Tải bản đầy đủ (.pdf) (160 trang)

Nghiên cứu 70 năm tài chính Việt Nam sắc son tài chính Việt - Lào: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.59 MB, 160 trang )

Viện Chiến lược và Chính sách tài chính

Ngày 5/9/1962, Việt Nam và Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra một
giai đoạn mới trong lịch sử quan hệ hai nước. Hơn 50 năm qua, cùng với quan hệ chính trị
tốt đẹp sẵn có, quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào ngày càng khởi sắc, đặc biệt hợp
tác trong lĩnh vực tài chính bước đầu tạo nền tảng vững chắc để liên kết và củng cố mối quan
hệ hữu nghị, đoàn kết giữa hai nước.

S

au khi giành độc lập, mặc dù cịn nhiều khó khăn nhưng Việt Nam hết sức
coi trọng và phát triển mối quan hệ Việt Nam - Lào. Hoạt động hợp tác về
tài chính tiếp tục được đẩy mạnh khi Việt Nam tích cực cử các đồn cán bộ
sang hỗ trợ Lào trong việc xây dựng chế độ quản lý tài vụ xí nghiệp quốc doanh, chế
độ kế tốn, chế độ phân cấp quản lý ngân sách nhà nước và đón tiếp nhiều đoàn cán bộ
từ Lào sang khảo sát, học hỏi kinh nghiệm của Việt Nam. Ngày 18/7/1977, Việt Nam
và Lào đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, càng khẳng định mối quan hệ hữu
nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào.
Kế thừa mối quan hệ tốt đẹp trên, Bộ Tài chính Việt Nam và Bộ Tài chính Lào
tiếp tục tăng cường thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực tài chính thơng qua trao đổi
chun gia; tổ chức hội thảo và tọa đàm để chia sẻ kinh nghiệm trong việc xây
dựng Chiến lược Tài chính, khảo sát và tìm hiểu thực tiễn tại Việt Nam.
Tăng cường trao đổi đoàn chuyên gia giữa Bộ Tài chính hai nước

Cơ chế hợp tác giữa hai nước, đặc biệt là ở cấp cao nhất thời gian qua tiếp tục
được đẩy mạnh, duy trì thường xuyên và đã phát huy hiệu quả tích cực. Nhờ những
thỏa thuận giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước mang tính chỉ đạo xuyên suốt trong

113

Hợp tác tài chính Việt - Lào: Những mốc son trên hành trình phát triển



XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC TÀI CHÍNH,
CẦU NỐI TÀI CHÍNH HAI NƯỚC VIỆT NAM – LÀO


Sắt son Tài chính Việt - Lào

Tọa đàm trao đổi kinh nghiệm xây dựng chính sách tài chính giữa chuyên gia
Bộ Tài chính Việt Nam và Bộ Tài chính Lào

mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, quan hệ hợp tác về tài chính đã được nâng
lên tầm cao mới.
Kết quả đó được thể hiện rõ nét khi Bộ trưởng Bộ Tài chính hai nước đã ký
kết thỏa thuận hợp tác với thời hạn 3 năm (2004 - 2006) ngày 16/7/2004. Đây là
chương trình hợp tác tồn diện nhằm hỗ trợ cho Bộ Tài chính Lào trong việc xây
dựng chiến lược, hoạch định chính sách, tổ chức cán bộ, đào tạo và trang thiết bị
thơng qua hình thức cử chuyên gia tư vấn, mở lớp đào tạo tại Việt Nam, trao đổi
đồn cơng tác và khảo sát thực tế.
Sau 3 năm triển khai thỏa thuận, Việt Nam đã cử được 57 đoàn chuyên gia
sang giúp Lào trên tất cả các lĩnh vực đã nêu trong thỏa thuận. Bên cạnh đó, bạn
Lào cũng đã cử 19 đồn chun gia sang Việt Nam khảo sát, học hỏi kinh nghiệm
về các lĩnh vực quản lý tài chính. Qua đó, Bộ Tài chính Việt Nam đã hỗ trợ Lào
hoàn thành bản “Báo cáo đánh giá về thực hiện các nhiệm vụ tài chính - ngân sách
giai đoạn 2001- 2005 và phương hướng, nhiệm vụ tài chính - ngân sách giai đoạn
2006 - 2010” phục vụ cho Lào xây dựng kế hoạch 5 năm 2006 - 2010”; tư vấn và

114


Trên cơ sở những kết quả đạt được, sự kiện Bộ trưởng Bộ Tài chính hai nước

luân phiên sang thăm và làm việc năm 2011 và năm 2012 đã tái khẳng định sự
hợp tác chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau đã đi vào chiều sâu. Kết quả là, thỏa thuận
hợp tác giữa Bộ Tài chính Việt Nam và Bộ Tài chính Lào giai đoạn 2011 - 2015
tiếp tục được ký kết. Nội dung thỏa thuận này một lần nữa lại được nâng cao cả
về số lượng và chất lượng, mang tính dài hạn và có phạm vi rộng, định khung cho
phương hướng hợp tác về lĩnh vực tài chính, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm
trong lĩnh vực tài chính, đặc biệt là việc xây dựng Chiến lược Tài chính.
Trong khuôn khổ triển khai thỏa thuận trên, hoạt động giúp bạn Lào xây dựng
Chiến lược Tài chính đến năm 2020 được tiếp tục đẩy mạnh. Cụ thể, từ ngày 1317/03/2012, đồn cán bộ Bộ Tài chính Việt Nam do đồng chí Viện trưởng Viện
Chiến lược và Chính sách tài chính dẫn đầu đã sang làm việc nhằm hỗ trợ Bộ Tài
chính Lào xây dựng Chiến lược Tài chính đến năm 2020. Qua buổi làm việc, đồn
cán bộ Bộ Tài chính đã trao đổi những cách thức xây dựng Chiến lược Tài chính,
kinh nghiệm của Việt Nam trong q trình xây dựng nội dung Chiến lược Tài
chính Việt Nam đến năm 2020, vừa hỗ trợ các bạn xây dựng Chiến lược Tài chính
Lào đến năm 2020.
Trong năm 2014, Bộ trưởng Bộ Tài chính hai nước đã tiếp tục sang thăm và
làm việc với nhau nhằm duy trì, củng cố quan hệ hợp tác tồn diện, hữu nghị,
truyền thống gắn bó giữa hai Bộ Tài chính Việt Nam và Lào. Quan hệ hợp tác giữa
các ngành dọc thuộc Bộ Tài chính hai nước tiếp tục được tăng cường từ cấp trung
ương (các tổng cục) đến địa phương (các cục), từng bước giúp Bộ Tài chính Lào
hồn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy các cơ quan Thuế, Hải quan, Kho bạc.
Đặc biệt, trong q trình xây dựng Chiến lược Tài chính Lào đến năm 2020,
Bộ Tài chính Lào đã học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm hữu ích từ việc xây dựng
Chiến lược Tài chính Việt Nam khi sang làm việc với Bộ Tài chính Việt Nam và
các đơn vị trong Bộ.

115

Hợp tác tài chính Việt - Lào: Những mốc son trên hành trình phát triển


soạn thảo các nội dung về tài chính và đề nghị đưa vào Nghị quyết Đại hội VIII
của Đảng nhân dân cách mạng Lào. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính Việt Nam cịn tư
vấn cho Bạn Lào 4 nội dung quan trọng trong lĩnh vực tài chính như huy động vốn
từ tài ngun cơng sản, chính sách tiết kiệm, công tác thanh kiểm tra, xử lý‎ nợ của
ngân sách nhà nước và bước đầu xây dựng “Đề án chính sách tài chính Quốc gia
nước CHDCND Lào giai đoạn 2006-2010”.


Sắt son Tài chính Việt - Lào
Chia sẻ kinh nghiệm thông qua tổ chức Hội thảo và Tọa đàm

Bên cạnh việc tăng cường trao đổi đoàn chuyên gia giữa Bộ Tài chính hai
nước, việc chia sẻ kinh nghiệm thơng qua tổ chức hội thảo và tọa đàm giữa hai Bộ
Tài chính cũng là nội dung quan trọng trong hợp tác về lĩnh vực tài chính. Trong
khn khổ hỗ trợ Bộ Tài chính Lào xây dựng Chiến lược Tài chính đến năm 2020,
Bộ Tài chính hai nước đã tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Định hướng
Chiến lược Tài chính Việt Nam đến 2020” diễn ra từ ngày 13-17/03/2012 tại Viêng
Chăn với phạm vi rộng, khách mời đến từ các bộ, ngành quan trọng của Lào.
Tham gia Hội thảo, đồn cán bộ Bộ Tài chính đã trình bày thực trạng nền tài
chính Việt Nam giai đoạn 2001-2010 (những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên
nhân); những định hướng và nhiệm vụ Chiến lược Tài chính Việt Nam giai đoạn
2011-2020; các khâu đột phá trong thực hiện Chiến lược và các giải pháp thực hiện
Chiến lược này. Thông qua trao đổi, đồn cán bộ Bộ Tài chính đã trả lời và giải đáp
cụ thể những vấn đề vướng mắc từ phía bạn Lào đưa ra khi xây dựng Chiến lược
Tài chính; trong đó, tập trung vào các nội dung cách thức xây dựng Chiến lược,
đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,
các yếu tố kinh tế trong nước ảnh hưởng đến thực hiện chiến lược, hiệu quả chi
ngân sách nhà nước, quản lý nợ công.
Đặc biệt, định hướng Chiến lược Tài chính giai đoạn 2011-2020 với 3 khâu đột
phá và 8 nhóm giải pháp thực hiện Chiến lược đã được đồn cán bộ Bộ Tài chính

tận tình chia sẻ, thảo luận để tháo gỡ vướng mắc và đưa ra những giải pháp cho
cơng tác xây dựng Chiến lược Tài chính Lào. Việc thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm
đã trở thành những tài liệu cần thiết giúp Bộ Tài chính Lào có cái nhìn tổng thể,
tồn diện hơn về mối quan hệ giữa các bộ, ngành liên quan trong việc xây dựng
Chiến lược Tài chính Lào cũng như phối hợp thực hiện sau khi Chiến lược đã được
phê duyệt.
Để tiếp tục hồn thiện kế hoạch xây dựng Chiến lược Tài chính đến năm 2020
và tầm nhìn đến năm 2030, trong khn khổ hợp tác giữa Bộ Tài chính Việt Nam
và Bộ Tài chính Lào, ngày 08-09/08/2012, đồn cán bộ Bộ Tài chính Lào do đồng
chí Vụ trưởng Vụ Chính sách tài chính, Bộ Tài chính Lào đã sang Việt Nam, tiếp
tục làm việc với các thành viên trong tổ thực hiện Chiến lược Tài chính của Bộ Tài
chính Việt Nam.
Trong chuyến cơng tác này, đồn cán bộ Bộ Tài chính Lào đã chủ động đề xuất

116


Qua trao đổi, học hỏi kinh nghiệm với Bộ Tài chính Việt Nam về việc xây
dựng Chiến lược Tài chính đã giúp cho cán bộ ngành Tài chính Lào cập nhật được
những thơng tin tài chính một cách đa dạng, những bài học kinh nghiệm thiết thực
làm căn cứ tham khảo và vận dụng vào các nghiệp vụ cụ thể. Bên cạnh đó, Bộ Tài
chính Lào cho rằng, những kinh nghiệm từ Việt Nam rất hữu ích đối với Bộ Tài
chính Lào trong việc xây dựng Chiến lược Tài chính Lào, đặc biệt trong lĩnh vực
ngân sách, thuế, kho bạc và tổ chức cán bộ.
Tìm hiểu thực tiễn trong việc xây dựng Chiến lược Tài chính

Ngồi việc tích cực đẩy mạnh trao đổi đoàn chuyên gia, phối hợp tổ chức hội
thảo và tọa đàm, việc tìm hiểu và khảo sát thực tế trong việc xây dựng Chiến lược
ngành gắn với Chiến lược Tài chính tổng thể nhằm vận dụng vào thực tiễn của Lào
cũng đã được Bộ Tài chính Lào đặc biệt quan tâm.

Với mong muốn xây dựng nền Tài chính chính vững mạnh, Bộ Tài chính Lào
tiếp tục sang làm việc với Bộ Tài chính Việt Nam từ ngày 21-24/08/2013 để trao
đổi và giới thiệu nội dung “Chiến lược phát triển tài chính nhà nước đến năm 2020
và tầm nhìn tới năm 2030 của Bộ Tài chính Lào”. Qua đó, những nội dung liên
quan đến cải cách hệ thống chính sách thuế đến năm 2020, phát triển nguồn nhân
lực, kế hoạch tài chính ngân sách giai đoạn 2011-2015 và một số vấn đề liên quan
về Chiến lược Tài chính đến 2020 đã được Bộ Tài chính Việt Nam tập trung trao
đổi, giới thiệu.
Để giúp Bộ Tài chính Lào trong việc tìm hiểu về một số hoạt động thực tiễn
nhằm xây dựng Chiến lược Tài chính Lào đến năm 2020, Bộ Tài chính Việt Nam
đã giới thiệu quy trình thủ tục Hải quan điện tử của Việt Nam tại Chi cục Hải quan
Vĩnh Phúc. Cùng với đó, đồn cán bộ Bộ Tài chính đã giới thiệu với Bộ Tài chính
Lào những nội dung liên quan đến việc phân cấp quản lý thu thuế ở Việt Nam
thông qua khảo sát thực tế tại Cục Thuế Hải Phòng.
Với những kết quả trên, Bộ Tài chính Lào mong muốn tiếp tục nhận được sự
hợp tác chặt chẽ với Việt Nam khi Chiến lược được thông qua và hỗ trợ Bộ Tài

117

Hợp tác tài chính Việt - Lào: Những mốc son trên hành trình phát triển

nhu cầu hỗ trợ từ phía Việt Nam, trao đổi kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau về chuyên
môn, gắn với những kế hoạch đề ra trong việc xây dựng Chiến lược cải cách thuế,
Chiến lược phát triển Hải quan, đánh giá cách làm chiến lược cũng như những giải
pháp để thực hiện Chiến lược đó.


Sắt son Tài chính Việt - Lào
chính Lào trong việc xây dựng Chương trình hành động thực hiện Chiến lược. Đáp
lại, Bộ Tài chính Việt Nam cũng đã xây dựng nội dung cần tiếp tục trao đổi kinh

nghiệm liên quan đến xây dựng chiến lược Tài chính đến năm 2020, tầm nhìn năm
2030 và kinh nghiệm triển khai thực hiện Chiến lược Tài chính đến năm 2020, cụ
thể là chia sẻ kinh nghiệm trong xây dựng Chương trình hành động và Kế hoạch
hành động trung hạn 2014-2016 thực hiện Chiến lược Tài chính 2020.
Quan hệ hợp tác giữa Bộ Tài chính Việt Nam và Bộ Tài chính Lào được xây
dựng trên sự hợp tác tồn diện, lâu dài đã góp phần vun đắp cho tình hữu nghị hai
nước Việt - Lào ngày càng gắn bó, bền chặt hơn. Thơng qua việc trao đổi đoàn
chuyên gia, tổ chức hội thảo tọa đàm và khảo sát thực tiễn tại Việt Nam đã tạo cầu
nối tài chính hai nước vững chắc, mở ra cánh cửa mới trong hợp tác về lĩnh vực tài
chính, đặc biệt là trong việc xây dựng Chiến lược Tài chính.

118


HỢP TÁC, VIỆN TRỢ TÀI CHÍNH CHO NƯỚC BẠN LÀO
Cục Quản lý Nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính)

Trên tinh thần “quan hệ đặc biệt và hợp tác tồn diện”, trong nhiều năm qua, mặc dù kinh tế
cịn khó khăn nhưng Việt Nam ln dành cho nước bạn Lào một nguồn lực vật chất dưới
hình thức viện trợ khơng hồn lại để thực hiện những nhiệm vụ hợp tác đã thỏa thuận giữa
Chính phủ hai nước v×ì sự nghiệp ổn định và phát triển của mỗi nước.
Giúp Bạn là tự giúp mình...

Việt Nam, Lào là hai nước láng giềng, nằm trên bán đảo Đơng Dương có
truyền thống đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau lâu đời, luôn dành cho nhau sự giúp đỡ chí
tình, là trở thành sức mạnh trong công cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng
của mỗi nước. Trên tinh thần “quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện”, trong nhiều
năm qua, mặc dù kinh tế cịn khó khăn nhưng Việt Nam ln dành cho bạn Lào
một nguồn lực vật chất dưới hình thức viện trợ khơng hồn lại để thực hiện những
nhiệm vụ hợp tác đã thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Lào và

giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Campuchia vì sự nghiệp ổn đ ịnh và phát
triển của mỗi nước.
Nói về mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước Việt Nam - Lào, tại Hội nghị
Trung ương III (Khóa II), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “… Sự thật thì chưa tìm ra
chữ gì để thay thế chữ “giúp” nên dùng chữ giúp, thực ra không phải là giúp mà là
làm một nhiệm vụ quốc tế”. “Mà giúp nước Bạn tức là tự giúp mình” nên “phải ra
sức giúp đỡ một cách tích cực, thiết thực hơn”… Cũng từ đó, nhiệm vụ giúp đỡ cách

119

Hợp tác tài chính Việt - Lào: Những mốc son trên hành trình phát triển

NGÀNH TÀI CHÍNH VIỆT NAM TĂNG CƯỜNG


Sắt son Tài chính Việt - Lào
mạng Lào, ngày càng được tăng cường, quan hệ đoàn kết Việt Nam – Lào càng thêm
gắn bó, mật thiết. Như vậy, viện trợ khơng hồn lại của Việt Nam dành cho Lào có
đặc điểm riêng so với nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của những nước
phát triển tài trợ cho Lào.
Trước hết, hoạt động hỗ trợ nguồn vốn ODA của các nước phát triển khi tài
trợ thường được gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, đảm
bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... có lợi
cho nước tài trợ, từ đó có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực quan tâm
hoặc có lợi thế.
Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA thường phải dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo
hộ các ngành công nghiệp trong nước, chấp nhận bảng thuế xuất nhập khẩu hàng
hoá của nước tài trợ, từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục
hàng hoá mới của nước tài trợ và yêu cầu ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài của nước tài trợ vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.

Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn
với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà khơng hồn tồn phù hợp, thậm chí là
chưa cần thiết đối với các nước nhận tài trợ. Với các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo,
hỗ trợ và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm phần
lớn trong dự án trước yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của nước tài
trợ quá cao so với chi phí thực tế trên thị trường lao động thế giới. Nguồn vốn viện trợ
ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch, đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản
phẩm của nước tài trợ, buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA
là hàng hoá, dịch vụ do nước cấp ODA sản xuất.
Thứ hai, viện trợ khơng hồn lại của Việt Nam dành cho Lào không phải là
nguồn tài trợ từ nước phát triển dành cho nước đang phát triển. Nền kinh tế của
Việt Nam, Lào đều có điểm xuất phát thấp so với các nước trong khu vực và nằm
trong danh sách các nước nghèo của thế giới. Với đặc điểm về địa lý, kinh tế - xã
hội tương đồng giữa hai nước, nguồn viện trợ khơng hồn lại của Việt Nam dành
cho Lào thể hiện sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau vì sự nghiệp ổn định và phát triển
của mỗi nước.
Trong nhiều thập kỷ qua được sự quan tâm thường xuyên của Lãnh đạo cấp cao
hai nước, hợp tác Việt Nam Lào đã phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực, khơng
ngừng mở rộng cả quy mơ lẫn hình thức. Trong các lĩnh vực hợp tác ln có sự
phối hợp thường xun trên tinh thần tơn trọng vì lợi ích của mỗi nước, bình đẳng,

120


TỔNG HỢP KINH PHÍ VIỆN TRỢ KHƠNG HỒN LẠI CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM
DÀNH CHO CHÍNH PHỦ LÀO TỪ NĂM 1981 ĐẾN NAY

Đơn vị: tỷ VND
Kinh phí viện trợ


% tăng so với giai đoạn trước

3,056

1986 - 1990

11,163

265%

1991 - 1995

82,930

643%

1996 - 2000

350,000

322%

2001 - 2005

590,000

69%

2006 - 2010


1.200,000

103%

2011 - 2015

3.100,000

158%

Tổng

5.337,150

cùng có lợi, điều chỉnh và tháo gỡ kịp thời những bất cập nhằm sử dụng có hiệu
quả nguồn lực hợp tác giúp đỡ lẫn nhau một cách thiết thực, với ý nghĩa “không
phải là giúp mà là làm một nhiệm vụ quốc tế”.
Thứ ba, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn coi trọng, phát triển và củng cố
mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện với Lào,
coi đây là nhiệm vụ quốc tế có tầm chiến lược to lớn, thiết thực phục vụ cho lợi
ích đảm bảo ổn định an ninh, chính trị và phát triển của mỗi nước. Việc thực hiện
hợp tác giúp Lào không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế với mỗi nước, mà cịn được
xem xét dưới góc độ hiệu quả và nghĩa vụ hợp tác quốc tế dưới tác động tồn diện
cả về xã hội, an ninh, quốc phịng, mơi trường sinh thái có liên quan đến hai nước.
Đây chính là đặc điểm cơ bản có tác động trực tiếp tới việc đánh giá hiệu quả
sử dụng viện trợ không hồn lại của Việt Nam dành cho Lào. Nó khơng những thể
hiện sự giúp đỡ chí tình, vơ tư vì sự nghiệp ổn định và phát triển của mỗi nước, mà
còn là nghĩa vụ hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với nước bạn Lào.
Viện trợ khơng hồn lại của Việt Nam trong tổng thể ODA dành cho Lào


Kêu gọi nguồn lực bên ngồi, tranh thủ sự đồng tình giúp đỡ của bạn bè quốc
tế, khơi dậy và phát huy nguồn tiềm năng trở thành nguồn vật chất vào công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước đã và đang được Chính phủ Lào đặc biệt quan tâm.
Trong những năm 1975-1990, Lào đã nhận được vốn viện trợ và vốn vay với
lãi suất thấp lên tới 2.347 triệu USD, trung bình 147 triệu USD/năm. Giai đoạn
1991-1996, Lào đã nhận được 1.340 triệu USD vốn viện trợ và vốn vay, trung bình

121

Hợp tác tài chính Việt - Lào: Những mốc son trên hành trình phát triển

Giai đoạn
1981 - 1985


Sắt son Tài chính Việt - Lào
268 triệu USD/năm và trong những năm 1996-2006, Lào đã nhận được 3.243 triệu
USD vốn viện trợ và vốn vay, trung bình 324 triệu USD/năm. Trong đó, vốn viện
trợ và vốn vay từ các tổ chức tài chính quốc tế chiếm 37% tổng số vốn viện trợ và
vốn vay. Vốn vay chiếm trên 95% và vốn viện trợ khoảng 2,8%.
Trong tổng thể chung, viện trợ khơng hồn lại của Chính phủ Việt Nam dành
cho Chính phủ Lào chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng số viện trợ khơng hồn
lại mà Lào nhận được từ các nước và các tổ chức quốc tế.
Ngoài nguồn kinh phí viện trợ chính thức giữa hai Chính phủ, hàng năm Chính
phủ Việt Nam cũng hỗ trợ cho phía Lào trong một số lĩnh vực khác như:
- Chi hỗ trợ xây dựng các cơng trình cụ thể thơng qua hình thức là q tặng của
các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước (như chi hỗ trợ xây dựng Nhà văn hóa
Kayson Phomvihane tại tỉnh Savannakhet 191 tỷ đồng; Chi hỗ trợ xây dựng Nhà
xuất bản và Phát hành sách quốc gia Lào 12,75 tỷ đồng; Xây dựng trung tâm tiếng
Việt tại tỉnh Hủa Phăn - quà tặng của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho

tỉnh Hủa Phăn – 1 triệu USD...).
- Chi hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam
– Lào, với tổng kinh phí viện trợ là 10,234 triệu USD (thực hiện từ 2008-2014) để
hỗ trợ phần kinh phí của phía bạn để thực hiện dự án như chi quản lý hành chính,
trang thiết bị cho cơng tác cắm mốc, tập huấn...
- Hỗ trợ cho các địa phương biên giới hợp tác với Lào để thực hiện các nhiệm
vụ về quốc phòng, an ninh theo mức: nhiệm vụ quốc phòng với mức 300 triệu
đồng/xã biên giới; nhiệm vụ an ninh với mức 225 triệu đồng/xã biên giới; Chương
trình quản lý, bảo vệ biên giới đất liền trong đó năm 2014 hỗ trợ tổng cộng 170
tỷ đồng cho các địa phương, cụ thể: Điện Biên - 18 tỷ đồng, Sơn La - 14 tỷ đồng,
Thanh Hóa - 21 tỷ đồng, Nghệ An - 15 tỷ đồng, Hà Tĩnh - 16 tỷ đồng, Quảng Bình
- 15 tỷ đồng, Quảng Trị - 15 tỷ đồng, Huế - 18 tỷ đồng, Quảng Nam - 20 tỷ đồng,
Kon Tum -18 tỷ đồng.
- Hỗ trợ đầu tư hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu trong đó năm 2014 hỗ trợ tổng
cộng 137 tỷ đồng cho các địa phương, cụ thể: Sơn La - 8 tỷ đồng, Lai Châu - 8
tỷ đồng, Điện Biên - 8 tỷ đồng, Hà Tĩnh - 80 tỷ đồng, Quảng Bình - 32 tỷ đồng,
Quảng Trị - 90 tỷ đồng, Quảng Nam - 8 tỷ đồng, Kon Tum - 40 tỷ đồng.
- Đầu tư phát triển kinh tế xã hội tuyến biên giới Việt Nam-Lào theo Quyết
định số 160/2007/QĐ-TTg ngày 17/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ phát
triển kinh tế xã hội các xã biên giới Việt Nam-Lào và Việt Nam-Campuchia trong

122


- Hỗ trợ cho nhân dân nước Bạn Lào sang khám, chữa bệnh tại Việt Nam;
- Chi cấp bù chênh lệch lãi suất cho vay đầu tư xây dựng một số cơng trình
trọng yếu trên đất Bạn Lào (như xây dựng đường 18B, xây dựng 06 cụm bản tại
Trung Lào…).
Nguồn viện trợ khơng hồn lại của Việt Nam và những đóng góp vào cơng
cuộc xây dựng và phát triển đất nước Lào


Tranh thủ sự đồng tình giúp đỡ của bạn bè quốc tế, cùng với nguồn lực từ bên
ngoài, nguồn viện trợ khơng hồn lại của Việt Nam đã có những đóng góp thiết
thực vào việc khơi dậy và phát huy nguồn tiềm năng trở thành nguồn vật chất phục
vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước Lào trên nhiều lĩnh vực kinh tế, xã
hội, cụ thể:
Thứ nhất, giúp Lào đảm bảo an ninh lương thực.
Năm 1976, đất nước Lào chỉ sản xuất được 661.000 tấn với diện tích canh tác là
524.600 ha trên tổng diện tích sản xuất lúa là 317.700 ha, diện tích rẫy 204.100 ha
và diện tích lúa vụ chiêm 2.700 ha, năng suất bình quân 1,26 tấn/ha, bình quân lương
thực đầu người chỉ đạt 229kg/người/năm cả nước cịn thiếu 204.900 tấn thóc. Mười
năm sau, năm 1985, sản lượng lương thực đạt 1.395.000 tấn, gấp 2 lần năm 1976.
Năng suất bình quân đạt 2,1tấn/ha, bình quân lương thực đầu người 386kg/người/
năm. Sau 20 năm, đất nước được giải phóng, năm 1995, sản xuất lương thực đã đạt
1.577.000 tấn, năng suất bình quân 2,58 tấn/ha, bình quân lương thực đầu người
được 344 kg/người/năm.
Từ năm 1994 đến năm 2010, Việt Nam đã dành 11,89% tổng viện trợ khơng
hồn lại cho 19 chương trình dự án phát triển nơng nghiệp và nơng thơn của Lào,
trong đó tập trung chủ yếu từ năm 1997 đến năm 2000. Bằng nhiều hình thức từ
hỗ trợ giống vật ni, cây trồng, sự giúp đỡ chân tình của các chuyên gia trực tiếp
tới các bản làng đến quy hoạch và hỗ trợ phát triển nông nghiệp, thủy lợi, trên 7
cánh đồng lớn của Lào tại Viêng chăn, Xa-va-na-khét, Khăm muội, Chăm-pasắc, Xê pôn, At-ta-pư, Bô-ly-khăm-xay, giúp Lào xây dựng chiến lược về an ninh
lương thực và xây dựng các hệ thống thủy lợi lớn phục vụ cho mục tiêu phát triển

123

Hợp tác tài chính Việt - Lào: Những mốc son trên hành trình phát triển

đó năm 2014 hỗ trợ tổng cộng 84 tỷ đồng cho các địa phương, cụ thể: Điện Biên 19 tỷ đồng, Sơn La - 8,5 tỷ đồng, Thanh Hóa - 8 tỷ đồng, Nghệ An - 13,5 tỷ đồng,
Hà Tĩnh - 4 tỷ đồng, Quảng Bình - 4,5 tỷ đồng, Quảng Trị - 8 tỷ đồng, Huế - 6 tỷ

đồng, Quảng Nam - 7,5 tỷ đồng, Kon Tum - 5 tỷ đồng.


Sắt son Tài chính Việt - Lào
nơng nghiệp và nơng thôn gồm: Hệ thống thủy lợi sông Nậm Ngừm - Hồng Sa, Hệ
thống thủy lợi Đông-phu-xỉ và Thà-phạ-nong-phông tỉnh Viêng Chăn và Hệ thống
thủy lợi Nậm Long, tỉnh Hủa phăn. Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng và
được phía Lào đánh giá cao trong chiến lược an ninh lương thực của Lào.
Nhờ vào quyết tâm của Chính phủ Lào và có sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA
của nước ngồi và những đóng góp quan trọng của Việt Nam, năm 2008, năng suất
lương thực đạt 4,76 triệu tấn, bình quân lương thực đầu người đã tăng lên 806 kg/
người/năm. Lào đã chủ động giải quyết được về lương thực có phần tích lũy. Chiến
lược an ninh lương thực được bảo đảm khơng những đủ ăn mà cịn xuất khẩu được
lương thực.
Thứ hai, góp phần thực hiện chương trình giảm nghèo và nâng cao chất lượng
cuộc sống của Lào.
Giảm nghèo là nhiệm vụ trọng tâm trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội
của Lào. Trong 5 năm (2001-2005), cơng tác giảm nghèo có nhiều tiến bộ, giảm
được 135 nghìn hộ nghèo; Bước vào giai đoạn 2006-2010, tồn quốc cịn 72 huyện
nghèo, trong đó có 47 huyện đặc biệt nghèo.
Quỹ xoá nghèo được vay từ nguồn vốn của Ngân hàng Thế giới được triển khai
trên 1.912 bản, trong đó có 239 cụm bản điển hình ở 20 huyện thuộc 05 tỉnh như:
Hủa-phăn, Xiêng-khoảng, Xa-văn-na-khệt, Xa-la-văn và Chăm-pa-xắc. Đến năm
2006 - 2007 Chính phủ Lào đã hồn thành kế hoạch giải quyết các hộ nghèo ở 23
cụm bản dân cư của 23 huyện nghèo trên 47 huyện nghèo nhất trong cả nước.
Tuổi thọ trung bình của người Lào tăng lên, nếu năm 1980 là 50 tuổi thì đến
năm 2005 đạt 61 tuổi. Kết quả này đã cải thiện đáng kể về dân số của Lào. Năm
2008 dân số là 6.677.534 người với mật độ 28 người/km2 gấp gần 1,5 lần so với
năm 1986 là 4,71 triệu người.
Tỷ lệ sử dụng nước sạch ở Lào tăng từ 67,2% số hộ gia đình trong cả nước năm

1986 lên 76,% năm 2008. Cơ sở văn hóa mới trong các vùng nơng thơn ở cấp bản
đạt 500 bản/9.113 bản chiếm 0,05% số bản trong tồn quốc, xây dựng gia đình văn
hóa mới đạt 68.000 hộ gia đình/ 983.482 hộ gia đình tồn quốc đạt 14,46% hộ gia
đình trong tồn quốc.
Góp phần vào mục tiêu này, Việt Nam đã giúp Lào xây dựng hệ thống nước
sạch tại thị xã Xay-xổm-bun; lắp đặt hệ thống chiếu sáng tại một số khu vực Thành
phố Viêng Chăn; giúp chuyển đổi giống cây trồng giảm nghèo khu vực nông thôn
thông qua các dự án: Hỗ trợ phát triển giống ngô lai; Điều tra quy hoạch vùng cây

124


ăn quả huyện Xiềng-Ngân, Nặm-Bạc (Luông-pra-băng) và vùng trồng rau Văng
viêng (Viêng Chăn); xây dựng mơ hình thí điểm phục vụ nông nghiệp tại Phun
sủng, Chăm-pa-sắc, Lắc sao, và Hạt siều; Xây dựng bệnh viện tỉnh Bò Kẹo….
Lào là một nước đất rộng người thưa, nguồn nhân lực khan hiếm, nhất là lao
động có tay nghề và kỹ thuật cao. Đảng Nhân dân cách mạng Lào luôn coi trọng
việc phát triển tồn diện khơng chỉ về thể chất, trình độ hiểu biết về tri thức, nghề
nghiệp và đạo đức, xây dựng con người Lào mới có thế giới quan, nhân sinh quan
tiến bộ trong sáng, lành mạnh ngày càng được bổ sung và hoàn thiện ở nhiều mặt.
Nhờ nguồn ODA, tỷ lệ trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo, bậc phổ thông trung học và
đại học đến trường ở Lào đã tăng từ 38% vào năm 1985 lên 54% năm 2005 và đến
năm 2007-2008 tỷ lệ trẻ em ở độ tuổi từ 6-10 tuổi đến lớp đạt 86,4%, tỷ lệ cấp học
phổ thông tiểu học đến trường đạt 53,3%, tỷ lệ cấp học phổ thông cơ sở đến trường
đạt 53,3% và tỷ lệ cấp học phổ thông trung học đạt 34,6%. Tỷ lệ học sinh trong dân
đã tăng lên từ 854.000 học sinh/100.000 dân năm 2005 lên 1.068 học sinh/100.000
dân năm 2007. Tỷ lệ biết chữ ở người lớn ở độ tuổi từ 15 tuổi trở lên đạt 78%.
Chỉ số phát triển con người (HDI) của Lào năm 2001 là 0,525, xếp thứ 135 trên
thế giới đã xuống thứ 133 vào năm 2005 và thứ 130 vào năm 2008 trong tổng số
177 nước. Phát triển nguồn nhân lực cũng là lĩnh vực hợp tác được hai Đảng và hai

Nhà nước quan tâm và ưu tiên hàng đầu trong chiến lược hợp tác giữa hai nước.
Hai bên đã dành 43,25% viện trợ khơng hồn lại giai đoạn 1994-2010 cho đào
tạo cán bộ, học sinh Lào tại Việt Nam và 12,61% viện trợ để hình thành hệ thống
Trường phổ thơng dân tộc nội trú U-đôm-xay, Hủa-phăn, Xiêng-khoảng, Viêngchăn, Xa-va-na-khẹt, Chăm-pa-xắc, At-ta-pư từ Bắc tới Nam của Lào, xây dựng
các cơ sở bồi dưỡng cán bộ và đào tạo nghề tại Viêng chăn, Bò Kẹo, các trường
đào tạo cao đẳng và đại học như Trường Cao đẳng Tài chính Đơng-khăm-xặng,
Trường Âm nhạc quốc gia Lào…
Thứ tư, góp phần hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện thuận
lợi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Lào.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ I (1981-1985), tranh thủ sự viện trợ giúp đỡ
của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước tư bản và các tổ chức quốc tế, Lào đã
thu hút được nguồn ODA lớn vào xây dựng cơ sở hạ tầng. Giao thơng vận tải có
nhiều chuyển biến. Lào đã sửa chữa và nâng cấp được 2.730 km đường. Trong
đó, rải nhựa 920 km, sửa chữa 337 cầu. Tổng chiều dài đường bộ của cả nước đến

125

Hợp tác tài chính Việt - Lào: Những mốc son trên hành trình phát triển

Thứ ba, đóng góp thiết thực vào kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của Lào.


Sắt son Tài chính Việt - Lào
năm 1985 đã lên đến 12.983 km. Năm 1994, tổng chiều dài đường giao thông đạt
18.344 km, tăng 5.361 km so với năm 1985. Trong đó đường rải nhựa là 2.446 km.
Từ nguồn ODA hệ thống các trục đường giao thông chiến lược được hình
thành và phát triển. Nếu trước năm 1992, hệ thống quốc lộ 13 dọc đất nước Lào
còn là đường cấp phối thì nay đã trở thành tuyến đường chiến lược trong công
cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước Lào. Nhiều tuyến đường ngang nối
với các nước trong khu vực và giúp Lào thông thương ra các cảng biển của các

nước láng giềng như tuyến đường 9 hành lang Ðông - Tây, tuyến đường 6, 12
Trung Lào được xây dựng. Trong những thập niên 90 của thế kỷ 20 bằng nguồn
ODA, các cầu qua sông Mê kông tại Viêng Chăn, Mục-đa-hản và Pắc-xê đã được
đưa vào sử dụng và gần đây tuyến đường sắt đầu tiên của Lào từ Viêng-chăn sang
Nọng-khai (Thái Lan) cũng đã được hình thành.
Thực hiện thỏa thuận tạo điều kiện thuận lợi và giúp Lào thông thương qua các
cảng biển của Việt Nam, bằng nguồn vốn vay ưu đãi Việt Nam đã giúp Lào xây
dựng các tuyến đường 18B (Nam Lào) và tuyến đường 2E (Bắc Lào) và dành 2,8%
viện trợ khơng hồn lại trong những năm 2001-2005 để giúp Lào nghiên cứu khảo
sát các tuyến đường sắt, đường bộ và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các cửa khẩu
của Lào thông thương với Việt Nam.
Kết quả này đã tạo điều kiện cho Lào trong những năm gần đây thu hút được
một khối lượng lớn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi.
Ngồi nguồn kinh phí viện trợ chính thức và các hỗ trợ khác, trong khả năng
có thể và đề xuất của Bạn, Chính phủ Việt Nam cũng hỗ trợ cho Lào xây dựng các
dự án cơ sở hạ tầng, hỗ trợ ngân sách, tổ chức các sự kiện quốc tế lớn do nước bạn
đăng cai tổ chức… thông qua việc cung cấp các khoản tín dụng ưu đãi. Cụ thể, đến
nay Chính phủ Việt Nam đã cho Chính phủ Lào vay 06 khoản tín dụng ưu đãi với
tổng trị giá 152 triệu USD.

126


Tổng cục Thuế

Từ năm 2004, trên cơ sở chương trình hợp tác giữa Bộ Tài chính hai nước, hàng năm
Tổng cục Thuế Việt Nam và Vụ Thuế Lào đã triển khai nhiều chương trình hợp tác
song phương, trong đó có hoạt động giao lưu trao đổi cấp lãnh đạo Tổng cục giữa hai ngành
Thuế. Từ thực tiễn công tác thuế của mình, ngành Thuế hai nước đã tăng cường kết hợp,
hợp tác trong các lĩnh vực và đạt được nhiều kết quả quan trọng.


V

iệt Nam và Lào là hai nước láng giềng thân thiết, núi liền núi, sông
liền sông. Nhân dân hai nước vốn có mối quan hệ hữu nghị truyền
thống, gắn bó từ lâu đời và ngày càng phát triển. Hai dân tộc Việt Nam và Lào đã
cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, xây đắp mối tình hữu nghị truyền thống, đoàn kết, đặc
biệt và hợp tác toàn diện, trở thành tài sản chung vô giá của hai dân tộc.
Cách đây 53 năm, ngày 5/9/1962, Việt Nam và Lào chính thức thiết lập quan
hệ ngoại giao và 38 năm ngày hai nước ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác (ngày
18/7/1977) đã mở ra một trang sử mới cho quan hệ hợp tác giữa hai nước. Việc này
có ý nghĩa lớn lao trong mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Với mục tiêu giúp
đỡ, hỗ trợ lẫn nhau vì sự phát triển thịnh vượng của mỗi nước, mối quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào đã góp phần xây dựng mơi trường hồ bình, thúc đẩy hợp tác
và hữu nghị giữa ba nước Đông Dương, các nước Đông Nam Á với nhau, là một
trong những nhân tố quan trọng góp phần xây dựng Cộng đồng ASEAN.
Ở cấp độ nhà nước, hàng năm Bộ Tài chính hai nước đều có những cuộc gặp
gỡ thảo luận đối thoại với các doanh nghiệp hai nước, giúp tháo gỡ khó khăn cho

127

Hợp tác tài chính Việt - Lào: Những mốc son trên hành trình phát triển

NGÀNH THUẾ HAI NƯỚC VIỆT- LÀO:
CHẶNG ĐƯỜNG HỢP TÁC THẮM TÌNH HỮU NGHỊ


Sắt son Tài chính Việt - Lào
các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, tài chính.
Trên tinh thần hợp tác tồn diện giữa hai Đảng, Chính phủ, Bộ Tài chính,

ngành Thuế hai nước Việt Nam và Lào đã tích cực triển khai, có những bước đi
kế tiếp các giai đoạn trước đó. Bắt đầu từ năm 2004, trên cơ sở chương trình hợp
tác giữa Bộ Tài chính hai nước, hàng năm Tổng cục Thuế Việt Nam và Vụ Thuế
Lào đã triển khai nhiều chương trình hợp tác song phương; trong đó có hoạt động
giao lưu trao đổi cấp lãnh đạo Tổng cục giữa hai ngành Thuế. Từ thực tiễn cơng
tác Thuế của mình, ngành Thuế hai nước đã tăng cường kết hợp, hợp tác trong các
lĩnh vực và đạt được nhiều kết quả quan trọng, như:
- Trao đổi kinh nghiệm giúp Bạn Lào hoàn thành kế hoạch thu ngân sách như
xây dựng hệ thống báo cáo thống kê số thu nộp ngân sách nhà nước, tư vấn về các
khó khăn vướng mắc trong lĩnh vực hố đơn…
- Giúp Lào dự thảo, ban hành và tổ chức triển khai một số nghị định và thông
tư hướng dẫn trong lĩnh vực tài chính, thuế.
- Trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ Bạn Lào trong việc tổ chức bộ máy hệ thống
Thuế theo ngành dọc.
- Trực tiếp viện trợ bằng tiền để trang bị máy tính cho Vụ Thuế Lào, Trường
Trung học Tài chính Viêng - Chăn và tham gia giúp Lào xây dựng, triển khai mua
trang thiết bị giáo dục Trường Tài chính Đơng Khăm Xạng.
- Hỗ trợ kinh phí trang bị một số thiết bị tin học phục vụ cho văn phòng Vụ
Thuế Lào với tổng số tiền là 72.870 USD. Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh cũng đã
trợ giúp phần mềm và thiết bị tin học cho phòng thuế Viêng-chăn với số tiền là
100.000 USD. Ngoài ra Tổng cục Thuế cùng Tổng cục Hải quan trang bị 50 máy
tính cho Trường Tài chính Đơng Khăm Xạng để phục vụ công tác giảng dạy.
- Hỗ trợ trang thiết bị cho Dự án cơ sở vật chất Trường Tài chính Đơng khăm
Xạng trị giá 479.795.000 đồng gồm 10 bộ thiết bị giảng dạy và trang bị hệ thống
âm thanh phòng hội thảo (năm 2008).
Có thể khẳng định, hợp tác hai ngành Thuế Việt Nam - Lào là quan hệ đặc biệt,
như mối quan hệ gắn bó thân thiết, đặc biệt giữa hai nước, hai dân tộc Việt, Lào vậy.
Trong giai đoạn từ năm 2004 – 2010, Tổng cục Thuế Việt Nam đã tổ chức 35 đoàn
chuyên gia Việt Nam sang Lào và đón 31 đồn cán bộ thuế Lào sang Việt Nam khảo
sát, trao đổi và học tập kinh nghiệm. Ngành Thuế Việt Nam, bằng nguồn lực của

chính mình, đã giúp ngành Thuế Lào một cách toàn diện, từ việc xây dựng chính

128


Trên phương diện chính sách, ngành Thuế Việt Nam đã giúp bạn Lào dự thảo,
xây dựng triển khai Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế Thu nhập cá nhân và các văn
bản pháp lý quản lý hoá đơn ấn chỉ. Về tổ chức và phát triển nguồn lực, đã giúp Lào
tổ chức bộ máy hệ thống thuế theo ngành dọc từ trung ương tới địa phương để quản
lý tập trung nguồn thu và đào tạo quản lý một số lượng lớn cán bộ. Việc triển khai
chương trình hợp tác được thực hiện thơng qua các hình thức: Cử chun gia trình
bày, trao đổi kinh nghiệm, cử các đồn tham gia khảo sát học tập, tổ chức các lớp
tập huấn, hướng dẫn cho cán bộ thuế của Lào, đồng thời cũng biên soạn cung cấp
những tài liệu tham khảo về thuế giúp các cán bộ thuế Lào có thể tìm tịi sáng tạo
định hướng những chính sách cho phù hợp với thực tiễn thuế của mình.
Thơng qua các đồn làm việc của Tổng cục Thuế với Vụ Thuế của Lào qua các
năm, cơ quan Thuế hai nước đã cùng nhau đánh giá kết quả hợp tác phát triển về
thuế và từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo. Qua chặng
đường hợp tác giữa ngành Thuế hai nước, có thể thấy việc triển khai cơng việc
tuy gặp những khó khăn nhất định như bất đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quán
nhưng về cơ bản là khá hiệu quả. Nếu như trước đây, ngành Thuế Việt Nam ln
phải tự tìm hiểu và đề xuất trước các nội dung hợp tác, đến nay, ngành Thuế Lào đã
chủ động trong việc đề xuất các nhu cầu cần hợp tác, trợ giúp. Quá trình hợp tác đã
được mở rộng ra nhiều lĩnh vực và đi vào chiều sâu. Hai bên đã tích cực trao đổi,
học hỏi kinh nghiệm cũng như trao đổi tập huấn nghiệp vụ chuyên môn, thể hiện
rất rõ qua số lượng các đoàn năm sau tăng hơn so với năm trước. Việc trao đổi các
đoàn đã bám sát kế hoạch đề ra và sát với nhu cầu của phía Lào.
Các nội dung trao đổi ngày càng đi sâu vào các kiến thức nghiệp vụ chuyên
môn và đã cung cấp được những kinh nghiệm và định hướng q báu cho phía
bạn Lào trong cơng tác quản lý thuế. Giữa cơ quan Thuế địa phương các tỉnh

có biên giới chung hai nước đã xây dựng chương trình giao lưu, hợp tác, hỗ trợ
nhau trong hoạt động chuyên mơn và giao lưu thắm tình hữu nghị. Cũng từ đó
tăng cường hoạt động trao đổi làm việc cấp lãnh đạo hai ngành Thuế và trao
đổi kinh nghiệm về công tác quản lý thuế càng góp phần gắn kết tình hữu nghị
truyền thống gắn bó giữa ngành Thuế hai nước nói riêng và giữa nhân dân hai
nước Việt - Lào nói chung.

129

Hợp tác tài chính Việt - Lào: Những mốc son trên hành trình phát triển

sách thuế đến tổ chức bộ máy, đào tạo nguồn nhân lực, trang bị thiết bị tin học…


Sắt son Tài chính Việt - Lào

NHỮNG DẤU ẤN ĐẶC BIỆT TRONG QUAN HỆ HỢP TÁC

HẢI QUAN VIỆT NAM - LÀO
Vụ Hợp tác quốc tế - Tổng cục Hải quan

Trong khn khổ hợp tác hai ngành Tài chính, Hải quan Việt Nam và Lào với vai
trò tiên phong trong đấu tranh và bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia và thúc đẩy thương mại
phát triển, đã cùng nhau xây dựng kế hoạch hợp tác và triển khai một cách hiệu quả thiết thực
những hỗ trợ kỹ thuật dành cho nhau.

V

iệt Nam và Lào là hai nước láng giềng, có truyền thống đoàn kết hữu
nghị và hợp tác đặc biệt từ lâu đời. Lịch sử đã chứng kiến sự gắn bó

chặt chẽ giữa hai dân tộc trong cuộc đấu tranh chung vì độc lập, tự do, vì sự phồn
vinh của mỗi nước. Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ hai nước và vì sự phát triển
quốc gia, các bộ, ban, ngành hai bên đã không ngừng nỗ lực để xây dựng và triển
khai các chương trình hợp tác song phương.
Trong khn khổ hợp tác hai ngành Tài chính, Hải quan Việt Nam và Lào với
vai trò tiên phong trong đấu tranh và bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia và thúc đẩy
thương mại phát triển, đã cùng nhau xây dựng kế hoạch hợp tác và triển khai một
cách hiệu quả thiết thực những hỗ trợ kỹ thuật dành cho nhau. Với những nỗ lực
không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ hải quan hai nước, mối quan hệ hữu nghị tốt
đẹp giữa hai ngành Hải quan đã và đang được kế thừa và phát huy, hướng đến một
tương lai hợp tác bền vững.
Đi qua những giai đoạn hợp tác

Trải qua những khó khăn của thời kỳ hội nhập và phát triển, hải quan hai nước,
với những mục tiêu đúng đắn hướng đến xây dựng ngành Hải quan hiện đại phù

130


Mỗi giai đoạn hợp tác đều đánh dấu một bước tiến mới trong quan hệ hợp tác
hải quan hai nước bằng các hoạt động hỗ trợ khác nhau. Việc cùng nhau ghi nhận
các thành quả hợp tác cũng như những đánh giá khách quan của nhân dân và cộng
đồng doanh nghiệp hai nước, đã tạo nên động lực mạnh mẽ, thúc đẩy những nỗ
lực của lãnh đạo và cán bộ hải quan hai nước trong duy trì cũng như đổi mới nội
dung, phương thức hợp tác.
Từ năm 2005 đến năm 2006:
- Thực hiện thí điểm kiểm tra hải quan 1 lần giai đoạn 1 tại cặp cửa khẩu Lao
Bảo - Đensavanh (bắt đầu từ ngày 30/6/2005) đã được hải quan hai nước phối hợp
triển khai thành công tốt đẹp, bước đầu mở ra một giai đoạn mới hướng đến mục
tiêu chung, tạo thuận lợi thương mại cho cộng đồng doanh nghiệp qua cửa khẩu

biên giới, thúc đẩy tăng trưởng thương mại hai nước.
- Thực hiện trao đổi các đồn cơng tác sang hai nước làm việc về các nội dung:
Thực hiện nhiệm vụ thu 2005-2006; kinh nghiệm thực hiện trị giá Hiệp ước chung
về thuế quan và mậu dịch (GATT), yêu cầu về xuất xứ đối với hàng nhập khẩu từ
Mỹ, khai báo hải quan, yêu cầu bảo lãnh đối với hàng quá cảnh, thực hiện kiểm tra
sau thông quan. Bằng những nỗ lực và kinh nghiệm nghiệp vụ trong Ngành, các
cán bộ hải quan hai nước đã cùng nhau trao đổi những khó khăn trong cơng tác hải
quan cũng như đưa ra các định hướng hợp tác về các vấn đề nghiệp vụ, nhằm đảm
bảo hiệu quả hợp tác.
- Tư vấn soạn thảo Nghị định hướng dẫn Luật Thuế quan sửa đổi, tổ chức hội
thảo về tổ chức thu thuế, trị giá GATT. Đây là một nội dung chuyên ngành quan
trọng trong nghiệp vụ hải quan. Việc hợp tác hỗ trợ trong soạn thảo những văn bản
mới đã giúp Hải quan Lào tổ chức quản lý chặt chẽ hơn trong việc triển khai thực
hiện Luật Thuế sửa đổi, góp phần vào đảm bảo đạt chỉ tiêu công tác thu của ngành
Hải quan nước này.
- Hỗ trợ trang thiết bị kỹ thuật: Hải quan Việt Nam đã trao tặng 01 máy soi hành
lý đặt tại cửa khẩu cầu Hữu Nghị Lào – Thái và một số máy vi tính cho hải quan Lào;

131

Hợp tác tài chính Việt - Lào: Những mốc son trên hành trình phát triển

hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, đã không ngừng tăng cường hợp tác
chặt chẽ thông qua nhiều hoạt động hợp tác hỗ trợ. Quan hệ hợp tác hải quan hai
nước đã được thể hiện bằng những kết quả hợp tác hiệu quả thiết thực, nâng cao
năng lực và hiệu quả con người - yếu tố tiên quyết trong chiến lược hiện đại hóa
hải quan; đồng thời, trang bị cho ngành Hải quan hai nước những thiết bị và công
cụ máy móc hỗ trợ cho cơng tác hải quan, nhất là tại các cửa khẩu biên giới.



Sắt son Tài chính Việt - Lào
Phối hợp với Tổng cục thuế trang bị máy tính cho trường Đơng Khăm Xạng. Những
hỗ trợ kỹ thuật đóng vai trị quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ hải quan.
- Đào tạo: Hải quan Việt Nam đã tiếp nhận các đoàn cán bộ Hải quan Lào sang
khảo sát học tập kinh nghiệm về các vấn đề nghiệp vụ hải quan như chính sách
thuế, trị giá GATT, kiểm tra sau thông quan, công tác chống buôn lậu, chống thất
thu thuế. Đồng thời, Hải quan Việt Nam cử một số cán bộ sang giảng dạy tại một
số Hải quan cửa khẩu của Lào về vấn đề trị giá, HS, xuất xứ và được phía Bạn
đánh giá cao về chất lượng. Đây là một trong những trọng điểm hợp tác của hải
quan hai nước nhằm đảm bảo nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, góp phần
đáp ứng các yêu cầu của phát triển nguồn nhân lực hải quan hai nước.
Từ năm 2007 đến năm 2008:
- Tiếp tục thực hiện thí điểm kiểm tra hải quan 1 lần 1 điểm dừng tại cặp cửa
khẩu Lao Bảo - Đen Sa Vẳn: theo Bản ghi nhớ, việc thực hiện kiểm tra hải quan 1
lần 1 điểm dừng bắt đầu triển khai vào 30/6/2006. Bên cạnh đó, để tiến hành các
thủ tục triển khai giai đoạn 2, ngày 4/1/2007, thoả thuận triển khai giai đoạn 2 đã
được ký kết giữa Tổng cục Hải quan Việt Nam và Tổng cục Hải quan Lào. Hiện
hải quan hai nước đang tiếp tục nỗ lực hợp tác hoàn thiện cơ sở hạ tầng trang thiết
bị máy móc tại hai cửa khẩu để tiến tới triển khai giai đoạn 2 của mơ hình này.
- Trang thiết bị máy móc: Hải quan Việt Nam đã trao tặng Hải quan Lào 02
máy soi hành lý và một số máy vi tính lắp đặt tại trụ sở làm việc của Tổng cục. Hỗ
trợ kỹ thuật được đánh giá là cần thiết nhằm giúp Bạn trang bị ngày càng đầy đủ
hơn những công cụ hỗ trợ cho công tác hải quan, đặc biệt tại các cửa khẩu biên giới
với tình hình trao đổi thương mại đang gia tăng giữa hai nước.
- Đào tạo: Hải quan Việt Nam tiếp tục cử chuyên gia sang giảng dạy cho cán bộ
Hải quan Lào tại các cửa khẩu nhằm chia sẻ kinh nghiệm cũng như trao đổi kiến
thức về nghiệp vụ hải quan. Việc đổi mới về giáo trình tài liệu cũng như phương
pháp giảng dạy, hợp tác đào tạo đã được đánh giá cao về chất lượng.
- Hỗ trợ thu thuế: Hải quan Việt Nam tiếp tục hỗ trợ Hải quan Lào trong công
tác thu. Tháng 10/2006, hai bên đã ký kết Thoả thuận về phối hợp đấu tranh chống

thất thu thuế nhằm mục đích thường xun trao đổi thơng tin hỗ trợ nhau trong
cơng tác thu. Ngồi việc chia sẻ kinh nghiệm và trao đổi thông tin, Hải quan Việt
Nam còn cử các chuyên gia về lĩnh vực thuế sang làm việc trực tiếp tại một số cửa
khẩu của Hải quan Lào. Nhờ vậy, Hải quan Lào đã thu vượt khoảng 7% so với chỉ
tiêu được giao của năm tài chính 2007-2008.

132


Từ năm 2008 đến năm 2009:
- Hỗ trợ Lào trong việc cung cấp thiết bị cho dự án trường Tài chính Đơng
Khăm Xạng: Hải quan Việt Nam, với sự ủy quyền và thực hiện nhiệm vụ của Bộ
Tài chính đã trang bị và cung cấp thiết bị, gồm hai phòng máy vi tính và 52 bộ máy
tính cho Trường Đơng Khăm Xạng.
- Đào tạo: Trong tháng 6/2009, Hải quan Việt Nam tiếp tục cử chuyên gia sang
tổ chức 02 khoá đào tạo về nghiệp vụ hải quan tại Viêng Chăn và Savanakhét cho
cán bộ Hải quan Lào. Với việc thay đổi phương thức đào tạo, kết hợp giữa trao đổi
thông tin với khảo sát thực tế tại cửa khẩu, cán bộ hải quan cửa khẩu tại Lào đã
lĩnh hội được nhiều kết quả thiết thực.
- Tiếp tục hỗ trợ Bạn về tái cơ cấu theo ngành dọc: Hải quan Việt Nam đã cử
02 đoàn chuyên gia sang khảo sát tại một số đơn vị địa phương, cửa khẩu của Hải
quan Lào. Thông qua việc cung cấp thông tin tài liệu để phía Hải quan Lào nghiên
cứu cũng như trao đổi kinh nghiệm khi phía Bạn gặp vướng mắc, cơng tác hỗ trợ
Hải quan Lào trong tái cơ cấu tổ chức đã gặt hái được nhiều kết quả. Cùng với các
nội dung hợp tác khác, hoạt động này đã gắn kết hải quan hai nước lại gần nhau
hơn. Quá trình trao đổi kinh nghiệm đã trở nên chân thành, thẳng thắn và cởi mở,
hướng đến mục tiêu là cùng đi lên và phát triển.
- Hỗ trợ Hải quan Lào xây dựng Dự thảo về quyền sỡ hữu trí tuệ và quản lý rủi
ro. Đây là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chương trình hợp tác.
- Hợp tác kết nghĩa Hải quan Hà Nội và Hải quan Viêng Chăn: Đây cũng là một

nội dung mới đánh dấu một nét phát triển mới trong quan hệ hải quan hai nước.
Hải quan Hà Nội và Hải quan Viêng Chăn đã tiến hành các đoàn khảo sát (04 đoàn)
đào tạo nhằm trao đổi thông tin và kinh nghiệm về nghiệp vụ Hải quan. Đặc biệt,
để phục vụ công tác quản lý Hải quan tại các cửa khẩu của thủ đô Viêng Chăn,
tháng 7/2008, Hải quan Hà Nội đã hỗ trợ cho Hải quan Viêng Chăn một số trang
thiết bị máy móc như: 01 máy chủ HP, 15 máy trạm HP, 12 máy in A4 HP, 01 máy
scan và một số thiết bị mạng LAN… đồng thời, tiến hành đào tạo về quản lý mạng
cho các cán bộ Hải quan Viêng Chăn. Ngoài ra, Hải quan Hà Nội cịn xây dựng

133

Hợp tác tài chính Việt - Lào: Những mốc son trên hành trình phát triển

- Hỗ trợ Hải quan Lào trong công tác tái cơ cấu tổ chức bộ máy theo ngành dọc.
Với sự hỗ trợ của Hải quan Việt Nam, công tác tái cơ cấu tổ chức bộ máy của Hải
quan Lào đã đạt được những kết quả khả quan, phù hợp hơn với xu hướng quốc tế.
Sự thay đổi này đã đưa Hải quan Lào phát triển sang một giai đoạn mới với cách
thức quản lý và điều hành mới.


Sắt son Tài chính Việt - Lào
kế hoạch hỗ trợ Hải quan Viêng Chăn xây dựng hệ thống máy camera kiểm soát
tại sân bay quốc tế Wattay (Viêng Chăn). Mối quan hệ hợp tác giữa hải quan hai
thủ đô đã góp phần làm tăng thêm tình hữu nghị hợp tác giữa hải quan hai nước.
Từ năm 2010-2015:
Tiếp nối những thành quả hợp tác của giai đoạn trước, giai đoạn này, hải quan
hai nước tiếp tục nỗ lực phát triển những hoạt động hợp tác nghiệp vụ và hỗ trợ kỹ
thuật. nhằm duy trì cũng như nâng cao năng lực cán bộ hải quan hai nước. Hoạt
động triển khai mơ hình kiểm tra 1 cửa 1 lần dừng tại cửa khẩu Lao Bảo - Đen
sa vẳn cũng đã bước sang giai đoạn 4 với nhiều kết quả ghi nhận, góp phần đơn

giản hóa thủ tục hải quan tại cửa khẩu biên giới và tạo thuận lợi cho thương mại
hai nước. Chương trình đào tạo, ngồi các nội dung nghiệp vụ đã thực hiện trong
các giai đoạn trước thì giai đoạn này cũng được cập nhật thêm nhiều nội dung mới
như: Quản lý rủi ro, quản lý tn thủ, thơng tin tình báo và điều tra chống buôn
lậu, trao đổi số liệu thống kê, công tác xác minh thông tin... Bên cạnh đó, các hoạt
động trao đổi thơng tin và hỗ trợ hợp tác tại các cửa khẩu biên giới hai nước như
giữa Hải quan Điện Biên (Việt Nam) và Hải quan Vùng I (Lào), Hải quan Thanh
Hóa, Nghệ An, Điện Biên (Việt Nam) và Hải quan Vùng II (Lào), Hải quan Quảng
Trị, Hà Tĩnh và Quảng Bình (Việt Nam) và Hải quan Vùng III (Lào), Hải quan
Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Gia Lai Kon Tum, Quảng Trị (Việt Nam) và Hải
quan Vùng IV (Lào)... tiếp tục tăng cường chặt chẽ cho đến nay. Đặc biệt, trong
khuôn khổ hợp tác hai ngành Tài chính, hải quan hai nước ln gắn kết bền chặt,
không chỉ thông qua các hoạt động hợp tác nghiệp vụ mà còn bằng các hoạt động
giao lưu thể thao văn hóa, tạo nên sự đồn kết gắn bó hữu nghị thân tình.
Xuyên suốt các giai đoạn hoạt động, Hội nghị hợp tác song phương cấp cao
giữa hải quan hai nước thường niên được tổ chức luân phiên tại hai nước đã trở
thành kim chỉ nam cho các hoạt động hợp tác khác. Dưới sự chỉ đạo của Lãnh đạo
Hải quan hai nước, các hoạt động hợp tác nghiệp vụ và hỗ trợ kỹ thuật đã và đang
ngày càng được thúc đẩy mạnh mẽ, hướng đến mục tiêu cải cách và hiện đại hóa.
Có thể thấy, với nỗ lực khơng ngừng của lãnh đạo và cán bộ hải quan hai nước,
mối quan hệ truyền thống hữu nghị tốt đẹp giữa ngành Hải quan hai nước đã được
giữ vững và thắt chặt hơn trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế.
Hợp tác hữu nghị tốt đẹp và bền chặt, hướng tới tương lai

Thực tiễn đã chứng minh rằng, hải quan hai nước, trong khuôn khổ hợp tác

134


Đồng hành trên con đường phát triển thương mại và kinh tế quốc gia, việc triển

khai chương trình cải cách và hiện đại hóa hải quan đã và đang được triển khai
thực hiện bước đầu với mục tiêu hướng đến là thuận lợi hóa thương mại trong xu
hướng chung của hải quan thế giới. Mục tiêu hiện đại hóa hải quan được đưa ra
trong bối cảnh hội nhập sâu rộng khu vực và tồn cầu một lần nữa địi hỏi sự hợp
tác chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau giữa ngành hải quan hai nước.
Trong thời gian tới, trước những biến động phức tạp và khó lường của tình hình
thế giới và yêu cầu phát triển của mỗi nước, hải quan hai nước đã đặt ưu tiên cao
nhất là cùng phấn đấu hỗ trợ, giúp đỡ nhau trongtriển khai chương trình cải cách
và hiện đại hóa hải quan, nâng quan hệ hữu nghị truyền thống giữa ngành Hải quan
hai nước lên nấc thang mới, theo phương châm chất lượng và hiệu quả; góp phần
giữ vững ổn định an ninh xã hội, tăng trưởng kinh tế bền vững, hội nhập ngày càng
sâu rộng, có vị thế trong khu vực và quốc tế.
Tóm lại, quan hệ hợp tác hải quan hai nước là một trong những trụ cột quan hệ
đặc biệt Việt Nam – Lào. Những thành quả qúy giá mà lãnh đạo và cán bộ hải quan
hai nước dày công vun đắp và xây dựng trong suốt những năm tháng qua là minh
chứng sâu sắc, ý nghĩa cho mối quan hệ đặc biệt này. Hy vọng rằng, với tinh thần
luôn “gánh đỡ cho nhau những khó khăn, tạo cho nhau những thuận lợi”, trong
mối quan hệ chung hai nước, hai ngành Tài chính, Hải quan Việt Nam và Lào sẽ
cùng tiếp tục hợp tác hỗ trợ và sẻ chia trên con đường hướng đến hiện đại hóa,
cùng phấn đấu xây dựng và cùng chiến thắng vẻ vang.

135

Hợp tác tài chính Việt - Lào: Những mốc son trên hành trình phát triển

ngành Tài chính hai nước, dưới sự chỉ đạo xuyên suốt của hai Chính phủ, với việc
cùng nhau trải qua các giai đoạn phát triển của lịch sử, đã và đang phát triển mối
quan hệ hợp tác hữu nghị bền vững. Mặc dù đã trải qua nhiều khó khăn và sẽ cịn
gặp nhiều thử thách ở phía trước; hải quan hai nước đang tiếp tục nỗ lực để hỗ trợ
và giúp đỡ lẫn nhau không chỉ dừng lại trong công tác nghiệp vụ hải quan, xác

định mục tiêu chung là hướng đến xây dựng ngành Hải quan hiện đại, minh bạch
và chun nghiệp mà cịn vì mục tiêu chung đảm bảo an ninh quốc gia, sức khỏe
cộng đồng và phát triển kinh tế đất nước.


Sắt son Tài chính Việt - Lào

PHỐI HỢP CHỐNG BN LẬU VÀ GIAN LẬN
THƯƠNG MẠI Ở KHU VỰC BIÊN GIỚI VIỆT – LÀO
Cục Điều tra Chống buôn lậu - Tổng cục Hải quan

Xuất phát từ yêu cầu cần tăng cường phối hợp trong cơng tác kiểm sốt về hải quan trên
tuyến biên giới hai nước, thời gian qua đơn vị Hải quan hai nước Việt Nam và Lào đã
có nhiều hoạt động phối hợp hiệu quả và được đánh giá là rất chặt chẽ, tích cực...

H

ai nước Việt Nam và Lào có đường biên giới dài khoảng 2.340 km
trải dài trên 10 tỉnh của Việt Nam là Điện Biên, Sơn La, Thanh
Hố, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam
và Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh phía Lào là: Phỏng-sả-lỳ, Luổng-pha-bang,
Hủa-phăn, Xiêng-khoảng, Bơ-ly-khăm-xay, Khăm-muồn, Sa-vắn-nạ-khệt, Sả-lạvăn, Sê-kông và Ắt-tạ-pư. Phần lớn tuyến biên giới giữa Việt Nam và Lào đều đi
qua đỉnh hoặc triền núi và rừng rậm nhiệt đới. Giữa hai nước có những dãy núi cao
hình thành một đường biên giới tự nhiên. Một số đèo đã trở thành các cửa khẩu nối
liền hai nước. Đến nay, trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Lào đã có 8 cặp cửa
khẩu quốc tế, 07 cặp cửa khẩu chính và 16 cặp cửa khẩu phụ, còn lại hầu hết là núi
non hiểm trở, đi lại khó khăn. Lợi dụng đặc điểm này, thời gian qua các ổ nhóm,
đối tượng bn lậu giữa biên giới hai nước đã tổ chức nhiều hoạt động buôn lậu,
gian lận thương mại với thủ đoạn ngày càng tinh vi.
Từ năm 2012 đến hết 6 tháng đầu năm 2014, các Cục Hải quan địa phương

của Việt Nam có biên giới tiếp giáp với Lào phối hợp với các cơ quan chức năng
đã bắt giữ 5.146 vụ buôn lậu, gian lận thương mại với trị giá hàng hóa lên tới 60
tỷ đồng. Con số trên đã cho thấy, tình hình bn lậu, vận chuyển hàng hóa trái

136


Tại khu vực cửa khẩu ChaLo (Quảng Bình) vẫn cịn xảy ra một số trường hợp
vi phạm liên quan đến việc vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Đối tượng
vi phạm là lái xe, hành khách qua lại cửa khẩu, mặt hàng là động vật hoang dã
(rùa đá), vũ khí, cơng cụ hỗ trợ, vận chuyển trái phép lâm sản... Tại các cặp cửa
khẩu Cầu Treo - Nậm Phao, Chalo - Na Phàu… nổi lên hiện tượng buôn bán, vận
chuyển trái phép động vật hoang dã (rắn, cầy hương, thằn lằn, nhím, báo, tê tê và
sản phẩm động vật sống gồm thịt, da, xương và các sản phẩm khác) và gỗ. Ngoài
các thủ đoạn truyền thống, các đối tượng buôn lậu gỗ đã lợi dụng hoạt động đầu tư,
hợp tác kinh tế với Lào để buôn lậu gỗ quý từ Lào vào Việt Nam, hầu hết các hợp
đồng mua bán gỗ với cư dân, doanh nghiệp của Lào là các hợp đồng giả.
Tuyến biên giới Việt - Lào cũng là địa bàn trọng điểm về buôn bán, vận chuyển
trái phép các chất ma túy. Các đối tượng trong và ngồi nước câu kết, hình thành
các đường dây, nhóm tội phạm, hoạt động với tính chất, phương thức, thủ đoạn
ngày càng tinh vi, liều lĩnh và manh động, lợi dụng đường biên giới kéo dài, địa
bàn rừng núi hiểm trở để vận chuyển ma túy từ Lào về Việt Nam tiêu thụ. Hoạt
động mua bán, vận chuyển các chất ma túy thường diễn ra vào ban đêm, diễn ra
tại các địa bàn vắng người qua lại, địa bàn giáp ranh giữa biên giới Việt - Lào. Từ
công tác đấu tranh, các nhóm đối tượng trọng điểm và có nguy cơ cao được xác
định, gồm các đối tượng là người dân tộc thiểu số, cư dân biên giới khơng có việc
làm ổn định, thơng thạo ngơn ngữ, địa bàn, có quan hệ với các đối tượng buôn
bán và người Lào; các đối tượng người Lào, người Việt Nam mang quốc tịch nước
ngồi, người nước ngồi có tiền án, tiền sự thường xuyên qua lại biên giới, người
nghiện ma túy, thanh thiếu niên hư hỏng, thất nghiệp có nhu cầu tiêu sài phung phí;

lái xe hoặc chủ xe tải, xe khách thường xuyên qua lại các cửa khẩu…

137

Hợp tác tài chính Việt - Lào: Những mốc son trên hành trình phát triển

phép qua biên giới Việt - Lào diễn ra khá phức tạp. Nổi bật là tình trạng bn lậu
hàng hóa ngoại nhập từ Lào vào Việt Nam tại khu vực cửa khẩu Lao Bảo (Quảng
Trị). Các đối tượng đã sử dụng nhiều phương thức thủ đoạn đưa hàng qua sông
Sê pôn; mang vác hàng dọc hai bên cánh gà cửa khẩu Lao Bảo; dùng thuyền máy
của Lào, chạy dọc sông, chờ thời cơ thuận lợi để chuyển hàng lên bờ, nhập lậu vào
Khu Kinh tế - Thương mại đặc biệt Lao Bảo. Mặt hàng nhập lậu chủ yếu tập trung
ở nhóm hàng tiêu dùng như rượu, bia, thuốc lá điếu, nước giải khát, đường kính
trắng Thái Lan sản xuất, hàng tạp hóa các loại… Cùng với đó, nạn bn lậu mặt
hàng thuốc lá điếu đã tồn tại nhiều năm, gây khó khăn trong cơng tác kiểm sốt
của các lực lượng chức năng. Hàng năm, chỉ riêng lực lượng Hải quan Quảng Trị
đã phát hiện và thu giữ từ 150 đến 200 nghìn gói thuốc lá nhập lậu các loại.


×