập và gánh nặng cho công dân. Tham nhũng tất yếu dẫn đến phá
hoại đội ngũ cán bộ Nhà nước bởi vì những kẻ tham nhũng sẽ lừa dối và hư hoá cấp trên
làm cho bộ máy trở thành quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa thêm kẻ xấu vào guồng máy
và triệt hại đội ngũ viên chức chưa tốt. Những kẻ tham nhũng chính là những tên phá hoại
từ bên trong của hệ thống hành pháp quốc gia. Tham nhũng sẽ làm cho quần chúng mất đi
sự tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và đây cũng là nguyên nhân
căn bản nhất dẫn đến thất bại của Đảng và Nhà nước. Chính với những tác hại to lớn kể

trên cũng như nhiều tác hại do bệnh tham nhũng tạo ra, nhiều nước đã coi tham nhũng là
quốc nạn của đất nước, là giặc nội xâm nguy hiểm. Trong các văn kiện đại hội VIII, IX
Đảng ta khẳng định: Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống
còn của hệ thống chính trị.
Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói mòn lòng
tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, đối với sự nghiệp xây dựng
đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới đất nước một cách toàn diện đã
mang đến cho đất nước ta thế và lực mới. Những điều chỉnh đúng đắn về chiến lược và
sách lược đã phát huy tác dụng và tạo đà cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, tình
trạng tham nhũng lại là một trở lực lớn đối với quá trình này. Quan điểm và tư duy đổi mới
cùng với cơ chế, pháp luật đúng đắn, phù hợp đã bị tệ tham nhũng làm cho méo mó. Đối
tượng tham nhũng đã lợi dụng sự thơng thống của cơ chế, chính sách để thực hiện hành
vi tham nhũng. Kẻ tham nhũng lợi dụng yêu cầu tăng cường kiểm tra, giám sát và các biện
pháp khác để dọa dẫm, đòi hối lộ của đối tượng bị thanh tra, kiểm tra. Cơ chế, chính sách trở
thành cơng cụ để thực hiện những lợi ích cá nhân.
Trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, tham nhũng sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư nếu
chúng ta khơng có biện pháp kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng.
Hiện nay tình hình tham nhũng ở nước ta đã ở mức nghiêm trọng, đáng báo động.
Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cấp trung ương, ở những chương trình, dự án lớn mà còn


12

xuất hiện nhiều trong các cấp chính quyền cơ sở - cơ quan tiếp xúc với nhân dân hàng
ngày, giải quyết những công việc liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhân dân. Điều đó làm
giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, gây ra sự
bất bình, bức xúc, thậm chí phản ứng của nhân dân đối với chính quyền. Để nhân dân mất
niềm tin, tức là chúng ta đã đánh mất một sức mạnh vô cùng to lớn, có tính chất quyết định
đối với sự nghiệp cách mạng.
Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng, lãng phí gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu

quả của việc thực hiện chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội hoặc một nhiệm vụ quản
lý nhất định của Nhà nước. Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020
khẳng định: Tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là
trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quản
lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt làm giảm sút lòng tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi
ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Tham nhũng trở thành
vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự
tồn vong của chế độ.
2. Tác hại về kinh tế:
Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội kéo lùi sự
phát triển tuỳ theo quy mơ và mức độ gây hại của nó. Tham nhũng đã gây thiệt hại vật chất
hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu đô la của Nhà nước. Theo đánh giá của Văn phòng
Liên hợp quốc về ma túy và tội phạm (UNODC) và Ngân hàng Thế giới (WB), nạn tham
nhũng đã gây thiệt hại cho các nước đang phát triển tới 1,6 nghìn tỷ USD mỗi năm. Chi
phí kinh tế của tham nhũng là rất khó xác định nhưng một số cơng trình nghiên cứu đã đưa
ra đó là:
- Tăng từ 3-10% cho giá của một giao dịch để đẩy nhanh giao dịch.
- Một mức tổn thất tới 50% nguồn thu từ thuế của chính phủ do hối lộ và tham
nhũng.
Những thiệt hại về kinh tế mà tham nhũng gây ra cho nước ta có thể kể đến là:
- Tham nhũng làm thất thoát những khoản tiền lớn trong xây dựng cơ bản do phải
chi phí cho việc đấu thầu, việc cấp vốn, việc thanh tra, kiểm toán và hàng loạt các chi phí
khác. Mặt khác do tham nhũng mà một số lượng lớn tài sản của Nhà nước bị thất thốt do
các hành vi tham ơ, lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt... Trong đó, những sai phạm
trong lĩnh vực đất đai chiếm một số lượng đáng kể.
Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ, năm 2013, ngành thanh tra phát hiện 80 vụ,
90 đối tượng có hành vi liên quan đến tham nhũng với số tiền 117,5 tỉ đồng, đã chuyển cơ
quan điều tra 11 vụ việc. Cũng trong năm 2013, cơ quan điều tra các cấp đã thụ lý 371 vụ
án, 847 bị can phạm tội về tham nhũng. Thiệt hại được xác định qua các vụ án này lên

đến khoảng 9.260 tỉ đồng, 51.000 lượng vàng SJC, 155.000m2 đất.
Nổi bật là các vụ án vi phạm các quy định cho vay trong hoạt động của tổ chức tín
dụng xảy ra tại Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam chi nhánh Bình Chánh, TP.HCM gây
thiệt hại 410 tỉ đồng, vụ án lạm quyền trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Ngân hàng
SeaBank gây thiệt hại 310 tỉ đồng…
Trong năm 2014, ngành thanh tra đã phát hiện 54 vụ, 87 đối tượng có hành vi liên
quan đến tham nhũng với số tiền 68,5 tỷ đồng; đã thu hồi 46,9 tỷ đồng (đạt 68,5%, tăng
18,3% so với năm 2013).
Một số cá nhân, tổ chức thực hiện các hoạt động đầu tư bằng vốn ngân sách không
dựa trên yêu cầu mang lại lợi ích cho Nhà nước, cho xã hội mà chỉ nhằm mưu cầu lợi ích


13

cho cá nhân. Vì lợi ích cá nhân của mình hay của một nhóm người, một số doanh nghiệp đã
đầu tư mua, nhập khẩu những dây chuyền sản xuất, máy móc, thiết bị, phương tiện, tàu thủy
rất lạc hậu, cũ nát mang về không thể sử dụng được do công nghệ đã quá cũ hoặc tiêu tốn
quá nhiều nhiên liệu hoặc thải ra quá nhiều các chất độc hại, gây thất thoát cho ngân sách
nhà nước hàng ngàn tỷ đồng.
- Tham nhũng gây tổn thất lớn cho nguồn thu của ngân sách nhà nước thông qua thuế.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên do tệ tham nhũng, hối lộ mà một
số doanh nghiệp chỉ phải nộp khoản thuế ít hơn nhiều so với khoản thuế thực tế phải nộp. Điều
này đã làm thất thoát một lượng tiền rất lớn hàng năm. Hối lộ cũng dẫn đến những thất thốt
lớn trong việc hồn thuế, xét miễn giảm thuế…
- Tham nhũng, nhất là hành vi tham ô tài sản đã làm cho một số lượng lớn tài sản công
trở thành tài sản tư của một số cán bộ, công chức, viên chức. Trong một số cơ quan, tổ chức đã
hình thành các đường dây tham ơ hàng tỷ, thậm chí hàng ngàn tỷ đồng của Nhà nước.
Tham nhũng gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho các cơng trình xây dựng. Do
tham nhũng mà một số cơng trình xây dựng như các cơng trình cầu đường, nhà cửa kém
chất lượng. Điều này không chỉ gây nguy hiểm đáng kể cho cuộc sống của người dân khi sử

dụng các cơng trình này mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
Tham nhũng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường kinh doanh, làm giảm đáng kể năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, làm chậm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Ngân
hàng Thế giới (WB) ước tính tham nhũng khiến chi phí của các doanh nghiệp tồn cầu
tăng 10%, trong khi chi phí giao dịch tại các nước đang phát triển tăng thêm tới 25%. Số
tiền tham nhũng của quan chức trên toàn thế giới mỗi năm lên tới hơn 1.000 tỷ USD. Do tệ
nạn tham nhũng mà nhiều doanh nghiệp tuy khơng có đủ thực lực và uy tín nhưng nhờ “hối
lộ” mà vẫn giành được những hợp đồng kinh tế lớn. Điều đó khơng chỉ làm mất lòng tin của
các doanh nghiệp làm ăn chính đáng trong cạnh tranh lành mạnh mà còn dẫn đến nhiều hậu
quả xấu khác như chất lượng cơng trình kém, làm suy thối phẩm chất của một số cán bộ,
cơng chức, viên chức, làm mất lòng tin của các nhà đầu tư…
Hành vi sách nhiễu, gây khó khăn, đòi hối lộ của một bộ phận cán bộ, công chức,
viên chức còn gây thiệt hại đến tài sản của người dân do họ phải đưa hối lộ khi liên quan
đến các thủ tục hành chính. Mặt khác thủ tục hành chính bị kéo dài đã gây mất thời gian,
tiền của của người dân, làm đình trệ các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
3. Tác hại về xã hội
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo đức
xã hội, tha hóa đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước. Trước những lợi ích bất chính đã hoặc
sẽ có được khi thực hiện hành vi tham nhũng, nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được
phẩm chất đạo đức của người cán bộ cách mạng. Cán bộ, công chức khi thực hiện hành vi
tham nhũng đã không còn làm việc vì mục đích phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ
nhân dân mà hướng tới việc thu được các lợi ích bất chính, bất chấp việc vi phạm pháp
luật, làm trái công vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Điều đáng báo động là một số
cán bộ, công chức coi việc tham nhũng trở thành bình thường. Đó chính là biểu hiện của
sự suy thối, xuống cấp về đạo đức một cách nghiêm trọng. Sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống thể hiện trước hết ở tư tưởng hưởng thụ, quá coi trọng
đồng tiền, tư tưởng vụ lợi, làm giàu bất chính… Những tư tưởng này đang làm suy thoái
một bộ phận cán bộ có chức, có quyền. Xuất phát từ những tâm lí này mà một số cán bộ,
đảng viên đã lợi dụng công việc, nhiệm vụ, quyền hạn được giao để đòi hối lộ, tham ô tài
sản. Đặc biệt là những cán bộ công tác trong các lĩnh vực tài chính, tiền tệ, cấp phát vốn,



14

thanh tra, kiểm tốn cũng như các lĩnh vực có liên quan đến nguồn vốn ngân sách hay vốn
tài trợ, vốn vay ưu đãi…
Hơn thế, tham nhũng còn xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc,
khi người thực hiện hành vi tham nhũng cũng có khi là giáo viên, bác sỹ, những người
hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội – những người xây dựng nền tảng
tinh thần cho xã hội.
Tham nhũng là một trong những nguyên nhân chính làm tăng trưởng tệ nạn xã hội.
Để công việc không bị cản trở những kẻ phạm pháp tìm cách mua chuộc cán bộ, nhân
viên, thành viên chính quyền. Nếu những viên chức này tham nhũng hành vi những kẻ
phạm pháp được che chở và trở thành “hợp pháp hoá”. Người dân hàng ngày chứng kiến
những hành vi phạm pháp nhưng không bị trừng phạt, dần dần họ quen thuộc với những
hành vi này và cuối cùng trở thành bình thường hố trong xã hội. Khi xã hội bị tham
nhũng thống trị tệ nạn xã hội tăng trưởng, những viên chức thay vì bảo vệ luật pháp lại
nhận tiền hối lộ bao che những kẻ phạm pháp, người dân trước kia được viên chức tận tình
giúp đỡ những khi cần thiết nay bị hạch sách đủ điều khi khơng có q bồi dưỡng... Qua
những hành động trên các viên chức đã phá lề luật đạo đức qui định trong xã hội. Do đời
sống ngày càng khó khăn do tham nhũng gây nên, để sống còn người dân lương thiện cũng
phải bất chấp làm mọi việc, kể cả những việc phản đạo đức như buôn bán hàng giả, hàng
lậu... Mối liên hệ, cách đối xử giữa con người với nhau trong xã hội bị thay đổi, giá trị
luân lý, đạo đức trước kia bị mất hiệu lực. Khi “một người chỉ vì chính bản thân mình”
trong xã hội sẽ phát sinh hàng chục triệu lề luật đạo đức khác nhau, sự mạnh yếu của mỗi
lề luật lệ thuộc vào quyền lực của chủ nhân lề luật đạo đức đó. Từ khi lọt lòng mẹ trẻ nhỏ
đã chứng kiến những “lợi lộc do chức vụ đem lại” hay những “chạy chọt” nhằm hoán
chuyển việc làm bất hợp pháp trở thành hành vi chính nghĩa của cha mẹ, người thân, họ
hàng, hàng xóm... Khi đi học đến trường phải tặng quà, phải đi học kèm thêm ở nhà thầy
cô mới được điểm tốt... Những “tục lệ” này được hấp thụ từ ấu thơ nên đối với chúng là

chuyện thường tình “có tiền mua Tiên cũng được” và “không mày đố thầy dạy ai?”, học
trò đương nhiên trở thành “khách hàng” của thầy cơ giáo vì “khách hàng là vua” nên học
trò không nhất thiết phải cố gắng học hành nhưng vẫn được điểm cao. Khi lớn lên chúng
sẽ bắt chước người lớn phạm pháp vì “cha mẹ chúng sẽ dùng tiền biến mọi việc thành
chính nghĩa!”.
- Giải pháp chủ yếu để phòng chống TNLP hiệu quả:
Trong thời gian tới, cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, đồng bộ mục tiêu, quan
điểm, chủ trương, giải pháp về phịng, chống tham nhũng, lãng phí theo Nghị quyết Đại
hội XII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí” và Kết luận 21 Hội nghị
Trung ương 5 khóa XI, trong đó tập trung triển khai thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp
sau
1. Nâng cao vai trò, trách nhiệm và tính tiên phong, gương mẫu của cấp ủy, tổ chức
đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là của người đứng đầu
Cấp ủy, tổ chức đảng phải xác định công tác PCTN, LP là một nhiệm vụ thường xuyên,
quan trọng, cấp bách để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo. Gắn cơng tác PCTN, LP với việc thực
hiện có hiệu quả Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.


15

Bí thư cấp ủy, Bí thư ban cán sự đảng, đảng đồn và người đứng đầu chính quyền các cấp,
tổ chức, đơn vị phải gương mẫu, quyết liệt, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN,
LP...
Xây dựng quy định về tiêu chí đánh giá hiệu quả cơng tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý
tham nhũng, lãng phí và hồn thiện chế tài xử lý người đứng đầu khi để xảy ra tham
nhũng, lãng phí.
Tiếp tục hồn thiện quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, quy định về

những điều đảng viên không được làm. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thực hiện
nghiêm quy định của Đảng và Nhà nước về PCTN, LP; đảng viên phải gương mẫu hơn
quần chúng, cán bộ phải gương mẫu hơn nhân viên, cán bộ giữ chức vụ càng cao càng
phải gương mẫu.
2. Tăng cường công tác quản lý, giám sát chặt chẽ cán bộ, đảng viên; hoàn thiện, thực
hiện nghiêm các quy định về công tác tổ chức, cán bộ làm cơng tác phịng, chống tham
nhũng, lãng phí
Khẩn trương rà soát, bổ sung, khắc phục những sơ hở, bất cập trong công tác tổ chức, cán
bộ. Cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu phải tăng cường quản lý, giám sát cán bộ,
đảng viên. Tăng thẩm quyền và trách nhiệm người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công
tác cán bộ dưới quyền để kiểm điểm, xác minh, kết luận khi có dấu hiệu tham nhũng, lãng
phí.
Quy định và thực hiện nghiêm việc xử lý, điều chuyển, miễn nhiệm, thay thế cán bộ lãnh
đạo, quản lý có biểu hiện tham nhũng, lãng phí gây nhiều dư luận. Quy định cụ thể và thực
hiện hiệu quả chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện
không phải là người địa phương; không bố trí những người có quan hệ gia đình cùng làm
một số công việc dễ xảy ra tham nhũng.
Đẩy mạnh cải cách hành chính; kiên quyết thực hiện có hiệu quả việc sắp xếp lại bộ máy,
tinh giản biên chế, đồng bộ với cải cách chế độ công vụ, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức và đổi mới chính sách tiền lương.
3. Kiểm sốt có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; thực hiện
nghiêm các quy định về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt
động cơng vụ
Tiếp tục hồn thiện quy định bảo đảm kiểm sốt có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có
chức vụ, quyền hạn, nhất là các nội dung về quản lý bản kê khai; kiểm tra, giám sát, xác
minh việc kê khai; trách nhiệm giải trình việc tăng, giảm tài sản, những khoản chi tiêu,
giao dịch có giá trị lớn. Quy định rõ chế tài xử lý đối với người kê khai không trung thực.
4. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh rà soát, bổ sung, sửa đổi, xây dựng, ban hành
các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước để đảm bảo hiệu lực,
hiệu quả của cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí

Trước mắt tập trung sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật Phòng chống tham nhũng, Bộ luật
Hình sự, Luật Tố cáo, Luật Giám định tư pháp để khắc phục những hạn chế, khó khăn,


16

vướng mắc trong cơng tác PCTN, lãng phí. Hồn thiện pháp luật về thanh tra, kiểm toán
theo hướng xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, quan hệ phối hợp với cơ quan điều tra,
viện kiểm sát trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng.
5. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các vụ án, vụ việc
tham nhũng, lãng phí; thực hiện tốt cơng tác giám định và nâng cao hiệu quả thu hồi
tài sản tham nhũng, lãng phí.
Tập trung xác minh, điều tra làm rõ, xử lý kịp thời, nghiêm minh những vụ việc, vụ án
tham nhũng, lãng phí. Những vụ việc chưa đến mức xử lý hình sự thì phải xử lý nghiêm
theo quy định của Đảng và Nhà nước.
Áp dụng kịp thời các biện pháp kê biên, phong tỏa, tạm giữ tài sản, thu hồi triệt để tài sản
tham nhũng trong q trình thanh tra, kiểm tra, kiểm tốn, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án. Trước mắt, tập trung đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án kinh tế,
tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, kiên
quyết xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân có sai phạm liên quan các dự án lớn thua lỗ,
kéo dài, gây lãng phí lớn, dư luận xã hội quan tâm.
6. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực để ngăn ngừa
tham nhũng, lãng phí; xây dựng văn hóa tiết kiệm, khơng tham nhũng, lãng phí
Thường xun kiểm tra, giám sát cơng tác phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí của các
cơ quan, đơn vị có chức năng phòng, chống tham nhũng.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội, nhân dân và cơ quan truyền thông trong công tác PCTN, LP.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về PCTN, LP; xây dựng
văn hóa tiết kiệm, khơng tham nhũng, lãng phí, trước hết là trong cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức.

7. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ các cơ quan, đơn vị có
chức năng phịng, chống tham nhũng
Nghiên cứu, đề xuất mơ hình cơ quan, đơn vị chuyên trách chống tham nhũng theo hướng
tăng thẩm quyền, trách nhiệm, tính độc lập tương đối trong thực hiện nhiệm vụ. Trước
mắt, đổi mới phương thức hoạt động, củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, tăng
cường phương tiện làm việc của các cơ quan, đơn vị chuyên trách chống tham nhũng.
8. Từng bước mở rộng hoạt động phịng, chống tham nhũng ra khu vực ngồi nhà
nước; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng
Đẩy mạnh việc đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp, dẫn độ tội phạm,
các thỏa thuận về hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm với các nước, nhất là các nước
có quan hệ truyền thống hoặc có đơng người Việt Nam sinh sống. Phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan tư pháp của các nước để truy bắt, dẫn độ số đối tượng phạm tội lẩn trốn và thu
hồi tài sản tham nhũng tẩu tán ra nước ngoài.


17

Câu 5: Đồng chí hiểu thế nào là chủ động và tích cực hội nhập? Nêu quan điểm
hội nhập quốc tế theo tinh thần nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính
trị về hội nhập quốc tế? (5 điểm)
a.Đồng chí hiểu thế nào là chủ động và tích cực hội nhập?
- Hội nhập là quá trình tham gia vào một cộng đồng để cùng nhau hoạt động và phát
triển với cộng đồng ấy trong những lĩnh vực nhất định.
- Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ với nhau
thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục
tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh
tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc tế theo
đúng nghĩa đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
- Đại hội XI đã xác định: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Đại hội XII tiếp tục
xác định: “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và

phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ ngoại giao; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy, là thanh viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế”; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Đại
hội XIII xác định “hội nhập quốc tế là quá trình chủ động chấp nhận, áp dụng và tham gia
xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc”.
Theo các quan điểm đó thì tích cực và chủ động có nghĩa là:
+Chuẩn bị trong nước về cơ cấu lại nền kinh tế, hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ
chế chính sách, nguồn nhân lực, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt
Nam khi hội nhập.
+Chủ động tham gia, hợp tác hội nhập quốc tế trong nhiều lĩnh vực như: kinh tế, ngoại
giao, an ninh quốc phòng, văn hóa xã hội, khoa học, cơng nghệ, giáo dục, đào tạo và các
lĩnh vực khác
+Chủ động đề xuất các sáng kiến thiết thực, phù hợp với khả năng, lợi ích của đất nước và
quan tâm của cộng đồng quốc tế
+Chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống khơng để rơi vào thế đối đầu, bị
động, bất lợi, giữ vững mơi trường hòa bình, ổn định; kiến tạo mọi điều kiện, huy động
mọi nguồn lực, và tranh thủ mọi cơ hội để phục vụ sự nghiệp phát triển và nâng cao vị thế
của đất nước.
+Tích cực tham gia các tổ chức, hợp tác mà VN làm thành viên trên nguyên tắc đảm bảo
lợi ích quốc gia, dân tộc độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa
phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối
tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhằm củng cố mơi trường hòa bình, tranh thủ
tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao


18

đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức

mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực
vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
b.Quan điểm Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế theo tinh thần nghị quyết số 22-NQ/TW
ngày 10/4/2013 là:
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; quán triệt và vận dụng sáng tạo các
bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh;
đồng thời chú trọng một số quan điểm sau:
- Một là, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng
nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
- Hai là, Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải phát huy tính
chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả
các tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người
Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngồi vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
- Ba là, Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy
q trình hồn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ
tầng, nâng cao sức mạng tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết chặt chẽ với
việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng, miền, khu vực trong nước.
- Bốn là, Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi
cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo
đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn
hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược
hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực
của đất nước.
- Năm là, Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc
gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, khơng để rơi vào thế bị

động, đối đầu; không tham gia vào các tập hợp lực lượng, các liên minh của bên này
chống bên kia.
- Sáu là,Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đơi với chủ
động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham
gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế
hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực
và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới.
Câu 6. Trình bày khái niệm và đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam? Liên hệ thực tiễn? (5 điểm)
1. Khái niệm và đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam:


19

Lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều mơ hình kinh tế khác nhau như: nền kinh
tế tự nhiên; kinh tế tự cung, tự cấp; kinh tế hàng hóa giản đơn; kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp; kinh tế thị trường (kinh tế hàng hóa đã phát triển ở trình độ cao).
Mỗi một mơ hình kinh tế có những khái niệm, nét đặc trưng riêng, có vai trò nhất định đối
với sự phát triển của xã hội loài người.
a) Khái niệm:
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là
một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa
dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của Chủ nghĩa xã
hội.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII đã có bước phát triển mới về kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở VN: Là nền Kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy

luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có
sự quản lý của Nhà nước Pháp quyền XHCN, do Đảng cộng sản VN lãnh đạo.
b) Đặc trưng:
Phát triển kinh tế thị trường có vai trò rất quan trọng. Đối với nước ta, muốn chuyển
từ nền kinh tế đang phát triển lên nền kinh tế hiện đại xã hội chủ nghĩa thì khơng còn con
đường nào khác là phải phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường khắc phục được
kinh tế tự nhiên tự cung, tự cấp, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành
nghề, tạo việc làm cho người lao động, khuyến khích ứng dụng cơng nghệ - kỹ thuật mới
nhằm tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chủng loại, chất lượng hàng hóa, dịch vụ,
thúc đẩy tích tụ tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các
vùng lãnh thổ, thúc đẩy việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động,
mỗi đơn vị kinh tế, đồng thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội
hợp lý, tiết kiệm... Vì vậy, phát triển kinh tế thị trường được coi là chiếc đòn xeo để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, là phương tiện khách quan để xã hội hóa xã hội chủ nghĩa nền sản
xuất. Trong các tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường này với nền kinh tế thị trường
khác, phải kể đến định hướng chính trị, kinh tế, xã hội chi phối sự vận động, phát triển của
nền kinh tế. Ở nước ta những định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế có các đặc
trưng sau:
- Về mục tiêu phát triển
+ Thực hiện mục tiêu kinh tế: Thu lợi nhuận.
+ Thực hiện mục tiêu xã hội: Phát triển lực lượng sản xuất, từng bước tạo lập vật
chất cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
- Về đặc trưng sở hữu
+ Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp
+ Mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo để góp phần định hướng nền kinh tế phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.

- Về chế độ phân phối
+ Công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội,
điều kiện phát triển.


20

+ Phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng
thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
- Về vai trò Nhà nước
+ Định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường thông
qua xây dựng và thực hiện quy hoạch, chiến lược, kế hoạch và chính sách phát triển kinh
tế xã hội.
+ Tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh.
+ Bảo vệ lợi ích quốc gia; khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, bảo
vệ tài nguyên môi trường, phát triển kinh tế bền vững; bảo vệ lợi ích của nhân dân, lợi ích
người lao động, thực hiện các chính sách xã hội (giảm nghèo, an sinh xã hội).
Như vậy, mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
xác định là tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả
sử dụng các nguồn lực hiện có, tăng thêm các nguồn lực mới bằng cách nâng cao tỷ lệ tiết
kiệm, tăng tích lũy và đầu tư hiện đại hóa, đổi mới cơ cấu kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao... để đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
2. Liên hệ thực tiễn
Với số dân 88,5 triệu người thuộc 54 dân tộc khác nhau, Việt Nam là một đất nước
phong phú tài nguyên thiên nhiên, đa dạng có nền văn hóa phong phú, giàu bản sắc đã trải
qua những thay đổi lớn lao trong thế kỷ qua. Sau hai thập kỷ tăng trưởng kinh tế nhanh,
Việt Nam giờ đây được coi là một câu chuyện thành công về phát triển. Cơng cuộc đổi
mới về chính trị và kinh tế (công cuộc Đổi mới) được khởi xướng vào năm 1986 đã đưa
Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành nước có mức thu

nhập trung bình chỉ trong vòng một phần tư thế kỷ.
a) Kết quả đạt được:
- Với sự nỗ lực, tập trung của các Đảng và Nhà nước, sự đồng tình, ủng hộ của các
tầng lớp nhân dân và sự kêu gọi thu hút đầu tư, tình hình kinh tế - xã hội năm 2021 của cả
nước tiếp tục phát triển và đạt nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, nhất là
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Trong hơn 30 năm qua (1986-2017), tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta, tuy có sự
dao động nhất định, song vẫn ở mức cao hơn trung bình khu vực và thế giới với mức tăng
bình quân cả thời kỳ gần 7%/năm, năm 2017 là 6,81%.
- Thu nhập bình quân đầu người từ khoảng 100 USD/người/năm vào năm 1986, lên
khoảng 2750 USD/người/năm năm 2020.
- Nhu cầu tiêu thụ, trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong nước và quốc tế khơng ngừng mở
rộng. Do đó, xuất nhập khẩu hàng hóa tăng đột biến, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu từ
2.944 triệu USD vào năm 1986 lên tới 537,31 tỷ USD năm 2021.
- Vấn đề lao động việc làm, năng suất lao động và tỷ lệ thất nghiệp đều phát triển
theo hướng tích cực.
- Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được quan tâm. Tuổi thọ
trung bình của nước ta tăng,
b) Tồn tại hạn chế:
- Đổi mới chính trị đơi khi chưa bắt kịp đổi mới kinh tế, nên tạo ra nhiều khoảng
trống pháp lý; nhiều cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của
nền kinh tế. Nhiều chính sách hiện khơng còn phù hợp, thậm chí cản trở sự phát triển.


21

- Mặc dù Đảng, Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi, khoảng cách giữa nhóm
người giầu và nhóm người nghèo về thu nhập vẫn khơng giảm, mà có xu hướng ngày càng
tăng.
- Giáo dục - đào tạo và chăm sóc y tế khơng được Nhà nước bao cấp như cơ chế cũ,

nên phần đông số người nghèo không đủ tiền chữa bệnh, con em khơng có tiền đóng học
phí phải bỏ học.
c) Giải pháp:
- Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
phát huy vai trò của kinh tế nhà nước.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là giải phóng sức sản xuất của xã hội,
nhằm huy động các nguồn lực phát triển kinh tế thị trường; đồng thời tạo mơi trường cạnh
tranh trong nền kinh tế và đó là động lực thúc đẩy phát triển bền vững.
- Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức và bảo vệ tài nguyên môi trường.
- Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
- Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực và hiệu lực quản lý của nhà nước
đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Mở rộng kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
* Liên hệ thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở huyện Nam Giang
Nam Giang là huyện miền núi, biên giới của tỉnh Quảng Nam, Đảng bộ huyện Nam
Giang được thành lập vào ngày 28/6/1949, huyện Nam Giang cách thành phố Tam Kỳ 120
km về phía Tây Bắc và cách thành phố Đà Nẵng 70 km về phía Tây Nam. Phía Bắc giáp
với huyện Tây Giang, Đơng Giang; phía Đơng giáp với huyện Đại Lộc, Nơng Sơn; phía
Nam giáp huyện Phước Sơn; phía Tây giáp huyện Đắc Chưng, tỉnh Sê Kơng, nước
CHDCND Lào. Tổng diện tích tự nhiên là 1.846,59km 2. Tổng dân số là 26.158 người,
phần lớn dân cư là đồng bào dân tộc thiểu số bản địa chiếm 80,9% tổng dân số tồn huyện.
Gồm có các dân tộc như: Cơ Tu, Ve, Tà Riềng, Kinh và một số DTTS di cư từ các tỉnh
phía Bắc như: Tày, Nùng, Mường, Thái. Tồn huyện có 11 xã và 01 thị trấn. Từ khi thành
lập đến nay, với sự nỗ lực, tập trung lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành,
đồn thể, sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân. Những năm qua huyện Nam
Giang luôn phát triển và đạt nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, nhất là
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
* Kết quả đạt được:
Sản xuất ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng bình qn 6,36%/năm. Chăn ni

hằng năm đều tăng. Cơng tác trồng rừng phân tán với diện tích bình qn hằng năm là 200
ha; phát triển cây cao su với tổng diện tích đã đến thời kỳ khai thác là 400 ha, giải quyết
việc làm cho hơn 300 lao động địa phương góp phần thực hiện xóa đói, giảm nghèo bền
vững. Quy hoạch phát triển Cụm công nghiệp thôn Hoa, thị trấn Thạnh Mỹ và Cụm công
nghiệp Cà Đăng, xã Tà Bhing với tổng diện tích 112,2 ha. Thủy điện Sông Bung 2, Sông
Bung 4, … đã và đang đi vào hoạt động. Nhà máy xi măng Thạnh Mỹ được xây dựng từ
năm 2010 đã đi vào hoạt động. Có 03 tuyến quốc lộ, giao thông trọng yếu đi qua địa bàn
huyện gồm: đường Hồ Chí Minh, 14D, 14B và tuyến đường Trường Sơn Đông kết nối với
các tỉnh, thành trong nước và huyện Đắc Chưng, tỉnh Sê Kông, nước CHCDND Lào. Xây
dựng các tuyến giao thông nông các xã, thơn trên địa bàn, 100% xã có đường ơ tơ đến
trung tâm xã và có đường giao thơng nơng thơn, liên thơn được bê tơng hóa. Thu ngân
sách hằng năm vượt khoảng 21,9%. Giáo dục và Đào tạo ngày càng phát triển về số lượng
và chất lượng. Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được quan tâm. Tình


22

hình an ninh chính trị, an ninh biên giới và trật tự an tồn xã hội được đảm bảo. Cơng tác
đối ngoại với huyện Đắc Chưng, tỉnh Sê Kông, nước CHDCND Lào ngày càng thực chất
và hiệu quả.
* Tồn tại hạn chế:
Hạ tầng kỹ thuật đối với địa bàn các xã vùng cao biên giới vẫn còn nhiều thiếu
thốn; nguồn thu ngân sách mặc dù đạt và vượt chỉ tiêu giao hằng năm, nhưng chưa đáp
ứng được nhu cầu đầu tư phát triển trên địa bàn huyện; công tác xây dựng nông thôn mới
chưa đạt mục tiêu đề ra, nhất là giải pháp nâng cao thu nhập và giảm tỷ lệ hộ nghèo; việc
hồn thiện Cụm cơng nghiệp chưa đạt yêu cầu đề ra, làm cản trở, chậm tiến độ thu hút các
doanh nghiệp đến đầu tư sản xuất kinh doanh; tỷ lệ hộ nghèo và tình trạng tái nghèo vẫn
còn cao; công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên, lâm khống sản còn có mặt sơ hở, bất cập và
chồng chéo, tình trạng khai thác lâm khống sản trái phép vẫn còn xảy ra…
* Giải pháp:

- Đẩy mạnh phát triển kinh tế theo cơ cấu Nông- lâm nghiệp- công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp - thương mại, dịch vụ và du lịch. Xây dựng cơ sở hạ tầng gắn với xây dựng
nông thôn mới; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con vật nuôi và công tác giảm nghèo bền
vững; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Hồn
thiện hạ tầng kỹ thuật từ huyện đến xã, nhất là hệ thống giao thông, trường học, thủy lợi;
hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp thôn Hoa (Thạnh Mỹ). Giải quyết tốt, kịp thời trong
thực hiện cơng tác bồi thường, giải phóng mặt bằng các dự án trên địa bàn huyện.
- Tích cực và chủ động trong việc xúc tiến, kêu gọi các doanh nghiệp đến đầu tư
sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Quản lý nguồn thu ngân sách. Uu tiên chi ngân sách cho
đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội. Thực hiện tốt công tác giảm nghèo bền vững.
Bảo đảm an ninh chính trị và trật an tồn xã hội; tăng cường các biện pháp quản lý, bảo vệ
tài nguyên lâm khống sản; tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơng tác cán bộ và cải cách thủ
tục hành chính.


23

Câu 7. Từ nội dung công tác quản lý đảng viên của tổ chức cơ sở đảng, đồng
chí trình bày những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
hiện nay? Nêu kiến nghị cá nhân đồng chí?
a. Nội dung cơng tác quản lý đảng viên của tổ chức cơ sở đảng:
Thứ nhất, quản lý hồ sơ đảng viên: Hồ sơ đảng viên là hệ thống các văn bản theo
quy định của trung ương, lưu giữ những thơng tin về lịch sử chính trị, quan hệ gia đình, xã
hội, q trình cơng tác, phẩm chất, năng lực, trình độ. Hồ sơ đảng viên cần phải đầy đủ, rõ
ràng, chính xác, thống nhất, bí mật được cấp ủy có thẩm quyền xác nhận và được cơ quan
của cấp ủy quản lý.
Thứ hai, quản lý hoạt động đảng viên: Trong công tác quản lý đảng viên, quản lý
hoạt động của đảng viên là nội dung khó khăn và phức tạp nhất. Chủ thể trực tiếp: Chi bộ
trực tiếp quản lý đảng viên
Thứ ba, quản lý tư tưởng - chính trị của đảng viên: Quản lý đảng viên về chính trị,

tư tưởng, đạo đức và lối sống là lĩnh vực quản lý rất khó. Chủ thể trực tiếp: Chi bộ trực
tiếp quản lý đảng viên
b. Tổ chức cơ sở Đảng:
Theo Điều 21 Điều lệ Đảng quy định:
+ Tổ chức cơ sở Đảng là tổ chức Đảng độc lập ở đơn vị cơ sở.
+ Ở xã, phường, thị trấn có từ 30 đảng viên trở lên được phép thành lập TCCSĐ, mà
cấp trên trực tiếp là huyện ủy (quận ủy, thị ủy, thành ủy của thành phố thuộc thành phố
trực thuộc Trung ương).
+ Ở các đơn vị cơ sở khác có từ 3 ĐV chính thức trở lên thì lập tổ chức Đảng. Có 2
hình thức: TCCSĐ hoặc Chi bộ Đảng trực thuộc Đảng ủy cơ sở, do cấp ủy cấp trên trực
tiếp quyết định.
+ Hình thức chủ yếu của tổ chức Đảng cơ sở tồn tại 2 hình thức: Chi bộ cơ sở và
Đảng bộ cơ sở.
c. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ ĐV hiện nay:
Công tác quản lý ĐV trong những năm qua bên cạnh những kết quả đã đạt được,
vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI có nêu:
“Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của khơng ít tổ chức đảng còn thấp; công tác quản lý
ĐV chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình
và phê bình yếu,... Nhiều khuyết điểm, sai lầm của ĐV và tổ chức đảng chậm được phát
hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ
biến trong một bộ phận CB, ĐV”.
Để tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là xây dựng đội
ngũ ĐV có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn
hiện nay, công tác quản lý ĐV trong thời gian tới, mỗi cấp ủy Đảng cần tập trung thực hiện
tốt một số giải pháp sau:


24

Một là, tăng cường giáo dục ý thức cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội

ngũ đảng viên.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải ln tự mình trau dồi, rèn luyện, tu dưỡng các phẩm
chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, tích cực thực hiện Chỉ thị số 05, ngày
15-5-2016, của Bộ Chính trị về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “đảng viên tốt thì chi bộ mới tốt.
Muốn đảng viên tốt thì chi bộ phải thường xuyên giáo dục mỗi đồng chí”.
Hai là, nâng cao trình độ chun mơn cho đội ngũ đảng viên.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên tồn diện về mọi mặt, trong đó
chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, đáp ứng u cầu cơng tác.
Khuyến khích, tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên tham gia học tập. Đồng thời, chú trọng
chất lượng đào tạo, hướng về thực tế.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, thường xuyên sàng lọc,
đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của Đảng là biện pháp giáo dục, ngăn
ngừa, hạn chế tình hình vi phạm kỷ luật đảng của đảng viên. Chính vì thế, cơng tác kiểm
tra, giám sát đảng viên có ý nghĩa hết sức quan trọng và phải được tiến hành thường
xuyên, công tâm, khách quan, phải gắn với thi hành kỷ luật Đảng.
Bốn là, tăng cường lãnh đạo, quản lý đảng viên.
Lãnh đạo, quản lý đảng viên là công tác quan trọng trong xây dựng và bảo vệ Đảng.
Quản lý đảng viên phải tiến hành thường xuyên, chặt chẽ, và toàn diện, phải quản lý về
mọi mặt, từ phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống đến trình độ năng lực, sức
khỏe của đảng viên.
Một là, thực hiện tốt công tác quản lý ĐV theo chế độ, thủ tục hành chính Đảng.
Hai là, kết hợp chặt chẽ công tác quản lý với cơng tác giáo dục, rèn luyện, nâng cao
bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống cho ĐV.
Ba là, mỗi ĐV phải xây dựng kế hoạch phấn đấu và chương trình tự quản lý, rèn
luyện để chi ủy, chi bộ kiểm tra, giám sát thực hiện
Bốn là, các cấp ủy đảng, chi bộ thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát và phân tích
chất lượng ĐV.
Năm là, phối hợp chặt chẽ giữa tổ chức đảng nơi công tác với tổ chức đảng nơi cư

trú để quản lý tốt ĐV theo tinh thần Quy định số 76-QĐ/TW, ngày 15-6-2000 của Bộ
Chính trị.
Sáu là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng cùng tham gia
quản lý, giáo dục, rèn luyện ĐV.
Năm là, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở, tăng cường sự giám sát của nhân
dân đối với đảng viên.
Sự giám sát của nhân dân đối với đảng viên là không thể thiếu. Bản chất và bản lĩnh
chính trị, trình độ chun mơn của mỗi đảng viên đều được thể hiện trong q trình cơng
tác, trong giải quyết các vấn đề cụ thể và trong sinh hoạt hằng ngày ở nơi cư trú.


25

Sáu là, đổi mới công tác đánh giá, xếp loại đảng viên.
Tư duy đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên cần được đổi mới theo hướng vận dụng
và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đảng viên.
d. Một số kiến nghị của cá nhân:
Một là, thực hiện tốt công tác phân công nhiệm vụ và quản lý, kiểm tra, giám sát ĐV.
Các cấp ủy cần căn cứ vào Quy định số 47-QĐ/TW về những điều ĐV không được làm để
kiểm tra, giám sát đảng viên cho tốt.
Hai là, xây dựng những tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể đối với từng ĐV. Các cấp ủy, tổ
chức đảng cần chú trọng đến các yếu tố cụ thể, như: sự giác ngộ, lập trường tư tưởng, bản
lĩnh chính trị; đạo đức, lối sống; thái độ và cách ứng xử trong các mối quan hệ xã hội,
cơng tác, quan hệ lợi ích
Ba là, tăng cường công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt
cho đội ngũ ĐV.
Bốn là, thực hiện tốt công tác kết nạp, đánh giá chất lượng ĐV. Các cấp ủy, tổ chức
đảng cần đặc biệt chú trọng công tác tạo nguồn trong các đối tượng quần chúng, nhất là thanh
niên, sinh viên, công nhân, người dân tộc thiểu số.

Năm là, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, phát huy vai trò của nhân
dân, tham gia xây dựng Đảng.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×