Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đường lối cách mạng đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.13 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA
__________*__________

TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Chủ đề : Sự ủng hộ của Nhân dân thế giới đối với Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954
Họ và tên:
Mã sinh viên:
Lớp tín chỉ:
Giảng viên hướng dẫn


MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU..................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................3
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.................................................................3
4. Ý nghĩa đề tài..................................................................................................4
PHẦN 2: NỘI DUNG..............................................................................................4
Chương 1: Tổng quan về cuộc kháng chiến chống thực dân pháp của nước
ta năm 1945-1954..................................................................................................4
1.1. Cơ sở lí luận..............................................................................................4
1.2. Cơ sở thực tiễn............................................................................................4
Chương 2: Sự giúp đỡ của nhân dân thế giới đối với Việt Nam trong kháng
chiến chống Pháp 1945-1954...............................................................................7
2.1. Sự giúp đỡ của các nước đối với Việt Nam..............................................7
Chương 3: Ý nghĩa về sự giúp đỡ của nhân dân thế giới và...........................12
bài học cho Việt Nam..........................................................................................12
3.1. Ý nghĩa sự giúp đỡ của nhân dân thế giới đối với Việt Nam................12


3.2. Bài học và hướng đi cho Việt Nam trong bối cảnh hiện tại.................13
PHẦN 3 : KẾT LUẬN...........................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................15


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân Việt Nam đã nhận
được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ thế giới,
trong đó sự giúp đỡ của nhân dân thế giới có vai trị rất quan trọng. Sự giúp đỡ
của họ đã góp thêm sức mạnh giúp cho nhân dân Việt Nam đánh thắng kẻ thù
xâm lược. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là cuộc chiến tranh
nhân dân chống lại đế quốc Pháp hung hãm và hùng mạnh. Đường lối kháng
chiến của Đảng là kháng chiến trường kì, tự lực cánh sinh, có nghĩa là cuộc
kháng chiến đó phải do nhân dân ta tiến hành, nhân dân ta quyết định, khơng
trơng chờ, ỷ lại bên ngồi. Xuất phát từ bản chất chính nghĩa của cuộc kháng
chiến, từ đường lối đối ngoại đúng đắn, trong những ngày tháng cam go và vô
cùng quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1950 - 1954, nhân
dân Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ to lớn của nhân dân thế giới, nhân dân
thế giới đã giành cho nhân dân Việt Nam sự giúp đỡ về chính trị, tinh thần cũng
như về vật chất để đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi.
Đường lối chiến lược cách mạng là vô cùng quan trọng cho thành công của
một cuộc cách mạng. Có đường lối đúng đắn mới quy tụ được sức mạnh to lớn
nhất chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua muôn vàn thử thách. Trong những
năm tháng trường kỳ kháng chiến của dân tộc, đường lối chiến lược chính là kết
tinh của trí óc, sức mạnh, sự đoàn kết của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.
Sự kết hợp giữa những chính sách kháng chiến cùng với sự kết hợp, tận dụng
mọi thời cơ cách mạng và triệt để sự ủng hộ quốc tế, biến sự ủng hộ của nhân
dân thế giới thành chỗ dựa tinh thần cách mạng đã giúp cho Việt Nam ta toàn
thắng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân dân Pháp năm 19451954.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: làm rõ sự giúp đỡ của nhân dân thế giới đối với Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp (từ năm 1945 đến năm 1954) và ý
nghĩa của sự giúp đỡ đó đối với thắng lợi của nhân dân ta.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài đưa ra nhằm tìm hiểu và cũng như thể hiện sự
trân trọng với những sự ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống thức dân Pháp 1945-1954
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu: Các lĩnh vực nhân dân thế giới giúp đỡ Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Pháp và ý nghĩa của sự giúp đỡ đó.
Phạm vi nghiên cứu: những giúp đỡ của nhân dân thế giới đối với Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954.
4. Ý nghĩa đề tài
Đề taì giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về một nội dung của lịch sử, làm rõ sự
giúp đỡ của nhân dân thế giới và ý nghĩa của sự giúp đỡ đó đối với cách mạng Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945 - 1954.
PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan về cuộc kháng chiến chống thực dân pháp của nước ta
năm 1945-1954
1.1. Cơ sở lí luận
Đường lối kháng chiến của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
năm 1945-1954
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành, bổ sung, hồn chỉnh qua
thực tiễn. Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong Chỉ thị về
kháng chiến kiến quốc, Đảng đã nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của
dân tộc ta là thực dần Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào
chúng.Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Trung ương
Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với

ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam Bộ ra khỏi Việt
Nam. Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng
Tháng Tám, “Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và
độc lập”.
– Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc tạ là một cuộc chiến
tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất tồn
dân, tồn diện và lâu dài”. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải
phóng và dân chủ mới.
– Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân,
thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính.
– Kháng chiến tồn dân: “Bất kỳ đàn ơng đàn bà khơng chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng


lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng
xóm là một pháo đài.
– Kháng chiến tồn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế,
văn hóa, ngoại giao.

1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử và nguyên nhân phát động toàn quốc kháng chiến chống
thực dân pháp
*Hoàn cảnh lịch sử trên thế giới
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời, Đảng đã trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước. Tuy nhiên với
âm mưu thâm độc – thực dân pháp với dã tâm xâm lược nước ta, khó khăn trong
nước chưa được giải quyết thì khó khăn về giặc ngoại xâm ập đến. Với tinh thần
đoàn kết, truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất chống ngoại xâm, nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng nhau đứng lên để Sau chiến tranh thế giới

thứ hai, tình hình thế giới từng bước có những chuyển biến to lớn.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thế giới bước vào thời kì tiền chiến
tranh lạnh. Đó là sự đối đầu về quan hệ giữa hai cường quốc Xô-Mỹ. Liên Xơ
đứng đầu cho phe Xã hội chủ nghĩa, cịn Mỹ đứng đầu phe Tư bản chủ nghĩa. Với
mục tiêu và âm mưu thống trị thế giới, Mỹ ln tìm cách ngăn chặn, tiêu diệt hệ
thống xã hội chủ nghĩa.Ở Đông Âu, nhân dân các nước Anbani, Ba lan, Bungari,
Hungari, Nam Tư, Rumani, Tiệp Khắc đã lần lượt hoàn thành công cuộc cách
mạng dân chủ nhân dân và bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đồng
thời bước vào thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
*Hồn cảnh lịch sử trong nước
Chính quyền cách mạng còn non trẻ mới được thành lập chưa kịp củng cố,
chưa được nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao, cách mạng vẫn ở vào
thế bị cô lập.Thiên tai, nạn lụt lớn làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc Bộ, tiếp theo là nạn hạn
hán kéo dài làm cho hơn một nửa diện tích ruộng đất khơng thể cày cấy được.Ngân
sách kho bạc hầu như trống rỗng, kho bạc nhà nước chỉ có khoảng hơn 1,2 triệu
đồng Đơng Dương, trong đó có một nửa rách nát khơng lưu hành được.
Tàn dư văn hóa lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến để lại hết sức nặng
nề, hơn 90% dân số nước ta bị mù chữ, các tệ nạn xã hội cũ như mê tín dị đoan,


rượu chè, cờ bạc, nghiện hút ngày đêm hoành hành.Hơn một năm đầu sau cách
mạng tháng Tám, cách mạng nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi
tóc”giữ nền độc lập của nước nhà. Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa vừa mới ra
đời đã phải đương đầu với mn vàn khó khăn, thử thách. Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo tồn dân vừa chống thù trong, giặc ngồi, vừa xây dựng và
củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên
vào ngày 6/1/1946, xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (năm 1946); chăm lo xây
dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt và giặc
ngoại xâm. Kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, thực hành sách lược
khơn khéo, lúc thì tạm hịa hỗn với Tưởng để đánh thực dân Pháp xâm lược, lúc

thì hịa với Pháp để đuổi Tưởng, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù,
đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo, tranh thủ thời gian để củng
cố lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến không thể tránh khỏi.
1.2.2. Nguyên nhân phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp
Trái với thiện chí hịa bình của Việt Nam, thực dân Pháp vẫn ngoan cố bám
giữ lập trường thực dân, nuôi hi vọng giành thắng lợi bằng quân sự với dã tâm
cướp nước ta một lần nữa, chúng đã trắng trợn xé bỏ những điều đã cam kết với ta
trong hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946.
Trắng trợn hơn, ngày 18 và 19-12-1946, Pháp còn gửi tối hậu thư buộc chính
phủ ta phải giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, giao quyền kiểm sốt thủ đơ cho
Pháp, chúng đe dọa nếu u cầu đó khơng được chấp nhận thì chậm nhất quân
Pháp sẽ “hành động” vào sáng 20-12-1946.
Những hành động khiêu khích, xâm lược của Pháp đã làm cho nền độc lập,
chủ quyền của nước ta bị đe dọa nghiêm trọng. Chính những hành động gây chiến
của thực dân Pháp là nguyên nhân dẫn tới cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân
dân ta.
1.2.3. Chiến thắng của nhân dân ta trên các chiến dịch với thực dân Pháp
1.2.3.1. Chiến dịch Việt Bắc Thu – đông 1947
Thực hiện chỉ thị của Đảng, trên khắp các mặt trận, nhân dân ta đã anh dũng chiến
đấu tiêu diệt nhiều sinh lực địch, từng bước phá vỡ vòng vây của địch ở nhiều nơi.
Cuộc chiến đấu hơn hai tháng giữa ta và địch đã kết thúc bằng cuộc rút chạy của
đại bộ phận quân Pháp ra khỏi Việt Bắc ngày 19-12-1947. Cơ quan đầu não của ta
được bảo toàn.


Bộ đội chủ lực của ta đã trưởng thành. Chiến dịch Việt Bắc thu-đơng 1947 đã
giáng một địn quyết định chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân
Pháp, buộc chúng phải đánh lâu dài với ta. Đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta
vào giai đoạn mới. Là mốc khởi đầu cho sự thay đổi tương quan, so sánh lực lượng
giữa ta và địch có lợi cho cuộc kháng chiến của ta.

1.2.3.2. Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950
Chiến dịch Biên giới thu-đông 1950 diễn ra từ ngày 16-9-1950 và thắng lợi kết
thúc ngày 22-10-1950. Với chiến thắng này, con đường liên lạc của ta với các nước
XHCN được khai thông; quân đội chủ lực của ta đã trưởng thành về mọi mặt, cơ
quan đầu não của ta được bảo vệ. Sau chiến dịch Biên giới thu-đông 1950, quân ta
giành thế chủ động chiến lược trên chiến trường chính, ngược lại thực dân Pháp
vào thế bị động, đối phó với các đợt tiến cơng của ta.
1.2.3.3. Chiến dịch Điện Biên Phủ
Chiến thắng Điện Biên Phủ làm phá sản hồn tồn kế hoạch Nava, giáng địn quyết
định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh,
tạo cơ sở tực lực đi đến Hiệp định Giơ-ne-vơ, buộc Pháp phải công nhận các quyền
dân tộc cơ bản của ba nước Đông Dương là độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ.
1.2.4. Kết quả, nguyên nhân thắng lợi
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống pháp là nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, với đương lối kháng chiến đúng đắn
sáng tạo. Đường lối kháng chiến tồn dân tồn diện, trường kì, tự lực cánh sinh,
kết hợp hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ phù hợp với điều kiện của đất nước.
Đường lối đó đã phát huy được chỗ mạnh căn bản và khắc phục những nhược
điểm, chuyển thế và lực của nhân dân ta từ yếu sang mạnh.Toàn dân, toàn quân ta
đoàn kết một long, dung cảm trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất, góp
phần vào chiến thắng của dân tộc.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp thắng lợi là nhờ có
hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, mặt trận dân tộc thống nhất
được củng cố và mở rộng, lực lượng vũ trang sớm được xây dựng và không ngừng
lớn mạnh, hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt.


Chương 2: Sự giúp đỡ của nhân dân thế giới đối với Việt Nam trong kháng
chiến chống Pháp 1945-1954

2.1. Sự giúp đỡ của các nước đối với Việt Nam
Cuộc kháng chiến chống pháp của nhân dân ta cùng với cùng với cuộc
kháng chiến của nhân dân Lào, Campuchia, được tiến hành trong liên minh chiến
đấu của nhân dân ba nước chống kẻ thù chung, có sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ
của Liên Xô, Trung Quốc, các nước dân chủ khác, của nhân dân Pháp và nhân loại
tiến bộ trên thế giới.
2.1.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về tận dụng sự ủng hộ quốc tế
Trong tình hình thế giới và trong nước cực kỳ khó khăn như vậy, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Chính phủ đã ra sức hoạt động về ngoại giao, bao gồm cả ngoại
giao nhân dân, để bảo vệ tính hợp pháp của chính quyền cách mạng, với phương
châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, trong hồn cảnh
vơ cùng khó khăn và thiếu thốn, Việt Nam vẫn chủ động triển khai các hoạt động
quốc tế để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tháng 12/1946, Việt Nam gửi Lời kêu gọi đến Liên Hợp Quốc và Hội đồng
Bảo an nêu rõ nguồn gốc và tình hình cuộc chiến tranh ở Đơng Dương và đề nghị
ủng hộ việc vãn hồi hồ bình ở Việt Nam. Ta chủ trương mở rộng quan hệ ngoại
giao cấp chính phủ, tranh thủ sự ủng hộ của các nước châu Á và các nước thuộc địa
Pháp, nhưng trong khi quan hệ nhà nước còn hạn chế, ta đã thúc đẩy các hoạt động
ngoại giao của các đoàn thể nhân dân. Khi các nước Đông Âu trở thành các nước
dân chủ nhân dân, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đẩy mạnh hoạt
động tuyên truyền và tranh thủ dư luận quốc tế. Các đoàn thể dân chủ quốc tế như
thanh niên, cơng đồn, phụ nữ, phong trào hồ bình của các nước này hoạt động
mạnh mẽ. Từ các cơ quan này, các đại diện của Việt Nam thường được cử đi dự
các hội nghị quốc tế.
Từ năm 1948, hoạt động đối ngoại nhân dân của Việt Nam được đẩy mạnh
rõ rệt. Ta đã tham gia Hội nghị Liên hiệp Cơng đồn thế giới ở Milan (Ý), Đại hội
liên hoan thanh niên sinh viên thế giới ở Budapest (Hungari) mùa Hè 1949, Hội
nghị Cơng đồn châu Á - Ơxtrâylia ở Bắc Kinh .
Các Hội hữu nghị của Việt Nam với nhân dân các nước xã hội xã hội chủ

nghĩa cũng được thành lập. Từ cuối năm 1950, chiến thắng biên giới mở rộng
đường ra quốc tế đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động đối ngoại chung của


nước ta, trong đó có đối ngoại nhân dân.Tiếp sau đó, các nước xã hội chủ nghĩa lần
lượt cơng nhận Chính phủ Việt Nam. Một số Hội hữu nghị giữa Việt Nam với mỗi
nước trên cũng được thành lập.
Một trong những định hướng quan trọng của công tác đối ngoại và vận động
quốc tế của ta trong thời kỳ này là đoàn kết với phong trào nhân dân Pháp đấu
tranh cho dân sinh, dân chủ, hồ bình và chống chiến tranh Đông Dương. Thực
hiện chủ trương này, tháng 7/1950, ta đã mời đồng chí Léo Figuères, Ủy viên
Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, nghị sĩ Quốc hội, Tổng thư ký Hội Liên hiệp
sinh viên Pháp, Phó Chủ tịch Liên đồn thanh niên dân chủ thế giới, sang thăm
vùng tự do Việt Bắc. Để làm cho nhân dân Pháp hiểu rõ cuộc đấu tranh chính nghĩa
của nhân dân Việt Nam, và dấy lên phong trào chống chiến tranh ngay trên đất
nước Pháp, Léo Figuères đã viết những bài báo quyết liệt gửi đăng trên các báo ở
Pháp. Phong trào chống chiến tranh ở Pháp ngày càng mạnh mẽ. Từ đó xuất hiện
những người dân tiến bộ Pháp tuyên bố phản đối chiến tranh tại Việt Nam.
2.1.2. Sự giúp đỡ của nhân dân và chính phủ các nước đối với Việt Nam
* Lào và Campuchia
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), khối Liên
minh Nhân dân Việt-Lào-Campuchia được thành lập .Việt Nam - Campuchia - Lào
có cùng nhiệm vụ chống chiến tranh tái chiếm xâm lược thuộc địa của thực dân
Pháp và do đó có q trình giúp đỡ lẫn nhau xây dựng lực lượng kháng chiến, thực
hiện liên minh chống kẻ thù chung, phối hợp tác chiến quân sự làm thất bại các kế
hoạch chiến tranh của Pháp
Khi thực dân Pháp đàn áp khốc liệt phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam,
nhiều cán bộ, đảng viên ở Nam kỳ phải lánh sang Campuchia. Campuchia trở
thành nơi các chiến sĩ cộng sản người Việt vừa hoạt động vừa chuẩn bị những điều
kiện để quay về nước; đồng thời gây ảnh hưởng và hướng Việt kiều cùng một số bộ

phận Nhân dân Campuchia vào con đường đấu tranh cách mạng. Nhân dân
Campuchia tích cực kháng chiến chống Pháp; Việt kiều ở Campuchia cũng tham
gia kháng chiến về mọi mặt; người Khmer ở Việt Nam tích cực tham gia kháng
chiến trên đất nước Việt Nam. Nhân dân ba nước đã tương trợ nhau với lòng thủy
chung son sắt, chân thành, luôn trao đổi kinh nghiệm đấu tranh và hỗ trợ lẫn nhau
chống kẻ thù chung.
Sau khi giành lại được chính quyền, Chính phủ hai nước Việt Nam, Lào đã
ký Hiệp ước tương trợ Lào – Việt và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt,


đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ và liên minh chiến đấu chống kẻ
thù chung của hai dân tộc Việt - Lào. Thời gian này, nhân dân hai nước Việt Nam,
Lào hơn lúc nào hết, chỉ mong muốn được sống trong hịa bình, tiếp tục hợp tác,
cùng nhau bảo vệ nền độc lập và xây dựng lại đất nước. Tuy nhiên, bất chấp
nguyện vọng chính đáng của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, thực dân Pháp
ngang nhiên gây chiến tranh hòng áp đặt lại ách thống trị của chúng ở Đông
Dương. Quân và dân các địa phương vùng giáp ranh biên giới Việt Nam – Lào
phối hợp đánh quân Pháp ở nhiều nơi. Hội Việt kiều cứu quốc ở các tỉnh, thành phố
của Lào động viên, kêu gọi thanh niên tích cực gia nhập lực lượng Liên quân LàoViệt. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, Đại hội
Quốc dân Lào (Mặt trận Lào kháng chiến) họp từ ngày 13 đến ngày 15-8-1950, tại
Tuyên Quang (Việt Nam) quyết định thành lập Chính phủ Kháng chiến Lào, lập
Mặt trận dân tộc thống nhất Lào, tức Neo Lào Ítxala, do Hồng thân Xuphanuvơng
làm Chủ tịch kiêm Thủ tướng Chính phủ. Đại hội đã đề ra Cương lĩnh chính trị 12
điểm, trong đó nhấn mạnh u cầu tăng cường đồn kết quốc tế, trước hết là với
Việt Nam và Campuchia, cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm
lược và can thiệp Mỹ, góp phần bảo vệ hịa bình thế giới.
Như vậy, những năm 1945-1955, sự phối hợp, giúp đỡ, liên minh đoàn kết
chiến đấu giữa Việt – Lào, Lào- Việt đã góp phần đưa lại những thắng lợi căn bản
cho sự nghiệp cách mạng của hai nước, tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của mối quan hệ liên minh, đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào trong những

năm tiếp theo của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp, Lào và Campuchia đã
giúp đỡ, kết hợp với Việt Nam cả về mặt chính trị cũng như quân sự. Nhân dân Lào
và Campuchia đã cùng Việt Nam kết hợp tạo thành liên minh ba nước Đông
Dương vững mạnh, phản đổi chiến tranh do thực dân Pháp gây ra.
*Trung Quốc
Sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, mặc dù cịn khó khăn về mọi
mặt nhưng Trung Quốc đã dành cho cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta
viện trợ thiết thực. Qua hội đàm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với lãnh đạo Trung
Quốc sau khi từ Matxcova trở lại Bắc Kinh, Trung Quốc đồng ý để Quảng Tây là
nơi tiếp nhận viện trợ, chữa trị thương binh và mở trường đào tạo cho Việt Nam.
Từ đó, viện trợ của Trung Quốc đã một góp phần khơng nhỏ trong việc làm thay
đổi cục diện chiến tranh ở nước ta. Trung Quốc cũng nhanh chóng chở vũ khí sang
Cao Bằng để trang bị tiếp cho hai trung đồn khác đang phải đối phó với quân địch


trên chiến trường. Để giải quyết đảm bảo hậu cần của bộ đội Việt Nam trên đất
Trung Quốc và tăng cường công tác vận chuyển vật tư viện trợ Việt Nam, ngày 68-1950, Tổng cục Hậu cần Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã thành lập văn
phòng ở Nam Ninh. Ngồi ra, cịn có hai Tiểu đồn cơng binh và trường sĩ quan
lục quân sang học tập, huấn luyện tại Trung Quốc. Những đơn vị sang Trung Quốc
ngoài việc trang bị lại vũ khí cịn được huấn luyện thêm về chiến thuật, đặc biệt là
kỹ thuật đánh bộc phá. Nhờ có sự giúp đỡ của Trung Quốc, trang bị vũ khí của
quân đội ta được cải thiện đáng kể. Tính đến tháng 6-1950, số cán bộ sang Trung
Quốc học tập là 3.100 người (trong đó 650 cán bộ học bổ túc trung và sơ cấp,
1.200 học đào tạo, chỉ huy bộ binh sơ cấp, còn lại học về binh chủng như pháo
binh, công binh...
Theo thống kê của Việt Nam, cho đến hết năm 1950, chúng ta đã tiếp nhận
của Trung Quốc 3.983 tấn hàng viện trợ, trong đó có 1.020 tấn súng đạn (kể cả số
súng đạn các đơn vị bộ đội Việt Nam sang Trung Quốc huấn luyện rồi đem về
nước), 161 tấn quân trang, 20 tấn thuốc và dụng cụ quân y, 71 tấn hàng quân giới,

30 xe vận tải Mô lô tô va, 2.634 tấn gạo. Số hàng viện trợ này tuy chỉ chiếm 18,5%
tổng số vật chất mà quân ta sử dụng trong năm 1950 nhưng đã góp phần trang bị và
làm tăng sức mạnh chiến đấu của một số đơn vị chủ lực trên chiến trường chính
Bắc Bộ. Tuy nhiên, viện trợ vũ khí cho ta gặp nhiều khó khăn do Trung Quốc đã
đưa quân tình nguyện sang chiến đấu ở Triều Tiên. Nguồn vũ khí của quân ta lúc
này một phần dựa vào Trung Quốc nhưng phần chủ yếu vẫn là lấy của địch và
trong nước tự sản xuất. Trong hai năm 1951-1952, viện trợ của các nước XHCN,
trong đó có Trung Quốc cho Việt Nam được duy trì thường xuyên và tương đối đều
đặn.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta cũng nhận được sự giúp đỡ quý
báu của Trung Quốc. Trung Quốc đã chi viện cho chiến dịch 3.600 viên đạn pháo
105 ly, đó là số đạn đi theo 24 khẩu pháo viện trợ đưa về Việt Nam từ cuối năm
1953, chiếm 18% tổng số đạn pháo sử dụng trong chiến dịch. Trong những ngày
cuối chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung Quốc cịn giúp thêm một tiểu đồn DKZ
75mm và 12 dàn hỏa tiễn (cachiusa) 6 nòng. Đây là hỏa lực mạnh nhất mà ta có
được lúc bấy giờ và kịp thời tham gia đợt tổng cơng kích cuối cùng diễn ra chiều
ngày 6-5-1954, phát huy tác dụng rất lớn.
Viện trợ lương thực của Trung Quốc cũng góp phần giải quyết khó khăn về
lương thực cho các chiến dịch của ta. Vì vậy, trong chiến dịch Điện Biên Phủ,
lương thực chủ yếu được huy động từ trong nước, chúng ta chỉ còn nhờ Trung
Quốc giải quyết 1.700 tấn gạo, chiếm 6,52% tổng nhu cầu.


Thực hiện nhiệm vụ của Đảng, Chính phủ Trung Quốc giao phó, các cố vấn quân
sự Trung Quốc đã sát cánh cùng quân ta trong suốt cuộc kháng chiến. Cố vấn quân
sự Trung Quốc đã giúp quân đội ta về công tác chỉ huy tham mưu, về huấn luyện
quân sự và truyền đạt những kinh nghiệm của Quân giải phóng Trung Quốc.
*Liên Xô
 Liên Xô công nhận Việt Nam, giúp vũ khí, trang bị chiến đấu chống thực
dân Pháp xâm lược

Sự kiện Liên Xô công nhận Việt Nam, hai nước đặt quan hệ ngoại giao có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, đặt cơ sở nền tảng cho quan hệ hợp tác tồn diện giữa
hai nước, phù hợp với lợi ích của nhân dân Việt Nam, Liên Xô, được dư luận tiến
bộ trên thế giới đồng tình, ủng hộ, tạo điều kiện để các nước khác công nhận Việt
Nam trên trường quốc tế, chấm dứt thời kỳ cuộc kháng chiến ở thế bị bao vây, mở
ra cơ hội thực tiễn trong việc phối hợp hành động và nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ
của quốc tế một cách trực tiếp.
Bên cạnh sự ủng hộ Việt Nam về chính trị, ngoại giao như: đề xuất Việt Nam
tham gia Hội đồng kinh tế châu Á - Viễn Đông (2-1951), đề nghị kết nạp Việt Nam
vào Liên Hợp quốc (9-1952), đề nghị cho Việt Nam tham dự Hội nghị Giơnevơ
bàn về giải quyết chiến tranh Đơng Dương (2-1954)..., Liên Xơ cịn quyết định
viện trợ (thông qua Trung Quốc) về vật chất cho cuộc kháng chiến.
Ngay sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao, Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam
một số xe vận tải hiệu Mơlơtơva, súng cao xạ phịng khơng 37 ly và thuốc quân y.
Những xe vận tải của Liên Xô đã góp phần chở vũ khí, đạn dược và lương thực
cho các đơn vị tham gia chiến dịch Biên Giới Thu Đông năm 1950. Trong tổng số
21.517 tấn hàng mà Việt Nam được quốc tế viện trợ từ tháng 5-1950 đến tháng 61954, tổng trị giá 54 triệu rúp, thì Liên Xơ đã giúp tồn bộ pháo cao xạ 37 ly gồm
76 khẩu, một tiểu đồn hỏa tiễn 6 nịng (cachiuxa) gồm 12 dàn, toàn bộ số lượng
tiểu liên K50, hầu hết số xe vận tải quân sự (685/745 chiếc) và một số lượng lớn
thuốc quân y, chủ yếu là thuốc ký ninh để chữa bệnh sốt.ét(1). Bên cạnh việc đề
nghị các loại vũ khí, đạn dược cụ thể, Việt Nam cịn đề nghị Liên Xơ nhận đào tạo
cho hàng trăm du học sinh Việt Nam để phục vụ công cuộc kháng chiến và kiến
quốc
Những vũ khí, trang bị mà Liên Xơ viện trợ đã góp phần quan trọng vào thắng
lợi của các chiến dịch tiến công quân sự của Việt Nam mở trên chiến trường chính
Bắc Bộ, từ chiến dịch Biên Giới Thu Đông 1950; ba chiến dịch Trung Du, Đường


18, Hà Nam Ninh nửa đầu năm 1951 đánh vào trung du, đồng bằng Bắc Bộ, nơi
quân Pháp và quân đội của Bảo Đại đang đóng giữ; chiến dịch tiến cơng Hịa Bình

Đơng Xn 1951-1952; chiến dịch Tây Bắc Thu Đông 1952; chiến dịch Thượng
Lào Xuân Hè 1953; đặc biệt là các hoạt động tác chiến trong Đông Xuân 19531954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Trong bối cảnh Việt Nam chưa chế tạo, sản xuất được những vũ khí, trang bị
như vậy thì viện trợ qn sự của Liên Xơ có ý nghĩa to lớn, giúp các đơn vị bộ đội
Việt Nam đương đầu với vũ khí, trang bị của Pháp, Mỹ, bắn.ơi máy bay, bắn cháy
xe tăng, tàu chiến, phá hủy công sự vững chắc bằng bê tơng cốt thép của kẻ thù,
giành thắng lợi.
*Ngồi ra, Việt Nam còn nhận được rất nhiều sự ủng hộ và phản đối chiến tranh từ
các nước dân chủ khác, của nhân dân Pháp và nhân loại tiến bộ trên thế giới. Cịn
có hàng triệu người dân Pháp tiến bộ, u chuộng hịa bình đã tham gia vào các
hoạt động ủng hộ cuộc chiến tranh chính nghĩa của Việt Nam bằng nhiều hình thức
để Việt Nam sớm giành được độc lập, thống nhất đất nước.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Việt Nam nhận được rất nhiều sự
ủng hộ của nhân dân thế giới và sự viện trợ từ các nước Xã hội Chủ nghĩa. Đó
chính là niềm vinh hạnh và biết ơn của Việt Nam đỗi với nhân dân quốc tế u hịa
bình và phản đối chiến tranh thực dân Pháp gây ra tại Việt Nam.
Chương 3: Ý nghĩa về sự giúp đỡ của nhân dân thế giới và
bài học cho Việt Nam
3.1. Ý nghĩa sự giúp đỡ của nhân dân thế giới đối với Việt Nam
Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào,
Campuchia cùng chống một kẻ thù chung; đồng thời có sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn
của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc u chuộng hịa
bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp đã giúp Việt Nam thắng lợi hoàn
toàn trước thực dân Pháp.
Sức mạnh của đoàn kết quốc tế góp phần làm nên thắng lợi lịch sử của Việt Nam.
Đối với nhiều người dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, những người bạn quốc
tế ln đồng hành ủng hộ Việt Nam, cuộc chiến tranh chính nghĩa của Việt Nam
khơng dừng lại ở mục tiêu chính trị đơn thuần mà đã vượt lên trở thành tiếng nói
của chính nghĩa, sức mạnh của cuộc chiến đấu vì lương tri, phẩm giá của con
người, có giá trị thức tỉnh nhân loại tiến bộ. Với ý nghĩa đó, chưa ở đâu và chưa

bao giờ trong lịch sử thế giới, phong trào đồn kết vì một quốc gia lại có sức mạnh
đến như thế. Phong trào đồn kết đó cũng đã buộc các chính phủ châu Âu, lúc đó


phần lớn đi theo Pháp trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phải xem xét lại thái độ
của mình, ngày càng bớt ủng hộ Pháp và thúc giục Pháp đi vào giải pháp hịa bình.
Phong trào đó đã tạo ra sức ép lớn trực tiếp đối với chính quyền Pháp khi dấy lên
các cuộc biểu tình với khẩu hiệu “Hãy đem chiến tranh về trong nước” diễn ra trên
qui mô lớn khiến Pháp nhiều lần thông qua nghị quyết cắt giảm chi phí chiến tranh,
địi rút qn về nước. Từ phong trào đấu tranh vì hịa bình cho Việt Nam, nhiều
người đã trưởng thành về chính trị và giữ những cương vị cao trong bộ máy nhà
nước châu Âu. Đây cũng là đóng góp của cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt
Nam vào phong trào hịa bình và cách mạng thế giới.
Sự ủng hộ quốc tế giúp Việt Nam thực hiện đường lỗi chính sách một cách thuận
lợi hơn, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vị thế của nước ta ngày
càng được nâng cao trên trường quốc tế, đạt nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh
vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Điều này một lần nữa khẳng định, trong
bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử, nếu nhận thức đúng và nắm bắt được xu thế phát
triển, các dòng chảy của cách mạng thế giới, gắn mục tiêu đấu tranh của nhân dân
ta với các quốc gia, dân tộc trên thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội, thì sẽ tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới; ngược lại với xu thế trên, sẽ khó thành cơng. Sự ủng
hộ của nhân dân thế giới là nền tảng và yếu tố quan trọng làm nên thành công của
một cuộc kháng chiến trường kỳ.
3.2. Bài học và hướng đi cho Việt Nam trong bối cảnh hiện tại
Thắng lợi mà nhân dân Việt Nam giành được trong những năm chiến tranh chống
Pháp 1045-1954 là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc
Việt Nam. Thắng lợi đó đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc
lập, tự do, thống nhất và CNXH, đứng vào hàng ngũ các quốc gia, dân tộc tiên
phong trên thế giới. Đó là chiến thắng của đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ,

đồng thời tranh thủ tối đa sự đoàn kết, ủng hộ của quốc tế; vừa phát huy sức mạnh
dân tộc, vừa phát huy sức mạnh thời đại. Chính vì vậy, để có thể nhận được sự ủng
hộ đơng đảo từ nhân dân quốc tế, Việt Nam ta cần có các chính sách, chiến lược rõ
ràng nhằm xây dựng và phát triển, bảo vệ tổ quốc.
- Đảng ta cần nắm bắt xu thế vận động, phát triển của thời đại, chủ động khai
thông với thế giới, làm cho bầu bạn quốc tế quan tâm, hiểu và ủng hộ Việt Nam,
nâng cao uy tín và ảnh hưởng quốc tế của cách mạng Việt Nam, phát triển trong
liên minh, hợp tác trong đấu tranh.


- Việt Nam cần tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ mạnh mẽ, hiệu quả
của quốc tế trên cơ sở nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh tổng
hợp toàn dân tộc.
- Trong q trình tồn cầu hố, chủ quyền quốc gia đứng trước những thách thức
mới, do vậy, vấn đề cơ bản có ý nghĩa chiến lược là phải tập trung mọi nỗ lực để
xây dựng, củng cố, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia .
- Ta cần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo,
linh hoạt, sáng tạo về biện pháp.
- Đảng và Nhà nước cần tận dụng thời cơ, chủ động mở rộng và phát triển quan
hệ với tất cả các nước, tạo ra lợi ích đan xen trong quan hệ với các nước, các tổ
chức quốc tế, các đảng cộng sản và đảng cầm quyền trên thế giới trên cơ sở tôn
trọng chủ quyền, sẵn sàng hợp tác trong sự bình đẳng, hữu nghị, cùng có lợi .
-Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, mở rộng quan hệ quốc tế, phát huy nội lực,
đồng thời khai thác ngoại lực để phát triển đất nước.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến và đổi mới, Việt Nam cần thiết lập quan hệ
ngoại giao bình đẳng với hầu hết các nước. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hịa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế được thực hiện nhất quán. Việt Nam đã và đang
dần trở thành một trong những nhân tố, những dữ kiện mà các nước lớn phải tính

đến khi hoạch định chiến lược và chính sách đối ngoại. Trên các diễn đàn quốc tế,
tiếng nói của Việt Nam góp phần tích cực cùng các nước giải quyết những vấn đề
của cộng đồng quốc tế vì mục tiêu hịa bình, độc lập, ổn định và tiến bộ xã hội.
PHẦN 3 : KẾT LUẬN
Như vậy, đã hơn nửa thế kỉ trôi qua nhưng những giá trị lịch sử của của đường lối
chống Pháp và can thiệp Mỹ từ năm 1945 đến năm 1954 vẫn còn nguyên giá trị.
Giá trị đó là kết tinh to lớn của trí óc tập thể, của tồn Đảng tồn qn và toàn dân
ta trong thực tiễn, nhất là trong những tháng năm đầy gian khổ, hào hùng, hi sinh
vĩ đại. Rõ ràng, đường lối là vấn đề quan trọng, nhân tố quyết định sự đúng đắn
của lãnh đạo, phát triển cách mạng. Sự giúp đỡ của nhân dân quốc tế đối với kháng
chiến chống Pháp của Việt Nam đã giúp chúng ta chiến thắng vang dội, đồng thời
khảng định vị thế của một nước Việt Nam cộng hòa xã hội chủ nghĩa trên trường
quốc tế. Sự giúp đỡ, ủng hộ đó là những điều đáng trân trọng mà người dân Việt


Nam đời đời nhơ ơn. Sự nghiệp thống nhất đất nước và công cuộc Đổi mới đầy
thắng lợi, vẻ vang của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng với đường lối đầy
sáng suốt là minh chứng tiêu biểu cho sự cần thiết có một đường lối chuẩn mực,
đúng đắn. Để xây dựng đất nước ngày một phát triển cần có một đường lối rõ ràng,
sáng tạo, phù hợp với quy luật khách quan của tiến trình lịch sử, có chọn lọc tiếp
thu tinh hoa của thời đại, nhìn nhận tình hình trong nước và thế giới thấu đáo để
đưa đất nước ta thực sự trở thành nước dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Sự ủng hộ của bạn bè quốc tế là nguồn sức mạnh to lớn giúp Việt
Nam vượt qua khó khăn, thoát khỏi chiến tranh và là tấm gương cho các dân tộc bị
áp bức vùng lên đòi tự do dân tộc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh (1996), tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 313
2. Hồ Chí Minh (1996), tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr319
3. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr 102

4. Ban Nghiên cứu lịch sử quân sự, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam : Lịch sử quân
sự nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, H, 1999, t.1, tr.90
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb chính trị quốc
gia, H.2000, tr.316
6. Tìm hiểu một số điểm mới về đường lối, chính sách đối ngoại trong văn kiện Đại
hội X của Đảng, Tạp chí Cơng tác Tư tưởng Lý luận, tháng 9-2006.
7. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 66.
8. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006, tr 112.
9. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.441.
10. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996, tr74, 84.



×