Tải bản đầy đủ (.pdf) (286 trang)

Tuyển tập các nghiên cứu thuộc lĩnh vực Bảo tàng dân tộc Việt Nam (Tập 1): Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (23.49 MB, 286 trang )


CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN

cứu

CỦA BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC
VIỆT NAM
(I)


TRUNG TÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHẰN VĂN QUỐC GIA

BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM






___c a ____

CẮC CƠNG TRÌNH NGHIÊN cứu
CỦA BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM
(I)

NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ NỘI -1999


B A N B IÊ N TẬP
- PGS.PTS. Nguuyễn Vãn Huy (Trưởng ban)


- PTS. Lê Duy Đại (Thư ký)
- NCVC Chu Thái Sơn
- PTS. Lưu Anh Hùng


MỤC LỤC
Lời nói đầu

*
PHẨN I-GIỚI THIỆU CHUNG

11

1. Bài phát biểu của Chủ tịch nước Cộng hoà XHCH Việt
Nam Trần Đức Lương

13

2. Bảo tàng là ncá để phát hiện (Bài phát biểu của Tổng thống
nước Cộng hoà Pháp Jacques Chirac)

20

3. Bài phát biểu của GS.TS. Nguyễn Duy Quý, Giám đổc
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).
4. Nguyễn Văn Huy: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

27

PHẦN n - NGHIÊN cú u VÀ SƯU TẦM:


43

5. Nguyễn Văn Huy: Góp phần gìn giữ và phát triển sự đa
dạng của bản sắc văn hố dân tộc nhìn từ góc độ của loại
hình bảo tàng dân tộc học

45

6. Chu Thái Sơn: Những cHặng đường văn hoá - lịch sử các
dân tộc ở Việt Nam

63

7. Bế Viết Đẳng: Cầy lanh trong đời sống của người Hmông

77

8. Vi Văn An: v ề bộ y phục của phụ nữ Tày Thanh trưng
bày tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

83

9. Nguyễn Anh Ngọc: Nông nghiệp Việt - Một số đối tượng
nghiên cứu - sưu tầm cấp bách và hấp dẫn

89
5



10. La Công Ý: Hội lồng tồng của người Tày

106

11. Mai Thanh Sơn: Y phục của ngưồd Hmông ở huyện Sa
Pa-Lào Cai

114

12. Phạm Văn Lợi: Vài nét về nghề dệt truyền thống của
người Triêng ở Quảng Nam

135

13. Phạm Yăn Dương: Góp phần tìm hiểu kỹ thuật xây dụng
tháp Chàm

150

14. Võ Mai Phương: Sơ bộ khảo sát về nghề thổ cẩm của
người Dao ở xã Tả Phin, huyện Sa Pa tình Lào Cai

158

15. Trần Thị Thu Thuỷ: Trang phục truyền thống của phụ
nữ Hmông ứong đời sống xã hội tộc người

175

16. Cầm Trọng: Ma thuật chữa bệnh ở xã hội Thái cổ truyền


207

17. Nguyễn Tơn Kiểm: Tìm hiểu diều sáo truyển thống

217

18. Võ Thị Thường: Nghi lẽ chữa bệnh của người Thái ở
Mai Châu

222

19. Nguyễn Trường Giang: Tìm hiểu bước đầu về một số
hoa văn trên vải của nhóm Gia rai Aráp (huyện Chư Pah
tình Gia Lai).

262

20. Nguyễn Sơn Trà: Đơi nét về văn hố của ngưịi Việt ở

quần đảo Lý Soa

271

PHẦN ra ■TRUNG BÀY:

283

21. Lê Duy Đại: Hẹ thống panô - bản đổ trong trưng bày của
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam - Cách nhìn và những

sáng tạo

285

22. Chu Thái Sơn: Nghiên cứu để trưng bày trong Bảo tàng
Dân tộc học

290

6


23. Lưu Hùng: Cư dân nhóm ngơn ngữ Mơn - Khơ Me vùng
Trường Sem - Tây Nguyên trong Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam

306

24. Vi Văn An: Những đặc trung văn hố của các dân tộc
nhóm ngơn ngữ Mơn - Khơ me miền Bắc qua trưng bày
tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

329

25. Phạm Văn Dương: Một vài kinh nghiêm ừong trung bày
345
ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
26. Vũ Hồng Thuật: Hiện vật trong nghi lễ cúng mụ của
người Việt trưng bày tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam 366
27. Lê Duy Đại: Việc xây dựng bản đồ phân bố các dân tộc

theo ngôn ngữ.

384

PHẦN IV. LƯU GIỮVÀ BẢO QUẢN:

397

28. Nguyễn Hồng Mai: Quản lý các sưu tập Dân tộc học

399

29. Hoàng Thu Hằng: Hệ thổng tư liệu phim ảnh và băng từ
ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam trong 2 năm 1996411
1998 - Những vâh đề bảo quản
30. Hồng Tơ Qun: Phân loại hiện vật ở Bảo tàng Dân tộc
419
học Việt Nam
31. Nguyễn Văn Dự: Bảo quản hiện vật mây, ừe, nứa, gõ ở
433
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
32. Nguyễn Thị Hường: Nhìn lại cơng tác kho của Bảo tàng
Dântơchoc ViêtNam
444







33. Phạm Lan Hương: Nguyên tắc bảo quản hiện vật chất
liệu mây toe ở kho Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

465

7


34. Lê Thanh Phượng: Vấn đề xây dụng hệ thống tài liệu
phụ tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

478

35. Dương Thị Anh: Vài nét về hổ sơ khoá học của hiện
vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

491

36. Gael de Guichen: Độ ẩm và nhiệt độ ưong các Bảo tàng
(Nguyễn Thi Thu Hưcmg dịch)

509

PHẦN V-GIÁO DỤC TUYÊN TRUYỂN VÀ MAKETING

531

37. Nguyễn Trung Dũng: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
vái công chúng


533

38. Nguyễn Văn Huy: Đổi mới cách tổ chức cho học sinh đi
thăm quan Bảo tàng như thế nào cho có hiệu quả hơn?

552

39. Đỗ Minh Cao: Bảo tàng Dân tộc học và váh đề tiếp thị

563

40. Vũ Hồng Nhi: Một vài suy nghĩ về sự phổi hợp giữa Bảo
tàng và Nhà trường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
học sinh

577

41. Trần Thu Thuỷ: Vươn tới các trường học

587



8


CHỦ TỊCH TRẦN ĐỨC LƯƠNG THĂM BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC


Jhrc



LỜ I N Ó I ĐẦU
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập tháng 10 năm 1995.
Nhiệm vụ của Bảo tàng được xác định là: nghiên cứu
khơa học, sưu tầm, phân loại, đánh giá, bảo quản,
phục chế, trưng bày, giới thiệu, khai thác các giá trị
lịch sử, văn hoá, về phương diện dân tộc học, của các
dân tộc anh em trong đại gia đình TỔ quốc Việt Nam;
cung cấp tài liệu nghiên cứu cho các ngành; đảo tạo cán
bộ nghiệp vụ và quản lý cho Bảo tàng Dán tộc học.
Nghiên cứu khoa học là một chức năng quan trọng
của Bảo tàng. Ngay từ những ngày đầu thành lập, tập
thể cán bộ, các nhà nghiên cứu ở Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam đã tìm tịi và từng bước định hướng
nghiên cứu khoa học ở một cơ quan mang tính tổng
hợp và chuyên ngành rất sâu. Cùng một lúc Bảo tàng
phải triển khai trên nhiều lĩnh vưc mà mối lĩnh vưc
cơng tác đều có những đặc trưng riêng. Ở đây hồn
tồn khơng phải là những cơng tác hành chính, nghiệp
vụ đơn thuần, đơn giản. Sẽ rất sai lầm nếu khơng thấy
được tính khoa học của tất cả các mặt hoạt động như
nghiên cứu - sưu tầm, nghiên cứu các chương trĩnh
9


nghe - nhìn, nghiên cứu trưng bày, nghiên cứu quản lý
và bảo quản các bộ sưu tập, hiện vật cùng các loại
băng hình, ghi âm, ảnh, nghiên cứu các chương trình

giáo dục, tun truyền, cơng chúng và tiếp thị... Các
cơng tác này là những hoạt động thường xuyên của
Bảo tàng, mang tính cơng vụ nhưng lại dựa trên cơ sở
khoa học rốt cao, địi hỏi phải có sự nghiên cứu lý
thuyết và thực tiễn, tìm tịi và tổng kết.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam sẽ cho ra mắt
thưởng xuyên xuất bản phẩm mang tên: Các cơng
trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam nhằm trao đổi những vấn đề khoa học, giới thiệu
và công bố những kết quả nghiên cứu mới nhất của các
nhà khoa học trong Bảo tàng và các cộng tác viên của
Bảo tàng. Đây sẽ là những tài liệu hữu ích giúp cho
các cơ quan, các nhà nghiên cứu quan tâm tới các di
sản văn hố của các dân tộc ở nước ta.


Các cơng trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam (tập I) phản ánh bước đầu những hoạt
động khoa học và công tác nghiên cứu trong năm 1997
và 1998.
Chúng tôi hy vọng xuất bản phẩm nhiều tập này sẽ
thường xuyên đến tay bạn đọc và được sự cộng tác chặt
chẽ của bạn đọc.
Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
PGS, PTS NGUYỄN VÁN HUY
10


Phán 3


GIỚI THIỆU CHUNG


BÀI PHÁT BIỂU CỦA
CHỦ TỊCH Nưốc TRẦN ĐỨC LƯƠNG
TẠI BẨO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM
*







NGÀY 4 THÁNG 8 NĂM 1998

Tất cả chúng ta đều biết, nền văn hoá truyền thống và
rực rõ của Việt Nam là tổng hoà những tinh tuý nhất của
54 dân tộc. 54 dân tộc sinh sổng trên lãnh thổ mà cha ông
chúng ta đã kết thành cộng đồng mỏ mang gìn giữ trong ,
suốt những năm trưòng lịch sử và để lại cho các thế hệ
mai sau.
Hội nghị Trung ưong V mói vừa thơng qua một Nghị
quyết quan trọng về xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sác dân tộc là sự cổ vũ
lỏn lao cho các dân tộc, cho những ngưịi làm cơng tác
văn hố, cơng tác dân tộc.
Tơi đã xem các phịng trưng bày, hệ thống kho bảo
quản và toàn bộ cảnh quan của Bảo tàng D ân tộc học
Việt Nam. Tơi rất vui mừng vì nhũng ý tưỏng ban đàu để

13


hình thành bảo tàng này, những thành tựu mổi này, tuy là
bưỏc khỏi đầu, nhung rất có ý nghĩa, nó đã được cân nhắc
một cách thận trọng, có tính khoa học cao trong nghiên
cứu, nhàm phản ánh truyền thống văn hoá của những dân
tộc trong cộng đồng các dân tộc trên đất nưỏc ta.
Bảo tàng được xây dựng là một quần thể kiến trúc khá
đẹp. Đương nhiên chúng ta đều hiểu rằng, vỏi kinh phí
của giai đoạn khỏi đàu cịn hạn hẹp mà có được những
sưu tập phong phú, vổi nội dung và phương pháp trung
bày như vậy, chúng ta phải đánh giá cao thành tựu đó.
Chúng ta hy vọng rằng, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
sẽ tồn tại lâu dài. Thế hệ chúng ta rồi tiếp thế hệ con em
chúng ta sẽ làm cho Bảo tàng phát triển không ngùng,
càng ngày càng xứng đáng hơn vỏi truyền thống văn hoá
rực rỡ của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Nếu có điều gì phải góp thêm trong q trình đ) thăm
tơi đã nói. Với cách nhìn nhu vậy, tơi nghĩ ràng, 'chơng
phải mọi cái đều có thể làm ngay một lúc, nhưng chúng
ta phải có ý tuỏng từ đầu. Thiết kế của Bảo tàng phki vừa
có tính chất trưổc mát, vừa phát triển từng bưỏc, áưổng
tỏi lâu dài đổ ngày càng hồn thiện hơn.
Tổ hộp các cơng trình xung quanh phải hồ nhập được
vỏi sự tồn tại của cơng trình vẫn hố này, một trong ihững
cơng trình văn hố quan trọng của đất nưỏc, của T ỉủ đô.
Bảo tàng D ân tộc học Việt Nam không thể là một công
14



trình đơn lẻ, toạ lạc trong một cảnh quan kiến trúc và sinh
hoạt khơng ăn nhập gì vỏi nó. Hẳn là khơng thể như thế
đưọc. Tơi sẽ nói thêm vỏi các đồng chí lãnh đạo ỏ Uỷ ban
Nhân dân thành phó Hà Nội và đề nghị vỏi đồng chí
Hồng Đúc Nghi, đồng chí Nguyễn Duy Quý tiếp tục đặt
vấn đề vỏi Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội để làm
sao trên vùng đất này phải liên hồn có một số cơng trình
kiến trúc văn hố, tạo thành một tổ họp văn hoá - du lịch,
một trong những địa điểm có sức thu hút nhân dân thủ
đơ. Nhân dân, con cháu chúng ta hàng ngày, hằng tuần
đến thăm Bảo tàng để thưỏng ngoạn, học tập và giải trí.
Nếu là một cơng trình bảo tàng đơn lẻ nhu hiện nay thì
súc thu hút khách tham quan sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Việc có định hưỏng đầu tu mổi cho cả phần trung bày
ngồi trịi và phần mỏ rộng trưng bày văn hố truyền thống
của các nước trong khu vực Đơng Nam Ấ là đúng. Nó phù
hợp vỏi ý tưởng về cụm văn hố này.
Ỏ gần đây có Chùa Hà cũng là một trong nhũng cồng
trình văn hố - tín ngũng nổi tiếng ỏ thủ đơ. Xem ra bây
giị cịn kịp để đặt vấn đề này vổi Hà Nội. Nếu không tôi
e ràng Bảo tàng này sẻ đơn độc trong một môi trưịng
cảnh quan kiến trúc khơng hộp lý, làm hạn chế rất nhiều
tính năng, tác dụng của nó. Đó là điểm thú nhất.
Điểm thứ hai, tơi muốn góp thêm một ý quan trọng,
đó là khoa học nhưng phải đại chúng. Chúng ta xây dựng
bảo tàng là để cho những nguòi nghiên cứu sâu, chuyên
15



ngành như dân tộc học, sử học,, văn hoá học... chẳng hạn
có thể đến quan sát ỏ đây những cái cần quan sát, nhưng
chúng ta cũng phải làm cho một em bé hoặc một ngưịi
dân bình thưịng vào bảo tàng này vẫn cảm thấy có một
sức cuốn hút, vẫn cảm nhận được cái hay, cái đẹp, vẫn
thấy được ỏ đây nhũng điều thật bổ ích. Và phải làm sao
cho số khách tham quan này ngày càng đông đảo. Hấp
dẫn trong trung bày ỏ bảo tàng là làm sao phải thoả mãn
được các đối tượng tham quan khác nhau. 0 những bảo
tàng hiện đại, ngưồi ta ít thuyết minh, tự ngưịi xem thông
qua cách trưng bày hiện vật tranh ảnh, âm thanh... mà
nám bát lấy những thông tin, nhận biết lấy lịch sử... Theo
huỏng này, chúng ta còn phải làm tiếp, cịn phải củng cố,
hồn thiện, v ỏ i kinh phí có hạn cùa giai đoạn khỏi đầu,
hẳn là chưa thể thoả mãn được vổi những yêu cầu đang
đặt ra.
Ý đồ của bảo tàng là làm sao để cho ngưòi dân thủ
đô và đồng bào các vùng khác nhau trong nưỏc cũng như
khách quốc tế tỏi thăm đều thấy được những đặc trưng
văn hố, những sinh hoạt địi thưịng có tính lịch sử của
mỗi dân tộc. Nhưng đặc trưng này cũng rất phong phú và
đa dạng lắm. Vì mỗi dỗn tộc trên đất nưỏc ta đều sống
trong những cảnh.quan sinh thái khác nhau và trải qua
những chặng đưòng lịch sử khác nhau. Một bảo tàng nếu
muốn nêu được nhũng đặc trưng đó thì phải phản ảnh q
trình của một phong tục - tập quán và những gì là tiêu
16


biếu nhất của mọi sinh hoạt từ lúc sinh ra cho đến lúc mất

đi, rồi phải đi tù quá khứ thịi cổ đại, trung đại, đến hiện
đại, rồi phải có hiện vật, có hình ảnh... Việc sử dụng màn
hình và thơng qua những băng hình để giỏi thiệu được
nhiều hơn, để hiểu thêm được nhũng hiện vật, những hình
ảnh trưng bày trong bối cảnh sinh hoạt của nó, nhưng vẫn
có mặt hạn chế. Tôi nghĩ rằng khách tham quan không
thể nào đi xem mà lại cứ đứng trưỏc màn hình để xem từ
đầu chí cuối, hết màn hình này tỏi màn hình khác. Vậy
thì chúng ta phải nghiên cứu trưng bày làm sao thuận lợi
hơn cho ngi xem. Phải có nhũng màn hình lón hơn
chẳng hạn.
Tơi đã tùng đi qua khá nhiều vùng đồng bào dân tộc,
những hiện vật được trưng bày cũng như những lối sống,
những sinh hoạt được giỏi thiệu ỏ đây đều nâm trong
những bối cảnh tương ứng, những mơi trưịng tự nhiên rất
riêng biệt. Chác chán là chúng ta khơng thể sưu tầm hết
và giói thiệu hết đuộc, cho dù bảo tàng có khu vực ngồi
trịi. Tôi nghĩ, phải chăng nên bổ sung thêm hiện vật, thêm
thơng tin cho phần trưng bày vì các mảng tưịng (diện tích
trưng bày) cịn trống rất nhiều. Cần có phần hình ảnh để
làm nền cho trưng bày để làm sao cho ngưịi xem có thể
hiểu là mỗi dân tộc, mỗi địa bàn cư trú đều có một địa
hình, địa vật, hồn cảnh mơi trưịng khác nhau như thế
nào. Phải bổ sung thêm thông tin, không nên cô đọng quá,
đơn giản q. Tơi đặt vấn đề đó có thể trái vổi tư tưỏng
2 CCTNC

17



thiết kế của các nhà mỹ'thuật chăng, nhưng tồi vẫn nghĩ
phải làm sao để cho ngưòi nghiên cứu chuyên sâu có thể
thấy được ở đây những điều cần thấy, mà ngưịi dân thưịng
cũng vẫn có thể dễ dàng nhận biết được nhũng điều bổ
ích qua tính hấp dẫn của hiện vật.
Về lâu dài, muốn phát triển được, dù là công trình bảo
tàng thì cách tót nhất mà thế giỏi đã làm là đặt nó trong
một quần thể có nhiều hoạt động văn hoá sao cho hút
được nhiều khách đến. Cụm cơng trình hay từng cơng trình
tự trang trải, nó phát triển đưọc thì nó mỏi có súc sống
lâu dài. Nếu chúng ta xây dựng một bảo tàng chỉ để phục
vụ nghiên cứu thơi thì chưa đủ. Tơi cũng thơng cảm vđi
các đồng chí lãnh đạo hiện nay là ngay để làm sao cho
khách đến thăm bảo tàng, cũng đã phải đi tuyên truyền,
vận động ỏ các trưòng để các cháu học sinh có chương
trình đến tham quan...
Ban đầu như thế là hết sức tích cực. Nhung hưổng lâu
dài phải tính làm sao cho cả khu vực này trỏ thành một
cụm văn hố - du lịch có sức thu hút khách tham quan,
vui chơi, giải trí, tham gia lễ hội của ngưịi dân Thủ đơ và

cả nưổc. Ngay trong khn viên của bảo tàng, phần ngồi
trịi cũng phải tính tốn sao để từng bưđc nơi đây khơng
thuần t chỉ có trưng bày như hiện nay mà có thể phối

hộp vói sinh hoạt, vui chơi, giải trí. Chẳng hạn nói ẩm thục
khơng chỉ là tổ chức uống ăn, nhưng nếu có khu ngồi trịi
làm các qn ăn để giối thiệu văn hố ẩm thục tiêu biểu
18



của các vùng, các dân tộc thì cung là cách để thu hút sự
hấp dẫn của đơng đảo ngưịi xem. Nhưng làm điều này
nhất thiết phải có sự ủng hộ của Nhà nưỏc và của thành phố.
Tính bưỏc trưỏc, cũng phải tính cả bưổc lâu dài, thế
hệ chúng ta khơng kịp làm thì con cháu thế hệ sau sẽ làm
tiếp. Chúng ta không thể để cho nhũng khu vực như thế
này mai một đi. Chắc chắn không ai mong muốn như vậv
cả. Đấy là điều mong muốn lổn của tôi.
Tôi đánh giá cao những cố gáng ban đầu của Bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam và mong có được sự đầu tư hơn
nữa của Nhà nưổc. Tôi mong mỏi sự cố gắng của cán bộ
và công nhân viên ở đây, sụ họp tác, giúp đõ của thành
phố Hà Nội. Tôi cũng mong sự đóng góp nhiều hơn nữa
của các địa phương, của đồng bào các dân tộc, của quốc
tế để cho khu vực này cùa Bảo tàng D ân tộc học chúng
ta phát triển không ngừng, ngày càng phong phú, ngày
càng được dư luận đồng tình và khen ngợi. Tơi cũng được
biết, tuy bưỏc đầu mỏi hình thành, nhưng khách quốc tế
đến tham quan cũng đã khen ngội nội dung trưng bày, đấy
Cũng là một khích lệ tốt.
Chúng ta cần phải tiếp tục làm cho Bảo tàng D ân tộc
học Việt Nam sống động hơn nữa, lón mạnh hơn nữa.

19


LỊI CHÀO MỪNG CỦA TổNG THốNG
CỘNG HỒ PHÁP M C Q U E S CHIRAC



TRONG LỄ KHÁNH THÀNH BẨO TÀNG
DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM NGÀY 12-11-1997






Tồi muốn nói vổi các vị sự khâm phục của tơi trưóc
Bảo tàng tuyệt vịi này. Và tơi muốn gửi một lịi hoan hơ
lổn đến vỏi tất cả những ai, nam cũng như nữ, thưa ông
Giám đốc, đâ tham gia vào cuộc hành trình lý thú này.
Tôi nghĩ đến các nhà khoa học, các giảng viên đại học,
các nhà nghiên cứu, kiến trúc sư, nghệ sĩ Việt Nam và
Pháp, đã kết hộp tài năng, nghị lực, sự hiểu biết vào dự
án vĩ đại và tráng lệ được ra mát ngày hôm nay.
Tôi đặc biệt tự hào vì nưỏc Pháp đã tham gia. Sự ra
địi cùa một bảo tàng ln là một thịi điểm đáng chú ý,
một thòi điểm xúc động. Mỗi bảo tàng là một noi tưỏng
niệm và cũng là một địa điểm cùa tưong lai. Đấy là một
không gian của cuộc sống, của đổi thoại, mỏ cửa ra các
nền văn hoá khác, các nền văn minh khác và những con
ngưồi khác. Bảo tàng là nơi để "phát hiện" theo nghĩa mà
20


André Malraux đã đặt cho nó. Là một nơi mà mỗi ngưịi
có thể ưóc mơ.
Bảo tàng này, thưa q bà quý ông, mà tôi đã theo dõi

sự phát triển từng bưỏc, vối sự thích thú cá nhân, sẽ được
chúng ta cùng vào thăm. Đây sẽ trỏ thành một địa chỉ để
phát hiện, một nơi gặp gõ, và như ngày nay ngưịi ta
thưịng nói, địa điểm thần kỳ.
Hỗ trộ dự án này, nưỏc Pháp đâ thực hiện truyền thống
lỏn của những nhà dân tộc học mỏ đưịng ỏ bán đảo Đơng
Dương, mà những cơng trình của họ vẫn giữ một vị trí
trang trọng trong các thu viện lớn ị Hà Nội.
Xin cho phép tơi nhắc lại, vì đây chính là lúc tơn vinh
một số trong những ngi đã làm rạng danh bàng chất
lường những cơng trình dân tộc học và cá nhân mình,
Auguste Boniíacy, Jeanne Cuisinier, Nguyễn Văn Hun
và nhũng ngưịi mỏi ra đi gàn đây, Jacques Dournes, mà
nhũng cơng trình về tộc ngưịi Gia Rai là một minh chứng.
Tơi cũng nghĩ đến Giáo sư Từ Chi, khuôn mặt lỏn của dân
tộc học Việt Nam.
Công việc của nhà dân tộc học ngày nay vừa là một
công việc khoa học, vừa là một công việc đấu tranh cho
sự đa dạng và phong phú của tồn nhân loại. Trong khi
quan sát, mơ tả, ghi chép lại lối sống của những nhóm
ngưịi ít ỏi nhất và ít được biết đến nhất, nhà dân tộc học
đã chứng minh tiềm năng kỳ lạ để đáp ứng và thích nghi
21


của con ngưòi trong những điều kiện khác nhau của môi
trường và cả những khả năng sáng tạo và thiên tài để
khẳng định súc sống của mình.
Trong thế giỏi ngày nay có một cuộc đấu tranh cho sự
đa dạng văn hoá, nhằm bảo tồn các truyền thống, các lối

sống và những di sản cổ truyền của các dân tộc. Và cuộc
đấu tranh đó cũng là cuộc đấu tranh cho sự tự trọng và
khoan dung.
Tại sao Bảo tàng này quan trọng là như thế. Nó là
minh chứng cho sự tơn trọng của nhà chức trách Việt Nam
đối vỏi toàn bộ các thành phần phong phú của dân tộc,
các tộc ngưòi (54) hợp thành di sản và cả tâm hồn Việt Nam.
Sứ mệnh cùa một bảo tàng tất nhiên là đổ truyền lại
hiểu biết, cụ thể họ là những ngưòi trẻ tuổi. Cái khó khăn
là phải thu hút sự chú ý của họ, mịi họ tham gia vào hành
trĩnh. Và tơi nghĩ đấy là thành công của bảo tàng này, đã
biết làm nổi lên những bộ sưu tập tuyệt vòi, biết làm
thế nào cho ngưịi ta hiểu chúng. Khánh thành một cơng
trình có thể coi là biểu tượng hợp tác của hai nưỏc
chúng ta sẽ được ghi lại trong lịch sử bảo tàng học ở Đơng
Nam Châu Ấ.
Vả lại, vào thịi điểm Hà Nội đón chào Hội nghị cấp
cao các nuổc có sử dụng tiếng Pháp, mà bà Phó chủ tịch
nưỏc CHXHCN Việt Nam đã góp nhiều cơng sức vói nhiều
tài năng, tôi rất lấy làm nhạy cảm khi thấy những thông
22


tin khoa học, những mô tả dân tộc học trưng bày ỏ đây,
đã được thực hiện rất có duyên bằng tiếng Pháp.
Thành công đã đến ỏ nơi hẹn gặp. Bảo tàng này sẽ
thu hút ngày càng nhiều khách tham quan, họ đến từ Việt
Nam và khắp nơi trên thế giối, trong số đó có nhiều nhà
nghiên cứu sẽ tìm thấy ỏ đây một nguồn thông tin vô tận.
Tôi chúc họ thành đạt nhũng thành công xúng đáng, bỏi

họ là minh chúng cho một thiên hưống mà nưỏc Pháp cần
tìm lại: hiểu biết, yêu mến và làm cho nguòi ta yêu các
dân tộc và các nền văn minh ở Viễn Đông.
Xin cám ơn.

23


PHÁT BIỂU CỦA GS.TS. NGUYÊN

duy quý

GIÁM ĐỐC TRUNG TÂM KHXH VÀ NVQG
TẠI
LỄ KHÁNH THÀNH BÀO TÀNG DÂN TỘC


HỌC VIỆT NAM (12/11/1997)

Kinh thưa:
- Tổng thống nưỏc Cộng hoà Pháp Jacques Chirac
- Phó Chủ tịch nưóc Cộng hồ Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

Nguyễn Thị Bình
- Các vị khách quý và các bạn

16 năm trưổc, Nhà nuỏc Việt Nam đâ có chủ trương
xây dựng một Bảo tàng Dân tộc học tại Hà Nội. Bảo tàng
này vừa là một cơ sỏ khoa học, vừa là một cơ sị văn hố
giũ vai trị quan trọng trong việc góp phần suu tập, bảo

tồn và khai thác những tinh hoa văn hoá của tất cả 54 dân
tộc anh em trên đất nưổc Việt Nam và nghiên cứu về lịch
sử, văn hoá của các dân tộc, giáo dục về truyền thống và
về bản sác dân tộc.
Được sự quan tâm và chỉ đạo chặt chẽ cùa lãnh đạo
Đảng và Nhà nưốc, của các cơ quan hữu quan, Bảo tàng
24


×