Phần 333
TRƯNG BÀY
HỆ THỐNG PANỒ - BẢN Đồ TRONG TRƯNG BÀY
■
CỦA BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM •
•
■
CÁCH NHÌN VÀ NHỮNG SÁNG TẠO
PTS. LÊ DUY ĐẠI
Cũng như các bảo tàng khác, trong trưng bày của Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam bên cạnh hiện vật gốc là nền
tảng, cịn có các hiện vật trung gian mơi giỏi mà trong đó
đáng chú ý là các tài liệu khoa học phụ.
Tài liệu khoa học phụ đó là những bản đồ, biểu đồ, panơ...
vừa phản ánh trình độ nghiên cứu, sưu tầm, sức hàm chứa của
kho tư liệu ảnh, vừa phản ánh trình độ thẩm mỹ, trình độ
khoa học kỹ thuật của đất nưổc và thế giỏi hiện nay, đồng thịi
qua đó cũng thấy đuợc cách nhìn nhận mói cũng như nhũng
sáng tạo của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Hệ thống panô - bản đồ ở khu vực trưng bày trong
nhà của Bảo tàng D ân tộc học V iệt Nam gồm 97 chiếc
vỏi 2 loại hình chính: loại panơ ảnh - bản đồ và loại
panô ảnh.
285
Loại panô ảnh - bản đồ in trên giấy troky trắng, kích
thưỏc 150cmx90cm gồm 14 chiếc để giỏi thiệu các nhóm
ngơn ngũ tộc ngưịi như Tày - Thái, Ka đai, Tạng - Miến,
Mơn - Khơ me miền núi phía Bắc, Môn - Khơme Trường
Sơn - Tây Nguyên, Hmông - Dao, Nam Đảo miền núi và
các dân tộc: Kinh, Mưòng, Thổ, Chút, Chăm, Hoa, Khơme. Ỏ đây, ngoài các bài giỏi thiệu (in 3 thứ tiếng Việt Pháp - Anh), ảnh giỏi thiệu những đặc trưng chung, một
số diện mạo vãn hố truyền thống của các nhóm ngơn ngữ
tộc ngưịi; ỏ các panơ cịn có 1 bản đồ tồn quốc tỷ lệ nhỏ
(1/6.000.000) trên đó thể hiện sự phân bố của các nhóm
ngơn ngũ tộc ngưịi một cách khái qt. Tuy nhiên, trên
các panơ giổi thiệu các ngữ hệ hay nhóm ngơn ngữ, ngồi
bản đồ nói trên cịn có bản đồ khu vực tập trung dân cư
nhóm đó tưong đối chi tiết (tỷ lệ 1/2.500.000-1/1.000.000),
trên đó thể hiện sự phân bó của từng tộc ngưịi trong nhóm
cũng như đưịng bình độ, tên và ranh giói các tỉnh. 0 đây,
các dân tộc được thể hiện mang nặng tính định tính (chỉ
chú ý đến phân bố, còn các yếu tố như số lưộng, mật độ,
mức độ xen kẽ chưa đề cập) và mỗi dân tộc có 1 gam màu
riêng. Nhưng để phân biệt vỏi các nhóm ngơn ngữ khác,
các dân tộc trong cùng một nhóm có một sác màu tương
đối đồng nhất.
Để phù trợ cho việc giỏi thiệu của 9 khu vực trưng bày
làm nổi bật những diện mạo văn hoá từ cảnh quan nơi cư
trú, loại hình và cơng cụ sản xuất, kiến trúc, đồ gia dụng
286
đến những lễ nghi tơn giáo, cưói xin ma chay... của 54 dân
tộc nưổc ta, có hơn 80 panơ ảnh. Ỏ đây, có loại được in
trên giấy troky trắng khổ 150cmx90cm lại có loại in trên
giấy b ìa m àu n â u vàng vổi kích thư ỏ c nhỏ hơn
(70cmx48cm); có loại có bài giới thiệu (in 3 thứ tiếng: Việt
- Pháp - Anh) kèm theo nhung cũng có loại khơng có bài
giỏi thiệu. Loại in trên giấy bìa màu nâu vàng (tương ứng
vói màu gỗ của tủ trưng bày) có khối lượng lỏn hơn cả,
gồm 62 chiếc gán liền vối 62 tủ kính trưng bày và có liên
quan trực tiếp đến những hiện vật trưng bày trong đó và
không giống các panô khác, ảnh được scane trực tiếp còn
loại này ảnh được in từ phim âm bản rồi được dán lên
panô, Trong số các loại panô ảnh đáng chú ý nhất là các
panô ở phồng đầu tiên - phịng giói thiệu chung gồm 6
chiếc, trong đó có 5 chiếc giói thiệu ảnh chân dung của
các dân tộc thuộc 5 ngữ hệ: Nam Ấ, Thái - Ka đai, Hmông
- Dao, Hán - Tạng và Nam Đảo và một chiếc vỏi kích
thuốc lốn hơn (240cmx90cm) trình bày những chặng đưịng
lịch sử, văn hoá của các dân tộc Việt Nam. Ỏ đây, mốc
thịi gian được tính từ những năm trưỏc cơng nguyên vổi
sự hình thành nhà nưđc Văn Lang - Âu Lạc đến tháng 8
năm 1945 vổi sự ra đòi cùa nưỏc Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà. ứ n g với mốc thịi gian và thịi kỳ lịch sử đó là vai trị
lịch sử cũng như q trình hội nhập dân tộc, văn hoá của
các dân tộc ỏ nưđc ta. Để minh hoạ, có các bức ảnh về
các di chỉ và hiện vật khảo cổ học, các cơng trình kiến
287
trúc; các bức ảnh lịch sử, văn hoá... tiêu biểu cho các thòi
kỳ lịch sử. Nổi bật trong hệ thống panô, bản đồ là tấm
bản đồ phân bố các dân tộc theo ngơn ngữ ỏ nưóc ta,
được treo ỏ phịng giỏi thiệu chung cùng vỏi các panô ảnh
chân dung của 5 ngữ hệ và panô các dân tộc Việt Nam những chặng đưịng lịch sử văn hố. Bản đồ có tỷ lệ
1/550.000, kích thuốc 240cmx210cm, vối 11 màu sắc khác
nhau thể hiện sự phân bố của các nhóm ngơn ngữ, ngữ
hệ: Tày - Thái, Ka đai, M ôn - Khơ-me miền núi, Muòng
(gồm cả Thổ, Chút), Hán, Tạng - Miến, Hmông - Dao,
Nam Đảo miền núi và 3 dân tộc là Việt (Kinh), Chăm và
Khơ me. Việc thể hiện đó phù hợp vỏi ý tưởng bố trí khu
vực trưng bày trong nhà của bảo tàng thành 8 không gian
là: Giỏi thiệu chung; ngưòi Việt; các dân tộc Muòng, Thổ,
Chút; các dân tộc nhóm ngơn ngữ Tày- Thái và Ka đai;
■Hmồng - Dao, Tạng - Miến và ngưịi Sán Dìu, ngưịi Ngái;
các dân tộc nhóm ngơn ngữ Mơn-Khơ-me (miền núi); các
dân tộc nhóm ngơn ngữ Nam Đảo (miền núi); và các dân
tộc Chăm, Hoa, Kho-me. Trên bản đồ, các yếu tố địa lý
như: các đưịng bình độ, các dãy núi, đỉnh núi cao, cao
ngun, cánh cung, sơng suối, ranh giói và tên các thành
phố, thị xã là tỉnh lỵ của các tỉnh v.v... thể hiện khá rõ.
Đặc biệt, trên bản đồ có thành lập 3 lát cát địa lý tộc
ngưịi của các vùng: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ để giúp
cho ngưòi xem thấy rõ cao độ các khu vực phân bố của
các dân tộc.
288
Việc in dồng thòi cả bản đồ, bài giỏi thiệu (3 thứ tiếng:
Việt - Pháp - Anh), cả ảnh trên tấm panô cồ lỏn là lần
đầu tiên đối vỏi Nhà xuất bản Bản đồ và có lẽ cũng là đối
với cả nuớc, nên bước đầu cũng gặp khơng ít khó khăn,
phải trải qua nhiều cuộc thử nghiệm, nhiều lần in thử. Để
có được các tấm panơ - bản đồ như hiện nay, các cán bộ
kỹ thuật đã sử dụng kết họp 5 chưong trình: Word, Mapinpo, Photoshop, Corendravv, Micro Station và các máy in
cõ lốn nhu HP - 750C, Calcomap, Novazet vỏi các thiết
bị phụ trạm w . Station - Sun, Image...
Tham quan khu vực trưng bày của Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam, ngưòi xem dễ dàng nhận ra sự phong phú,
đa dạng của hệ thống panô - bản đồ. Chính điều đó, nhiều
khi tạo cho ngưịi xem cảm giác nhàm chán (và tất nhiên
họ sẽ cho là tốn kém về kinh tế) như đã từng xảy ra ỏ một
số bảo tàng. Nhưng trái lại, ỏ đây vỏi số lượng panơ - bản
đồ với 97 chiếc (bình qn một phịng trưng bày có hơn
10 chiếc), vẫn cảm thấy vừa, đủ và rất cần thiết. Điều quan
trọng là hệ thống panô - bản đồ của Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam chẳng những đáp ứng những yêu cầu kỹ
thuật, mỹ thuật, nội dung khoa học mà còn gắn liền vổi
các tộc ngưòi, nhất là các hiện vật gốc làm nổi rõ những
đặc trưng văn hoá truyền thống cũng như sự giao lưu văn
hoá của 54 dân tộc ỏ nưốc ta.
1 9 COTNC
289
NGHIẾN CỨU ĐỂ TRƯNG BÀY TRONG
BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC
■
a
CHU THÁI SƠN
Trong bài viết nhỏ này, tôi chỉ đề cập đến hai vấn đề
đang được đa số quan tâm. Vấn đề thứ nhất là quan niệm
như thế nào về Bảo tàng dân tộc học, Bảo tàng văn hoá
các dân tộc và Làng văn hoá dân tộc. Vấn đề thứ hai là
mối quan hệ hữu cd giữa các nhiệm vụ nghiên cứu, sưu
tầm, bảo quản, trưng bày và giới thiệu trong một Bảo tàng
Dân tộc học hiện nay.
Muốn làm sáng tỏ vấn đề thứ hai thì đơng thịi phải
làm sáng tỏ vấn đề thứ nhất trưốc đã.
I.
Trong nhiều năm qua, có khơng ít nguồi đật ra câu
hỏi: Bảo tàng Dân tộc học và Bảo tàng Văn hoá các dân
tộc, rồi Làng văn hoá dân tộc là một hay khác nhau; khác
nhau ở chỗ nào? Song cho đến nay, chính thức câu hỏi
này vẫn chưa có lịi đáp. Đâ từng xuất hiện những ý kiến
rất khác nhau như:
200
1 - Ngưịi nói giống nhau thì chua có một phân tích
nào đáng chú ý.
2 - Ngưịi nói khác nhau cũng chưa đưa ra những kiến
giải thuyết phục.
3 - Lại có ngừịi lúc trưỏc nói "khác nhau" rồi sau lại
nói ''giống nhau" hoặc nguộc lại, song các kết luận này đều
không dựa vào những căn cứ nào cụ thể cả.
Vậy thực chất là chúng giống nhau hay khác nhau?
Sự thật, Bảo tàng Dân tộc học, Bảo tàng Văn hoá các
dân tộc và Làng văn hoá dân tộc, cả ba đều giống nhau,
thậm chí rất giống nhau, nếu chúng ta chỉ quan sát chúng
ỏ hình thức hay xem xét nó một cách hịi hột.
Trước hết, để hộp thành một khn viên văn hoá,
chúng đều giống nhau ỏ ba yếu tố căn bản sau đây:
a - Sự giống nhau thứ nhất: cả ba đều là những địa
chỉ của loại hình Bảo tàng hay giống như Bảo tàng ngồi
trịi - nơi gìn giữ và tuyên truyền - giỏi thiệu di sản văn
hoá của các dân tộc trong một khu vục hay một quốc gia.
b - Sự giống nhau thứ hai ỏ chỗ cả ba đều là những
khuôn viên để giỏi thiệu - tuyên truyền về văn hố, chứ
khơng phải là khn viên kinh tế, chính trị hay khn viên
qn sự, quốc phịng...
c - Sự giống nhau thứ ba là mục tiêu bảo tồn - bảo
tàng trưng bầy đều nhằm vào góc độ của văn hố tộc ngưịi
291
- văn hoá của từng dân tộc và văn hoá của các dân tộc
trong một khu vực hay trong một quốc gia. Có thể hiểu
rằng, đó là văn hố dân gian, văn hố của cộng đồng tộc
ngưịi, chú khơng phải là văn hố chính thống, văn hố
quốc gia hay văn hố cung đình ỏ thịi đại trưỏc hoặc văn
hố - văn minh ỏ thế giỏi hơm nay.
Chính ba yếu tố này đã kiến tạo nên những nẻo đưòng
dắt dẫn nhiều ngưòi đi đến nhận thức đơn ihuần là chúng
giống nhau, hoặc rắt giống nhau. Vậy thì giữa chúng có gì
khác nhau?
Hãy quan sát từ xa, từ bề ngoài trưỏc đã.
Cái đàu tiên có thể dễ dàng nhận ra là ỏ lịi đáp của
câu hỏi:
Nó là con đẻ của ai, là sản phẩm của q trình nào
trong địi sống phát triển? Nó xuất hiện là do sự hối thúc
từ đâu? Và cuối cùng, đến lượt nó thì chủ yếu là nó nhàm
phục vụ ai? Giải đáp được câu hỏi này không khó khăn
gì mà lại có ngay hiệu quả: Rõ ràng là chúng khác nhau,
thậm chí khác nhau đến mức khơng thể nhầm lẫn.
1
- Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam nàm trong
bán kính của Bộ Văn hố - Thông tin, thuộc hệ thống các
bảo tàng lịch sử: lịch sử quốc gia, lịch sử cách mạng, lịch
sử quốc phòng, lịch sử địa phương, lịch sử nghệ thuật, lịch
sử sân khấu, lịch sử hội đồn, lịch sử danh nhân..., trong
đó cũng khơng thể thiếu lịch sử văn hố các dân tộc. Sự
292
hình thành và phát triển của các bảo tàng nói trên thuộc
chúc năng của bộ Văn hố - Thơng tin. Mặt khác, nưóc
ta là một quốc gia đa dân tộc, đa văn hố lại được sự cổ
vũ ở đưịng lối chính sách của Đảng, được sự đảm bảo của
hiến pháp về quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trong đó
có quyền bình đẳng về văn hố tộc người. Các dân tộc ỏ
nưỏc ta lại có truyền thống đồn kết, tương trộ tù lâu trong
lịch sử để cùng dựng nước và giữ nước. Một quốc gia đa
dân tộc, các lãnh thổ tộc ngưòi cứ mò dần để nhường chỗ
cho các màu sắc xen cư trong từng khu vực. Một quốc gia
đa dân tộc, nhưng vắng bóng những cuộc chiến tranh sác
tộc. Một quốc gia đa văn hố, đa tơn giáo, nhưng cũng
vắng bóng những cuộc chiến tranh tơn giáo... Tất cả những
yếu tố lịch sử này đều làm nên sự hối thúc để một Bảo
tàng Vân hoá các dân tộc được ra đòi khi các điều kiện
cần và đủ đã cho phép.
2.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam thuộc Trung tâm
Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia là một bảo tàng
của chuyên ngành, nàm trong hệ thống các bảo tàng của
Hàn lâm viện (Mặc dù nưỏc ta chưa có tổ chức khoa học
này, nhung Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc
gia; và Trung tâm Khoa học tự nhiên và Cơng nghệ Quốc
gia đang đóng vai trị là hạt nhân, là tiền thân của một
Hàn lâm viện trong tương lai, như Bảo tâng biển của Viện
Hải dương học, Bảo tàng Dộng vật của Trung tâm Khoa
học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia, Bảo tàng Địa chất...
293
và các bảo tàng nhỏ (hay đúng hơn là phòng Trưng bày)
của các trưòng đại học như Bảo tàng Tiền tệ của Đại học
Ngân hàng, Bảo tàng N hân học của Viện Sinh lý - Giải
phẫu ngưòi thuộc Đại học Y khoa, Bảo tàng Cổ sinh vật
của Trưòng Đại học Tổng hộp Hà Nội (nay là Đại học
Khoa học xã hội và Nhân vãn)... Những bảo tàng nói trên
ra địi khồng chỉ nhằm m ột mục đích phổ thồng là phục
vụ đơng đảo cơng chúng để nâng cao dân trí, mà cịn nhàm
một mục đích khác nữa là tạo nên những cơ sỏ khoa học
tin cậy tại chỗ cho công tác nghiên cứu và đào tạo cán bộ
chuyên ngành. Nhũng hiện vật được sưu tầm đua về bảo
tàng và trưng bày - giỏi thiệu ỏ đây không chỉ trở thành
những giáo cụ trực quan sâu rộng, đa chiều và sinh động,
có sức thuyết phục cao, mà cịn là những căn cứ khoa học,
những chứng tích đích thực của lịch sử, của đồi sống các
dân tộc để nghiên cứu, tranh luận khoa học, hng dẫn,
so sánh, học tập v.v... Chính vì vậy mà, việc sưu tầm hiện
vật và việc tnlng bày - giới thiệu ỏ đây mang tính khoa học
và sư phạm cao, khơng thể chung chung, khơng thể hịi
hợt; bên cạnh tính cụ thể và ln ln cụ thể là tính khái
quát, tính hệ thống, tính quy luật cao. Xa rịi nhũng đặc
điểm này, thì Bảo tàng D ân tộc học sẽ khơng cịn là một
bảo tàng chun ngành thuộc hệ thống hàn lâm viện nữa.
Chất lượng của hiện vật sưu tầm được, trong đó có sự hiểu
biết đày đủ về hiện vật, thể hiện một phần ỏ lý lịch hiện
vật; cách chọn lựa hiện vật để trưng bày, cũng thể hiện
294
trình độ nhận thúc của chúng ta về văn hố tộc ngi, văn
hố địa phương; chất lượng của hệ thống étiquet, panơ,
bài viết và lịi thuyết minh để giỏi thiệu là những yếu tố
làm nên chất lượng của một bảo tàng trong hệ thống hàn
lâm viện; và cũng làm cho chính nó khác vổi Bảo tàng
Văn hố các dân tộc, khác vổi Làng Văn hoá dân tộc cả
về lượng và chất. Lượng ở chỗ mỗi hiện vật đều nằm trong
một hệ thống; và chất ở chỗ hiện vật mang tính tiêu biểu
vỏi sự phong phú của các thông tin về hiện vật. Là một
bảo tàng chuyên ngành nên Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam không thể không tranh thủ nhũng kết quả nghiên
cứu trong chuyên ngành dân tộc học ỏ Viện Dân tộc học
và bộ môn Dân tộc học thuộc các trưịng đại học.
3
- Làng Văn hố dân tộc. Làng Văn hố dân tộc có
hình thức như một bảo tàng ngồi trịi. Nó ra địi do sự
hối thúc thưong mại cùa ngành du lịch trong những năm
mỏ cửa gần đây. Nó chỉ có một mục đích là phục vụ vui
chơi, giải trí trong một khơng gian văn hố có mầu sắc
dân tộc để khách tham quan kiếm tìm những hưng phấn,
những cảm thụ văn hoá của ngưồi xưa hay của xứ sỏ khác.
Về mặt khoa học, không thể so sánh nó vổi bảo tàng nói
chung, bảo tàng dân tộc học hay bảo tàng vãn hố các dân
tộc nói riêng. Có thể đơn giản hoá để dễ hiểu như sau:
làng văn hoá dân tộc là một thứ trống đồng Ngọc Lũ được
phục chế bằng thạch cao, một vị hoàng đế trên sân khấu
295
tuồng cổ, một bức tranh thuỷ mặc của Tê Bạch Thạch
được ngưịi địi nay vẽ lại trên máy vi tính...
Cái nhân lồi của một bảo tàng là ỏ hiện vật và hệ thống
các hiện vật, các bộ sưu tập. Vậy thì sụ khác nhau của các
tổ chức văn hố nói trên (Bảo tàng Dân tộc học, Bảo tàng
Văn hoá các dân tộc, Làng Văn hố dân tộc) cũng chính
ỏ chỗ này; ỏ hiện vật đưa ra trưng bày và hiện vật được
bảo quản trong kho dự trữ.
1 - Ỏ Bảo tàng Văn hoá dân tộc, bên cạnh các hiện
vật gốc, thuòng thấy là nhũng hiện vật làm lại. Chất lượng
hiện vật và sự nhận biết về nó, về các hiện tượng văn hố
tộc ngưịi có chừng mực, khơng địi hỏi đến nguồn cội của
các vấn đề, (thể hiện trong hệ thống hiện vật và các sưu
tập được trưng bày). Trong trưng bày, thưịng sử dụng
nhũng hình thức tưộng trưng khá hấp dẫn. Kho bảo quản
của cơ quan này là nguồn hiện vật phong phú đé sẵn sàng
phục vụ cho trưng bày.
2 - Ỏ Bảo tàng Dân tộc học, hiện vật gốc đóng vai trị
chủ đạo trong trưng bày và trong kho bảo quản. Hiện vật
làm lại chỉ sử dụng trong trưòng hợp bát buộc. Về hiện
vật làm lại cũng phải căn cứ vào một hiện vật gốc cụ thể.
Hiện vật ỏ đây phải ln là những hiện vật hồn hảo, có
lý lịch rõ ràng và đầy đủ. Một thân nỏ khơng có lẫy, một
cánh cung khơng có dây, một cài vị ỏ Tây Ngun sứt
miệng có thể lẫn vỏi tài sản ỏ nhà mồ... không thể chấp
296
nhận được khi nhập kho bảo quản, càng không thể chấp
nhận trong trưng bầy ỏ Bảo tàng Dân tộc học. Về chất
lượng của hiện vật càng khắt khe bao nhiêu thì càng khác
xa bấy nhiêu so vối các cơ sở văn hoá khác đang bàn.
3
- ỏ Làng Văn hoá các dân tộc, trái lại chủ yếu là
nhũng hiện vật làm lại để đảm bảo độ bền vững của chúng;
và ở đây không nhất thiết phải là hiện vật gốc. Nếu như
ỏ cả hai bảo tàng nói trên, số hiện vật trong kho bảo quản
chiếm số lượng rất lón so vổi số hiện vật được đưa ra trưng
bày; nhiều bộ sưu tập được dự trữ để sẵn sàng phục vụ cho
các trưng bày chuyên đề hay trưng bày lưu động, thì ngược lại,
ỏ Làng Ván hố dân tộc khơng càn có kho tàng bảo quản
hiện vật và khơng có những hoạt động trưng bầy như vừa nêu.
Qua những phân tích ỏ trên, chức năng và nhiệm vụ
của Bảo tàng Dân tộc học là đã rõ; và đáy là tiền đề để
soi tỏ những đặc thù trong các nhiệm vụ cụ thể.
II.
Mối quan hệ hữu cơ giữa các nhiệm vụ nghiên cứu,
sưu tầm, bảo quản, trưng bầy và giỏi thiệu ỏ Bảo tàng
Dân tộc học.
Xin có một lưu ý nhỏ ỏ đây là tôi dùng thuật ngữ "giổi
thiệu" để chỉ chung cho công tác tuyên truyền - giáo dục
trong bảo tàng.
Công tác nghiên cứu dân tộc học ỏ bảo tàng có phần
giống và có phần khác, thậm chí rất khác với việc nghiên
297
cứu ở viện dân tộc học. Trong các đối tượng nghiên cứu
thì ỏ đây, văn hố vật chất được chú trọng hàng đầu vì nó
là nghiên cứu hiện vật, nghiên cứu cái nhân lõi của một
bảo tàng. Những nghiên cứu khác như: nghệ thuật tạo
hình, tín ngưõng, các nghi lễ dân gian, đồ chơi của con trẻ
V .V .. cũng là những nghiên cứu thiết thực ỏ đây. Trái lại,
những đối tượng nghiên cứu như: hệ thống thân tộc, tổ
chức làng - buôn, đề tài song - đa ngữ, luật tục, văn chương
truyền miệng... đều xa cách bảo tàng dân tộc học, hiệu
quả ứng dụng ít.
Nghiên cứu dân tộc học trong một bảo tàng phải nhàm
vào việc đem lại hiện vật (thể khối, thể hình) cho kho bảo
quản để tạo nguồn dự trữ cho các trưng bày tiếp theo.
Mọi nghiên cứu không thực thi được việc sưu tầm để làm
giàu cho kho bảo quản, cung cấp những tư liệu cần thiết
cho việc trưng bầy, đều không phải là hưỏng nghiên cứu
thiết thực ỏ bảo tàng. Có thể nói: hiện vật sưu tầm được
vổi đầy đủ mọi hiểu biết khoa học (tơi nhấn mạnh) về nó,
chính là kết quả của việc nghiên cứu. Hiện vật sưu tàm
được mà không hiểu biết đầy đủ về nó, thì khơng thể có
nội dung tốt để giỏi thiệu cho khách tham quan, hạn chế
những tri thức trong công tác giáo dục - tuyên truyền, kết
cục là mục tiêu nâng cao dân trí trong bảo tàng khơng
thực hiện được.
Đã tùng có khơng ít những chuyến suu tầm đưa về
nhập kho bảo quản một "xe trung" hiện vật. Bên cạnh
298
những hiện vật có giá trị, có hiện vật đuộc coi là tồn bích,
thì cũng khơng ít những hiện vật có chất lượng tồi, thậm
chí rất tồi, tệ hại hơn có cả những hiện vật được coi vào
loại "bỏ đi".
Những loại hiện vật thứ 2 này đã tích cực làm cho kho
bảo quản ngày càng trỏ nên chật chội, gậm nhấm cơng súc
của ngưịi bảo quản và tiêu hao hố chất bảo trì. Chắc
chắn là khơng bao giị nó được đưa ra trưng bày để giỏi
thiệu vỏi khách tham quan cả.
Một hiện tượng khác cần được nói là: việc sưu tầm
những bộ trang phục dân tộc thì hầu như khơng có ai là
khơng tham gia cả vì số lượng loại hiện vật này rất phong
phú, hình thức khá hấp dẫn, việc tìm kiếm cũng khơng
q khó khăn. Nhung đến khi hỏi tới hoa văn trên trang
phục thì được giải đáp chung là "khơng để ý!". Tình hình
này cho thấy rõ ràng là sự hiểu biết của đa số chúng ta
về hiện vật rất yếu, kể cả những cán bộ được coi là các
chun gia.
Hình như có sự nhầm lẫn rất nghiêm trọng cần được
làm rõ là: đồng nhất giữa việc sưu tầm hiện vật văn hoá
dân tộc vỏi việc đi mua đồ ỏ ngoài chợ hay ỏ trong làng,
mà lại coi trọng về ỉượng, khơng coi trọng về chất, vì hiện
vật có chất lượng cao, địi hỏi ngưịi sưu tầm mất nhiều
cơng sức - cơng sức kiếm tìm và cơng sức tìm hiểu về hiện
vật, điều tra xây dựng lý lịch hiện vật...
299
Một tình hình cũng rất phổ biến hiện nay là những
hiện vật sưu tầm về đã được tìm hiểu một cách không đày
đủ, nhưng vẫn thoả mãn vổi lý lịch của hiện vật. Ví dụ:
một chiếc áo, chỉ có những thông tin đơn giản là: áo nam
hay nữ, ở lứa tuổi nào, thuộc dân tộc nào hay nhóm địa
phường nào, là loại thường phục hay lễ phục v.v... nhung
những thông tin khác thuộc về cái áo như: cách cắt may
dựa vào khổ vải cổ truyền, các hoa văn trang trí trên đó
có tên gọi là gì, vì sao lại sử dụng màu sác, hình hoạ và
bố cục như ỏ đây v.v... con ít được quan tâm.
Một cây cột lễ được mua về vói bao vất vả. Trên đó
có hàng trăm hoạ tiết và hình trang trí. Rồi các mơ hình
nhà vói những trang trí ỏ sống nóc và đầu đốc rất tinh
vi..., nhưng khi hỏi về những trang trí đó thì đều được
hướng dẫn trả lịi vói khách tham quan là "còn đang nghiên
cứu!" v.v... và v.v... Tất cả những điều vừa chấm phá trên
đây cho thấy công tác nghiên cứu ỏ Bảo tàng Dân tộc học
còn chưa theo kịp vỏi nhiệm vụ được giao. Đó là gánh
nặng đang chồ của một bảo tàng có chức năng là phục vụ
cơng tác nghiên cứu chun ngành.
Lại có một sổ bình hương, bát sứ của lị gốm Bát Tràng
hiện nay, những đơi đũa nhựa mang nhãn hiệu Trung
Quốc thòi mỏ cửa, những bao hương dán nhãn của nội
ngoại thành Hà Nội..., được huy động vào khơng gian văn
hố - tín ngưỡng cổ truyền của một dân tộc miền núi,
300
nhưng cho đến nay vẫn chưa được quan tâm tu chỉnh cho
xứng vổi chất lượng của một bảo tàng dân tộc học.
Chúng ta có thể bỏ qua cho những sai sót của Bảo
tàng Văn hố các dân tộc tại thành phố Thái Ngun như:
- Kiến trúc mơ hình nhà ỏ Tây Nguyên vỏi giát sàn
đặt theo chiều dọc lòng nhà và bậc cầu thang lên sàn có
số chẵn.
- Tái tạo nhà mồ vỏi giát sàn (hay ván sàn) nàm theo
chiều ngang và bậc cầu thang có số lẻ.
- Chi phí hàng trăm triệu để chạm phù điêu "lễ hội
đua voi" ỏ ngưịi Việt.
- Ảnh nhà dài Gia Rai thì chú là nhà dài ồ Đê v.v...
Như những nhầm lẫn này nếu ỏ bảo tàng dân tộc học
thì lại trở thành vấn đề nghiêm trọng, vì nó xố đi chức
năng thơng tin khoa học của hiện vật được trưng bày, nó
làm cho ngưòi xem nhận thúc sai lệch về một nền văn hố,
thậm chí một nhân sinh quan, một thế giỏi quan; vì cầu
thang nhà dài Gia Rai thì có trang trí hình rau dỏn, cịn
câu thang nhà dài ồ Dê thì có trang trí đơi bầu sữa; vì ỏ
ngưịi Việt cũng như các dân tộc khác ỏ Việt Nam, trong
lịch sử khơng hề có lễ hội đua voi, kể cả đất nưỏc Vạn
Tượng láng giềng; vì giát sàn trên ngơi nhà truyền thống
của các dân tộc miền núi đều đặt nằm ngang và bậc cầu
thang lên sàn đều có số lẻ. Trái lại, vói nhà mồ thì giát
301
sàn đều phải đặt dọc theo cây địn nóc, và số bậc cầu
thang lên sàn đều có số chẵn. Đó là quan niệm đối lập
giữa âm - dương, khác vỏi quan niệm "dương sao âm vậy".
Đó là thế giối quan của Dông Nam Ấ cổ đại, khác vối thế
giỏi quan của phương Bắc. Một hành vi trưng bày sai sự
thật sẽ phá võ hệ thống lịch sử, mất đi tính nhất quán của
cả một nền văn hoá. Một người trưng bày khơng đúng,
một mơ hình tái tạo khơng đúng vỏi hiện vật gốc là đưa
đến một đáp số sai, đưa đến nhận thúc sai cho khách tham
quan, trong đó cố các thế hệ trẻ. Đó là sự tác hại của một
tình trạng cẩu thả, dù vơ thức hay hữu thức .
Chúng ta lại cũng có thể bỏ qua một hình nhân
(mandcanh) nữ khốc tấm chồng Co-ho ngồi trưỏc thảm
vải dệt ở một hồi nhà tái tạo trong Bảo tàng Phụ nữ (số
36 - phố Lý Thưòng Kiệt - Hà Nội). Chúng ta từng biết
rằng tấm chồng Tây Ngun nhu tơi đã mưịng tượng là
loại hình "áo ơm" - tức loại áo khốc, phải dùng cả 2 tay
ơm chéo truỏc ngực, giữ lấy 2 mép cổ áo (Thành ngữ Việt
có câu: "Phưịng khố rách áo ơm" để chỉ hạng ngưịi cố
cùng). Bộ phận trang phục này chỉ sử dụng trong những
trường hộp nơng nhàn, khơng sử dụng được trong lao
động, vì đơi tay rịi ra là áo rơi ngay xuống thành một
đống vải! Cái sai lầm ở đây chưa hẳn là do ngưòi trưng
bày dân tộc học mà là do Manơcanh khơng cử động được
(Ấ chỉ giả vị ngồi dệt thơi) nên tấm choàng vẫn nằm yên
trên vai cho thiên hạ chiêm nguõng.
302
Một lần nữa, nếu sai lầm này ở Bảo tàng Dân tộc học thì
chắc chắn là Manocanh khơng thể bưổng bỉnh, ả buộc phải
chui đầu mặc áo khi đóng vai ngưòi dệt thượng Cơ-ho.
Nghiên cứu, sưu tầm trong Bảo tàng Dân tộc học
khơng tách rịi cơng tác bảo quản. Nếu chỉ thuần tuý
nghiên cứu và sưu tầm hiện vật mà khơng nghĩ ngay đến
bảo quản thì rõ ràng là xa rịi vối cơng việc của một Bảo
tàng, vì nhà trưng bày chỉ là địa vị để giỏi thiệu (tức giáo
dục - tun truyền) vói cơng chúng, cịn kho bảo quản mỏi
là gia tài - gia bảo của một cơ quan bảo tàng mà ai cũng
phải có nhiệm vụ vun ven cho nó.
Từ nhiệm vụ này, ngưịi sưu tầm phải biết định ra tính
chất của hiện vật để lựa chọn đem về, mặc dù nó đều là
hiện vật gốc hay hiện vật làm lại như hiện vật gốc.
Cụ thể là, một hiện vật gốc nghiêm túc, tiêu biểu,
nhưng độ bền vững khơng cịn, khơng có khả năng bảo trì
được lâu thì không nên đem về. Nếu là hiện vật làm lại ỏ
các địa phương thì phải biết lựa chọn nguyên liệu có chất
lượng tốt trong phạm vi cho phép, khơng nên để cho ngưòi
tái tạo sử dụng nguyên liệu tồi vào việc tái tạo như trong
địi thương vẫn.thấy.
Xin nói cụ thể hơn, những khau kút ỏ nhà sàn Thái
Đen được trang trí trên đầu đốc, cốt để trưng bày lên
trong ngày lễ khánh thành, ăn mừng nhà mối. Sau ngày
đó, người ta bỏ mặc chúng vổi thòi gian, kệ cho mưa - gió,
bão bùng..., dù là xiêu vẹo hay hư hỏng cũng không bao
303
giò quan tâm đến nữa. Do tập tục cốt để trưng lên trong
ngày lễ khánh thành mà ngi ta khơng nhất thiết phải
làm bằng gỗ tốt. Thế nhưng, khau kút vỏi tư cách là hiện
vật tái tạo của nhà bảo tàng thì lại khơng cho phép tuỳ
tiện như ngưịi thợ mộc Thái Đen, mà phải tái hiện bàng
một loại gỗ tốt trong phạm vi tập tục cho phép.
Tương tự vỏi trưòng hộp này là tập quán kiến trúc nhà
mồ, ngưòi ta dựng lên nhà mồ là cốt để làm lễ b ỏ mả. Sau
mấy ngày hội lễ, ngưòi ta cũng bỏ mặc chúng vói thịi gian
ỏ trong rừng, mặc cho mưa, lũ, bão bùng hay thú rừng
quậy phá, không bao giồ chăm nom đến nữa. Nguyên liệu
để kiến trúc nhà mồ, kể cả những trang trí tạo hình bằng
kỹ thuật độc mộc, có thể bằng gỗ tốt, song cũng có thể
bằng gỗ dễ mối, mọt, gỗ tạp, dễ hoai mục..., tuỳ theo sự
kiến tìm và ý thức của từng ngưịi lao động tham gia. Nếu
khơng nắm vững tình hình này, thì trong sưu tấm cũng rất
dễ đưa về bảo tàng đé tái hiện một nhà mồ, có chát luọng
như mọi nhà mồ dùng cho lễ bỏ mả. Phải nghiêm túc ý
thức sâu sắc rằng, ỏ Bảo tàng Dân tộc học cần tái hiện
một ngơi nhà mồ có chất luộng, nhưng vỏi mục đích là để
"giũ mả" nhằm phục vụ cơng chúng tham quan lâu dài.
*
Nếu khơng có những thoả thuận cụ thể vỏi ngi thi
cơng; nếu khơng kiểm tra kỹ lúc nghiệm thu, thì ngưịi thọ
mộc Thượng vốn thật thà, sẵn sàng kiên tạo cho chúng ta
một ngồi nhà mồ như vẫn thường gặp để rồi không bao
lâu cũng buộc chúng ta phải bỏ mả.
304
*
* *
Việc nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản hiện vật, trưng
bày và giỏi thiệu trong Bảo tàng Dân tộc học có mối quan
hệ hữu Cd vỏi nhau là như vậy. Nghiên cứu là để phát
hiện, để đề xuất được hưổng trưng bày, đưa ra được những
hướng trưng bày có nội dung cụ thể; là để thống kê được
những hưỏng trung bày có nội dung cụ thể; là để thống
kê được những hiện vật phải sưu tầm, tái tạo. Thông qua
tư liệu thư tịch, thông qua điều tra ỏ thực địa, phát hiện
những hiện vật có giá trị cần sưu tầm để phục vụ cho trưng
bày. Và đến lượt những hiện vật sưu tàm được phải là
những hiện vật tiêu biểu, hồn chỉnh, có chất lượng tốt để
bảo quản được lâu dài, và cuối cùng là phải có những
thơng tin phong phú về từng hiện vật để làm nhiệm vụ
giáo dục - tuyên truyền. Trong Bảo tàng Dân tộc học, mọi
mắt xích nói trên khơng thể xé lẻ.
Tháng 9 năm 1998, trong lần viếng thăm Bảo tàng Di
tộc ỏ châu Tự trị sỏ Hồng thuộc tỉnh Vân Nam - Trung
Quốc, trả lồi câu hỏi của một thành viên trong Đồn chúng
tơi: "Ỏ đây có nhóm nghiên cứu về dân tộc Di khơng?".
Ơng Giám đốc nhà Bảo tàng này nói: "Tất cả chúng tôi
đều nghiên cứu, không trừ một ai". Lúc ấy có mặt đồng
đủ các cán bộ của Bảo tàng Di tộc đang trao đổi vổi
chúng tôi.
20 C C T N < '
305
c ư DÂN NHĨM NGƠN NGỮ MƠN - KHỔ-ME
VÙNG TRƯỊNG SƠN - TẦY NGUYÊN
TRONG BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM
•
■
■
Lưu HÙNG
Ỏ nưổc ta, dải miền núi từ tây Quảng Bình vào đến
Đơng Nam Bộ được các nhà dân tộc học nhìn nhận như
một vùng lịch sử - văn hố, vổi tên gọi thưòng dùng là
"vùng Trưòng Sơn - Tây Nguyên" (TS-TN) hay còn đưộc
mệnh danh là "xứ Thưộng". Từ hàng ngàn năm trưổc, tổ
tiên của cư dân nhóm ngơn ngữ Mồn-Khơ-me, rồi thêm
cả tổ tiên của cư dân nhóm ngôn ngữ Nam Đảo, đã cu trú
ỏ đây. Cho tỏi giữa thế kỷ XX và muộn hơn nữa, họ vẫn
là 2 khối cư dân chủ yếu ỏ TS-TN. Vì vậy, nói đến vãn
hố vùng này trong lịch sử là nói đến vãn hoá của 2 khối
cư dân áy.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (BTDTHVN) giỏi
thiệu theo phương thức kết hộp giũa phân chia theo ngôn
ngữ vối phân chia theo khu vực lãnh thổ. Cư dân nhóm
306
ngôn ngữ Môn-Khơ-me vùng TS-TN hiện gồm 15 tộc,
chiếm hầu như một gian riêng ỏ tầng 2, tại vị trí tiếp nối
một bên vổi các tộc nói ngơn ngũ Mơn-Kho-me ỏ miền
Bác và một bên vổi các tộc nhóm ngơn ngữ Nam Đảo.
Như vậy, theo tuyến tham quan, nó tạo nên sự liên tục,
giiip cho ngưịi xem có thể nhận thức nét tưong đồng cũng
nhu nét khác biệt không chỉ trong cư dân cùng nhóm ngơn
ngữ, mà cịn vỏi cư dân tuy khác nhóm ngơn ngữ nhưng
trong cùng một vùng lịch sử - văn hoá TS-TN.
Sau 2 năm chuẩn bị, đến khi khánh thành bảo tàng
(tháng 11-1997) đã có được số hiện vật và tư liệu khá
phong phú về các tộc nhóm ngơn ngữ Mơn-Kho-me TSTN - Riêng hiện vật đã có khoảng 1.400 đơn vị. Tuy nhiên,
chỉ một lượng nhỏ được đưa ra trưng bày.
Ngay ồ gian giổi thiệu chung tại tầng ĩ, khi bát đàu
cuộc tham quan, đã có những thơng tin cần thiết về phân
bố tộc ngưdi, về tiếng nói, và có cả ảnh chân dung từng
tộc một - Tất cả đều được giỏi thiệu chung trong tồn
cảnh đại gia đình dân tộc Việt Nam. Cồn ỏ khơng gian
dành riêng cho chủ đề cư dân nhóm ngơn ngũ Mơn-Khơme TS-TN, vỏi 126 hiện vật được bố trí trong 15 tủ kính
các loại, một số để ngồi tủ, vỏi 4 panơ treo tưịng, 9 bài
viết gán theo các chủ điểm trưng bày, vói 39 ảnh màu
minh hoạ cho lịi và cho hiện vật, văn hố của những tộc
Thượng này hiện ra qua đó, ngưịi xem có thể tự mình tìm
hiểu thơng qua đọc chữ, nhìn ảnh và quan sát hiện vật.
307
Đối tượng trưng bày ỏ đây được xác định là: tập trung
vào giối thiệu một số nét văn hoá cổ truyền của cư dân
nhóm ngơn ngữ Mơn-Khơ-me vùng TS-TN. Nội dung khoa
học phục vụ cho trưng bày được đúc rút từ những hiểu
biết cụ thể, hệ thống của dân tộc học về tộc ngi và văn
hố của họ. Đương nhiên, ngôn ngữ và phương pháp của
bảo tàng học vô cùng quan trọng trong việc thể hiện khi
trưng bày. Nhưng trưổc hết, những kết quả nghiên cứu dân
tộc học luôn định hưổng từ khâu sưu tầm cho tối khâu
trưng bày. Việc giỏi thiệu cư dân nhóm ngơn ngữ MơnKhơ-me vùng TS-TN trong BTDTHVN được thực hiện
trên cơ sỏ mấy nhận thức lổn đóng vai trị chi phối quan
trọng sau đây:
1.
Các tộc nhóm ngơn ngữ Mơn-Khơ-me TS-TN có
truyền thống thích ứng vỏi mơi trường rừng núi, là cư dân
ỏ rừng.
2. Họ cịn bảo luu nhiều yếu tố văn hố cổ so, thậm
chí vang bóng cả một số yếu tố văn hố thuỏ Đơng Sơn
xa xưa.
3. Họ có truyền thống văn hố khơng chỉ rất lâu đòi,
mà còn phong phú, đặc sắc. Văn hoá của họ vừa thống
nhất, vừa đa dạng: Bên cạnh văn hố của từng tộc, nhiều
khi có sự dị biệt nhất định giữa các nhóm địa phương trong
một tộc; bên cạnh tính thống nhất xuyên suốt trong cả 15
tộc, lại có nét riêng nhất định giữa các khu vực nhỏ, mà
308