Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Đảng cộng sản Việt Nam, nhân tố lãnh đạo quyết định mọi thắng lợi của cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.31 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ NHÂN TỐ CƠ BẢN LÃNH ĐẠO VÀ TỔ
CHỨC MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
MỤC LỤC
PHẦN 1. MỞ ĐẦU. ..............................................................................................4
PHẦN 2. NỘI DUNG.. ..........................................................................................5
2.1 Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam........................................................5
2.1.1 Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam............................................................5
2.1.1.1 Sự chuyển biến của phong trào yêu nước Việt Nam, và các tổ chức cộng
sản ra đời.............................................................................................5
2.1.1.2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. ....................................6
2.1.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.. .....................................................7
2.2. Sự lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam trong các giai đoạn cách mạng..9
2.2.1 Sự lãnh đạo và nắm bắt thời cơ tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn tới
thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945........................................9
2.2.1.1. Bối cảnh lịch sử...................................................................................9
2.2.1.2. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã dẫn tới thành công Cách mạng tháng
Tám năm 1945. ...................................................................................9
2.2.2 Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng, bảo vệ chính quyền
cách mạng, Đường lối của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1945-1954).................................................................................. 12
2.2.2.1. Đường lối kháng chiến toàn quốc đúng đắn của Đảng và quá trình tổ chức
thực hiện từ năm 1946 đến năm 1950.. ...............................................12
2.2.2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta, đẩy mạnh cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi ( 1951 - 1954 ).................... 15
2.2.3. Đảng lãnh đạo xây dựng thành công Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc và kháng
chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
( 1954-1975 )................................................................................................ 17
2.2.3.1. Đảng lãnh đạo tồn thể nhân dân xây dựng thành cơng Chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc................................................................................................17


2.2.3.2. Đảng lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.. ................................................19


2.2.3.2.1. Đảng lãnh đạo đánh thắng chiến lược “ chiến tranh Đặc Biệt “ ở miền
Nam ( 1961-1965 ). ....................................................................19
2.2.3.2.2. Đảng lãnh đạo phá tan chiến lược “ chiến tranh Cục Bộ “ ở miền Nam
( 1965- 1968 )..............................................................................20
2.2.3.2.3. Đảng lãnh đạo nhân dân đánh bại chiến lược “ Việt Nam Hóa chiến
tranh “ để dẫn tới cuộc Tổng tiến cơng và nổi dậy mùa Xn năm
1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước ( 1969-1975 )…21
2.2.4. Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng xã hội mới (từ năm 1975 đến nay)....23
2.3. Sự lãnh đạo của đảng - nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng việt
nam.........................................................................................................................24
2.3.1. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc........................................................................................................ 24
2.3.2. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển đất
nước.. .........................................................................................................24
2.4. Những kinh nghiệm và bài học của đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng
việt nam .................................................................................................................25
PHẦN 3. KẾT LUẬN............................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................28

2


PHẦN 1. MỞ ĐẦU.
Thấm thốt thời gian đã trơi qua kể từ lúc lá cờ cách mạng tung bay trên hang ổ
của bọn nguỵ quyền, đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của cách mạng Việt Nam cho
đến nay, nhưng không thể làm phai mờ được hồi ức mãi mãi trong mỗi con người

chúng ta về một trang sử hào hùng, vẻ vang về một chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt
Nam trước một đế quốc hùng mạnh nhất thế kỷ XX. Chiến thắng này càng khẳng định
thêm sự lãnh đạo đúng đắn và tài tình của Đảng, càng nâng cao uy tín của Đảng trong
lịng dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành cơng, xóa bỏ hồn tồn chế độ thực dân phong kiến, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến
nay đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là nhân tố cơ bản lãnh đạo và tổ
chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Kết quả của cuộc thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là sản phẩm tất yếu
của tồn bộ q trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của dân tộc Việt Nam vì độc lập, tự
do và chủ nghĩa xã hội. Nó bắt nguồn trước hết từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự
lãnh đạo chiến lược và sách lược tài tình của Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính
trị. Có thể tóm tắt thành cơng nổi bật của sự chỉ đạo chiến tranh chống Mỹ, cứu nước
trong một câu: “biết mở đầu đúng, biết đánh lâu dài và biết kết thúc đúng”. Sau hai
mươi mốt năm chiến đấu kiên cường với nhiều hy sinh, mất mát, nhân dân ta đã đánh
bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, một cuộc chiến tranh có quy mơ lớn
nhất, dài ngày nhất và ác liệt nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. “Thắng lợi này
mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một
biểu tượng sáng ngời về sự tồn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ
con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự
kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. Thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam là thắng lợi có tính chất thời
đại, mở ra một kỷ nguyên mới vô cùng thuận lợi cho phong trào cách mạng thế giới.

3



Trong thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng Cộng Sản Việt Nam
đóng vai trị rất quan trọng. Chính sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nguyên nhân dẫn
đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đảng ln đề ra những đường lối chính
trị, đường lối quân sự, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo và độc lập, tự chủ.
Từ một đất nước bị chia cắt làm hai miền, có hai chế độ chính trị, xã hội khác nhau,
Đảng nhận thức đầy đủ những khó khăn cũng như thuận lợi mà nó tạo ra. Đồng thời
hoạch định đúng đường lối, chiến lược, sách lược và phương pháp đấu tranh cho từng
miền, để phối hợp sức mạnh Bắc-Nam hoàn thành nhiệm vụ chung của cả nước.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính vì thế, để nhắc nhở, và tưởng nhớ đến công
lao to lớn ấy một lần nữa, em xin được chọn đề tài “ Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân
tố cơ bản lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam” để nghiên cứu
viết đề tài tiểu luận này.
PHẦN 2. NỘI DUNG.
2.1 Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.1.1 Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.1.1.1 Sự chuyển biến của phong trào yêu nước Việt Nam, và các tổ chức cộng
sản ra đời.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam rơi vào cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước. Ngọn cờ cứu nước của giai cấp phong kiến đã lỗi
thời, ngọn cờ của giai cấp tư sản cũng khơng phất cao lên được, điển hình là thất bại
của cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân Đảng tiến hành. Cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước thực chất là cuộc khủng hoảng về sự lãnh đạo cách mạng
của một giai cấp tiên tiến mà đại biểu là chính đảng cách mạng. Đất nước trong cơn bế
tắc, “tình hình đen tối như khơng có đường ra”, năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm
đường cứu nước, Người đã tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam,
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng của giai cấp công nhân và
dân tộc Việt Nam.

Với sự nỗ lực cố gắng truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phòng trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc và những hoạt động yêu
nước tích cực của các cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên trên
cả nước đã có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng
cách mạng vô sản, nâng cao ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp
cơng nhân. Vì vậy, phong trào công nhân đã nổ ra mạnh mẽ, sôi nổi, đều khắp ba kỳ.
Phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của nông dân và các tầng lớp thị dân càng
phát triển sơi nổi thì càng địi hỏi phải có người tổ chức và lãnh đạo. Nhu cầu thành
lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng dân tộc và gánh vác
vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc được đặt ra, và ngày càng trở nên bức
xúc đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
- Các tổ chức cộng sản ra đời.

4


Đến năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam,
tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên khơng cịn thích hợp và đủ sức lãnh đạo
phong trào. Trước tình hình đó, tháng 3-1929, những người lãnh đạo Kỳ bộ Bắc Kỳ
(Trần Văn Cung, Ngơ Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu...) họp tại số nhà
5D, phố Hàm Long, Hà Nội, quyết định lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam.
Ngày 17-6-1929, khoảng 20 đại biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà
312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng;
thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa liềm làm Đảng kỳ và quyết định xuất
bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.
Trước ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng, những thanh niên yêu nước ở
Nam Kỳ theo xu hướng cộng sản, lần lượt tổ chức nững chi bộ cộng sản. Tháng 111929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành
lập tại Khánh Hội, Sài Gịn, cơng bố Điều lệ, quyết định xuất bản Tạp chí Bơnsơvích.
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng Đảng (là một tổ chức thanh niên yêu nước có
cả Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai…) chịu tác động mạnh mẽ của Hội Việt Nam

Cách mạng thanh niên - đã đi theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Tháng 9-1929,
những người tiên tiến trong Tân việt cách mạng Đảng họp bàn việc thành lập Đơng
Dương Cộng sản Liên đồn. Cho đến cuối tháng 12-1929, tại Đại hội các đại biểu liên
tỉnh tại nhà đồng chí Nguyễn Xuân Thanh - Ủy viên Ban Chấp hành liên tỉnh (ga Chợ
Thượng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), nhất trí quyết định “Bỏ tên gọi Tân Việt. Đặt
tên mới là Đơng Dương Cộng sản liên đồn”. Khi đang Đại hội, sợ bị lộ, các đại biểu
di chuyển đến địa điểm mới thì bị địch bắt vào sáng ngày 1-1-1930.
Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm 1929
đã khẳng định bước tiến về chất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng
sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ đường lối của Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế
Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính,
tình trạng đó khơng tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức
trên cả nước.
Trước tình hình đó, theo tài liệu (ghi ngày 27-10-1929) của Quốc tế Cộng sản gửi
những người cộng sản Đông Dương, nêu rõ: “Việc thiếu một Đảng Cộng sản duy nhất
trong lúc phong trào quần chúng công nhân và nông dân ngày càng phát triển, đã trở
thành một điều nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt của cuộc cách mạng ở
Đơng Dương”. Vì vậy: “Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những
người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp
của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng ở Đơng
Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức duy nhất ở Đông Dương”.
2.1.1.2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại Hà
Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 1/1/1930,

5



những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng)
đã họp và thành lập Đơng Dương Cộng sản Liên Đồn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên ở một
nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ
chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải
thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng
sản ở Việt Nam.
Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc)
dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Trong
Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và
thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ,
thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đơng Dương”. Hội nghị đã nhất
trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến
công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc
lột, nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược
vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập
Đảng.
2.1.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Cương lĩnh chính trị là văn kiện cơ bản, xác định rõ mục tiêu, đường lối nhiệm vụ
chiến lược, phương pháp hoạt động... của một chính đảng, hoặc một tổ chức chính trị
trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Cương lĩnh chính trị là cơ sở thống nhất ý chí và
hành động của tồn Đảng, là ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng xã hội nhằm
phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Cương lĩnh là văn bản quan
trọng và cao nhất của Đảng, có tính chiến lược lâu dài nhằm định hướng, chỉ đạo to
lớn, toàn diện đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước trong một giai đoạn lịch sử

nhất định. Hai văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội
nghị thành lập Đảng : Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng
đã phản ánh những nội dung cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược cách mạng
Việt Nam - đó là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Cương lĩnh xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam, xác định
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Mục tiêu chiến lược được nêu
ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa
nằm trong phạm trù của cách mạng vơ sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp và giải phóng con người, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu chiến
lược nêu trên đã chỉ rõ tính chất và phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam
- một nước thuộc địa nửa phong kiến là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành
độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho người cày, đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản.

6


Về phương diện chính trị, Cương lĩnh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của
cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm
cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ cơng nơng binh. Tổ
chức ra qn đội công nông”. Các nhiệm vụ trên đây đã phản ánh đúng mâu thuẫn cơ
bản của xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến và đáp ứng đúng yêu cầu bức thiết
của cách mạng Việt Nam lúc này là đánh đuổi đế quốc xâm lược để giành lại độc lập
cho dân tộc. Vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc được đặt đúng tầm quan trọng của
nó trong mối quan hệ với đấu tranh giai cấp. Ở một nước thuộc địa, thì vấn đề có tầm
quan trọng hàng đầu là giải phóng dân tộc, giành độc lập hồn tồn.
Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “ Dân chúng được tự do tổ chức.
Nam nữ bình quyền,v.v. Phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hố”.
Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu

hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ
nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ cơng nơng binh quản lý; thâu hết ruộng đất của đế
quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo;
mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm tám giờ… Những
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về phương diện xã hội và phương diện kinh tế nêu
trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã hội, cần được giải quyết ở Việt Nam, vừa
thể hiện tính cách mạng, tồn diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc ách thống trị, bóc lột hà
khắc của ngoại bang, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội,
đặc biệt là giải phóng cho hai giai cấp cơng nhân và nơng dân.
Về lực lượng cách mạng, ngay khi phân tích tình hình xã hội Việt Nam sau khi
Pháp thống trị, Cương lĩnh đã chỉ rõ thái độ chính trị của từng giai cấp, trong đó chỉ rõ
“ tư bản bản xứ khơng có thế lực gì ta khơng nên nói cho họ đi về phe đế quốc được,
chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”. Do vậy,
Cương lĩnh xác định lực lượng cơ bản của cách mạng là công nhân, nơng dân, trong đó
giai cấp cơng nhân lãnh đạo; đồng thời Cương lĩnh chủ trương đoàn kết tất cả các giai
cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, nhưng đồng thời “Đảng phải hết sức
liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng… để kéo họ đi vào phe vơ sản giai cấp.
Cịn đối với bọn phú nơng, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”.
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng định
phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng để giải phóng dân tộc, chứ
khơng thể là con đường cải lương thoả hiệp “không khi nào nhượng một chút lợi ích gì
của cơng nơng mà đi vào đường thoả hiệp”. Có sách lược đấu tranh cách mạng thích
hợp để lơi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng về phía giai cấp vơ sản, cịn “bộ phận
nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”.
Về xác định lực lượng đồng minh quốc tế, Cương lĩnh phát triển quan điểm về mối
quan hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vơ sản ở chính quốc, cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cương lĩnh chỉ rõ: “trong khi
tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực

hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp

7


Pháp”. Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định tính tự
lực tự cường, đồng thời xác định rõ lực lượng đồng minh quốc tế đó là sự đồn kết,
ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản
Pháp. Đồng thời, Cương lĩnh cịn phân hố kẻ thù khi xác định đánh đổ thực dân Pháp,
nhưng chủ trương đoàn kết với giai cấp vơ sản thế giới, trong đó, “nhất là đồn kết với
giai cấp vô sản Pháp”.
Sau khi xác định vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định : “Đảng là đội
tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Đây chính là nội dung về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng được chỉ rõ ngay trong văn kiện đầu tiên của Đảng mới được thành
lập. Cương lĩnh xác định vai trò lãnh đạo, nhưng để lãnh đạo được thì phải “thu phục
cho được đại bộ phận giai cấp mình”, Đảng muốn “thu phục” thì phải tự đổi mới, tự
chỉnh đốn Đảng, phải nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; Đồng thời
“làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng” thì Đảng cần phải thường xuyên
chú trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về cả tư tưởng, chính trị, tổ
chức và đạo đức, mới “có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”.
2.2. Sự lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam trong các giai đoạn cách mạng.
2.2.1 Sự lãnh đạo và nắm bắt thời cơ tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn
tới thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng lên phá bỏ xiềng xích nơ lệ gần một thế kỷ dưới
ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và hàng nghìn năm của chế độ quân
chủ; giành quyền làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mới. Mở ra một kỷ nguyên mới
trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và Chủ nghĩa xã hội. Và khơng ai có
thể phủ nhận được vai trị lãnh đạo của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng là nhân tố

chủ quan quan trọng nhất quyết định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.
2.2.1.1. Bối cảnh lịch sử.
Đến tháng 8-1945, ở Việt Nam tình thế khách quan vơ cùng thuận lợi xuất hiện.
Thực hiện lời cam kết ở Hội nghị Yanta, ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với
Nhật, quân đội Liên Xô tấn công đội quân Quan Đông tinh nhuệ nhất gồm hơn 1 triệu
quân của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Bên cạnh việc quân đội Liên Xơ tiến đánh
qn đội Nhật thì Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirôsima ngày (6-8-1945) và
Nagadaki ngày (9-8-1945). Trước sức mạnh của đồng minh, ngày 11-8-1945 Chính
phủ Nhật gửi thông điệp cho Liên Xô, Mỹ và các nước Đồng minh chấp nhận đầu
hàng vô điều kiện. Đúng như dự đốn của lãnh tụ Hồ Chí Minh thì đây là cơ hội nghìn
năm có một để nhân dân ta thực hiện tổng khởi nghĩa.
Lúc này, thời cơ đã đến. Thời cơ xuất hiện trong những ngày tháng 8 - 1945
khơng chỉ có ở Việt Nam mà cịn ở nhiều nước Đơng Nam châu Á bị qn đội Nhật
chiếm đóng. Các nước này tuy có điều kiện khách quan thuận lợi giống như ở Việt
Nam, nhưng không chớp được thời cơ khởi nghĩa hoặc kịp thời phát động tổng khởi
nghĩa nhưng thành quả thu được khơng nhiều, vì lực lượng chưa được chuẩn bị đầy đủ,
Đảng tiên phong chưa nắm được quyền lãnh đạo cách mạng… Chỉ có duy nhất ở Việt

8


Nam từ khi Đảng thành lập năm 1930 đến năm 1945, Đảng từng bước chuẩn bị lực
lượng, sẵn sàng chờ thời cơ đến và kịp thời chớp thời cơ, lãnh đạo nhân dân Tổng khởi
nghĩa thắng lợi.
2.2.1.2. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã dẫn tới thành công Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
Đảng đã vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, ra sức và tích cực chuẩn bị lực lượng để đón thời cơ giành thắng lợi chứ khơng
khoanh tay chờ thời một cách bị động. Sự lãnh đạo tích cực của Đảng trong việc
chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền, được thể hiện trên 3

mặt sau:
Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt
sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ đến.
Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cao trào cách mạng
1930 - 1931, đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám.
Tuy bị đế quốc và tay sai dìm trong máu lửa, nhưng cao trào cách mạng 1930-1931 là
bước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến tiến trình phát triển về sau của Cách
mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng và khối liên minh công nông là những nhân tố
chiến lược đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cao trào dân chủ 1936 - 1939,
là cuộc tổng diễn tập thứ 2 chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám. Cuộc vận động giải
phóng dân tộc 1939 - 1945 là cuộc diễn tập thứ ba trực tiếp dẫn đến thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám. Đặc biệt, trong thời kỳ cao trào kháng Nhật, cứu nước (thời kỳ tiền
khởi nghĩa), sau chỉ thị “Nhật pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày
12/3/1945, Đảng lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa từng phần, làn sóng khởi
nghĩa phát triển mau lẹ, kịp thời và dâng lên gần như đồng thời ở nhiều nơi... Trong
thời kỳ tiền khởi nghĩa, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt. Nhân dân Việt
Nam, nhất là quần chúng trong các tổ chức Cứu quốc, từ lâu đã sẵn sàng hy sinh để
giành độc lập, quyết tâm chiến đấu.
Hai là, Đảng tích cực vận động, lơi kéo tầng lớp trung gian gồm có tiểu tư sản, tư
sản dân tộc và các nhân sĩ yêu nước trong giai cấp địa chủ… đứng về phía cách mạng.
Chính sách của Đảng với tầng lớp trung gian trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám
là: phê bình, uốn nắn, vạch đường lối, chân thành đoàn kết cùng nhau đưa cách mạng
đến thành công. Chẳng những thẳng thắn phê bình mà Đảng cịn chân thành đồn kết
trong hành động thực tế. Đảng giúp đỡ các tầng lớp trung gian lập ra tổ chức của mình
để phát huy năng lực phục vụ Tổ quốc. “Tháng 6 năm 1944 Đảng dân chủ Việt Nam ra
đời với tư cách là một chính đảng cách mạng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức
yêu nước tiến bộ” làm cho thành phần tổ chức của Mặt trận Việt Minh ngày thêm
phong phú và khả năng hiệu triệu của tầng lớp trung gian tham gia đánh đuổi Nhật
càng được tăng thêm. Tuy vậy, cho đến cuộc đảo chính của Nhật ngày 9-3-1945 các
tầng lớp trung gian tham gia phong trào cách mạng chống Nhật - Pháp vẫn chưa đông

đảo. Bởi một số nhân vật trung gian khác, tuy hiểu rằng Nhật chẳng tốt đẹp gì, nhưng
thiếu quan điểm đấu tranh cách mạng nên lập lờ chủ trương lợi dụng Nhật hoặc lợi
dụng chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim để xây dựng lực lượng cho Việt Nam để sau

9


này Nhật thua có thể chống Pháp nếu Pháp quay trở lại xâm lược lần nữa, điển hình là
tổ chức Tân Việt Nam hội. Hơn nữa, bộ mặt có vẻ trung gian của nội các bù nhìn Trần
Trọng Kim cũng làm cho nhiều người mắc lừa…Trước tình hình đó, Đảng chủ trương
phải vạch mặt chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim "Thân phận bù nhìn của nó chỉ giữ
được bù nhìn, phương châm của nó hứa hẹn nhiều nhưng thực hành ít, hay thực hành
trái với lời hứa. Nhiệm vụ của nó là bọc nhung cho ách Nhật và hùa với giặc áp bức
bóc lột nhân dân”, và bóc dần cái vẻ độc lập giả hiệu của phát xít Nhật... Sự phê bình,
giúp đỡ của Đảng đã làm cho quần chúng trung gian dần dần tỉnh ngộ và đi theo cách
mạng. Ngày 13/8/ 1945, sau khi Nhật đầu hàng đồng minh tầng lớp trung gian nói
chung đều theo cách mạng.
Ba là, Đảng tiền phong đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sẵn sàng lãnh đạo
quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngay từ năm 1930 tại Hội nghị thành lập Đảng, Chánh cương vắn tắt của Đảng
xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Đường lối chiến lược và
sách lược của Đảng đúng đắn ngay từ đầu và không ngừng được bổ sung, phát triển
cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt tại Hội nghị lần thứ Tám của Ban
Chấp hành Trung ương (5/1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì đã đề ra
chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng. Hội nghị quyết định tiếp tục chủ trương
tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh thủ mở rộng Mặt trận Dân tộc thống
nhất. Hội nghị nhấn mạnh “Trong lúc này nếu khơng giải quyết được vấn đề dân tộc
giải phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn
thể quốc gia, dân tộc cịn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của các bộ phận, giai

cấp đến vạn năm cũng khơng địi được”. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt
Minh, xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi
nghĩa.
Đêm 9-3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp, ngay đêm đó Hội nghị Ban Thường vụ
Trung ương mở rộng được triệu tập tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí
Trường Chinh chủ trì. Ban thường vụ Trung ương Đảng nhận định về thời cơ có thể nổ
ra khởi nghĩa: Tình hình chính trị trong cả nước khủng hoảng sâu sắc, nạn đói ghê gớm
diễn ra, chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt là những cơ hội tốt cho khởi nghĩa đi đến
chín muồi một cách nhanh chóng; Khi qn Đồng minh kéo vào Đơng Dương, khi
phát xít Nhật đưa quân ra ngăn cản quân Đồng minh, để sau lưng sơ hở thì lúc đó là
lúc phát động khởi nghĩa vô cùng thuận lợi. Đồng thời bản Chỉ thị nói rõ “Dù sao ta
khơng thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho
cuộc khởi nghĩa của ta, vì như thế lại ỷ vào người và tự bỏ tay trong khi tình thế biến
chuyển thuận tiện. Nếu cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân
dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn
chinh của Nhật mất tinh thần thì khi ấy quân đồng minh chưa đổ bộ vào Đơng Dương
thì cuộc tổng khởi nghĩa của ta có thể bùng nổ thắng lợi”. Dự kiến này gần đúng với sự
thật diễn ra trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Thực hiện chỉ thị trên, Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu nước (thời kỳ
tiền khởi nghĩa) lãnh đạo toàn dân gấp rút chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành

10


chính quyền trong cả nước. Hội nghị thay đổi khẩu hiệu (đánh đuổi phát xít Nhật Pháp) trước đây bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật và đề ra việc thành lập chính
quyền cách mạng của nhân dân. Bản Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta” thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời nhạy bén, bình tĩnh thận
trọng và sáng tạo. Bản chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của Mặt
trận Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nước, quyết định trực tiếp đối với thắng
lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.

Để chuẩn bị tích cực và khẩn trương hơn nữa cho việc khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền trong cả nước. Ban thường vụ Trung ương triệu tập hội nghị quân sự Bắc
Kỳ ở Hiệp Hoà, Bắc Giang (16-4-1945). Hội nghị quyết định thống nhất các lực lượng
vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân; phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và
nửa vũ trang; xây dựng căn cứ kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp
thời cơ. Trong cao trào tiền khởi nghĩa, tất cả các hoạt động của Đảng về chính trị,
quân sự, tư tưởng đều chĩa mũi nhọn vào phát xít Nhật và chính phủ bù nhìn thân
Nhật, nhằm mục tiêu trước mắt là tổng khởi nghĩa giành chính quyền . Vừa được tin
quân Nhật hồn tồn tan rã và xin đầu hàng Liên Xơ và các nước Đồng minh, ngày
13/8/1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc ở Tân Trào (Tuyên Quang). Hội
nghị nhận định thời cơ cho ta giành độc lập đã tới, Đảng phải kịp thời phát động, lãnh
đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai
của chúng trước khi quân Đồng minh Anh, Mỹ vào Việt Nam. Ngay đêm 13-8-1945,
Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập do đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư
phụ trách. Uỷ ban đã ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam đã gửi thư tới đồng bào cả nước kêu gọi
nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đến đây, trong một thời gian dài chuẩn bị
lực lượng từ năm 1930. Đảng sẵn sàng lãnh đạo quần chúng nhân dân chớp thời cơ nổi
dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đây là nhân tố vơ cùng quan trọng để cuộc
khởi nghĩa giành thắng lợi.
Tóm lại, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là bởi nhiều yếu tố, đặc biệt là nhận
định thời cơ và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Bên cạnh đó cũng khơng phủ nhận
tinh thần dũng cảm và sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta. Sự kết hợp chặt chẽ đường
lối, chủ trương đúng đắn của Đảng với sự quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta đã làm
nên chiến thắng vang dội Cách mạng Tháng Tám. Và phải nhấn mạnh rằng nếu Đảng
tiên phong không chuẩn bị đầy đủ, không kịp thời chớp lấy thời cơ thì dù điều kiện
khách quan có thuận lợi đến đâu cách mạng cũng khơng nổ ra được. Để từ đó khắc sâu
một lần nữa về sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
2.2.2 Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng, bảo vệ chính quyền
cách mạng, Đường lối của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

xâm lược (1945-1954).
2.2.2.1. Đường lối kháng chiến toàn quốc đúng đắn của Đảng và quá trình tổ chức
thực hiện từ năm 1946 đến năm 1950.
- Đường lối kháng chiến toàn quốc đúng đắn của Đảng.

11


Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp,
Trung ương ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, kịp thời đề ra chủ trương đối phó và
quyết định phát động tồn dân kháng chiến chống thực dân Pháp với quyết tâm “
Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô
lệ”. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến
khẳng định quyết tâm sắt đá của nhân dân ta quyết kháng chiến đến cùng để bảo vệ
nền độc lập, tự do.
Đường lối kháng chiến được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện quan trọng của
Đảng: bắt đầu từ bản Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc (ngày 25-11-1945), tiếp đến là
Công việc khẩn cấp bây giờ (tháng 10-1946), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến ngày 1212-1946 và Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 1912-1946), những quan điểm cơ bản của đường lối kháng chiến đã hình thành. Giữa
năm 1947, Tổng Bí thư Trường Chinh đã viết một loạt bài báo nhằm hướng dẫn việc
thực hiện đường lối của Đảng, những bài viết này được tập hợp thành cuốn sách
Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Tác phẩm Trường kỳ kháng chiến nhất
định thắng lợi đã thể hiện những quan điểm cơ bản về đường lối kháng chiến của
Đảng, đó là đường lối: "toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính” đưa
cuộc kháng chiến của nhân dân ta đi đến thắng lợi. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
II của Đảng (tháng 2-1951) tổng kết 5 năm kháng chiến đã bổ sung và phát triển
đường lối kháng chiến, khi kháng chiến đã phá thế bị bao vây và đế quốc Mỹ can thiệp
sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Về cơ bản, đường lối chung của cuộc kháng
chiến tập trung một số nội dung:
Về mục đích kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ là sự kế thừa và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám nhằm đánh đổ thực

dân Pháp xâm lược, giành thống nhất, độc lập hồn tồn.
Về tính chất của cuộc kháng chiến: Đảng khẳng định đây là cuộc chiến tranh cách
mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất tồn dân, tồn diện, lâu
dài. Do vậy, đó là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hịa hình có
tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới. Đảng chủ trương liên hiệp với dân tộc
Pháp, chống phản động thực dân Pháp, đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc u
chuộng tự do, hịa bình.
Về phương châm kháng chiến: Đảng chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân,
thực hiện "kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính".
Kháng chiến tồn dân: là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên tồn
dân, đồn kết tồn dân tộc tích cực tham gia cuộc kháng chiến. Phải xây dựng sự đồng
thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến
sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi phố là một mặt trận”. Trong đó Quân đội nhân dân
và các lực lượng vũ trang là lực lượng làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc.
Kháng chiến toàn diện: là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ
bằng quân sự mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó trên
mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang trang vai trị mũi nhọn, mang tính quyết định.
Phát huy mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc để phục vụ kháng chiến thắng lợi.

12


Kháng chiến lâu dài: Xuất phát từ sự so sánh lực lượng, ban đầu địch mạnh, ta yếu
nên Đảng chủ trương đánh lâu dài. Vừa đánh vừa xây dựng phát triển lực lượng, đồng
thời tích cực tiêu hao, tiêu diệt địch để so sánh lực lượng sẽ dần có lợi cho và ta sẽ
chuyển từ yếu thành mạnh, tiến tới đánh thắng thù. Song, Đảng khẳng định đánh lâu
dài nhưng phải tạo thế chủ động phát triển thế và lực, tạo thời cơ giành thắng lợi quyết
định.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính: là dựa vào sức lực của nhân dân, vào
đường lối đúng đắn của Đảng, vào các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa của đất

nước, đồng thời ra sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để chiến thắng
kẻ thù.
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành trong những năm đầu của cuộc
chiến tranh chống Pháp là hoàn toàn đúng đắn, trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối,
động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó đã huy động và
phát huy cao nhất mọi nguồn lực, mọi nguồn sức mạnh của toàn dân tộc để đánh thắng
kẻ thù xâm lược, tranh thủ và phát huy cao độ hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế đối với
cuộc kháng chiến. Đường lối kháng chiến của Đảng được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng
trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết
định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Đảng tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1950.
Sau khi đề ra Đường lối kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược và
can thiệp Mỹ, thì Đảng ta tiếp tục chủ trương, chỉ đạo kháng chiến từ năm 1947- 1950.
Sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường, Nhà nước dân chủ nhân dân ngày càng vững
mạnh, mặt trận Việt Minh, Liên Việt và các đoàn thể cách mạng đã tập hợp rộng rãi
khối đại đoàn kết dân tộc.
Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội: Đảng tiếp tục chủ trương đẩy mạnh phong
trào tăng gia sản xuất, tự cấp, tự túc lương thực, đảm bảo đời sống cho bộ đội và nhân
dân. Duy trì phong trào bình dân học vụ, dạy và học cho các trường phổ thông các cấp.
Tìm hướng đi tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của lực lượng tiến bộ và nhân dân thế
giới đối với cuộc kháng chiến, đặt cơ quan đại diện ở Thái Lan, Miến Điện (nay là
Myanmar), cử các đoàn đại biểu đi dự hội nghị quốc tế.
Trên mặt trận ngoại giao: Đảng và Chính Phủ chủ trương tích cực tranh thủ mở
rộng quan hệ ngoại giao với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Ngoại giao từng
bước phá thế bị bao vây, tranh thủ được sự ủng hộ về mọi mặt của đồng chí, bè bạn
trên thế giới. Các nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều Tiên công nhân và đặt
quan hệ ngoại giai với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; ủng hộ , giúp đỡ cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Đặc biệt, trên mặt trận quân sự, để đối phó với cuộc tấn công của địch lên Việt
Bắc, ngày 15/10/1947, Ban Thường Vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị phải phá tan

cuộc tấn cơng mùa đơng của giặc Pháp, trong đó nêu rõ quyết tâm của quân và dân ta,
vạch ra thế yếu của địch và đề ra các nhiệm vụ quân sự cho các chiến trường là phải ra
sức phát động mạnh mẽ cuộc chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ;
chặt đứt giao thông, bao vây không để địch tiếp tế, liên lạc tiếp ứng cho nhau; đồng

13


loạt tấn công địch trên tất cả các hướng tiến công của chúng cả đường bộ và đường
sông.
Sau 75 ngày đêm chiến đấu liên tục, oanh liệt, đến ngày 21/12/1947, quân và dân
ta lần lượt bẻ gãy tất cả các mũi tiến công nguy hiểm của giặc Pháp, loại khỏi vòng
chiến đấu hàng ngàn tên địch. Và ta đã bảo toàn được cơ quan đầu não và căn cứ địa
kháng chiến, đánh bại âm mưu, kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp.
Trên vùng bị tạm chiếm, Đảng chỉ đạo tiếp tục phát triển mạnh chiến tranh du kích
để “ biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta “. Từ giữa năm 1949, tướng
Rơve - Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp đề ra kế hoạch mở rộng chiếm đóng
đồng bằng, trung du Bắc Bộ, phong tỏa, khóa chặt biên giới Việt - Trung. Tháng
6/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở một chiến dịch quân sự lớn
tiến công địch dọc tuyến biên giới Việt - Trung thuộc 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn
( Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 ), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh
lực địch, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, tạo hành lang mở rộng quan hệ thông thương
với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thúc đẩy cuộc kháng chiến
phát triển đến giai đoạn mới. Đây là chiến dịch quân sự lớn, quan trọng đầu tiên do
quân ta chủ động mở; đích thân chủ tịch Hồ Chí Minh đi thị sát và trực tiếp chỉ đạo
chiến dịch.
Cuộc chiến đấu anh dũng và quyết liệt của quân và dân ta diễn ra không nghỉ trong
suốt 30 ngày đêm liên tục, từ 16/9 đến 17/10/1950 và đã giành được thắng lợi to lớn.
Chiến thắng này đã mở ra cục diện mới, đưa cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn
phát triển cao hơn.

2.2.2.2 Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta, đẩy mạnh cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi ( 1951 - 1954 ).
- Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ II và Chính cương của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11 đến ngày 19-21951, tại xã Vinh Quang (nay là Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.
Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày tồn bộ đường lối cách mạng Việt
Nam. Đó là đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nội dung cơ bản của của báo cáo được phản ánh trong Chính cương của Đảng Lao
động Việt Nam được Đại hội thông qua, gồm các nội dung quan trọng sau đây:
Xác định tính chất của xã hội Việt Nam lúc này: “ dân chủ nhân dân, một phần
thuộc địa và nửa phong kiến”. Cuộc kháng chiến để giải quyết mâu thuẫn giữa chế độ
dân chủ nhân dân và các thế lực phản động chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Đối
tượng đấu tranh chính của Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và
can thiệp Mỹ, và phong kiến phản động.
Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam “ là đánh đuổi bọn đế quốc
xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những di tích phong
kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân
dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”. Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Nhiệm vụ
chính lúc này là hồn thành giải phóng dân tộc.

14


Lực lượng của cách mạng Việt Nam gồm các giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Ngồi ra, cịn có những thân sĩ (địa chủ) yêu
nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó hợp lại thành nhân dân mà
nền tảng là công, nông và lao động trí thức. Giai cấp cơng nhân là giai cấp lãnh đạo
cách mạng. Chính cương cũng nêu ra triển vọng phát triển của cách mạng Việt Nam
nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ nhân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nên nhất định sẽ tiến lên
chủ nghĩa xã hội.

Đại hội II thành công là một bước tiến mới của Đảng về mọi mặt, là “Đại hội
kháng chiến kiến quốc”, “thúc đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng
Đảng Lao động Việt Nam” Tuy nhiên, Đại hội cũng có hạn chế, khuyết điểm về nhận
thức là mắc vào tư tưởng “tả” khuynh, giáo điều, rập khn máy móc.
- Đảng lãnh đạo đẩy mạnh kháng chiến chống thực dân Pháp về mọi mặt.
Tháng 9-1951, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai đề ra ba
nhiệm vụ lớn: tích cực tiêu diệt sinh lực địch; phá kế hoạch lấy chiến tranh nuôi chiến
tranh, dùng người Việt đánh người Việt của địch; bồi dưỡng sức dân, xây dựng lực
lượng, củng cố hậu phương.
Để đối phó và làm thất bại kế hoạch Đờ Lát Đờ Tátxinhi, Đảng chủ trương mở liên
tiếp 3 chiến dịch tiến cơng qn sự có quy mơ lớn đánh vào vùng chiếm đóng của địch
ở địa bàn trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nhằm tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, tạo
điều kiện phát triển cuộc chiến tranh du kích vùng sau lưng địch, đó là các chiến dịch
Trung du (Trần Hưng Đạo-12-1950), chiến dịch đường số 18 (Hoàng Hoa Thám 31951) và chiến dịch Hà Nam Ninh (Quang Trung-5-1951). Tiếp đó ta mở chiến dịch
Hịa Bình (12-1951) đánh vào chỗ yếu của địch, phát huy lợi thế của ta và giành được
thắng lợi to lớn. Thu Đông 1952, Đảng chủ trương mở tiếp chiến dịch Tây Bắc nhằm
tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần đất đai và nhân dân vùng Tây
Bắc, phá âm mưu lập “Xứ Thái tự trị” của thực dân Pháp
Trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng, Chính phủ ra sức chăm
lo phát triển lực lượng, củng cố và tăng cường sức mạnh của hậu phương kháng chiến.
Chính phủ phát động cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, động viên
mọi tầng lớp công nhân, nông dân, cán bộ viên chức khắc phục khó khăn, hăng hái lao
động, tăng gia sản xuất tự túc một phần lương thực, thực phẩm; bảo đảm đạn dược,
thuốc men, quân trang, quân dụng cung cấp đủ cho bộ đội.Các mặt văn hóa, y tế, giáo
dục, xây dựng nếp sống mới, củng cố mặt trận dân tộc thống nhất cũng được phát triển
và đạt được nhiều thành tựu mới...
- Kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp.
Tháng 7-1953, Đại tướng H.Navarre (Hăngri Nava) đã vạch ra kế hoạch chính trịquân sự mới lấy tên là “Kế hoạch Nava”, kế hoạch này đã được Hội đồng Quốc phịng
Pháp nhanh chóng thơng qua. Chi phí vật chất cho kế hoạch Nava chủ yếu do Mỹ thực

hiện. Kế hoạch Nava dự kiến thực hiện trong vòng 18 tháng với 2 bước cơ bản nhằm

15


“chuyển bại thành thắng”. Đây được coi là cố gắng cao nhất và cuối cùng của Pháp và
Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương.
Để đánh bại âm mưu và kế hoạch Nava, Đảng chủ trương mở cuộc tiến công chiến
lược Đông Xuân 1953 -1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhằm phát huy sức mạnh
của hậu phương, chi viện tiền tuyến, nhất là lực lượng nông dân, cho cuộc tiến công
chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ. Mọi nguồn nhân tài,
vật lực, dân công tiếp tế, chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ được tăng cường với
hàng vạn ngày công, hàng vạn tấn lương
Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ là chiến thắng của tồn dân tộc Việt Nam, của
lịng u nước sâu sắc, ý chí và khát vọng độc lập tự do của nhân dân Việt Nam mà
nòng cốt là lực lượng. Chiến dịch đánh dấu sự thất bại thảm hại của chủ nghĩa thực
dân Pháp, của quân đội Pháp và hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc,
thực dân trong thế kỷ XX. Thắng lợi ở Điện Biên Phủ “là cột mốc lịch sử bằng vàng”,
là “thiên sử vàng của dân tộc Việt Nam”.
Một ngày sau khi Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ, Hội nghị quốc tế về chấm dứt
chiến tranh họp ở Giơnevơ đã bắt đầu bàn về vấn đề ở Đông Dương. Cuối cùng, ngày
21-7-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến trường kỳ 9 năm của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược.
Bản tuyên bố cuối cùng về lập lại hịa bình ở Đơng Dương được các nước tham dự hội
nghị cam kết chính thức chấp nhận. Đại diện chính phủ Mỹ ra tuyên bố riêng thừa
nhận Hiệp định. Đây là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên công nhận các quyền dân tộc
cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia; đánh dấu kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt
Nam và mở đường cho cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất hoàn toàn cho nhân
dân ba nước Đông Dương sau này.

2.2.3. Đảng lãnh đạo xây dựng thành công Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc và
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước (1954-1975).
2.2.3.1. Đảng lãnh đạo toàn thể nhân dân xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960.
Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hịa bình thống nhất nước nhà”.
Đại hội đã thảo luận và thơng qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai
đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và
Lời kêu gọi của Đại hội.
Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở phân tích tình hình và
đặc điểm nước ta, Đại hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
mới là phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền:

16


Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng, cách mạng ở miền Bắc và cách
mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng, song
trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hịa bình, thống
nhất đất nước.
Về vị trí, vai trị, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền, Đại
hội nêu rõ: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và
bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả

nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát
triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối
với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay
sai, thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước.
Về hịa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương kiên quyết giữ vững đường
lối hịa bình để thống nhất nước nhà, vì chủ trương đó phù hợp với nguyện vọng và lợi
ích của nhân dân cả nước ta cũng như của nhân dân u chuộng hịa bình thế giới. Về
triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống
nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình
đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ
tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta,
Nam Bắc nhất định sum họp một nhà.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc,
trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định
rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách
mạng về mọi mặt.
Từ những luận điểm đó, Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu
nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa
miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời
sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh
cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Thành công lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối
chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó là đường lối tiến
hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền:
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền

Nam, hịa bình thống nhất Tổ quốc.

17


Đó chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt
Nam vừa phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã phát huy và kết hợp được sức mạnh
của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách
mạng trên thế giới.
Trên cơ sở miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa
(1958-1960), Đại hội lần thứ ba của Đảng đã đề ra và chỉ đạo thực hiện kế hoạch năm
năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm xây dựng bước đầu cơ sở vật chất-kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hồn thành
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất là tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; xây dựng một bước cơ
sở vật chất của chủ nghĩa xã hội; cải thiện đời sống nhân dân; bảo đảm an ninh quốc
phòng, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Các biện pháp được Đại hội nhấn mạnh là sử dụng Nhà nước dân chủ nhân dân
làm chức năng của Nhà nước chun chính vơ sản; đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa;
đẩy mạnh công nghiệp hóa, ưu tiên cơng nghiệp nặng đồng thời phát triển nông nghiệp
và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng con người
mới; mở rộng hợp tác kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa,...
Trong những năm thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), miền Bắc
xã hội chủ nghĩa đã không ngừng tăng cường chi viện cách mạng miền Nam. . Đây là
một thành cơng lớn, có ý nghĩa chiến lược của hậu phương miền Bắc với nhiều sự hy
sinh anh dũng của cán bộ chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam trên biển Đông và dãy
Trường Sơn huyền thoại, góp phần vào chiến thắng của quân dân miền Nam đánh bại
chiến tranh xâm lược thức dân mới của đế quốc Mỹ và tay sai giai đoạn 1961-1965…

Sau 10 năm khôi phục, cải tạo và xây dựng chế độ mới, “miền Bắc nước ta đã tiến
những bước dài chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều
đổi mới”. Miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước với chế
độ chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh.
2.2.3.2. Đảng lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
2.2.3.2.1. Đảng lãnh đạo đánh thắng chiến lược “ chiến tranh Đặc Biệt “ ở miền
Nam ( 1961-1965 ).
Từ năm 1961, do thất bại trong thực hiện hình thức điển hình của chủ nghĩa thực
dân mới ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt”. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” là một bộ phận trong chiến lược toàn cầu
“Phản ứng linh hoạt”.
Từ sự phân tích, đánh giá đúng tình hình, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị về “Phương
hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam”. Tinh thần của chỉ
thị là giữ vững thế chiến lược tiến công của cách mạng miền Nam đã giành được từ
sau phong trào Đồng khởi, đưa đấu tranh vũ trang phát triển lên song song với đấu
tranh chính trị, tiến cơng địch trên cả ba vùng chiến lược: đô thị, nông thôn đồng bằng

18


và nông thôn rừng núi, bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận. Trên
thực tế, đây là quyết định chuyển cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam từ khởi
nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng và chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể cho cách
mạng miền Nam là phải tiêu hao, tiêu diệt lực lượng quân đội Sài Gòn và làm phá sản
quốc sách “ấp chiến lược” của địch.
Bộ Chính trị nhấn mạnh, do đặc điểm phát triển không đều của cách mạng miền
Nam, tương quan lực lượng ở mỗi vùng khác nhau, địa hình hoạt động và tác chiến
khác nhau, nên phương châm đấu tranh của ta phải linh hoạt, thích hợp với từng nơi,
từng lúc cụ thể:

Vùng rừng núi: Lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu. Vùng nông thôn đồng bằng:
Kết hợp hai hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị. Vùng đơ thị: Lấy đấu
tranh chính trị là chủ yếu.
Vượt qua khó khăn, cách mạng miền Nam tiếp tục có bước phát triển mới. Trên
mặt trận quân sự ta đã thu được nhiều thắng lợi quan trọng. Trong ba năm 1961-1963,
ta đã đánh hơn 50 trận lớn nhỏ, tiêu biểu là chiến thắng vang dội ở Ấp Bắc (Mỹ Tho).
Chiến thắng Ấp Bắc (2-1-1963) đã thể hiện sức mạnh và hiệu quả của đấu tranh vũ
trang kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, chống địch càn quét và nổi dậy giành
quyền làm chủ.
Tháng 12-1963, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 9, xác định những vấn đề
quan trọng về đường lối cách mạng miền Nam và đường lối đoàn kết quốc tế của
Đảng. Nghị quyết Trung ương lần thứ 9 đã xác định “đấu tranh vũ trang đóng vai trị
quyết định trực tiếp” thắng lợi trên chiến trường.
Tháng 3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt, biểu thị
khối đại đoàn kết và quyết tâm chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước của tồn thể nhân dân. Được sự chi viện tích cực của miền Bắc,
quân và dân miền Nam đã mở nhiều chiến dịch với hàng trăm trận đánh lớn nhỏ trên
khắp các chiến trường, như ở An Lão, Đèo Nhông- Dương Liễu, Việt An, Ba Gia (Khu
V và khu vực Tây Ngun, Trị Thiên), Bình Giã, Đồng Xồi (Nam Bộ). Chiến thắng
Bình Giã (12-1964), Ba Gia (5-1965), Đồng Xồi (7-1965) đã sáng tạo một hình thức
tiến cơng, phương châm tác chiến độc đáo ở miền Nam là: 2 chân (quân sự, chính trị),
3 mũi (quân sự, chính trị, binh vận), 3 vùng (đô thị, nông thôn đồng bằng, miền núi).
Với tinh thần chủ động, sáng tạo, sau hơn 4 năm (từ đầu năm 1961 đến giữa năm
1965), lực lượng cách mạng ở miền Nam đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam.
Đến đầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ được triển
khai đến mức cao nhất đã cơ bản bị phá sản. Đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ là một thắng lợi to lớn nữa có ý nghĩa chiến lược của quân và
dân ta ở miền Nam. Thắng lợi này tạo cơ sở vững chắc để đưa cách mạng miền Nam
tiếp tục tiến lên.

2.2.3.2.2. Đảng lãnh đạo phá tan chiến lược “ chiến tranh Cục Bộ “ ở miền Nam
( 1965- 1968 ).

19


Cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ tiến hành ở miền Nam là một hình thức chiến
tranh trong chiến lược toàn cầu mang tên “phản ứng linh hoạt” của chúng. Đây là cuộc
chiến tranh có quy mơ lớn nhất, mạnh nhất, kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai
với sự tham gia của quân đội Mỹ và nhiều nước chư hầu.
Năm 1965, quân dân ta tập trung tìm hiểu đối phương, tìm cách đánh Mỹ. Quân và
dân miền Nam đã đánh thắng quân chiến đấu Mỹ ở Núi Thành (5-1965), Vạn Tường
(8-1965), Plâyme (11-1965)..., đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 19651966 và 1966-1967, làm thất bại kế hoạch tìm và diệt, bình định nhằm giành quyền
chủ động trên chiến trường của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn. Miền Bắc bước đầu
đánh thắng chiến tranh phá hoại, đảm bảo giao thông thông suốt, chi viện cho chiến
trường ngày càng nhiều và hiệu quả.
Đến cuối năm 1967, cuộc “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ đã được đẩy đến đỉnh cao,
số quân viễn chinh đổ vào miền Nam đã lên 48 vạn, mọi thủ đoạn và biện pháp chiến
tranh đã được sử dụng, thế nhưng, đế quốc Mỹ vẫn không sao thực hiện được các mục
tiêu chính trị và quân sự đã đề ra.
Những thất bại và khó khăn của địch cùng với những thắng lợi to lớn của ta vừa
giành được đã mở ra cho cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam những triển vọng to
lớn. Tháng 7-1967, đồng chí Phạm Hùng, Uỷ viên Bộ Chính trị được cử giữ chức Bí
thư Trung ương cục miền Nam thay đồng chí Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vừa qua
đời. Đồng chí Trần Văn Trà làm Tư lệnh Qn giải phóng miền Nam, đồng chí
Nguyễn Thị Định làm Phó Tư lệnh. Tháng 12-1967, Bộ Chính trị đã ra một nghị quyết
lịch sử, chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới, thời kỳ tiến
lên giành thắng lợi quyết định bằng phương pháp tổng cơng kích - tổng khởi nghĩa vào
tất cả các đô thị, dinh lụy của Mỹ-ngụy trên toàn miền Nam. Được Hội nghị lần thứ 14
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( khóa III ) họp tháng 1/1968 thông qua.

Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một chủ trương táo bạo và sáng
tạo của Đảng, đánh thẳng vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ. Cuộc tổng tiến
cơng và nổi dậy Mậu Thân 1968 là một địn tiến công chiến lược đánh vào tận hang ổ
kẻ thù. Đây là thất bại chiến lược có tính chất bước ngoặt, khởi đầu q trình đi đến
thất bại hồn tồn của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
của đế quốc Mỹ phá sản. Mỹ buộc phải chấp nhận đàm phán với Việt Nam từ ngày 135-1968 tại Pari.
2.2.3.2.3. Đảng lãnh đạo nhân dân đánh bại chiến lược “ Việt Nam Hóa chiến
tranh “ để dẫn tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1969-1975).
Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Tổng thống Mỹ Richard Nixon
(R.Níchxơn) chủ trương thay chiến lược “chiến tranh cục bộ” bằng chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh”, một chính sách rất thâm độc nhằm “dùng người Việt Nam đánh
người Việt Nam” để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ ở miền
Nam.

20


Trước âm mưu, thủ đoạn chiến tranh xảo quyệt của địch, Đảng ta đã đề ra quyết
tâm và chủ trương chiến lược hai bước, thể hiện trong Thư chúc mừng năm mới (1-11969) của Hồ Chí Minh: “Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1970) và Hội nghị Bộ
Chính trị (6-1970) đã đề ra chủ trương mới nhằm chống lại chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh”, lấy nơng thơn làm hướng tiến cơng chính, tập trung ngăn chặn và đẩy lùi
chương trình “bình định” của địch. Về mặt tác chiến, lưu ý trong khi đẩy mạnh tác
chiến chính quy của bộ đội chủ lực, phải kiên quyết thực hiện cho kì được một chuyển
biến mạnh mẽ trong phong trào chiến tranh nhân dân địa phương, phát triển mạnh mẽ
ba thứ quân, tăng cường lực lượng vũ trang tại chỗ.
Trong những năm 1970-1971, cách mạng miền Nam từng bước vượt qua khó
khăn gian khổ, kiên trì xây dựng và phát triển lực lượng, tiến công địch trên cả ba
vùng chiến lược, gây tổn thất to lớn cho địch trong “Việt Nam hóa chiến tranh” và

“Đơng Dương hóa chiến tranh”.
Vào mùa Xn năm 1972, nhằm giành thắng lợi quyết định trong năm bầu cử
tổng thống Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng ở thế
thua, quân ta đã mở cuộc tiến công chiến lược với quy mô lớn, cường độ mạnh. Chỉ
trong thời gian ngắn, quân và dân ta đã phá vỡ ba tuyến phòng ngự mạnh nhất của địch
tại các địa bàn xung yếu Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, tiêu diệt nhiều
sinh lực địch, hỗ trợ đắc lực cho nhân dân các địa phương nổi dậy giành quyền làm
chủ. Đế quốc Mỹ điên cuồng đối phó bằng cách vội vã “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến
tranh ở miền Nam, đánh phá trở lại miền Bắc lần thứ hai từ đầu tháng 4-1972 bằng
những thủ đoạn chiến tranh hủy diệt tàn bạo, song không cứu vãn được tình thế.
- Hiệp Định Paris
Theo Hiệp định Paris về Việt Nam, Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam; Hoa Kỳ cam kết chấm
dứt mọi hoạt động quân sự trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Hoa Kỳ
cam kết rút hết quân đội, các loại nhân viên, cố vấn, vũ khí đạn dược của Hoa Kỳ và
các nước đồng minh của Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Mặc dù phải ký Hiệp định Paris, chấp nhận rút quân khỏi Việt Nam, nhưng đế
quốc Mỹ vẫn ngoan cố, không chịu từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam, mà âm mưu tiếp
tục tiến hành chiến tranh để áp đặt chủ nghĩa thực dân mới và chia cắt lâu dài đất nước
ta.
- Cuộc tổng tiến cơng mùa Xn năm 1975, giải phóng đất nước, thống nhất
đất nước.
Trước tình hình nghiêm trọng nói trên, tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã nêu rõ con đường cách mạng của nhân dân
miền Nam là con đường bạo lực cách mạng và nhấn mạnh: bất kể trong tình huống nào
cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công. Nhiệm vụ giành
dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết
vừa cơ bản trong giai đoạn mới. Tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng là tích cực
phản cơng, chuẩn bị tiến lên hồn tồn giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Bộ


21


Chính trị đề ra quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam với kế hoạch hai năm 19751976 theo tinh thần là: năm 1975 tranh thủ bất ngờ tấn công lớn và rộng khắp, tạo điều
kiện để năm 1976 tiến hành tổng cơng kích-tổng khởi nghĩa, giải phóng hồn tồn
miền Nam. Ngồi kế hoạch nói trên, Bộ Chính trị cịn dự kiến một phương hướng
hành động linh hoạt là nếu thời cơ đến, vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải
phóng miền Nam ngay trong năm 1975. Bộ Chính trị Trung ương Đảng đứng đầu là Bí
thư thứ nhất Lê Duẩn và Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh do Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đứng đầu đã có những quyết sách chiến lược kịp thời, đúng đắn.
Chấp hành quyết định chiến lược nói trên, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân năm 1975 đã diễn ra trên tồn miền Nam, trong đó quyết định là các địn tiến
cơng chiến lược lớn. Cuộc tổng tiến cơng và nổi dậy mùa Xuân 1975 bắt đầu bằng
chiến dịch Tây Nguyên, mở tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột ngày 10-3-1975 đã
giành được thắng lợi. Trước tình hình quân ta thắng lớn ở Tây Nguyên, cuộc họp Bộ
Chính trị ngày 18-3-1975 đã quyết định: giải phóng miền Nam trong năm 1975. Bộ
Chính trị Trung ương Đảng do Tổng Bí thư Lê Duẩn lãnh đạo; Quân ủy Trung ương và
Bộ Tổng tư lệnh đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận định đúng đắn tình
hình và có những quyết sách chiến lược sáng suốt, kịp thời.
Ngày 6-4-1975, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh: Thần tốc,
thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, xốc tới chiến trường giải phóng miền Nam
quyết chiến và tồn thắng.
Cuộc Tổng tiến cơng và nổi dậy đã diễn ra trong 55 ngày đêm từ ngày 10-3 đến
ngày 30-4-1975. Vào 11 giờ 30 phút, ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng phấp phới bay
trên nóc Dinh Độc lập. Tồn bộ chính quyền địch và các đảng phái phản động bị đập
tan, toàn bộ lực lượng vũ trang địch bị tiêu diệt và tan rã. Cuộc tổng tiến công và nổi
dậy Xuân 1975 của quân dân ta đã toàn thắng.
2.2.4. Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng xã hội mới (từ năm 1975 đến nay).
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có
những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng gặp khơng ít khó khăn. Khó khăn lớn nhất là nền

kinh tế sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả nặng nền do chiến tranh để lại.
Trong khi đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên ngồi bao vây, cấm
vận…, ln tìm mọi cách phá hoại cách mạng nước ta. Bắt đầu từ cuối những năm 70
của thế kỷ XX, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trải qua nhiều diễn biến
phức tạp, đặc biệt là sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xơ và Đơng Âu.
Tình hình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Trong 10 năm (1975 - 1985), cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn,
trở ngại, thu được những thành tựu quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng hồn thành
việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội,
nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn để khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến
tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân.

22


Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được
còn thấp so với yêu cầu, kế hoạch và công sức bỏ ra; nền kinh tế có mặt mất cân bằng
nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã
hội.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm,
khẳng định những mặt làm được, phản ánh tích cực những mặt sai lầm, khuyết điểm,
đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế. Đại hội đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Trong các nhiệm kỳ Đại hội VII (1991 -1996), Đại hội VIII (1996 - 2001), Đại hội
IX (2002 - 2006); Đảng đã không ngừng tổng kết thực tiễn để phát triển, hoàn thiện
đường lối đổi mới và lãnh đạo nhân dân ta phát huy tinh thần sáng tạo, thực hiện đổi

mới toàn diện đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4 2006) đã khẳng định: Sau 20 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có
ý nghĩa lịch sử. Điều đó được thực hiện trên cả hai mặt: những thành tựu trong thực
tiễn và trong nhận thức.
Về mặt thực tiễn, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi
cơ bản và tồn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và tăng cường; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh
được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh
tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục
đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Về mặt lý luận, Đảng đã nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội
chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những
nét cơ bản.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng
tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng cũng có mặt, lĩnh vực cịn yếu
kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng là Đảng sớm phát hiện ra
những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm của mình, đề ra những biện pháp sửa chữa đúng
đắn, kịp thời. Đảng cơng khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết
tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng ta được nhân dân tin cậy, thừa
nhận là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
2.3. Sự lãnh đạo của đảng - nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng việt nam.
2.3.1. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc.

23



Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân,
giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa, khi giai cấp tư sản vừa bóc lột giai cấp cơng nhân ở chính quốc, vừa bóc lột
nhân dân thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi triệt để phải đi theo
con đường cách mạng vơ sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản” .
Đảng của giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa nắm lấy và giương cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc, gắn phong trào giải phóng dân tộc trong nước với phong trào cách
mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất có thể thực hiện được nhiệm vụ đó vì
Đảng tập hợp được đơng đảo quần chúng nhân dân đi theo mình. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Vì vậy, có thể nói cách mạng giải phóng dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trước hết là thắng lợi của đường lối cách mạng
giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.3.2. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển
đất nước.
V.I.Lênin khẳng định: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền cịn khó hơn.
Sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất
có thể tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng.
Có được khả năng đó là do Đảng gồm những người tiên tiến nhất của giai cấp và dân
tộc trung thành, kiên định với lợi ích của dân tộc, ln đi đầu, sẵn sàng hy sinh vì nền
độc lập dân tộc nên được nhân dân tin và đi theo.

Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt nam có khả
năng to lớn để lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới vì con đường cách mạng do
Đảng lãnh đạo phù hợp với thời đại, quy luật phát triển của xã hội. Đảng khơng có
mục đích tự thân. Ngồi lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích
của toàn dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng khơng có
lợi ích nào khác.
Lịch sử cách mạng Việt Nam cận, hiện đại đã chứng tỏ khơng có một tổ chức
chính trị nào có thể thay thế được vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực
tế trong quá trình đấu tranh giai cấp và giữ chính quyền, có những lực lượng chính trị
tham gia cùng với Đảng, nhưng khi cách mạng gặp khó khăn, họ đều chùn bước. Chỉ
có Đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản, của dân tộc,
sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì lợi ích đó. Biết bao đảng viên và quần chúng của Đảng
đã suốt đời phấn đấu, hy sinh vì lý tưởng cao cả, vì độc lập, tự do của Tổ quốc và chủ

24


nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
2.4. Những kinh nghiệm và bài học của đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng
việt nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 61991) đã tổng kết thực tiễn hơn 60 năm cách mạng nước ta, trong đó có 5 năm thực
hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã nêu ra năm bài học lớn của
cách mạng Việt Nam.
- Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm
vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai vấn đề này có quan hệ hữu cơ với nhau. Nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộc trong

đấu tranh cách mạng, giành thắng lợi.
- Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Lý luận Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng nước ta đã khẳng định một chân lý:
Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Để phát huy sức mạnh vĩ đại của nhân
dân, sự lãnh đạo và toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện
vọng chính đáng của nhân dân; đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân.
Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa
rời nhân dân là nguy cơ dẫn đến suy yếu và mất vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền
và làm cho sự nghiệp cách mạng bị tổn thất.
- Khơng ngừng củng cố, tăng cường đồn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử to lớn, lâu dài của dân tộc ta
đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành cơng, tạo nên nguồn sức
mạnh to lớn để giành thắng lợi. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là độc lực chủ yếu để
đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn
đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế.
Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học và cơng nghệ,
tồn cầu hóa, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, các yếu tố bên trong và bên
ngồi có quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong
nước là sức mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực, trong đó đồn kết tồn dân tộc, phát
huy dân chủ, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu
vừa là động lực để phát triển đất nước. Sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế trước hết
là sức mạnh của quy luật và xu thế phát triển không thể đảo ngược của lịch sử nhân

25



×