Từ CẰY GIÁO
DỐI KHẨU 6ÍNG
NHÀ XUẤT BẢN MONG BẠN ĐỌC
GĨP Ý KIẾN, PHÊ BÌNI-I
- Ảnh bìa 1: Trận Như Nguyệt - Từ điển Bách khoa quân sự
- Ảnh bìa 4: Qua ngầm ỏ Trường Sơn - Ký họa của họa sĩ Lê Duy ứng
355.9
--------------- 105 - 2011
QDND - 2011
DƯƠNG XUÂN ĐỐNG
Từ CÂY GIÁO
ĐẾN KHẨU ỖÚNG
TẬP Vỉ
NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DAN
Hà Nội -2011
CÙNG BẠN ĐỌ C
Trong mười năm qua (1998 - 2008), Từ cây giáo
đến khẩu súng đã "trinh làng" được 5 tập. Lần này, bộ
sách quen thuộc với bạn đọc lại tiếp tục xỉn ra mắt
tập VI. Cũng xoay quanh những phần chủ yếu của
văn hoá quân sự như thường lệ, tập VI muốn dừng
lại ở phần nghệ thuật quăn sự. Do đó, ở tập này các
danh nhản văn hố qn sự được giới thiệu nhiều
hơn so với các tập trước vì đấy là những tài năng lớn
về nghệ thuật quân sự trong sự nghiệp đâu tranh vũ
trang chống ngoại xâm của dàn tộc.
Ai củng biết, muốn tỉm hiểu bất cứ một nền văn hoá
nào, điểm xuất phát đều bắt đầu từ nghệ thuật, vì đây
là bộ mặt rực rỡ nhất, là những sắc thái của văn hoá.
Chẳng hạn như muốn tìm hiểu văn hố Việt Nam, phải
băt đầu từ 7 môn nghệ thuật: nhạc, múa, họa, điêu
khắc, kiến trúc, ca kịch, điện ảnh. Tương tự như vậy,
mn tìm hiểu văn hoá quân sự củng phải băt đâu từ
nghệ thuật quân sự.
Qua đó, chúng ta thấy rõ, nghệ thuật nói chung
và nghệ thuật quân sự nói riêng, đều có cùng một
5
mẫu số là nghệ thuật. Nhưng lăị^, ỉ y vì khái niệm
văn hoá quân sự chưa xuất hiện nên người ta chưa
nhận ra mối quan hệ giữa nghệ thuật quân sự với
văn hố qn sự nói riêng và với nền văn hố dân tộc
nói chung. Người ta mới thấy mối quan hệ của nghệ
thuật quân sự với chiến tranh và cho rằng nó chi là
phương pháp tác chiến, nghĩa là chỉ đơn thuần
những hoạt động quăn sự. Nghệ thuật quân sự đúng
là phương pháp tác chiến, là những hoạt động quân
sự nhưng phải đạt tới mức độ vượt trội, đầy sáng tạo của
trí tuệ thì mới được xem là nghệ thuật quân sự. Mà trí
tuệ vốn là phương pháp của văn hố. Điều này khơng
chỉ riêng ở Việt Nam mà ở các nước châu Âu củng đều
quan niệm như thế. Người Pháp gọi nghệ thuật quản sự
là art m ilitaire, người Anh gọi là art of w ar và người
Nga gọi là BOẻHHOE MCKyCCTBO.
Lý luận văn hoá học chỉ rõ tiêu điểm của văn hoá
bao gồm hai phần: tư tưởng và nghệ thuật. Là một bộ
phận câu thành, một chi lưu của "dịng sơng" văn
hố dân tộc, văn hố quăn sự củng bao gồm hai phần
tương ứng là tư tưởng quân sự và nghệ thuật quân
sự. Tư tưởng quân sự là phần quan trọng, phần tư
duy, tạo nên những nguyên tắc chỉ đạo, còn nghệ
thuạt quẫn sự là bộ mặt rực rỡ, cụ thê hoá những
nguyên tắc của tư tưởng quăn sự vì chính nó là
những hành động thực tiễn trên chiến trường, mang
theo nhưng tài năng hiếm có, điêu luyện của những
6
người chỉ huy quân sự cộng với những đóng góp của
binh sĩ, dẫn tới những chiến thắng huy hoàng, những
biêu tượng có giá trị đê xây dựng nên văn hố quăn
sự. Nhưng cho đến nay, việc nhận thức về nghệ thuật
qn sự đang cịn có những vấn đề cần có sự trao đổi
đê đi tới thống nhất.
Nhân dịp tập sách ra đời, tác giả xin trăn trọng
cảm ơn Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, các cơ
quan có liên quan cùng tất cả bè bạn gần xa.
TÁC GIẢ
7
BÀN THÊM V Ể /IN H Đ ổ c ổ LOA
VÀ KINH ĐỒ THĂNG LONG
Vào cuối thế kỷ III trước Công nguyên, do sự phát
triển lớn mạnh của đất nưốc, người Việt cô băt đâu
dời đô về miền xuôi. Người dầu tiên làm việc đó là An
Dương Vương Thục Phán. Và nơi định đô trựơc nhat
được ông nghĩ đến là cổ Loa, một địa diêm năm trên
cái gờ miệng của trung du, cái cô họng cua đông bang
trong khi ở phía trước nó là cả miền đơng băng Băc
Bộ sau này, nơi mà phù sa sông Hồng chưa đu tháng
năm bồi đắp. Vào những năm 40 đâu Công nguyên,
khi tiến quân vào đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Ba
Trưng, từ miền biển Quảng Ninh đi tới hô Lang Bạc
(Bắc Ninh), viên tướng xâm lược Mã Viện đã^ trông
thấy cả một vùng "dưới thi nước, trên thi may mu,
khí độc bốc lên ngùn ngụt" (Hậu Hán thư). Tai liẹu
khảo cố học cịn cho hay: khi Cơ Loa dược dung lam
nơi định đơ thì cũng là lúc dân tộc ta bưốc vào thời
đại dồ sắt chừng hơn hai thê kỷ. Với những nong cụ
kim loại mối, c ổ Loa được xem là nơi thư nghiẹm
thành cơng bưốc q độ từ mơ hình nong nghiọp lua
nước miền chân núi, vốn của người Tày - Thai co, đen
9
mơ hình nơng nghiệp lúa nước miền đồng bằng. Tên
nom na xưa cua Cô Loa là Chạ Chủ, cổ âm là Klủ từ
đó biến âm (rồi được phiên âm) thành Khả Lủ, Kim
Lủ, Cô Loa... Truyền thuyôt dân gian vẫn gọi An
Dương Vương Thục Phán là Vua Chủ, thành cổ Loa
là Thành Chủ. ơ đây điều đáng quan tâm là sau
mười năm chiên thắng quân Tần xâm lược, việc dời
bỏ miền trung du, xuống dịnh đô ở dồng bằng, dân
tộc ta dã thổ hiện một ý chí mạnh mẽ, tự tin một
long quyôt tâm bảo vộ nền độc lập của đất nước, cổ
Loa không chỉ là một kinh thành mà dồng thịi cịn là
một qn thành. Tồ thành dược xây dựng trơn bị
bắc sơng Hồng Giang. Ngày nay, con sơng chỉ cịn
những đoạn bị bồi đắp nhưng xưa kia nó là một con
sông lớn, nối liền sông Hồng với sông cầu. Dấu vết
dịng sơng cũ cịn rõ nét với những doạn gọi là sông
Thiếp hay Ngũ Huyện Khê (chảy qua năm huyện:
Yên Lãng, Võ Giàng, Đông Ngàn, Yên Phong Tiên
Du). Từ Cổ Loa, theo Hồng Giang, thuyền bị có thê
ngược lên tận miền núi rừng phía bắc, tây bắc, dơng
băc hay XUÔI xuống khắp các vùng dồng bằng và ra
bion Khơng những thế, bên trong thành cổ Loa cịn
“ S * lướl eiao thơng thủy liên hồn,
ì
Í ĨthƠ ra Vào, mộL cách ¿ u ậ n tiện. Tính ưu
việt về qucân sự của cổ Loa khiến cho Mã Viện khi
như đã nói’
dù gần day cơ
Nảm 571, sau khi lên ngơi vua và những n t a ahuân
10
bị chống quân Tuỳ xâm lược, Lý Phật Tử cũng lấy cổ
Loa làm quốc đô và làm căn cứ quân sự. Ngay cả Ngô
Quyền sau khi mở ra kỷ nguyên mối cho dân tộc, vân
quay về định đô ở cổ Loa năm 939. Nhìn chung lại,
thế mạnh của cổ Loa là tính chât đìa - quan sự ma
sơng Hồng Giang có một vị trí đáng kể. Do đó, đến
thế kỷ X, khi con sơng này bị cạn dịng và thu hẹp thì
Cổ Loa cũng mất ln vai trị lịch sử của một quốc đô
trên bờ bắc sông Hồng. Phải chờ đến khi quốc đơ dời
về phía bị nam thì nơi mới này mới được xem là
"thắng địa" tuy rằng cổ Loa thịi cơ đại rơi Thăng
Long thịi trung đại cũng đều năm trên phạm VI vung
đất Hà Nội thời hiện đại, từ ngoại thành cho đến nội
thành.
Nếu Cổ Loa được chọn để định quốc đô ba lần với
66 năm - Thục Phán, 29 năm (208-179 trước Công
nguyên); Lý Phật Tử, 32 năm (571-603) và Ngơ
Quyền, 5 năm (939-944) thì Thăng Long - Đông Đo Hà Nội cho đến nay, đã được định đơ cũng ba lân
nhưng đã có lịch sử tới 998 năm (kể cả những lân
gián doạn tới 188 năm: 10 năm (1397-1407) nhà Hơ
dời đơ vào Thanh Hố; 20 năm (1407-1427) nọi thuọc
nhà Minh, rồi' 157 năm, triều Tây Sơn, 14 nam
(1788-1802) và triều Nguyễn, 143 năm (1802-194^ )
dời đô vào Phú Xuân). Mặc dù vậy, nhân dân khăp
nơi vẫn luôn luôn coi Thăng Long xưa la vung at
thiêng liêng, "ngàn năm văn vật", là một trung tam
của đất nưốc tuy chính quyền đơ hộ nha Minh đa 01
11
tên thành Đơng Quan (cửa ải phía đơng), triều
Nguyễn chỉ xem chữ "long" là "thịnh vượng", chỉ nơi
làm ăn, buôn bán, không xem chũ "long" là "rồng" chỉ
vùng đất đế đơ.
Điêm nổi bật của ba lần định đơ ở bị nam sông
Hồng là đều diễn ra ngay sau thắng lợi của ba lần lật
đô ách thông trị ngoại bang: triều Lý, triều Lê rồi
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa. ở thế kỷ XV
việc định đơ ở Thăng Long xưa - vối tên gọi Đơng Đơ đồng thịi với việc cơng bơ' bài Cáo Bình Ngơ - có giá
trị như bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai - đã diễn ra
mây tháng sau khi kêt thúc thắng lơi của mười năm
tiến hành chiến tranh giải phóng, ở thế kỷ XX việc
định đô ở Hà Nội ngày nay lại chỉ diễn ra hai tuần lễ
sau thang lợi cua Cách mạng Tháng Tám cùng với
việc công bô bản Tuyên ngôn độc lập vào ngày 2
tháng 9 năm 1945 để rồi tiếp đó, dân tộc ta đi vào
cuộc kháng chiến trường kỳ. Do tương quan lực lượng
giữa dân tộc ta vối các thế lực xâm lược, hai lần định
đơ này cũng có những nét khác biệt. Lần trưốc pilai
chờ khi đất nưốc sạch bóng qn thù cịn lần sau lại
diên ra ở thòi điểm bắt đầu của ba mươi năm chiên
tranh giải phóng.
_ Đên đây> một câu hỏi được đặt ra là tại sao 72
năm (938-1010) sau khi dân tộc ta giành quyen tư
chủ Lý Cơng Uẩn mói dời đơ ra Thăng Long? sở dĩ
co tinh trạng như thế là vào thời điểm ấy, đất nưốc
mơi đọc lạp, quôc gia phong kiên tập quyền chưa đủ
12
thời gian củng cố, dân tình chưa ổn định, các thế lực
cát cứ chưa hẳn đã suy yếu. Vì vậy, sau khi từ bỏ
chức Tiết độ sứ, Ngô Quyền xưng vương, phải về định
đô ở Cổ Loa 5 năm (939-944). Đinh Bộ Lĩnh phải dẹp
12 sứ quân trong 23 năm (944-967). Sau đo, cac tneu
Đinh Tiền Lê phải rút về định đô ở Hoa Lư 42 năm
(968-1010). Quốc đô lúc ấy tuy nhỏ hẹp, ẩm thấp,
giao thông không thuận lợi nhưng lại là que nha , la
nơi núi non hiểm trở, thích hợp cho việc phịng ngự
qn sự.
Sang đầu thế kỷ XI, tình hình đất mtóc ta đã đặt
ra những yêu cầu mối cho sự phát tnên ve mọi mạt.
Các thế lực chống đối đã bị đè bẹp. Chính quyền
trung ương đã được củng cô và ngày cang gia tang
sức mạnh và lòng tin của nhân dân mọi mien trong
việc bảo vệ nền độc lập đã được thư thach. Nhưng
tiền đề cần thiết cho bước nhảy vọt vê kinh te, cho
bước phát triển huy hồng về văn hố đa tưng phan
được chuẩn bị dưói các triều đại Ngơ, Đinh, Tien Le.
Vả lại đất nưốc ta lại luôn luôn đứng trước hiêm họa
xâm lược từ phương Bắc. Do đó, việc định đơ ỏ phía
bờ nam sơng Hồng là điều hết sức hợp ly. Neu như
thế núi non hiểm trỏ của Hoa Lư chỉ thuận lợi cho
phịng ngự, khó khăn cho tiến cơng, con Co Loa co
thể dựa vào thế sơng ngịi của sơng Câu ơ phía trươc,
sơng Hồng ở phía sau để triển khai lực lượng, nhưng
giị đây, khúc sơng nối liền hai con sơng đo đa trơ
thành bãi bồi thì Thăng Long lại có đủ mọi điều kiện
13
để phát huy thê "tiến có thể đánh, lui có thể giữ"
bằng cách dựa vào chính hai con hào thiên nhiên là
sông Cầu ở xa, sông Hồng ở gần. Lịch sử đã chứng
minh tuyến phịng ngự sơng cầu (Như Nguyệt) đã
góp phần khơng nhỏ, làm thất bại cuộc chiến tranh
của quân xâm lược Tống ở thế kỷ XI. Các nhà địa lý
thường cho rằng các dịng sơng từ Tây Bắc, Việt Bắc
hội tụ về vùng Thăng Long - Hà Nội rồi lan toả
xuống phía đơng ra biển, đã làm cho vùng đất này
trở thành quốc đô thiên nhiên của người Việt. Chính
nhị hệ thơng sơng ngịi đó vối trục chính là sông
Hồng, mà trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốíc
chơng qn xâm lược Mơng - Ngun - điển hình là
cuộc kháng chiên lần thứ hai năm 1285 - thơng sối
Trần Qc Tuấn đã dễ dàng, nhanh chóng cho quân
chủ lực rút ra biển rồi theo sông Mã vào tập kết ở
châu Ái. Và cũng bằng hệ thông đường thuỷ này,
quân ta đã phản công giành lại đất nước. Hay như
trong cuộc chiên tranh 1288, cũng chính hệ thống
sơng ngòi trên đã giúp quân ta tạo nên một chiến
thắng Bạch Đằng lừng lẫy trong lịch sử chông ngoại
xâm. Đến thê kỷ XV, Đơng Quan tuy khơng cịn là
quốc đơ nhưng với "tinh thần Thăng Long", nhân dân
ta đã đấu tranh liên tục 20 năm, lật đổ ách thống trị
nhà Minh để lại trở về định đô trên vùng đất lịch sử
ay dưới tnêu Lê. Nhưng dâu chỉ có thê, những trang
ci cùng của lịch sử văn hố qn sự trung đại Việt
Nam còn ghi rõ: đâu năm 1789, chỉ trong vòng năm
lá
ngày dem, cùng nhân dân cả nước, nhân dân Thăng
Long đã dánh tan 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh
mà phần lớn bị dìm xác xuống đáy sơng Hơng khi
chủ tướng của chúng định mở một đường máu, thao
chạy sang bị Bắc. Cách mạng Tháng Tám^ thành
cơng Nhà nưỏc Việt Nam dân chủ cộng hoà vân xem
Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hố^
qn sự của cả nước, mặc dù trước dó 157 năm, Huê
đã trở thành quốc dơ dưới triều Nguyễn. Dưới chính
quyền nhân dân, trong gần một nửa thế kỷ, thực ra
mói 27 năm (1945-1972), Hà Nội dã cùng nhân dân
cả nước đánh thắng hai dế quốc to ngay trơn bơ nam
sơng Hồng. Đó là trận chiến dấu kóo dài hơn 60 ngay
dem, mở dầu cuộc kháng chiến chống Pháp là trận
"Diện Bicn Phủ trên khơng", góp^ phân kêt thuc
thắng lợi cuộc kháng chicn chơng My.
Có thổ nói rằng, khơng một thịi nào, khơng một
nhà lãnh dạo nào được phép tùy theo y minh dc
dô ở nơi này hoặc dời dô di nơi khác mà phai hoan
toàn tuân theo diều kiện khách quan và chu quan
của đất nước. Thịi diổm cuối thiên niên ky trươc
Cơng ngun, quốc dơ của người Việt chỉ có thổ dừng
lại ở phía băc bờ sơng Hồng Nhưng rồi trước những
biến động cua lịch sử, ba lần định dô ỏ cổ Loa, thơi
gian công lại cũng chưa dầy một tram nam c 0 ^
thế kỷ X Trái lại, sang dầu thiên niên kỷ I , vùng
dất lịch sử này dã hội tụ dược mọi tin h hoa của dân
tộc, xac dmh dược độ bền vững mn địi cho mộ V Ị
t5
trí theo đúng tinh thần của "Chiếu dời đơ" là "Dồ
đại" (mưu toan việc lớn) và ''Chi trung" (ở nơi chính
giữa). Nếu khơng như vậy, tại sao từ đấy trở đi, gần
một ngàn năm, ba lần thời cuộc đổi thay, người Việt
Nam vẫn cứ quay về Hà Nội: Thăng Long thời Lý Trần, 387 năm (1010-1397); Đông Đô thời Lê, 360
năm (1428-1788) và thịi đại chúng ta, thủ đơ Hà Nội
đã có 60 năm lịch sử.
Qua những phần vừa trình bày, ít nhiều cũng đã
góp phần tìm hiểu về sáu lần Hà Nội được định quốc
đô: ba lần ở ngoại thành, phía bị bắc sơng Hồng, tính
từ thê kỷ X trở về trưóc và nhất là ba lần ở nội
thành, phía bờ nam sơng Hồng, tính từ thê" kỷ XI trở
lại đây mà nhân dân cả nưốc vừa tưng bừng kỷ niệm
1000 năm. Thật ra, việc định đơ ỏ bị nam sơng Hồng
đã được tính đơn từ dưối thịi Bắc thuộc, qua hai sự
kiện lốn.
Sự kiện thứ nhất là năm 542, sau khi lãnh đạo
cuộc khởi nghĩa thành công, Lý Bí tự xưng là Lý
Nam Đế, đặt qc hiệu là Vạn Xn, đóng đơ ở Long
Biên. VỊ trí tồ thành này hiện chưa xác định được
có thể là gần thị xã Bắc Ninh bây giờ. Long Biên
(Yên Phong, Bắc Ninh), vốn là nhiệm sở của chính
quyền đơ hộ Bắc thuộc thịi Đơng Hán từ năm 136 (có
tài liệu ghi là năm 218). Cho nên Lý Bí đóng đơ ở
vùng đất này cũng là việc bình thường. Chỉ có điều
sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi, năm 544, Lý Bí đã
cho xây đài Vạn Xuân, cho dựng chùa Khai Quốc (có
16
nghĩa là "dựng nước") và đặc biệt là cho xây dựng
thành lũy ở cửa sông Tô Lịch. Đài Vạn Xuân là cơng
trình hành chính chính trị, được đốn định là ở bên
đầm Vạn Xuân, nơi nối quận Hai Bà Trưng vối
huyện Thanh Trì, phía nam Hà Nội. Chùa Khai Quốc
là cơng trình văn hố, xưa ở bờ sơng Hơng, mạn Yên
Phụ, sau dời vào Hồ Tây, phía băc Hà Nội, hiện nay
là chùa Trấn Quốc. Thành luỹ ở cửa sông Tơ Lịch là
cơng trình quốc phịng qn sự, nơi giao nưổc VƠI
sông Hồng, điểm nút giao thông chiên lược cua trung
tâm Hà Nôi qua các thời đại. Như vậy, các cong trinh
Lý Bí xây dựng đã hội tụ đủ các tiêu chuẩn để ghi
nhận một kinh đô lần đầu tiên xuất hiện ngay tư
giữa thế kỷ VI trên vùng đất mà đến năm 1010, được
Lý Công Uẩn gọi là Thăng Long và bây giờ là Hà
Nội. Hiển nhiên, công lao của sự khai sinh quy bau
đó phải thuộc về Lý Bí.
Sự kiện thứ hai là năm 607, bốn năm sau khi
chính quyền Lý Phật Tử bị nhà Tùy tiêu diệt, đất
nước ta lại bị thơn tính sau 61 năm tự do. Chính
quyền đơ hộ phương Bắc dời nhiệm sơ từ Long Bien
về Tơng Bình, tên của Hà Nội gơc, đặt ra năm 441,
dưới thời Lưu Tông thuộc Nam Bắc triều, Trung
Quốc (420-589), một cái tên tủi nhục của Hà Nội cơ,
chỉ một vùng đất bị "nhà Tơng bình đinh . Tư đay,
Hà Nội xưa trở thành vị trí trung tâm của đất mide,
nhất là sau năm 697, khi toàn bộ đat Giao Chau bị
nhà Đường đổi thành '\An_Nam _dô_hô J3hủ". Việc
Tï Vi lS uH
VV| £**JJỉ \ *i Ị!
17
rziiTJ
chính quyền đơ hộ dời nhiệm sở về Tơng Bình rôi tôn
tại mấy trăm năm đên Đại La, phải chăng được thực
hiện trên cơ sở "khai sinh" ra "vùng đất trung tâm"
này để "khai quốc" của Lý Bí trước đó 63 năm (544607)? Trong "Chiếu dời đô", Lý Công uẩn cũng phân
tích rõ: "... Thành Đại La, kinh đơ củ của Cao Vương
(tức Cao Biền, Tiết độ sứ Giao Châu của nhà Đường,
vào khoảng năm 864-875) ở vào nơi trung tăm trời
đất, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi. Đã đúng ngơi
nam, bắc, đơng, tây; lại tiện hướng nhìn sơng, dựa
núi. Địa thế rộng và bằng, đất đai cao mà thống.
Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; mn vật
cũng rất phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ
nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu
của bốn phương đất nước; củng là nơi kinh đô bậc
nhât của đ ế vương muôn đời".
Như đã nói, sau khi đến Tống Bình, bè lũ thống
trị ngoại bang đã liên tiếp xây đắp và mở rộng vùng
đất này thành dinh luỹ chủ yếu của chúng. Bởi vậy,
một hệ thống thành trì lần lượt dược mọc lên, đặc
biệt là các toà la thành - xuất hiện lần đầu vào năm
757 - và dược củng cố, sửa sang nhiều lần trong vòng
hơn một thê kỷ cho đên tận năm 866 với những tên
gọi "la thành", "An Nam la thành", "An Nam đại la
thành". Nghĩa đen, "la" là "lưới". Nghĩa bóng, "la
thành là "thành bao quanh". Đúng như thế, la
thành được dựng lên nhằm qy kín phủ thành đơ hộ
sau những cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Việc
18
những kẻ thống trị nước ngoài tạo dựng nên một hệ
thơng thành trì kiên cố ở Hà Nội cổ chứng tỏ chúng
phải luôn luôn đương đầu với những cuộc nổi dậy nên
đã có lần như năm 825, đơ hộ Lý Ngun Hỉ đã tâu
xin dời phủ đơ hộ sang phía bị bắc s.ơng Hồng. Mặt
khác, lại phải thấy, Hà Nội và lưu vực sông Hồng ở
các thê kỷ VIII-IX luôn luôn bị quân Cha Va, Con
Lôn và Nam Chiêu đến cướp phá. Bât lực, lu quan
cai trị sỢ hãi, bỏ chạy hết về nước. Trước tình hmh
đó, các hào trưởng người Việt ở khăp nơi đã lãnh đạo
con em đứng lên giết giặc, giữ làng, liên tiêp trong ba
năm. Với chính sách "tọa sơn quan hổ đấu" cổ truyền,
chính quyền nhà Đường đã biết lợi dụng thơi cơ đo,
khi mà nhân dân ta sắp giành thắng lợi trong cuộc
giao tranh, cử Cao Biền đem qn sang, mơ trạn
tổng cơng kích, đuổi giặc Nam Chiêu ra khoi nươc ta
và chiếm lấy thành quả. Tiếp đó, tên Tiêt đọ sư kiem
thầy phù thuỷ này đã đắp lại và mơ rộng An Nam la
thành" thành "An Nam đại la thành" vào khoang
năm 866 nên tồ thành có tên rút gọn là "Đại La". Từ
một danh từ chung, Đại La trở thành mọt danh tư
riêng, một tên gọi của Hà Nội cô trưốc Thang Long.
19
MỘT PHÁT HIỆN MỎI TỪ TRONG TÁC PHAM
"CHỦ NGHĨA MÁC VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM'"
"Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam" là bản báo
cáo nổi tiếng của Cô" Tổng Bí thư Trường Chinh, tại
Hội nghị văn hố tồn quổc lần thứ hai ở Việt Băc,
tháng 7 năm 1948, và sau đó được giới nghiên cứu
xem như một tác phẩm có tính lý luận - thực tiễn
cao. Ngót 60 năm qua, sách báo đã bàn nhiều về giá
trị của nó. Bài viết này xin không nhắc lại mà chỉ
nêu lên một phát hiện mới về một khía cạnh của
truyền thống văn hoá dân tộc với khái niệm quân sự
học và sự tơn vinh các danh nhân văn hố qn sự
được trình bày trong tác phẩm.
Để hiểu rõ, chúng ta hãy bắt đầu từ lịch sử dân
tộc. Có thể nói rằng, trên thế giới, khơng có xứ sở nào
mà chiến tranh lại xảy ra liên miên như ở Việt Nam.
Vừa ra khỏi 11 thế kỷ Bắc thuộc, vối chiến thắng
Bạch Đằng năm 938, đất nước ta lại rơi vào cuộc nội
chiến của 12 sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh "thu giang sơn
vê một mơi" chưa được bao lâu thì Lê Hồn đã phải
đem qn chống Tơng. Từ đó, qua Lý, Trần, Hồ,
khơng một triều đại nào là không chổng lại chiến
20
tranh xâm lược. Riêng thế kỷ XIII đã có đến ba cuộc
chiến tranh chống quân Mông - Nguyên, một kẻ thù
ghê gớm từng là nỗi kinh hoàng của cả loài ngườú
Tưởng chừng như sau cuộc chiến tranh chông Minh ở
thế kỷ XV nước ta sẽ có một nền hồ bình lâu dài
cho đến khi quân Thanh xâm lược vào cuối thế kỷ
XVIII. Nhưng thực ra, cái hình ảnh "nước thanh binh
ba trăm năm cữ' mà tác phẩm "Chinh phụ ngâm' đa
dựng lên chỉ là sự tưởng tượng, không bao giờ có. Vì
trong khoảng thịi gian đó đã diễn ra hết nội chiến
'-Nam Bắc triều" thời Lê - Mạc thì lại đến nội chiên
"Trịnh - Nguyễn phân tranh". Đa thế, hết nạn xâm
lược của chế độ phong kiến phương Bắc thì từ giữa
thế kỷ XIX nước ta lại bắt đầu bị nạn xâm lược cua
chủ nghĩa tư bản phương Tây, đưa đến cảnh lâm
than cho nhân dân gần 100 năm. Cho đến giữa thê
kỷ XX, khi vừa giành lại chính quyền chỉ một tháng
sau, dan tộc ta dã phải cầm vũ khí chiến đấu liên tục
30 năm, chơng lại thực dân Pháp và đê quốc Mỹ
trong hai cuộc chiến tranh giai phong.
^
Trong điều kiện nền văn hoá dân tộc phát triên
gắn với hoàn cảnh chiến tranh như vạy, đạc
^
chiến tranh chống xâm lược, thì rõ ràng viẹc ìeu
biết về quân sư .của nhân dân ta, ma tieu leu
danh nhân quân sự, phải thật tinh tường, thấu đáo.
Theo cac nha khoa học, từ xa xưa, ở'Việt Nam ã có
hai bơ mơn khoa học đửợc ít nhiều đúc kết vê lý luận
là y học và quân sự học. Y học được tổng kết vì nó
21
gắn liền với sự sơng cịn của con người cịn qn sự
học được tổng kết vì nó gắn liền với sự sơng cịn của
cả dân tộc.
Bây giị quay trở lại vối tác phẩm "Chủ nghĩa Mác
và văn hoá Việt Nam", chúng ta thấy, sau khi phân
tích kỹ mối quan hộ khăng khít giữa văn hố và xã
hội, nêu rõ lập trường văn hố mác-xít, tác giả dã
dành phần lớn nội dung để trình bày về "Văn hố
Việt Nam xưa và nay".
ở phần trên, với một thái độ khách quan, theo
phương châm "đề ra nhiệm vụ mà dũng cảm phụ
trách", tác giả nêu rõ: sau khi dân tộc ta bị người
nước ngoài dặt ách thống trị lâu dài, trước sau tới
hơn 1000 năm, dã làm cho nền văn hoá Việt Nam,
dến lúc ấy, là "tinh hoa của dân tộc bị kim hãm",
"chưa phát huy được đầy đủ bản sắc của minh".
Tuy thế nhưng trải qua bao thử thách nặng nề
dưới xiềng xích, gơng cùm nơ lệ của ngoại bang, nhân
dân ta "vẫn giữ được tính cách và tâm hồn Việt Nam,
thê hiện ở tiếng nói cũng như lịng u nước nồng
nàn, tinh thần độc lập dân tộc, tính cần cù trong lao
động sản xuât và dũng cảm trong chiến đấu vì tự do".
Mặc dù "trình độ khoa học, kỹ thuật" của nên văn
hố nước nhà cịn "thấp kém", tác giả cũng chí ra 9
lmh vực khoa học như văn học, ngơn ngữ, khoa học,
trict học, toán học, sử hoc, y hoc, chính tri học và
quan sự, mà dân tộc ta dã có những dóng góp nhất
dinh trong từng giai đoạn lịch sử, với 15 danh nhân
22
tiêu biểu, được tác giả mệnh danh là những "thiên
tài" những "ngơi sao sáng" trên bầu trời văn hố
Việt Nam.
Tại sao ở đây, các danh nhân quân sự lại đặt
bên cạnh các danh nhân văn học, chính trị học,^ y học,
triết học..., một bôn là những người chuyên sử dụng
bạo lực và một bên là những người mà hoạt động
của họ luôn luôn hướng tối những mục tiêu "chân,
thiện, mỹ"?
Trước hết phải nói ngay rằng những ngưịi bình
thường, mà những thành tựu có được, đã đưa họ tối
những danh nhân, thậm chí tác giả đã đánhgiá là
những "thiên tài", những "ngơi sao sáng" thì cơng sức
đóng góp của họ khơng dừng lại ở lao động chân tay
giản đơn mà đã là cơng sức của trí tuệ, của tư duy
sáng tạo. Mà những thành tựu của trí tuệ, cua tư
duy đạt tới tuyệt dỉnh, có tính giá trị cao, mạng tmh
nhân văn lớn thì mặc nhiên đã trở thành nhữ^g sả,n
phẩm văn hố. Bên cạnh đó, cung can p^ ai
thêm là khi nói đến quân sự, người ta thường ng ĩ
ngay tới hành động bạo lực. Nhưng đó làthứbạolực
phi nghĩa của chien tranh xâm lược, cưốp bóc, tước
đoạt, nhất thiết phải chống lại. Còn bạo lực bắt buộc
phải dùng tới để tiến hành chiên tranh yeu n
chính nghĩa nhằm bảo vệ Tô quôc, giai p
tọc, đem lại độc lập cho đất nước, tự do hạnh phúc
chị người dân thì lại cần phải tán đồng. Điều "cân
phải tán dơng" đó đã được "gói gọn" trong nhân cách
23
cao đẹp của từng danh nhân quân sự học mà tác
phẩm đã nêu ra.
Sau nữa là ở Việt Nam, việc đưa ra các lĩnh vực
hoạt động văn hoá với những danh nhân tiêu biêu
trong tác phẩm không phải là sự tuỳ tiện mà là tuân
theo một thực tế trong quá trình đi lên lâu dài của
dân tộc, khơng thể bác bỏ được rằng văn hóa khơng
chỉ là nền tảng tinh thần để phát triển đất nưốc mà
đồng thòi còn là cd sở tạo nên sức mạnh vật chất
nhằm bảo vệ hầu như trọn vẹn nền độc lập dân tộc.
Chính từ đó, các nhà khoa học đã khái quát lên thành
một trong hai quy luật của lịch sử là "dựng nước phải
đi đơi với giữ nưóc", nghĩa là muốn xây dựng văn hố,
phải ln ln nghĩ tỏi việc bảo vệ văn hoá.
Trên đất nưốc ta, giữ nưốc là một sự nghiệp cực
kỳ vĩ đại, một trách nhiệm hết sức nặng nề, to lớn
cho tất cả các thê hệ, suốt hơn hai ngàn năm nay. Nó
đã trở thành một truyền thơng q báu, một nếp sơng
văn hố trước nhu cầu của đất nước, của thịi dại rồi
lâu năm hình thành thiết chê vũ trang bên cạnh
thiêt chê lao động sản xuất và thiết chê sinh hoạt vui
chơi, điêu mà không phải dân tộc nào cũng có.
Đấu tranh vũ trang giữ nước - nội dung thực chất
cua văn hoá quân sự - là một q trình chiến đấu
thật gian lao, vất vả, địi hỏi sự hy sinh, sự quên
mình cho nghĩa cả nhưng người Việt Nam hầu như
đa đạt tới mục đích trước mọi cuộc chiến tranh xâm
lược VƠI nhưng thăng lợi rực rõ, xuất sắc, so với các
24
lĩnh vực văn hố khác. Vì vậy ở các lĩnh vực đó, sơ
danh nhân khơng nhiều như ở lĩnh vực quân sự mà
tác phẩm đã nêu cũng là điều dễ hiểu. Chăng hạn
trong 9 lĩnh vực khoa học với 15 danh nhân thì qn
sư đa có mặt 6/24 lượt danh nhân, chiếm 25%. Trừ hai
lĩnh vực văn học và chính trị, các lĩnh vực khoa học
khác chỉ có 1/24 lượt danh nhân, chiếm 4,16%, như:
Han Thuyên, ngôn ngữ học; Lương Thế Vinh, toán học;
Nguyễn Bỉnh Khiêm, triết học; Hải Thượng Lãn Ong, y
hoc; Lê Quý Đôn, khoa học; Phan Huy Chú, sử học...
Cịn tính riêng về số danh nhân đã nêu lên thì thuộc
lĩnh vực qn sự có 6/15, chiếm tới 40%.
Từ suy nghĩ hết mức, tác giả đã khái quát và lân
đầu tiên đưa ra khái niệm quân sự học, như đã nói
với những thiên tài giũ nước băng đau tran
trang, la một phát hiện mối. ở thòi diểm ấy - n ững
năm bắt đầu bước vào kháng chiên - quan sự .
một khái niệm rất khác lạ. Thú vị hơn nữa là phát
hiện này lại đưa vào một tác phẩm bàn ve văn hoa.
Dieu dó nói lên rằng qn sự học chống ngoại xâm
thc Pham trù văn hố - văn hoá quân sự - như
cách hiểu của chúng ta ngày nay. Và những danh
nhan quan sư trong tác phẩm văn hoá này, c in a
6 danh nhan văn hố qn sự: Ngơ Quyền Tran
Qc Tuan, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ và
Ngơ Thì Nhậm.
*
*
*
25
Thứ nhât là Ngô Quyền (897-944), anh hùng dân
tộc thê ký X, mà sự nghiệp cao cả của ông dã dược
nha chi SI yêu nước Phan Bội Châu tôn vinh là vi tổ
trung hưng lần thứ nhất của dân tộc.
Nam 931, Dương Đình Nghệ đánh tan cuộc chiên
tranh xâm lược lần thứ nhất của quân đội nhà Nam
Hán - một triều đình cát cứ ở vùng ven biển dơng
nam Trung Quốc - và giành dược chính quyền cho
dân tộc. Nhưng 7 năm sau đó, năm 937, đât nước dã
xảy ra một cuộc chính biến lớn. Kiều Cơng Tiễn, một
vien tương than cận cua Dương Đình Nghẹ, vốn có
săn mối liơn hộ ngầm vối quân Nam Hán, đã giết chủ
tướng để cướp chính quyền và sẵn sàng làm tay sai
cho quân xâm lược.
Truđc tình hình Tơ' quốc làm nguy, vừa có "thù
trong", vừa cộ "giặc ngoài", vơi cương vị là con rể, lại
ọ tương gan gui nhát cua Dương Dinh Nghệ, Ngơ
Qun thấy rõ trươc mắt phải đối phó vời ba lực
ượng: Kiểu Còng Tiễn, Thái tử Hoằng Thao - chủ
tương đạo thuỳ quán xâm lược ỏ phía trươc - và Lưu
Cung, vua Nam Hán, chỉ huy lực lượng bo binh dứ bi
ph a sau Nhằm d, tó, thắng lợi quyết dinh trong
” *«*■» ngắn. nhít thiết khơng dổ qn xâm
lược vào sâu trong lãnh thổ, ông dà lựa chon phương
n Í ỉPb L
i chií n.tranh
ba hưte mọt la phai
hanh chóng tiêu diệt lực lượng nội phản trong nươc
L qb !L 7 1“
: * * dựa, hai l ĩ
tập
ưng hương nô lực vào dạo thuỷ quân, bỏ gãy ngay
26