ĐỀ CƯƠNG MÔN LÝ LUẬN DẠY HỌC
MÔN GDCD
Đề Bài:
1. Mục tiêu, cấu trúc chương trình, sách giáo khoa mơn GDCD.
2. Những yêu cầu đối với người giáo viên GDCD .
3. Phương pháp dạy học môn GDCD trong trường THPT.
- Phương pháp thảo luận nhóm
4. Một số kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học mơn GDCD ở trường PT.
- Kỹ thuật Mảnh ghép.
- Kỹ thuật XYZ.
- Kỹ thuật ổ bi.
- Kỹ thuật động não.
- Sơ đồ tư duy.
5. Một số phương tiện dạy học GDCD ở trường THPT.
- Sách giáo khoa GDCD.
- Tranh, ảnh.
- Sơ đồ, bảng biểu, số liệu thống kê.
6. Các bước thiết kế bài dạy học môn GDCD.
LƯU Ý: trong từng vấn đề vận dụng và lấy ví dụ minh họa
Trả Lời
1. Mục tiêu, cấu trúc chương trình, sách giáo khoa môn GDCD.
- Mục tiêu SGK của môn GDCD ở trường PT:
Môn GDCD ở trường phổ thông nhằm giúp HS:
+ Về kiến thức:
Có hiểu biết ban đầu về thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng.
Biết được một số phạm trù cơ bản của đạo đức học; hiểu số yêu cầu đạo đức đối
với người công dân hiện nay.
Biết một số phạm trù và quy luật kinh tế cơ bản, vai trị quản lí kinh tế của Nhà
nước.
Biết được bản chất Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hộ chủ nghĩa. Hiểu
đường lối, quan điểm của Đảng; các chính sách quan trọng của Nhà nước về
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Hiểu bản chất và vai trò của pháp luật đối với sự phát triển của công dân, đất
nước, nhân loại. Hiểu quyền và nghĩa vụ công dân trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Hiểu trách nhiệm công dân trong việc thực hiện đường lối quan điểm của Đảng;
pháp luật, chính sách của Nhà nước; hiểu trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm
tham gia phát triển kinh tế của công dân.
+ Về kĩ năng:
Vận dụng được kiến thức đã học để phân tích, đánh giá cá hiện tượng, các sự
kiện, các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống phù hợp với lứa tuổi.
Biết lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với các giá trị xã hội.
Biết bảo vệ cái đúng, cái tốt, cái đẹp và đấu tranh, phê phán đối với các hành vi,
hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống phù hợp với khả năng của bản thân.
+ Về thái độ:
u cái đúng, cái tốt, cái đẹp; khơng đồng tình với các hành vi, việc làm tiêu
cực.
Yêu quê hương, đất nước. Trân trọng và phát huy các giá trị truyền thống của
dân tộc.
Tin tưởng vào các đường lối chủ trương của Đảng; tơn trọng pháp luật, chính
sách của Nhà nước và các quy định chung của cộng đồng, của tập thể.
Có hồi bão và mục đích sống cao đẹp.
- Cấu trúc sách giáo khoa GDCD ở THPT:
Các bài học trong SGK GDCD ở THPT được cấu trúc thống nhất theo trình tự
như sau:
Tên bài học.
Mở đầu bài học: Trình bày một cách ngắn gọn nhằm định hướng chú ý của HS
về những yêu cầu của bài học (yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, thái độ).
Nội dung bài học: Trình bày các đơn vị kiến thức của bài dưới dạng các mục
lớn, nhỏ để HS dễ theo dõi. Trong phần nội dung, SGK có thể sử dụng hệ thống
chữ nghiêng, chữ nhỏ, chữ in đậm, kênh hình để gợi ý phương pháp học tập của
HS và phương pháp giảng dạy của GV. Những dòng chữ in nghiêng thường
được dùng để nhấn mạnh kiến thức cần nhớ. Những dòng chữ in nhỏ thường
được dùng để đặt câu hỏi dẫn dắt, cung cấp những thơng tin, chú thích những
thuật ngữ, nội dung cần thiết trong bài.
Tư liệu tham khảo: Cung cấp những thông tin, tư liệu, địa chỉ các nguồn tư liệu
cần tham khảo giúp cho HS hiểu sâu hơn về bài thực hiện trong 37 tuần học và
làm bài tập.
Câu hỏi và bài tập: Mục tiêu của các câu hỏi và bài tập là giúp HS củng cố, khắc
sâu, mở rộng kiến thức; trau dồi lí tưởng, đạo đức; rèn luyện kĩ năng, phát triển
năng lực tư duy. Vì vậy, dạng cầu hỏi phải phong phú, có câu hỏi củng cố, câu
hỏi khắc sâu, câu hỏi nâng cao, câu hỏi vận dụng. Những câu hỏi, bài tập trắc
nghiệm khách quan, trắc nghiệm tự luận, cần theo hướng mở, tránh áp đặt.
2. Những yêu cầu đối với người giáo viên GDCD .
Khi giảng dạy trong nhà trường Phổ thơng địi hỏi người giáo viên Giáo
dục công dân phải đảm bảo ba yêu cầu quan trọng là phẩm chất đạo đức, trình
độ chuyên mơn và trình độ nghiệp vụ sư phạm.
Yêu cầu về phẩm chất đạo đức, giáo viên phải là một tấm gương sáng về
đạo đức để học sinh kính trọng và noi theo.
u cầu về trình độ chun mơn, Để có thể giảng dạy tốt mơn Giáo dục
cơng dân ở trường Phổ thông, ngay từ trường sư phạm, trước hết sinh viên cần
phải thông hiểu và nắm vững lý thuyết nghề nghiệp. Lý thuyết là cơ sở cho thực
hành. Không nắm vững lý thuyết không thể thực hành tốt. Nắm vững lý thuyết
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hành nghề nghiệp. Điều quan trọng của
việc học lý thuyết là phải hiểu, nắm vững và phải vận dụng tốt vào thực tiễn.
Yêu cầu về nghiệp vụ sư phạm, Việc rèn luyện kỹ năng sư phạm bao gồm
nhiều hoạt động khác nhau và tùy theo từng đối tượng người học có những hoạt
động thuộc về nghiệp vụ sư phạm nói chung như: nói, viết, trình bày bảng, tư
thế, tác phong lên lớp… có những hoạt động thuộc về nghiệp vụ chuyên môn
riêng của môn Giáo dục công dân.
Liên hệ bản thân: Khơng có cũng khơng sao !
Với tơi là một sinh viên chun ngành Giáo dục chính trị. Phải hình thành
niềm tin cách mạng cho bản thân. Niềm tin cách mạng thể hiện lòng yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội; là cơ sở để người sinh viên chun ngành Giáo dục chính
trị gắn bó cuộc đời mình với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, với sự nghiệp
giáo dục là bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Mỗi người sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị phải rèn luyện để
hình thành cho mình những phẩm chất của một người cộng sản chân chính, là
một người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, tích cực đấu tranh để bảo
vệ những luận điểm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
bảo vệ những đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam,
những chính sách của Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Phương pháp dạy học mơn GDCD trong trường THPT.
- Phương pháp thảo luận nhóm
Khái niệm
Thảo luận nhóm là PPDH trong đó lớp học được chia thành những nhóm nhỏ để
bàn bạc, trao đổi, thảo luận về một vấn đề học tập và đưa ra ý kiến chung của
nhóm về vấn đề đó. Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho HS
tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho HS có thể
chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên quan đến
nội dung bài học.
Các bước tiến hành Thảo luận nhóm có thể tiến hành theo các bước sau:
- GV nêu chủ đề thảo luận, chia nhóm, phân cơng vị trí làm việc, giao câu hỏi,
yêu cầu thảo luận cho mỗi nhóm và quy định thời gian.
Các nhóm tiến hành thảo luận (trong thời gian quy định).
- Đại diện các nhóm trình bày kết quả thảo luận. Các nhóm khác lắng nghe, chất
vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến (thảo luận cả lớp).
- GV đánh giá và cung cấp thông tin phản hồi (kết luận).
Đánh giá về phương pháp thảo luận nhóm
Ưu điểm:
Các nghiên cứu về phương pháp thảo luận nhóm đã chứng minh rằng, nhờ việc
thảo luận trong nhóm nhỏ mà:
- Giờ học sơi nổi, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Kiến
thức của HS sẽ giảm bớt tính chủ quan, phiến diện, và tăng tính khách quan
khoa học.
- Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được giao
lưu, học hỏi giữa các thành viên trong nhóm.Nhờ khơng khí thảo luận cởi mở
giúp HS thoải mái, tự tin hơn trong việc trình bày ý kiến của mình và biết lắng
nghe có phê phán ý kiến của những thành viên khác. Vốn hiểu biết và kinh
nghiệm xã hội của HS thêm phong phú; kĩ năng giao tiếp, hợp tác của HS được
bồi dưỡng và phát triển. HS rèn luyện được nhiều kĩ năng cần thiết.
Hạn chế:
- Đòi hỏi rất cao năng lực kiến tạo vấn đề thảo luận và tổ chức, điều khiển q
trình thảo luận trên lớp.
- GV gặp khó khăn trong việc tuân thủ thời gian khi kết qủa thảo luận của các
nhóm đi xa trọng tâm.
- Sự thụ động hoặc hăng hải quá mức của các nhóm sẽ gây khó khăn cho sự
điều khiển của GV.
- GV có thể gặp khó khăn trong việc bao qt lớp. Có thể xuất hiện tình trạng ỷ
lại vào các HS tích cực trong nhóm, một số HS có thể khơng tập trung khi thảo
luận.
u cầu sư phạm
Có nhiều cách chia nhóm, có thể theo số điểm danh, theo lứa tuổi, theo đội, theo
giới tính, theo vị trí ngồi.Quy mơ nhóm có thể lớn hơn hoặc nhỏ tùy theo vấn đề
thảo luận. Tuy nhiên nhóm từ 4 - 6 HS là tốt nhất bởi lẽ: Số HS như vậy vừa đủ
để đảm bảo tất cả HS có thể tham gia ý kiến nhưng cũng đủ để đảm bảo không
thiếu ý tưởng cho sự tranh luận.
- Nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau. - Cần quy định
rõ thời gian thảo luận và thời gian trình bày kết quả thảo luận cho các nhóm.
- Kết quả thảo luận có thể trình bày dưới nhiều hình thức: bằng lời, đóng vai,
viết, hoặc vẽ trên giấy khổ to... Có thể do một người thay mặt nhóm trình bày,
có thể nhiều người trình bày, mỗi người mỗi đoạn nổi tiếp nhau
- Trong thời gian HS thảo luận theo nhóm nhỏ, GV cần di chuyển giữa các
nhóm để bao quát lớp và lắng nghe ý kiến của HS, giúp đỡ, gợi ý cho các em
nếu được yêu cầu.
Ví dụ
Ví dụ về Bài 1: CÔNG DÂN VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ (GDCD Lớp
11).
Đầu tiên GV nêu chủ đề thảo luận là CÔNG DÂN VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ.
Chia lớp thành 4 nhóm, phân cơng vị trí làm việc, giao câu hỏi cho các nhóm
như:
Nhóm 1: Hãy phân biệt đối tượng lao động với tư liệu lao động của một số
ngành sản xuất.
Nhóm 2: Hãy chỉ ra những điều kiện khách quan, chủ quan để người có sức lao
động thực hiện được q trình lao động.
Nhóm 3: Hãy cho biết vì sao Đảng ta xác định : Phát triển giáo dục – đào tạo,
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Nhóm 4: Vì sao sự phát triển kinh tế phải đặt trong mối quan hệ với sự gia tăng
dân số và bảo vệ môi trường. Yêu cầu thảo luận cho mỗi nhóm và quy định thời
gian.
Các nhóm tiến hành thảo luận trong thời gian quy định.
Tiếp theo Đại diện các nhóm trình bày kết quả thảo luận. Các nhóm khác lắng
nghe, chất vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến.
Cuối cùng GV đánh giá và cung cấp thêm thông tin rồi kết luận.
4. Một số kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học môn GDCD ở trường PT.
- Kỹ thuật Mảnh ghép.
Khái niệm
Là kĩ thuật dạy học mang tính hợp tác, kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết
giữa các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp, kích thích sự tham gia
tích cực cũng như nâng cao vai trị của cá nhân trong q trình hợp tác.
Các bước tiến hành
Vịng 1: Nhóm chun gia
Lớp học sẽ được chia thành các nhóm (khoảng từ 3-6 người). Mỗi nhóm được
giao một nhiệm vụ với những nội dung học tập khác nhau.
Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về câu hỏi, chủ
đề và ghi lại những ý kiến của mình.
Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi thành viên trong từng nhóm đều trả lời
được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở thành chuyên gia của
lĩnh vực đã tìm hiểu, có khả năng trình bày lại câu trả lời của nhóm ở vịng 2.
Vịng 2: Nhóm mảnh ghép
Hình thành nhóm mới khoảng từ 3-6 người (bao gồm 1-2 người từ nhóm 1; 1-2
từ nhóm 2; 1-2 người từ nhóm 3...), gọi là nhóm mảnh ghép.
Các câu hỏi và câu trả lời của vòng 1 được các thành viên trong nhóm mới chia
sẻ đầy đủ với nhau.
Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu được tất cả nội dung ở vịng 1 thì
nhiệm vụ mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết (nhiệm vụ mới này phải
gắn liền với kiến thức thu được ở vịng 1).
Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ, trình bày và chia sẻ kết quả.
Một số lưu ý khi tổ chức dạy học theo kĩ thuật các mảnh ghép:
- Đảm bảo những thông tin từ các mảnh ghép lại với nhau có thể hiểu được bức
tranh tồn cảnh của một vấn đề và là cơ sở để giải quyết một nhiệm vụ phức
hợp ở vòng 2.
- Các chuyên gia ở vịng 1 có thể có trình độ khác nhau, nên 1 xác định yếu tố
hỗ trợ kịp thời để tất cả mọi chun gia có thể hồn thành nhiệm vụ ở vòng 1,
chuẩn bị cho vòng 2.
- Số lượng mảnh ghép không nên quá lớn để đảm bảo các thành viên có thể
truyền đạt lại kiến thức cho nhau.
- Đặc điểm của nhiệm vụ mới ở vòng 2 là một nhiệm vụ phức hợp và chỉ có thể
giải quyết được trên cơ sở nắm vững những kiến nay thức đã có ở vịng 1.
Ví dụ
- Kỹ thuật XYZ.
Khái niệm
Là một kỹ thuật nhằm phát huy tính tích cực trong thảo luận nhóm. X là số
người trong nhóm, Y là số ý kiến mỗi người cần đưa ra, Z là phút dành cho mỗi
người.
Ví dụ kĩ thuật XYZ thực hiện như sau:
- Mỗi nhóm 4 người, mỗi người viết 2 ý kiến trên một tờ giấy trong vòng 3 phút
về cách giải quyết một vấn đề và tiếp tục chuyển cho người bên cạnh.
- Tiếp tục như vậy cho đến khi tất cả mọi người đều viết ý kiến của mình, có thể
lặp lại vịng khác.
- Con số X-Y-Z có thể thay đổi.
- Sau khi thu thập ý kiến thì tiến hành thảo luận, đánh giá các ý kiến.
- Kỹ thuật ổ bi.
Khái niệm
Là một kỹ thuật dùng trong thảo luận nhóm, trong đó HS chia thành hai nhóm
ngồi theo hai vịng tròn đồng tâm như hai vòng của một ổ bi và đối diện nhau để
tạo điều kiện cho mỗi HS có thể nói chuyện với lần lượt các HS ở nhóm khác
Cách thực hiện:
- Khi thảo luận, mỗi HS ở vòng trong sẽ trao đổi với HS đối diện ở vịng ngồi,
đây là dạng đặc biệt của phương pháp luyện tập đối tác.
- Sau một thời gian nhất định thì HS vịng ngồi ngồi n, HS vịng trong
chuyển chỗ theo chiều kim đồng hồ, tương tự như vòng bị quay, để ln hình
thành các nhóm đối tác mới.
Ví dụ
- Kỹ thuật động não.
Khái niệm
Động não (công não) là một kỹ thuật nhằm huy động những tư tưởng mới mẻ,
độc đáo về một chủ đề của các thành viên trong thảo luận. Các thành viên được
cổ vũ tham gia một cách tích cực, khơng hạn chế các ý tưởng (nhằm tạo ra “cơn
lốc” các ý tưởng).
Các bước tiến hành
- GV nêu câu hỏi hoặc vấn đề (có nhiều cách trả lời) cần được tìm hiểu trước cả
lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ HS phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt,
- Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to, không loại trừ một ý kiến nào,
trừ trường hợp trùng lặp.
- Phân loại các ý kiến.
- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng.
- Tổng hợp ý kiến của HS và rút ra kết luận.
Đánh giá
* Ưu điểm:
- Dễ soạn thảo câu hỏi và dễ thực hiện.
- Huy động được tối đa trí tuệ của tập thể trong q trình tìm kiếm thơng tin để
trả lời.
- Tạo ra được khơng khí sơi nổi nhờ q trình tham gia phản hồi một cách tích
cực của người học để cải tạo tình trạng giao tiếp và khơng khí học tập trầm lặng,
buồn tẻ.
* Nhược điểm:
- Các ý kiến trả lời cho cùng một chủ đề có thể tản mạn hoặc lạc đề.
- Có thể mất nhiều thời gian nếu lớp học đông.
- Hiệu quả của phương pháp mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp ý tưởng chứ chưa
bồi dưỡng được năng lực tư duy phân tích, chúng minh, tổng hợp của HS.
Yêu cầu sư phạm
- Câu hỏi, vấn đề động não phải tạo ra được nhiều cách suy nghĩ, giải quyết
khác nhau. Vấn đề được chọn phải ít nhiều đã quen thuộc trong thực tiễn cuộc
sống của HS.
- Tùy theo nội dung bài học mà GV chọn câu hỏi, vấn đề có phần kết đóng và
phần kết mở.
- Các ý kiến phát biểu nên ngắn gọn bằng một từ hay một câu thật ngắn.
- Trong quá trình thu thập ý tưởng, tất cả mọi ý kiến (dù đúng hay sai) đều cần
được GV hoan nghênh, chấp nhận, chỉ loại bỏ những ý kiến trùng lặp.
- Ý kiến của HS cần được GV ghi nhanh lên bảng để HS dễ theo dõi khi phát
biểu, bổ sung.
- Kết thúc, GV cần tổng kết và rút ra kết luận, tạo cơ sở cho HS củng cố nội
dung vừa học hoặc lĩnh hội các đơn vị kiến thức tiếp theo của bài học.
- Sơ đồ tư duy.
Khái niệm
Lược đồ tư duy (còn được gọi là bản đồ khái niệm) là một sơ đồ nhằm trình bày
một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết quả làm việc của
cá nhân hay nhóm về một chủ đề. Lược đồ tư duy có thể được viết trên giấy,
trên bản trong, trên bảng hay thực hiện trên máy tính.
Cách thực hiện
- Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề.
- Từ chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết một khái
niệm, phản ánh một nội dung lớn của chủ đề, viết bằng CHỮ IN HOA. Nhánh
và chữ viết trên đó được vẽ và viết cùng một màu. Nhánh chính đó được nối với
chủ đề trung tâm. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng để viết trên các nhánh.
- Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc
nhánh chính đó. Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng chữ in thường.
- Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
Ứng dụng của sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy có thể ứng dụng trong nhiều tình huống khác nhau như:
- Tóm tắt nội dung, ơn tập một chủ đề.
- Trình bày tổng quan một chủ đề.
- Chuẩn bị ý tưởng cho một báo cáo hay buổi nói chuyện, bài giảng
- Thu thập, sắp xếp các ý tưởng.
- Ghi chép khi nghe bài giảng.
Ưu điểm của sơ đồ tư duy
- Các hướng tư duy được để mở ngay từ đầu.
- Các mối quan hệ của các nội dung trong chủ đề trở nên rõ ràng.
- Nội dung ln có thể bổ sung, phát triển, sắp xếp lại.
- Học sinh được luyện tập phát triển, sắp xếp các ý tưởng.
Ví dụ
5. Một số phương tiện dạy học GDCD ở trường THPT.
- Sách giáo khoa GDCD.
Theo Luật Giáo dục, SGK là tài liệu sử dụng chính thức, thống nhất, ổn định
trong học tập, giảng dạy và đánh giá ở nhà trường và các cơ sở giáo dục phổ
thông. SGK là tài liệu nhằm cụ thể hóa chương trình mơn học qua một hệ thống
các bài học.
Đối với HS, SGK không chỉ dừng lại ở chức năng cung cấp những kiến thức
chuẩn mực, cần thiết, mà cịn góp phần hướng dẫn các kĩ năng sẽ được hình
thành.
Đối với GV, SGK là tài liệu thể hiện khối lượng và mức độ nội dung kiến thức
cần giảng dạy, đồng thời góp phần hướng dẫn nghiệp vụ sư phạm.
Để sử dụng SGK một cách hiệu quả, trong quá trình sử dụng GV cần lưu ý một
số yêu cầu sau:
- GV phải nắm vững cấu trúc, đặc điểm, nội dung chương trình, SGK mơn
GDCD.
- Ngay trong các giờ học đầu tiên, GV cần dành một số thời gian hướng dẫn HS
về cấu trúc, nội dung SGK, phương pháp học tập, cách làm việc và khai thác
SGK.
- Phải tạo điều kiện để HS có thời gian làm việc với SGK cả trong thời gian ở
trên lớp cũng như ở nhà.
- Đảm bảo kết hợp nhịp nhàng các hoạt động (sự tương tác) của GV, HS với
những nội dung trong SGK một cách hợp lí.
- Chú ý khai thác và tổ chức cho HS làm việc với các kênh hình, các sơ đồ, các
câu hỏi bài tập, trong SGK.
- Căn cứ vào đặc điểm của từng nội dung trong SGK và đối tượng HS để lựa
chọn các PPDH một cách linh hoạt, hiệu quả.
- Tương ứng với mỗi bài, mỗi đơn vị kiến thức trong SGK GV nên thiết kế, sưu
tầm thêm các phương tiện dạy học phù hợp nhằm khai thác SGK một cách hiệu
quả và sinh động hơn.
- Tranh, ảnh.
Tranh, ảnh là các loại phương tiện thể hiện hình ảnh cấu trúc đặc tính, đặc điểm
nội dung... của các sự vật hiện tượng, các đơn vị kiến thức được nghiên cứu
trong nhà trường. Chúng có thể có ở trong SGK, báo, tạp chí, các tài liệu tra
cứu... được in ấn, xuất bản để phục vụ cho quá trình dạy học.
khi lựa chọn chúng để đưa vào bài giảng người GV phải chú ý đến các yếu tố
như: các tranh, ảnh, tài liệu tham khảo đó có phù hợp với PPDH khơng, có phù
hợp với nhiệm vụ học tập của HS khơng, có phù hợp với đặc tính của người học
khơng, ví dụ: cùng một nội dung học tập GV áp dụng cùng một PPDH nhưng
kết quả thu được ở HS thành dụ phố sẽ khác HS nông thôn.
Bên cạnh đó sự lựa chọn phương tiện hình ảnh, tài liệu tham khảo cịn phụ
thuộc rất lớn vào khơng gian, ánh sáng và cơ sở vật chất của lớp học.
Để sử dụng có hiệu quả các loại phương tiện là tranh, ảnh, tài liệu tham khảo,
GV cần hướng dẫn HS vào việc theo dõi, tư duy, khám phá tìm tòi liệt kê các
dấu hiệu cơ bản độc đáo, các mối liên hệ của các dấu hiệu đó hoặc giữa các sự
vật với nhau bằng các câu hỏi và chỉ dẫn cụ thể.
Ưu điểm
Tranh, ảnh trực quan được sử dụng trong quá trình dạy học phần lớn là các hình
tĩnh nên việc sử dụng chúng đơn giản không cần các thiết bị hỗ trợ, giá thành
tương đối rẻ, kể cả trong việc bảo quản... nó có tính phổ biến, dễ kiếm dễ làm,
khơng cần các thiết bị điện nên có thể sử dụng để dạy học bất cứ chỗ nào.
Cách sử dụng tốt nhất đối với các loại tranh ảnh, tài liệu tham khảo là GV tổ
chức đàm thoại với HS.
Hạn chế
Đối với một số loại có độ phân giải kém khi phóng to lên cho HS cả lớp xem
ảnh sẽ rất mờ khơng nhìn rõ, khơng làm nổi bật được nội dung cần truyền tải.
Khi sử dụng các loại tranh ảnh trên lớp phải chuẩn bị chỗ treo, chỗ cất giấu khi
đã trình diễn và GV phải dừng mạch giảng trong một ít phút để thu hồi phương
tiện, điều này có thể ảnh hưởng đến sự chú ý liên tục của HS.
Ví dụ:
- Sơ đồ, bảng biểu, số liệu thống kê.
Sơ đồ:
- Là sự khái quát hóa tái hiện kiến thức bằng cách có mục đích theo những
kí hiệu tương tự ước lệ.
- Sơ đồ giảng dạy GDCD gồm những loại cơ bản sau:
+ Sơ đồ cấu trúc
+ Sơ đồ quá trình
+ Sơ đồ logic
- Quy trình sử dụng sơ đồ:
+ Treo hoặc chiếu sơ đồ lên bảng
+ HS quan sát và giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc với sơ đồ
+ GV phân tích sơ đồ
+ Tổng kết công việc
- Những lưu ý khi sử dụng sơ đồ trong dạy học GDCD:
+ Cùng một đơn vị kiến thức sẽ có nhiều sơ đồ khác nhau
+ GV phải nhận thức được tính linh hoạt, chuyển hóa lẫn nhau trong mơn
GDCD và chỉ cho HS thấy rõ tính chất tượng trưng, ước lệ của sơ đồ.
+ kiến thức có thể diễn đạt bằng lời thì khơng cần sử dụng sơ đồ, tránh dư
thừa và mất tập chung vào vấn đề trọng tâm.
- ví dụ:
bảng biểu, số liệu thống kê.
- Trong môn GDCD được sử dụng chủ yếu là các số liệu liên quan đến tình
trạng dân số, mơi trường tự nhiên, các số liệu liên quan đến tình trạng pháp
luật…
- ưu điểm: mang tính thực tiễn cao, là một minh chứng thuyết phục nhất
với bất kỳ một PTDH nào.
- hạn chế: Số liệu thường xuyên thay đổi, thực tiễn luôn ln biến động
theo chiều hướng khác nhau, khó có thể sử dụng được nhiều lần.
- Ví dụ:
6. Các bước thiết kế bài dạy học môn GDCD.
1. Xác định mục tiêu dạy học: Học xong bài này HS có được cái gì ?
Mục tiêu kiến thức:
Biết: ghi nhớ, nhận biết. Hiểu: hiểu và diễn giảng. Vận dụng: chuyển tải
kiến thức vào tình huống mới, chuyển từ sự việc này sang sự việc khác.
Phân tích: xác định các thành phần và xác lập mối quan hệ. Tổng hợp: gộp
các thành phần khác nhau thành một sự vật tổng thể nguyên vẹn có thể có.
Đánh giá: định giá, nhận xét, đưa ra những ý kiến về một vấn đề.
Mục tiêu kĩ năng
- Các kĩ năng về thu lượm thơng tin
- Các kĩ năng xử lí thơng tin
- Các kĩ năng truyền đạt thông tin
- Kĩ năng vận dụng kiến thức
- Kĩ năng thực hành GDCD.
Mục tiêu thái độ:
- Sự hứng thú học tập môn GDCD
- Ý thức sẵn sàng áp dụng những hiểu biết của mình vào các hoạt động
trong gia đình và xã hội
- Tác phong làm việc khoa học, cẩn thận, tỉ mỉ
- Tính trung thực trong khoa học
- Tinh thần nỗ lực phấn đấu cá nhân, kết hợp chặt chẽ với tỉnh thần hợp tác
trong học tập và nghiên cứu.
2. Xác định nội dung: Dạy cái gì?
Chương trình là pháp lệnh cần phải tuân theo, còn SGK là tài liệu giảng
dạy và học tập bắt buộc (vì nó chứa đựng chuẩn kiến thức cơ bản, chủ yếu,
thống nhất trong phạm vi cả nước). Chọn kiến thức cơ bản là chọn kiến
thức trong SGK.
Để nắm vững chương trình và SGK, một mặt GV phải nắm vững nội dung
từng phần, từng bài; mặt khác, lại phải nắm vững tính tổng thể của tồn bộ
chương trình và quan hệ giữa các chương, bài. Chỉ có như vậy GV mới
xác định đúng đắn những đơn vị kiến thức, những khái niệm, phạm trù,...
cần đi sâu, cần bổ sung, lược bớt,... mà không làm ảnh hưởng đến chuẩn
kiến thức hoặc tính hệ thống của các đơn vị kiến thức.
3. Xác định các PPDH tương ứng với từng nội dung cụ thể và những
phương tiện dạy học cần thiết: Dạy như thế nào?
Một là, căn cứ vào mục tiêu của bài dạy.
Hai là, Căn cứ vào nội dung của bài dạy.
Ba là, căn cứ vào các giai đoạn của quá trình nhận thức
Bốn là, căn cứ vào đối tượng học sinh.
Năm là, căn cứ vào điều kiện vật chất của việc dạy học
Sáu là, căn cứ vào năng lực tay nghề của giáo viên
4. Xác định hình thức tổ chức dạy học: lớp, nhóm;...
Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học nào thích hợp nhất tùy thuộc vào
nhiều yếu tố (mục tiêu, nội dung, đối tượng HS, điều kiện thời gian,
phương tiện và PPDH,...).
Thường thì đối với những nội dung khơng q khó, vừa sức, GV có thể tổ
chức cho HS học cá nhân với SGK để nắm kiến thức, làm các bài tập, trả
lời các câu hỏi....
- Đối với những nội dung có nhiều vấn đề mà một cá nhân khơng thể giải
quyết thấu đáo thì có thể tổ chức làm việc theo nhóm nhỏ.
Đối với những vấn đề có thể gây ra những cách hiểu khác nhau, thì có thể
tổ chức học cả lớp
5. Xác định tiến trình hoạt động dạy học cụ thể.
- Ổn định tổ chức lớp
- Kiểm tra bài cũ
- Tổ chức cho HS lĩnh hội tri thức mới (trước khi thực hiện bước này có
hoạt động mở đầu bài học)
- Củng cố bài học
- Hướng dẫn hoạt động nối tiếp.