TÌM HIỂU QUÁ TRÌNH PHẢT TRlỂN
CHIẾN THUẬT CỔ - TRUNG - CẬN ĐẠI
Là bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự,
phụ thuộc vào sự phát triển của chiến lược quân sự,
chiến thuật bao gồm lý luận và thực tiễn chuẩn bị và
tiến hành trận chiến đấu và trận hội chiến.
Chiến thuật nảy sinh cùng với sự xuất hiện quân
đội. Theo sự cải tiến của vũ khí, sự tăng thêm sơ
lượng của qn đội, sự tích lũy kinh nghiệm chiên
đấu, sự nâng cao trình độ và tinh thần chiến đấu
của binh sĩ, các phương pháp chuẩn bị và tiến hành
trận đánh của các quân đội cổ đại đã hình thành và
hồn chỉnh.
*
*
*
Thời cơ đại là một khoảng thịi gian rất dài, kế từ
khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp
(khoảng 4000 - 3000 năm trưốc Công nguyên) đên
cuối thế kỷ V. Vào thời kỳ này, vũ khí sát thương là
bạch khí. Trận đánh được giải quyết bằng cuộc giáp
132
chiến. Nội dung chiến thuật phát triển từ những
cách sắp xếp bộ đội rất đơn giản và xung đột chính
diện giữa hai bên lên các đội hình chiến đấu phức tạp
hơn và cơ động đội hình chiến đấu trên chiến địa.
Qn đội các nước phương Đơng cổ đại đã có
những hình thức dàn trận đơn giản nhất, những
hình thức vận động và những hình thức cơ động các
đội quân, đã có sự tổ chức các đội trinh sát và các đội
vệ binh. Đội hình chiến đấu được chia thành hai - ba
tuyên. Do đó, trận chiến đấu thường chia thành hai
đên ba màn.
Màn mở đầu, từ tuyến 1 các đội bộ binh xung kích
cung tên hoặc các đội xe chiến lao lên trước,
đánh lạc hướng hoặc làm rốĩ loạn đội hình đốì
phương. Màn thứ hai, quyết định, từ tuyến 2 bộ binh
chủ lực, gồm các đội binh mang gươm giáo, tiên lên
giai quyêt những nhiệm vụ chính của trận đánh giáp
lá cà nhằm tiêu diệt địch. Màn thứ ba, từ tuyến 3,
cac đội xe chiến và kỵ binh truy kích địch và phát
huy chiến quả.
mang
Việc chỉ huy được tiến hành bằng khẩu lệnh hoặc
cac tín hiệu nghe được và nhìn rõ.
Qn đội Trung Quốc cổ đại có kiểu đội hình chiên
đâu phức tạp hơn. Đo là đội hinh "bát quái", một kiểu
Ọi hình tập trung, xiết chặt dày đặc nhằm chơng lại
leu 'h?! hình cánh cung của kỵ binh Trung Á.
J ê' thực chất, đội hình "bát quái" là đội hình "tám
1 >được bơ trí thành hình vịng trịn, theo tám phương:
133
bốn phương chính - bắc, nam, đơng, tây - và bôn phương
bàng - tây bắc, tây nam, đông bãc, dông nam.
Hơi chiến Trường Bình (năm 260 trước Cơng
ngun), hội chiến Xích Bích (năm 208)... đều là
những trận đánh có sử dụng dội hình "bát qi .
Ngồi các phương pháp và hình thức trên, một sơ
qn đội khác ở phương Đơng cổ đại đã có sự quan
tâm hồn thiện cách tiếp cận bí mật và cơng kích bất
ngờ, cách đánh độc lập của binh cung nỏ cũng như
cách đánh phối hợp giữa binh cung nỏ và binh gươm,
giáo giữa kỵ binh và bộ binh, kết hợp phịng ngự va
tiến cơng.
Hội chiến Tỉnh Hình, cịn gọi là trận "bối thủy"
(năm 204 trước Cơng ngun) là một ví dụ sinh dộng
về loại hình chiến thuật này của quân đội Trung
Quốc thòi cổ đại.
Trong quân đội các nhà nước Hy Lạp cổ đại
(A-ten, Xpac-tơ, Ma-xê-doan), cơ sở của đội hình
chiến đấu là pha-lăng. Đó là một kiểu dội hình chicn
đấu tuyến tập trung dày đặc thành một khơi hình
chữ nhật của bộ binh nặng được trang bị gươm, giáo
và khiên, mộc. Chiều sâu của dội hình từ 8 dến 16, có
khi đến 25 hàng. Các chiến sĩ dứng thành hàng
ngang hầu như khơng có khoảng cách, cứ hai ngươi
trên một mét. Cự ly mỗi hàng cách nhau, khi tiên
công là một mét và khi phòng ngự là nửa mét. Các
chiến hinh mặc áo giáp, chĩa giáo về phía trước va
134
che kín tồn bộ chính diện bằng dãy khiên, mộc của
mình. Đội hình pha-lăng được xem như một bức
tường dày đặc những mũi giáo tiến lên cơng kích đơi
phương từ chính diện hoặc đứng vững từ chính diẹn,
dẩy lùi cơng kích của đơi phương. Pha-lăng được yem
trợ ơ phía trước bằng bộ binh nhẹ và hai cạnh sươn
bằng kỵ binh.
Ưu diểm của pha-lăng nằm trong tinh thân đoan
kết của binh sĩ và ý chí, kỷ luật của đội ngũ. Mui đọt
kích đầu tiên của pha-lăng thường rất mạnh. Qn
đội cịn kém về tổ chức và trang bị băng nhưng vu
khí nhẹ như quân dội các nước phương Đông thương
không chịu dựng nổi.
Nhưng pha-lăng cũng có những nhược điểm, như
lực lượng bị dàn đều trên chính diện, bị hơ sươn, kem
cơ động, khơng thể hành động trên địa hình bi chia
cắt và nhất là khơng truy kích được. Nếu thiêu các
lực lượng dự bị, pha-lăng khó giữ vững và phát huy
thắng lợi. Bàn về cuộc đụng độ của các pha-lang giưa
các nhà nước Hy Lạp - hai bên đều áp dụng một
phương thức cơng kích bằng trận tun song song
như nhau - Ph.Ăng-ghen viết:
"... Phương thức đơn giản nhât - công kích bang
trận tuyến song song khi mà cả hai ben tien cong
đồng thời suốt dọc trận tuyến từ phía sươn nay đen
phía sườn khác và kết cục của trận đánh được giai
Quyết chỉ bằng sức mạnh”.
135
Những ưu điếm và nhược điểm của chiến thuật
pha-lăng đã biểu hiện khá rõ trong quá trình chiến
tranh Hy Lạp - Ba Tư (500-449 trước Công nguyên)
mà hội chiến Ma-ra-tông (năm 490 trước Cơng ngun)
là một ví dụ điển hình.
Trong hội chiến này, qn đội Hy Lạp bơ" trí
thành đội hình pha-lăng, có bộ binh nhẹ và kỵ binh
che chở ở phía trưốc và hai cạnh sườn, chiếm lĩnh
trận dịa có lợi ở vùng đồng bằng Ma-ra-tơng hẹp.
Trận địa được đắp ụ, đào hào và củng cô thêm hai
cạnh sườn. Vì vậy, qn đội Ba Tư chỉ có thể từ chính
diện tiên cơng vào đội hình pha-lăng trong một
khơng gian hạn chê, kỵ binh vận động rất khó, khơng
phát huy được ưu thế gâ"p dôi đối phương về quân sô".
Khi bộ phận đi đầu của quân Ba Tư, với sô" lượng
khơng đơng lắm, theo đội hình giãn thưa, gồm kỵ
binh và bộ binh nhẹ mang cung tên, tiến tối trận địa
Hy Lạp chừng một khoảng cách nhất định, Min-chi-át,
thơng sối Hy Lạp, thấy có thể uy hiếp được đơi
phương, liên điều đội hình pha-lăng lên cơng kích.
Ban đầu, qn Hy Lạp bước nhanh, đơn lúc giáp
chiên thì chun sang chạy. Đội hình xiết chặt của
pha-lăng đã đánh tan quân Ba Tư, buộc chúng phải
tháo chạy.
Tuy chiên thắng nhưng quân đội Hy Lạp đã
khong thê phát huy được chiên quả và đành để cho
quan Ba Tư rút chạy một phần. Vì trong q trình
tiên cơng, dội hình pha-lăng bị phá vỡ, quân Hy Lạp
136
buôc phải dừng lại chấn chỉnh đội ngũ. Lợi dụng thời
gian đó, quân Ba Tư đã kịp lên thuyền rút ra biển.
Với kinh nghiệm tích luỹ trong q trình chiến
tranh lâu dài, với vũ khí, trang bị ngày càng cải tiến,
quân dội Hy Lạp có thêm một loại bộ binh hạng
trung, bên canh bộ binh nặng và bộ binh nhẹ. Loại
bộ binh này có khả năng cơng kích trong hàng ngũ
pha-lăng như bộ binh nặng và cũng có thê chiên đâu
khi phân ra các phân đội lẻ như bộ binh nhẹ, có thê
hoạt động ở địa hình bị chia cắt cũng như có kha
năng cơ động nhằm tập trung lực lượng tại trục
quyết định.
Các tướng soái Hy Lạp, trong nhiêu thơi đại,
đã quan tâm lợi dụng những mặt yếu của đội hình
pha-lăng, đồng thời cải tiên đội hình chiên đâu cua
quân đội mình qua sự khai thác một cách linh hoạt
những khả năng của loại bộ binh trung. E-pa-minơng-đát, tưóng chỉ huy qn đội Phíp, đã thực hiện
khả năng dó một cách rất xuất sắc.
Trong hội chiến Lớt (năm 371 trước Cơng ngun),
các pha-lăng của qn đội Phíp và qn đội Xpác-tơ
đã gặp nhau. Với số quân một vạn một ngàn ngưoi,
qn Xpác-tơ bơ" trí đội hình pha-lăng sâu thành 12
hàng và phái kỵ binh ra khiêu chiến phía trước định
đánh quặp đổi phương vì chính diện qn Xpac-tơ
rộng hơn. Lực lượng thiện chiến của qn Xpác-tơ bơ
trí bên cánh phải.
137
Khi biết được ưu thê về quân sô" của đôi phương,
với 7 ngàn qn, Ê-pa-mi-nơng-đát quyết dịnh bố trí
đội hình theo một nguyên tắc mới. Ông tập trung
quân tinh nhuệ bôn cánh trái và tổ chức thành một
tung dội sâu 50 hàng, gồm 300 chiến binh xuất sắc
nhất. Mặt khác, ông cho cánh phải mỏng yếu lùi về
phía sau chút ít.
Lợi dụng ưu thô về thể châ"t của kỵ binh
Phíp, E-pa-mi-nơng-đát điều chúng lên phía trước,
đánh tan ngay kỵ binh đối phương. Tiếp đó, ơng
dùng túng đội có chiều sâu của mình đột kích qut
định vào sườn bên phải của quân Xpác-tơ. Kết quả,
E-pa-mi-nông-đát đã thành công trong việc cắt rời
pha-lăng Xpác-tơ ở doạn quyêt định và diệt tan dôi
phương.
Sau đó, với phương thức cơng kích như vậy, Ê-pami-nơng-đát cịn chiên thắng quân Xpác-tơ một lần
nữa ở Ma-ti-nê.
E-pa-mi-nông-đát là người đầu tiên đã phát
minh ra nguyên tăc chiến thuật vĩ đại mà cho đến
ngay nay, nguyên tăc đó hầu như đã chi phôi tất cả
nhưng trận đánh quyết định: nguyên tắc phân bô' lực
lượng không đông đều trên trận tuyến với mục đích
tạp trung lực lượng cho địn tiến cơng chủ yếu ở địa,
điềm quyết định". (Ph. Ảngghen)
Chien đâu song hành chuyển thành hội chiên trên
canh. Một phương thức công kích mới đã xuâ"t hiện.
138
"Cơng kích chênh chếch do Ê-pa-mi-nơng-đát sáng
tạo ra và đã thành cơng chói lọi khi ơng áp dụng vào
trận đánh ở Lớt và ở Ma-ti-nê. Đó là lối liến cơng vào
một bên của quân đích, trong khi một cánh quan cua
mình vẫn giữ bí mâl và dân dẫn dược tang cương
thêm, còn cánh quân giữa và cánh khác ơ bên sươn
trong lúc ấy lùi lại phía sau nhưng vận động thế nào
để tạo ra một mối đe dọa thường xuyên cua mọt trạn
cơng kích và khơng cho phép bên phịng ngự tăng
cường cho những điểm yếu của nỏ cho đên lúc việc
làm đó đã tỏ ra là quá muộn". (Ph. Angghen)
Vào thế kỷ ĨV trưốc Công nguyên, chiến thuật Hy
Lạp phát triển rất cao trong quân đội Ma-xê-đoan,
dưới sự chỉ huy của A-lếch-xăng. Nguyên tắc phân bô
lực lượng không đồng dều dược phát trien va được bo
sung bằng cách cơ động mạnh bạo. Ong la ngươi đa
biên kỵ binh thành một phương tiện dột kích de diẹt
tan dịch và là người dầu tiên có tư tương dùng lực
lượng dự bị. Lực lượng này do bộ binh hạng trung
dảm nhiệm.
Trong cuộc chiến tranh với Ba Tư (334 - 324 trươc
Công nguyên), tiêu biểu là trong hội chien Ac-ben
(năm 331 trước Công nguyên), quân dội Ma-xê-đoan
dã áp dụng dội hình chiến dấu mới, co sự ket hợp
chặt chẽ giữa kỵ binh và bộ binh. Cơ sơ cua đọi hin
chiến dâu vẫn là pha-lăng nhưng đã dược cái tiên
nôn vững chắc hơn kiểu pha-lăng cua Xpac-tơ va
^
Trên chính diện pha-lăng có 1.024 chiến binh vói chiêu
sâu 16 hàng. Vậy là pha-lăng có tới 16.384 chiên binh.
Hai bên sườn của pha-lăng có bơ"trí kỵ binh. Điều khác
biệt ở đây là kỵ binh đóng vai trị một bộ phận độc lập
của đội hình chiến đấu và đột kích chủ yếu vào hai bên
sườn và sau lưng đối phương để kết hợp với đột kích
chính diện của pha-lăng.
Tại hội chiến này, dưới sự chỉ huy của Đa-ri-uýt,
đội hình chiến đấu của quân Ba Tư hình thành hai
tuyến. Tuyến 1 là quân chủ lực bộ binh, có xe chiến
và voi chiến hỗ trợ phía trước, và có những đội kỵ
binh mạnh hỗ trợ hai bên sườn. Tuyến 2 là bộ binh
khơng thiện chiến, gồm những lính đánh th người
Hy Lạp.
Đội hình chiến đấu của quân đội Ma-xê-đoan,
dưới sự chỉ huy của A-lếch-xăng, cũng chia thành hai
tuyên. Tuyên 1 là pha-lăng của bộ binh nặng. Hai
bên sườn có kỵ binh và bộ binh mà lực lượng mạnh
dặt ở sườn phải. Tuyến 2 là những đội bộ binh hạng
trung yểm hộ phía sau đội hình pha-lăng.
Qua sự so sánh, điều nổi rõ lên là đội hình quân
Ba Tư mạnh ở giữa và yếu hai bên sườn, cịn đội hình
qn Ma-xê-đoan thì mạnh cả ở giữa và hai bên.
Mở đầu trận đánh, xe chiến và voi chiến Ba Tư
tiên lên cơng kích nhưng bị quân Ma-xê-đoan đánh
lui, làm tê liệt ngay chủ lực Ba Tư trên chính diện.
Tuy vậy, lực lượng cánh trái quân Ba Tư cũng đã uy
hiêp được bộ binh và kỵ binh nhẹ của quân Ma-xê140
đoan. Chính thế mà kỵ binh Ba Tư đã tách ra khỏi bộ
binh. Lợi dụng tình hình đó, A-lếch-xăng đã nhanh
chóng tung ngay kỵ binh nặng tới chỗ bị gián đoạn,
đập tan sườn trái của đối phương. Còn lại lực lượng
phía sườn phải, qn Ba Tư vẫn cơng kích thăng lợi
vào phía sau pha-lăng của quân đội Ma-xê-đoan.
Nhưng bộ binh trung ở tuyến 2 đã kịp thời ngăn
chặn. Thấy sườn trái bị uy hiếp mạnh, A-lếch-xăng
liền cho kỵ binh nặng luồn vào sau lưng lực lượng
trung tâm của địch và từ phía sau, tiêu diệt lực lượng
phía sườn phải quân Ba Tư. Như vậy là ca chinh diẹn
và hai cạnh sườn đều bị đè bẹp, quân Ba Tư bo chạy
tán loạn trưâc sự truy kích của kỵ binh Ma-xê-đoan.^
"Cuộc chiến đấu đã giành được thắng lợi và từ đó,
A-lếch-xăng được công nhận là mọt trong nhưng
người chỉ huy kỵ binh xuất sắc nhất của mọi thời
đại". (Ph. Ăngghen)
Giống như hội chiến Lớt, A-lếch-xăng cũng áp
dụng phương thức cơng kích theo nguyên tac tạp
trung lực lượng đánh vào nơi chu yeu cua . ^
Nhưng điều mới mẻ của hội chiên nay la phương
sử dụng lực lượng. Nếu như Ê-pa-mi-nôn g-dát đa
dùng bọ binh làm lực lượng cơng kích chủ u t ì ơ
đây A-lếch-xăng lại lấy kỵ binh làm lực lượng ột
kích để đè bẹp đơi phương. Lần đâu tien trong Ị
quân sự, A-lếch-xăng có tư tưởng dùng bọ binh . ẽ
trung làm lực lượng dự bị.
141
ở La Mã cổ đại, vào thê kỷ IV trước Công nguyên,
bước phát triển mới về chiến thuật là việc chuyển dội
hình pha-lăng sang đội hình ma-ni-puyn.
Thịi kỳ đó, qn đội La Mã được tổ chức thành
các lê-gi-ông. Quân sô" lê-gi-ông khoảng 4.500 người.
Từng lê-gi-ông phân chia thành 30 ma-ni-puyn. Mỗi
ma-ni-puyn có khoảng 60 đên 120 người và tổ chức
thành ba tuyên chiên đấu. Ma-ni-puyn không xây
dựng thành các tuyên liên tục mà có khoảng cách
bằng chiều dài của chính diện ma-ni-puyn. Cạnh
sườn lê-gi-ơng có bơ trí kỵ binh và bộ binh nhẹ.
Việc chia lê-gi-ông thành những phân dội nhỏ
kiêu ma-ni-puyn đã nâng cao được khả năng chiên
đâu, làm cho đội hình được linh hoạt, cơ động hơn và
có thơ tác chiền ở địa hình bị chia cắt. Dù cho từng
ma-ni-puyn hay cả tun ma-ni-puyn có bị đị bẹp
cũng khơng làm cho tồn lê-gi-ơng bị thất bại. Sự
hiệp đơng của các ma-ni-puyn ở tuyên 1 và tuyến 2
cung như việc kịp thời đưa tuyên 3 vào chiến đấu đã
co ý nghĩa quyêt định đôi vối việc giành thắng lợi
trước pha-lăng xiêt chặt, dày đặc, cứng đò.
Vơi kha năng chiến đâu trên hầu hết mọi đia
hình, nhờ quy mơ nhỏ của các đơn vị chiến thuật và
củng từ đó mà có sức cơ động lớn nên đạo quân La
Mã đã vượt xa đạo quản Hy Lạp..:'. (Ph. Ắngghen)
Muôn hành động trong tun ma-ni-puyn cần
phai có trình độ huấn luyện đội ngũ cao, có một kỷ
luạt ran chăc và một sự chỉ huy chính xác
142
Đến thế kỷ III trước Công nguyên, La Mã đã
thống trị toàn bộ bán đảo Ý và di xâm chiếm các nước
xung quanh. Trong cuộc chiến tranh giành quyền bá
chủ vùng ven bò Địa Trung Hải, La Mã đã xung đột
VỐI Các-ta-giơ, một nhà nước cổ đại ở Bắc Phi. Trong
cuộc chiến tranh Puy-ních lần thứ hai (218-201 trước
Cơng ngun) tại hội chiến Can (năm 216 trước Công
nguyên), quân dội La Mã, do Va-rôn chi huy, va quan
dội Các-ta-giơ, do Han-ni-ban chỉ huy, dã gặp nhau.
Với quân số’ 8 vạn, chủ yếu là bộ binh nặng, cac
ma-ni-puyn La Mã được bố trí thành đội hình xiết
chặt, dày đặc, cự ly và gián cách thu hẹp lại, chieu
sâu tới 48 hàng. Tuy ở chính diện, lực lượng được
tăng cường nhưng sơ" quân yêm trợ hai ben sươn c 1
là những dơn vị kỵ binh yếu. Vì thê, lê-gi-ong La a
thực tế đã biến thành đội hình pha-lang, mat
năng cơ động và chỉ có thê tiên thăng len phía tr
một cách chậm chạp.
Về phía Các-ta-giơ, Han-ni-ban chỉ có 6 vạn qn.
Đội hình chiến đấu được bố trí thành hmh mo g
ngựa, phần lồi về phía địch. Trung tarn dọi hin
một số hàng ngang thành tuyên cong, mong ye^
bên sườn, lùi về phía sau là những tung đọi ọ
thiện chiếm Thêm vào đấy, hai bên sườn có lực lượng
kỵ binh mạnh. Bố trí đội hình mỏng ở giữa vàrâtsau
ở hai bên, Han-ni-ban có ý định nhăm hợp vay,
diệt đôi phương bằng cách công kích vao cạn
và phía sau lưng.
143
Như vậy là hai bên tham chiến cùng bố trí đội
lình kiểu ma-ni-puyn nhưng đội hình của La Mã
nạnh ở trung tâm mà yếu ở hai cạnh sườn còn trái
Lại, đội hình của Các-ta-giơ yếu ở trung tâm nhưng
Lại mạnh ở hai cạnh sươn.
Ngay từ màn đầu, do bị thua kém đối phương nên
kỵ binh La Mã đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Tuy vậy, ơ
chính diện, đội hình của Các-ta-giơ mỏng nên chủ lực
La Mã đã tiến sâu được vào trung tâm. Thế nhưng vì
thiếu sức tiến cơng mạnh, các lê-gi-ông La Mã không
chọc thủng được đội ngũ bộ binh Các-ta-giơ mà hai
bên sưòn lại thiếu lực lượng yểm trợ. Lợi dụng tình
thế đó nhũng tập đồn bộ binh mạnh của Các-ta-giơ,
đã tiến công ngay vào hai bên sườn trống trai
của quân La Mã. Kỵ binh Các-ta-giơ, sau khi dạp tan
kỵ binh La Mã, đã từ phía sau cơng kích vào các
lê-gi-ơng đối phương. Cùng lúc đó, các lực lượng bộ
binh nhẹ của Các-ta-giơ cũng đánh vô mặt vào cac
lê-gi-ông La Mã. Lâm vào thế hợp vây, bị tiến công ca
bốn mặt, quân La Mã buộc phải dừng lại. Ưu thê vê
quân số của La Mã đã mất tác dụng. Đội ngũ xiet
chặt của các lê-gi-ông bị phá vỡ nên bị đánh tan.
Trong nhiều thê kỷ, hội chiến Can được xem la
một điển hình về nghệ thuật hợp vây và tiêu diệt
toàn bộ cả một đạo quân lớn của một đối thủ có ưu
thê về s <3 lượng như vậy. Phía La Mã bị diệt 8 vạn
người, cịn phía Các-ta-giơ chỉ mất có 6 ngàn.
v ề chiến thuật, hội chiến Can đã có bước phát
triển mới. Đó là hình thức hợp vây và tiêu diệt một
144
đối phương có ưu thế về số lượng. Để dạt tới mục đích
của mình, Han-ni-ban đã bố trí đội hình chiên đâu
băng cách tập trung lực lượng mạnh ở hai bên. Bộ
binh được dùng đánh vào cạnh sườn và trước mặt kêt
hơp với kỵ binh đánh vào phía sau. Trong quá trình
chiên đấu, Han-ni-ban đã biết kết hợp chặt chẽ giữa
phịng ngự và tiến cơng.
Vào thế kỷ I trưốc Cơng nguyên, chiến thuật của
quân đội La Mã lại có những thay dổi cơ bản. Đội
hình ma-ni-puyn chuyển thành đội hình co-hooc.
Việc phiên chế bộ binh thành các phan dọi nho kic
ma-m-puyn dược thay thế vì lực lượng quá phân tán,
thiếu sức mạnh.
Thịi kỳ này, lê-gi-ơng được chia thành 10 cơ-hc.
Cứ 3 ma-ni-puyn trước kia nay hdp thành 1 cơ-hooc,
có số quân từ 360 đến 600 người. Đổ tiến hành c ìcn
đấu, 10 cơ-hc trong 1 lê-gi-ơng dược to chưc tha ^
3 tuyên với đội hìnhĩ 4 - 3 - 3 . Cũng như vai trò cua
ma-ni-puyn ở thế kỷ IV trước Công nguyên, co- 0
vừa là mọt đơn vị to chức hành chính lại vừa là mọ
dơn vị chiến thuật cơ bản.
Giuyn Xê-da, viên tướng La Mã lừng danh, dã
biết khai thác những khả năng ngày càng mạn
lê-gi-ông, kheo áp dụng một cách cơ đọng bọ
cua
•
chiến dĩa và mở đầu việc tổ chức ra lực lượng dự
b Ị.
Nhờ thế, những sự kiện dó đã, tác động mọt cac
quyết hơn dến quá trình chiến đâu.
145
Trong hội chiến Phác-xan (năm 48 trước Công
nguyên), Giuyn Xê-da dã cải tiến đội hình cơ-hc, bơ
trí thành hai tuyến, tách ricng lực lượng dự bị ra và
kịp thòi đưa nó vào giành thắng lợi dơi với qn dội
Pơm-pê-i.
Vào trận đánh, dựa vào ưu thế binh lực, nhất là
kỵ binh, phía Pơm-pỗ-i cho kỵ binh cơng kích vào
cạnh sườn và phía sau các lê-gi-ơng của La Mã. Phan
dốn trúng ý dồ của đối phương, Giuyn Xc-da dã tô
chức sẵn dội dự bị mạnh gồm 6 cơ-hc. Vì vậy khi kỵ
binh Pơm-pê-i tiến cơng vào cạnh sườn và phía sau
các lc-gi-ơng La Mã đã bị các cơ-hc dự bị cua Giuyn
Xê-da bất ngị cơng kích vào hai bơn sườn khơng dược
yểm trỢ nôn buộc phải tháo chạy. Việc sử dụng dúng
dắn đội hình dự bị chiến thuật mạnh trong hội chiên
Phác-xan dã giúp cho quân dội La Mã giành được
thắng lợi trước một đơi phương có ưu thế về qn sơ.
Tại hội chiến này, cả hai bên tham chiên dcu áp
dụng kiểu dội hình cơ-hc nhưng bước phát trien
mối của chiên thuật là dội hình chiên dấu dược linh
hoạt hơn và việc sử dụng lực lượng dự bị đã trơ thành
một nguyên tắc tác chiến.
Dựa trên cơ sơ bạch khí, chiên thuật thuỷ qn cố dại
là áp mạn cơng kích và dám thuyền như Ph.Angghen
nhận xót:
"... Chỉ có thế có hai phương thức tác chiến trên
biển: phải cơ động như thế nào đê’ cho chiếc dùi sat
sắc và cứng rắn ở mủi thuyền đăm thật mạnh vào
146
mạn tàu của đơì phương và đánh chim rỊ°' hof cJ ử èp
7 t vào man tàu của đổi phương và đánh chiếm nó
bằng xung phong".
ở thai cổ đại, chiến thuật của quân đội các nhà
Lang - Au Lạc dựa trên cd sỉ hai loại vũ
khí chù yếu là gướm giáo và cung nò. ư c m g i a o c
đanh gần và cung nò để đánh xa Khi nị liên chau
xt
thì loại vũ khí có tốc độ nhanh này đưọc
nưàc v in
hận
chuyên dùng đê đánh xa.
Trên co sò hai loại vũ khí chủ yếu đó, chiến^binh
Viêt Nam cổ đại cũng bao gồm hai loại bộ bi"h
yếu là binh cung nỏ và binh gưam giáo. Cịn nơ burn
đưọc xem nhu là một đặc chủng có nhiệm vụ sủ dụng
nỏ liên chàu. Bên cạnh bộ binh, quân đội Văn Lang
còn CO mật số kỵ binh và tưọng binh mặc dù tong
thơi kỳ nay, voi chưa tập trung với số lượng
thôi Au Lac, lực luống thuỷ quân bắt đầu xụít hiẹ
Nhu vạy, co sò chiến thuật Việt Nam cổ đại là sự
kết họp của những ngi linh cầm « « * > « “ *
những ngi lính cắm cung nỏ, hồn
nhiêm vu trong các trận chiến đấu và trận Ọ1 ' h
Phuong thức chidn thuật cd bànlà lính ,;ung. X X
dich từ xa chuẩn b, cho lính gudm pao
quyết dinh trong giáp chiến, là sụ kệt ọp gl a
xa và đanh X
Cùng cô nhüng trân đánh du^ up
dụng phuong thức k y X n h hoặc tuọng binh
cho bộ binh.
147
Đội hình chiến đấu lấy binh gươm giáo làm cơ sở,
Jố trí ở trung tâm, thành quân chu lực. Binh cung no
.àm thành phần hỗ trợ ở phía trưốc và kỵ binh làm
thành phần hỗ trợ ở hai bên cạnh sườn. Trường hợp
thiếu kỵ binh, binh cung nỏ loại nhẹ sẽ làm nhiệm vụ
thay thế. Sức mạnh đột kích lấy bộ binh gươm giáo
làm trọng tâm. Khi nói đến sự tập trung lực lượng và
phương tiện chính là nói đến sự tập trung lực lượng
bộ binh gươm giáo. Như vậy, ở thời kỳ này, đội hình
chiến đấu là sự kết hợp chặt chẽ giữa tuyến tán binh
với tuyến bộ binh hàng ngang mang cung nỏ và
những khối dọc sử dụng gươm giáo làm phương tiện
đột kích quyết định.
Chiến thuật Việt Nam cổ đại rất quan tâm đên
yếu tố bất ngờ, trong đó, việc sử dụng vũ khí một
cách linh hoạt, tiến hành cơng kích vào những thời
điểm mà qn địch thiếu chú ý như lúc ban đêm, khi
mờ sáng... được chú ý nhiều.
Trong thời cổ đại, hai hình thức tác chiến chiên
thuật cơ bản, tiến cơng và phịng ngự, đã xuất hiện,
các lực lượng vũ trang Văn Lang đã tiến hành chiên
thuật tiến công từ quy mô nhỏ đến quy mơ lớn, kêt
hợp cả hai hình thức, tiến cơng bất ngờ bằng lực
lượng từ ít đến nhiều và cơng kích quyết định băng
những lực lượng lớn.
Chiến thuật phòng ngự làng - bản đã được các lực
lượng vũ trang Văn Lang - Âu Lạc sử dụng một cách
thành thạo. Đây không phải thuần tuý là một chiên
148
thuật cố thủ mà là sự kết hợp giữa cố thủ và cơng
kích Đội hình phịng ngự thường có hai bộ phận, bộ
phận giữ làng và bộ phận cơng kích từ phíangồi
làng vào sau lưng địch. Trong trường hợp kẻ địch
tiến được vào trong làng, chiến đấu cố thủ sẽ lấy đình
làng làm vị trí trung tâm kết hợp vói sự phản kích từ
phía ngồi làng, thực hiện trong đánh ra, ngồi đánh
vao Ngoai ra, thế ỷ dốc trong phịng ngự cũng sớm
xuất hiện Nghĩa là làng này lấy chỗ dựa ở làng khác,
tao nên sư yểm trỢ giữa các làng. Trong đieu ìẹ y
thuật cổ đại, quân xâm lược rất khó cơng pha cac uy
tre làng Việt Nam. Chiến thuật phòng ngự cua^ các
làng độc lập kết hợp vối thế liên hoàn của^ nhiêu ang
đã trỏ thành một thành luỹ cỡ nhỏ, kiên cô, vưng
chắc. Những làng chiến đấu rải ra tren ca nư ,
chiến thuật giữ làng thích hợp, đã sớm trỏ thành một
thế trận làng - nước của nhân dân va t*-ạa ; Kam
phát tiến công của các lực lượng vũ trang
cổ đại.
...
Tóm lai, qua nghiên cứu, chúng ta thây dưỏi thdi
cổ đại, chiên thuật bao gồm hai phương
kích Phương thức thứ nhất là cơng kích c in. Vl<^
một sự cơng kích thuần t bằng sức
cơ
phương thức thứ hai là cơng kích vào cạn s
đọng chiến thuật, linh hoạt trong đội hình chiên dam
2
Trcmg
w chiến tiêu
chống lại kẻ địch có ưu thê vê số lượng, be
thường là biết cơng kích vào cạnh sườn ƠI
s
149
Từ hai phương thức trên, các hội chiến thường
được thể hiện ra dưối nhiều hình thức cơng kích
phong phú: cơng kích song song, cơng kích vào cạnh
sườn - từ một cạnh sườn đến hai cạnh sườn - kết hợp
cơng kích cạnh sườn vói cơng kích sau lưng và CUỐI
cùng là kết hợp cả bốn phía cùng cơng kích.
Tập trung lực lượng đã trở thành một nguyên tắc
chiến thuật chủ yếu.
So với tồn bộ q trình phát triển của nghệ
thuật qn sự từ xưa tới nay, chiến thuật cổ đại đã
có bước phát triển mạnh.
*
*
*
Thời gian từ cuối thê kỷ V đên giữa thế kỷ XVII
gọi là thời trung đại. Đó là thòi đại mà các quan
hệ san xuất phong kiên thông trị và các quan hệ
san xuât tư ban chủ nghĩa nảy sinh trên nhiều nước
châu Âu.
Thơi trung đại chia thành ba giai đoạn:
1. Giai đoạn hình thành các quan hệ sản xuất
phong kiến, từ cuối thế kỷ V đến thế kỷ X.
2. Giai đoạn phát triên các quan hệ sản xuất
phong kiến, từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV.
3. Giai đoạn tan rã các quan hệ sản xuất phong
kien và nay sinh các quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, từ thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVII.
150
Chiến thuật cũng phát triển theo các hình thái
kinh tế - xã hội trên, đại thể chia thành hai giai đoạn
lốn: giai đoạn chiến thuật phát triển trên cơ sở bạch
khí, từ cuối thế kỷ V đến thế kỷ XIV, và giai đoạr.
chiến thuật phát triển trên cơ sở hoả khí, từ thê
kỷ XIV đến giữa thế kỷ XVII.
Thịi trung đại, ở châu Au nói chung, đặc biệt là ơ
Tây Âu, điều quyêt định đôi vối nội dung chiên thuật
là vai trò bộ binh đã suy giảm đi rất nhiêu, cịn kỵ
binh - hiệp sĩ thì dần dần tiên lên chiếm địa vị thông
trị trên chiến dịa.
Trong các cuộc chiên tranh chinh phục, chien
tranh huynh đệ tương tàn, từ thê kỷ V đên thê ky
XV, ở Tây Âu, trận chiến đấu về cơ bản chi con la sự
tập hợp các trận quyết đấu giữa các hiệp sĩ. Trận đau
"đơn thương, độc mã", "một chọi một" diễn ra quyết
liệt giữa từng cặp hiệp sĩ hai bên, chiên đâu theo y
riêng của mình, khơng ai chỉ huy ai. Hiệp sĩ phai đạt
mục đích là đánh bật đối phương khỏi yên ngựa và
bắt làm tù binh. Kỵ binh - hiệp sĩ xếp thành một
hàng ngang, mỗi người cách nhau chừng 5 met. Đo la
đội hình "hàng rào chắn". Đi sau mỗi hiệp sĩ là các kỵ
sĩ, các người mang giáo mác, cung tên, ngươi hau va
n ơ bộc. Tất cả nhóm người đó cùng VƠI hiẹp S I tạo
thành một đơn vị chiến thuật cơ sở gọi là "thương'
hay "mũi giáo". Thực chất đây là đội hình dàn đêu
lực lượng theo kiểu pha-lăng thời cô đại cua quan đọi
Hy Lạp.
151
"Đội ky binh - hiệp sĩ khi gặp đối phương thi lập
tức triển khai để chiến đấu cá nhân và kết thúc trận
đánh bằng đoản đao". (Ph. Ăngghen)
Binh chủng kỵ binh - hiệp sĩ có trang bị nặng
"khơng những người mà cả ngựa nữa, được che chở
bằng những chiếc giáp kim loại" nên không thể cơ
động và không thể truy kích được.
Nhiều đồn hiệp sĩ thuộc các giáo đồn người
Đức, có tinh thần, đã hành động một cách có tổ chức
hơn. Đội hình chiến đấu được bơ" trí theo kiểu "mũi
dùi", nghĩa là các hiệp sĩ được lựa chọn đi đầu thành
mũi nhọn, tiêp theo là bộ binh, còn cạnh sườn và
phía sau là các kỵ binh xếp thành từ một đến ba
hàng bảo vệ. Đó là đội hình chiến đấu "đầu lợn lòi"
quen thuộc của người Giéc-manh cổ đại. Mũi nhọn
của binh chủng hiệp sĩ chọc thủng và làm rơl loạn đội
hình chiến đấu của đốĩ phương, tạo điều kiện thuận
lợi cho các đội bộ binh xông lên - dưới sự yểm trợ của
kỵ sĩ, hiệp sĩ - mà giành thắng lợi. Bộ binh kém chất
lượng thường không chịu nổi cách đánh "mũi dùi"
này, cách tập trung hưóng nỗ lực chủ yếu vào một
diêm trên chính diện. Một phương thức cơng kích
mối xuất hiện, phương thức cơng kích thứ ba trong
lích sư qn sự, "cơng kích bằng cánh qn ở giữa"
còn các cánh ở hai bên sườn lùi về phía sau". So với
đội hình chiên đấu "hàng rào chắn", dội hình chiên
đấu "đâu lợn lịi" tuy có những tiến bộ nhưng nhìn
152
chung mà nói, chiến thuật của các hiệp sĩ trung đại
khơng có gì phát triển mói, thậm chí nó cịn là sự
thụt lùi, so với chiến thuật thời cổ đại.
Chiến thuật của người Mông cổ trong chiến tranh
chinh phục ở thê kỷ XIII đã có những bưốc phát triên
đáng kể. Quân đội Mông cổ được tổ chức theo hệ
thông "cơ sơ" mười", lấy đơn vị hành chính làm đơn vị
tác chiến, từ "thập hộ" (10 người), "bách hộ" (100
người) đến "thiên hộ" (1.000 người), "vạn hộ" (10.000
người) kỵ binh. Thiên hộ (gu-ran) là đơn vị chiến
thuật cơ bản. Gu-ran có hai loại: loại kỵ binh nặng,
được trang bị gươm cong và áo giáp da thuộc, quét
sơn, và loại kỵ binh nhẹ, được trang bị cung tên. Vạn
hộ (tu-man) là đơn vị lốn, binh đồn hội chiên, gơm
từ 7 đến 10 gu-ran. Trong những hội chiên lơn
thường có sự tham gia của tập đoàn hội chiên, gom
từ 2 đến 3 tu-man hoặc nhiều hơn nữa. Trên chien
địa, sức mạnh chiến đấu của quân Mông Cô được tạo
nên bởi sức cơ động nhanh, địn đột kích mạnh va
tính kỷ luật cao. Đội hình chiến đấu lấy gu-ran làm
cơ sở, gồm các gu-ran kỵ binh nặng đặt ơ trung tam
theo chiều sâu và các gu-ran kỵ binh nhẹ cơ đọng
linh hoạt trên hai cánh phải, trái theo hình canh
cung. Đội hình trên tạo điều kiện cho quân Mông Cô
áp dụng chiến thuật hiệp đồng chặt chẽ gưia ky binh
nhẹ và kỵ binh nặng. Kỵ binh nhẹ cơ động để bao vây
đối phương và kỵ binh nặng giáng đòn quyết định.
153
Nếu như quân đội hiệp sĩ các nước châu Âu trong
các cuộc "chiến tranh chữ thập", vào thế kỷ XI đến
đầu thế kỷ XIII, đã bị kỵ binh nhẹ và kỵ binh nặng
phương Đông đánh bại trên chiến trường Trung
Đông thì đèn nửa cuối thế kỷ XIII đã vang lên "một
khúc ca khải hoàn mối của các chàng kỵ sĩ phương
Đông ở châu Âu - khúc ca của người Mông cố". Tiêu
diệt hầu hết các quân đội ở Trung Á tại các hội chiến
Bu-kha-ra, Xa-mác-khan, quân Mông cổ tiến sang
châu Au. "Sau khi tràn ngập vào nước Nga và lãnh
thô Ba Lan, năm 1241, quân Mông cổ đã đụng độ
với quân đội của liên minh Ba Lan - Đức trong trận
Van-stát ở Xi-lê-di. Sau một cuộc chiến đấu kéo dài,
những người châu A đã đánh tan đội quân hiệp sĩ,
một đội quân đã kiệt quệ và giam minh trong vỏ
thép" (Ph. Angghen). Quay trở về châu Á, quân Mông
Cổ đã tiêu diệt tồn bộ qn đội Kim, Tơng ở Trung
Qc tại các hội chiên Cư Dung Quan, Khai Phong,
Tương Dương.
Tiêu biêu cho chiên thuật trung đại trong chiên
tranh giữ nưốc và chiến tranh giải phóng là chiên
thuật của quân đội Nga, quân đội Đại Việt và dân
quan Tiệp Khăc. Nêu như trong chiến tranh chinh
phục, chiên tranh huynh đệ tương tàn, vi trí kỵ binh
được chú ý nhiều thì ở đây, nét đặc sắc là bộ binh vẫn
giữ vai trò chủ lực trên chiến địa.
Đội hình chiên đấu của người Đông Xla-vơ ở thế
kỷ VI-VII và của quân đội Nga Ki-ép ở thế kỷ X-XI có
154
những đặc điểm riêng. Lúc dầu, đó là đội hình xiết
chặt dày dặc, chia thành các khối dọc. Tiếp đó, dội
hình này nhường chỗ cho đội hình "tường", gồm 1020 hàng ngang kiểu pha-lăng, có kỵ binh che chở hai
bên cạnh sườn. Vào các thê kỷ XI-XIII, do bạch khí
được cải tiến, gươm, rìu chiên được dùng rộng rãi,
cung nỏ đã xuất hiện nên thê trận cũng thay đơi. Đội
hình chiến đấu của quân đội Nga được trải theo
chính diện và chiều sâu thành các "pôn" (với tư cách
là những dơn vị chiên thuật cơ bản, chia thành đội
1.000 người, 100 người, 10 người), tạo điều kiện cho
việc khôn khéo sử dụng bộ binh, kỵ binh và cơ động
cũng như việc sử dụng dội dự bị.
Việc bơ" trí qn đội thành hai tuyên (tuyên 1 là
"pôn" trước, tuyên 2 là "pôn" lớn và các "pôn cánh
phải, cánh trái) dã trở thành một hiện tượng thông
thường trong quân đội Nga. Trong trận hô Chút
(1242) - trận đại kịch chiên trên băng - A-lêch-xăng
Nép-xki đã tập trung lực lượng mạnh trên hai cạnh
sưòn. Khi mũi dùi của kỵ binh - hiệp sĩ Đức chọc
thủng dội hình "pơn" trước, chĩa mũi xung kích cua
bộ binh vào trung tâm "pơn" lớn thì các pon canh
phải và cánh trái đã chớp thời cơ, giáng đòn manh
hột vào hai bôn sườn và sau lưng đôi phương, be gay
và diệt tan dịch.
Chiên thuật trên đã dược phát triên thêm mọt bươc,
vào thế kỷ XIV bằng việc bố trí đội qn dự bị - "pơn"
phục kích. Trong tổng hội chiến Cu-li-co-vo (1380),
155
quân đội Nga, dưới quyền chỉ huy của Đmi-tơ-ri Đônxki, bằng một địn kịp thịi, bất ngờ của "pơn" phục
kích, đã đập tan lực lượng đông hơn của quân Mông
Cổ - Tác-ta, giành được thắng lợi.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, các cuộc chiến tranh
chính nghĩa bảo vệ Tổ quốc ở Việt Nam đều do toàn
dân tiến hành. Điều quyết định nội dung chiến thuật
là vai trò chủ yếu và chất lượng cao của bộ binh,
đúng như Trần Quốc Tuấn viết "lấy đoản binh chê
trường trận là việc thường của binh pháp". Đặc điếm
của lực lượng vũ trang Việt Nam thời trung đại là
khơng có kỵ binh - hiệp sĩ, cũng khơng có kỵ binh
nặng như ở châu Âu và châu Á. Với sơ" lượng nói
chung khơng nhiều, dù mang cung tên hay gươm
giáo, kỵ binh chỉ đóng vai trị yểm trợ cho bộ binh.
Đồng thời ngồi bộ binh, lực lượng vũ trang Đại Việt
lại dùng tượng binh làm binh chủng đột kích.
Nhằm mục tiêu tiêu diệt địch, làm chủ chiến địa,
chiên thuật Việt Nam thời trung đại dựa trên cơ sồ
hiệp đồng của bộ binh gươm giáo (vũ khí đột kích
quyết định) và bộ binh cung no (vũ khí phóng xa,
chuẩn bị cho giáp chiến), là sự hiệp đồng giữa bộ
binh, tượng binh và kỵ binh, là sự hiệp đồng giữa
tiên cơng và phịng ngự, được gọi là chiến thuật "trú thác" (nghĩa là "dựa - đánh"). Do vậy, trận đánh gồm
bốn u tơ: phóng - ném, cơ động, đột kích và "thê ỷ
dốc". Bộ đội "trú chiến" dựa vào "thế ỷ dốc", một cụm
làng chiên đấu hoặc hầm hố cá nhân, đứng vững trên
156