1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thơng tin ngày nay được xem như một nguồn lực quan trọng để phát
triển kinh tế - xã hội đất nước. Sự phát triển của thế giới trong những thập
niên gần đây cho thấy vai trị ngày càng tăng của thơng tin trong quá trình
biến đổi khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Thành công hay thất bại
của một quốc gia tuỳ thuộc rất lớn vào khả năng chiếm được lợi thế thông tin.
Thiếu thông tin, các quyết định sẽ bị sai lệch, thiếu cơ sở khoa học, không
thực tiễn và trở nên kém hiệu quả. Chính V.I. Lê nin đã từng khẳng định
“khơng có thơng tin thì khơng có thắng lợi trong bất cứ lĩnh vực nào, cả khoa
học, kỹ thuật và sản xuất”.
Truyền hình là một trong những phương tiện thơng tin đại chúng có tác
động mạnh mẽ và sâu rộng nhất, đang ngày càng trở thành nhu cầu thiết yếu
trong đời sống xã hội, là công cụ để điều hành, quản lý đất nước; là phương
tiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình; là cầu nối giữa Đảng với
dân, dân với Đảng; là nguồn cung cấp tri thức một cách tương đối tồn diện
cho cơng chúng, là tiếng nói của Việt Nam với bạn bè quốc tế, phấn đấu cho
một thế giới hồ bình, là phương tiện trong việc mở rộng sự giao lưu, hiểu
biết giữa các quốc gia, dân tộc.
Nằm trong hệ thống các cơ quan thuộc UBND tỉnh Ninh Bình, Đài
PTTHNB là một ĐVSN thực hiện chức năng thơng tin tun truyền, góp phần
nâng cao dân trí và phục vụ nhu cầu giải trí của nhân dân trong tỉnh. Cũng
như các ngành kinh tế - kỹ thuật khác, Đài PTTHNB đã trải qua các giai đoạn
thăng trầm cùng với quá trình phát triển của tỉnh. Từ khi thành lập tỉnh đến
nay, Đài PTTHNB đã có những bước phát triển đột phá cả về quy mơ và chất
lượng chương trình. Kết quả đó có phần đóng góp rất lớn của những đổi mới
trong quản lý tài chính ở đài. Cụ thể như sau:
2
Trong giai đoạn trước năm 2001, mặc dù đất nước đã trải qua nhiều
năm đổi mới nhưng đối với hoạt động truyền hình, khái niệm hạch tốn thu,
chi vẫn cịn xa lạ. Đổi mới dường như chỉ là của các đơn vị kinh doanh, cịn
truyền hình được coi là một hoạt động đặc biệt, thuộc độc quyền nhà nước, vì
thế vẫn được hưởng cơ chế tài chính bao cấp đặc biệt của nhà nước. Với cơ
chế bao cấp đặc biệt đó, sau gần 15 năm thành lập, Đài PTTHNB vẫn chỉ phát
sóng 2 giờ một ngày và chủ yếu là tiếp phát các chương trình truyền hình
trung ương.
Năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định 43/2006/NĐ-CP quy định
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối
với ĐVSN cơng lập. Theo quy định này, Đài PTTHNB được nhà nước giao
toàn bộ quyền và trách nhiệm trong việc quản lý sử dụng các nguồn kinh phí
do nhà nước cấp (kinh phí thường xuyên), được chủ động trong việc khai
thác, thu hút các nguồn lực tài chính để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đổi
mới nâng cao chất lượng chương trình, tăng thời lượng phát sóng cũng như
đảm bảo quyền lợi, nâng cao đời sống, thu nhập cho người lao động. Cơ chế
quản lý tài chính này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn và động lực lớn hơn cho
đài phát triển, song cũng đặt ra nhiều vấn đề mới mà đài phải giải quyết. Đó là
làm thế nào để sử dụng nguồn tài chính có hiệu quả, tăng các khoản thu sự
nghiệp, tiết kiệm chi và huy động được ngày càng nhiều các nguồn lực tài
chính khác để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, đồng thời tăng
thu nhập cho người lao động... Tuy nhiên, thực tế cho thấy Đài PTTHNB còn
lúng túng, bộc lộ một số hạn chế trong quản lý tài chính khiến cho hiệu quả
đạt được chưa tương xứng với tiềm năng cũng như kế hoạch phát triển sự
nghiệp chung của đài.
Thực tế nói trên địi hỏi phải nghiên cứu tìm giải pháp để quản lý tài
chính ở Đài PTTHNB thích ứng cơ chế quản lý tài chính mới đối với các
ĐVSN ở nước ta hiện nay.
3
Với lí do đó, đề tài “Quản lý tài chính ở Đài Phát thanh và Truyền
hình Ninh Bình” có ý nghĩa thực tiễn thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lí tài chính ở các ĐVSN nhà nước trong điều kiện nước ta đẩy
mạnh xây dựng kinh tế thị trường, hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh
tế thế giới được nhiều nhà khoa học và quản lí quan tâm nghiên cứu cứu. Đến
nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này với các thể loại như
sách tham khảo, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, các bài viết đăng trên các
tạp chí, các bài tham luận tại hội thảo khoa học... Dưới đây là một số cơng
trình trong số đó:
- Luận văn thạc sỹ “Quản lý tài chính ở đại học Đà Nẵng - Thực trạng
và giải pháp hoàn thiện” của tác giả Đỗ Văn Nhân, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
- Luận văn thạc sỹ “Đổi mới quản lý tài chính ở các ĐVSN thuộc Thông
tấn xã Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thanh Quang, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2006.
- Luận văn thạc sỹ “Hồn thiện quản lý tài chính ở trường Đại học Phòng
cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay” của tác giả của Phạm Văn Năm, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007.
- “Mở rộng hơn nữa quyền tự chủ đối với các ĐVSN” của tác giả
Huỳnh Thị Nhân, Tạp chí tài chính số 1/2005.
- Một số vấn đề về đổi mới lĩnh vực sự nghiệp (Đỗ Quốc Sam, http://
www.irv.moi.gov.vn, ngày 2/03/2006).
- Trao quyền tự chủ rộng hơn cho ĐVSN (bài trả lời phỏng vấn ơng
Huỳnh Quang Hải, Vụ trưởng vụ Hành chính - Sự nghiệp, Bộ Tài chính,
, ngày 09/03/2006).
- Hội thảo “Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các
cơ quan hành chính nhà nước và ĐVSN cơng giai đoạn 2004 - 2005” (Bộ Tài
4
chính phối hợp với Dự án VIE 01/024/B-Bộ Nội vụ và các bộ ngành trung
ương và các địa phương tổ chức, ).
- Mỗi năm chuyển khoảng 20 - 25% số ĐVSN sang tự chủ tài chính
(Xuân Quang, ).
- Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm tra kế toán,
kiểm soát nội bộ ở các ĐVSN, Bùi Yến Linh, nội san Nghiên cứu khoa học số
49 của Tạp chí Kế tốn.
Các cơng trình nói trên đã tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau và đã
đề cập đến nhiều khía cạnh về đổi mới và hồn thiện cơ chế quản lý, nguồn tài
chính và quản lý tài chính nói chung đối với các ĐVSN. Tuy nhiên, cho đến
nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt và hệ thống về
quản lý tài chính ở Đài PTTHNB
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về quản lý tài chính ở các ĐVSN, thực trạng quản lý tài chính ở Đài
PTTHNB hiện nay, đề tài đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính ở
Đài PTTHNB phù hợp với tiến trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với
các ĐVSN ở nước ta, bảo đảm các yêu cầu chi tiêu, góp phần thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ được giao.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên, đề
tài tập trung thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản
về quản lý tài chính ở các ĐVSN trong điều kiện hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý tài chính ở Đài PTTHNB, chỉ
ra những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý tài chính ở
Đài PTTHNB trong những năm tới.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý tài
chính ở Đài PTTHNB.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng được thực hiện cho giai
đoạn 2006-2010. Các phương hướng và giải pháp được đề xuất cho giai đoạn
2011-2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn dựa
trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, sử dụng tổng hợp một số
phương pháp như thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp, tổng kết thực
tiễn… Ngồi ra, luận văn cũng kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình
nghiên cứu liên quan, đồng thời dựa vào các chủ trương, đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về quản lý tài chính đối với các ĐVSN và quản lí
kinh tế, xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quản lý tài
chính ở các ĐVSN phù hợp với điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Đưa ra được bức tranh tương đối toàn diện về thực trạng quản lý tài
chính ở Đài PTTHNB hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý tài chính ở
Đài PTTHNB hướng tới mục tiêu tự chủ tài chính và nâng cao chất lượng
chương trình phát thanh và truyền hình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu với 3 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
Ở CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
1.1. TÀI CHÍNH VÀ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH Ở CÁC ĐƠN VỊ SỰ
NGHIỆP
1.1.1. Tài chính và đặc điểm của tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm và bản chất của tài chính
+ Khái niệm tài chính
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sự xuất hiện của sản xuất
hàng hóa và các quan hệ tiền tệ đã làm thay đổi căn bản lĩnh vực phân phối
của cải xã hội, đó là từ phân phối bằng hiện vật sang phân phối dưới hình thức
giá trị. Trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa tiền tệ thì hình thức tiền tệ đã trở thành
hình thức chủ yếu của thu nhập, chi tiêu của nhà nước và các chủ thể khác
trong việc tạo lập, sử dụng các quỹ tiền tệ. Hay nói cách khác, mọi hoạt động
của đời sống xã hội, từ hoạt động sản xuất, hoạt động khoa học kỹ thuật, hoạt
động văn hóa nghệ thuật đến hoạt động chính trị, tơn giáo... đều chịu sự chi
phối của tiền tệ và sự vận động của tiền tệ. Chính trong q trình vận động
của tiền tệ, khi gắn với hoạt động của các chủ thể kinh tế - xã hội đã làm nảy
sinh phạm trù tài chính cũng như các quan hệ tài chính trong xã hội. Ngồi ra,
khi nhà nước xuất hiện, tài chính cịn tồn tại với tư cách là một công cụ thể
hiện quyền lực. Hơn thế, để tồn tại và phát triển cũng như để thực hiện chức
năng quản lý xã hội một cách toàn diện, nhà nước ở mọi quốc gia, ở mọi thời
kỳ đều phải thông qua tài chính để thực hiện phân phối của cải xã hội, điều
tiết một phần thu nhập của các thành phần kinh tế, giám sát toàn bộ hoạt động
của quốc gia đó... Như vậy, tài chính là một phạm trù kinh tế khách quan, nó
7
chỉ ra đời và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định. Theo C.Mác, có
hai tiền đề mang ý nghĩa quyết định và định hướng cho sự tồn tại, phát triển
của tài chính, đó là sản xuất hàng hóa - tiền tệ và nhà nước.
Khi kinh tế hàng hố tiền tệ ngày càng phát triển thì thuật ngữ tài chính
càng trở nên phổ biến. Một số nhà kinh tế cho rằng tài chính là phạm trù kinh
tế, phản ánh các mối quan hệ phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị,
phát sinh trong quá trình hình thành, tạo lập, phân phối các quỹ tiền tệ của các
chủ thể trong nền kinh tế nhằm đạt mục tiêu của các chủ thể ở mỗi điều kiện
nhất định. Một số quan điểm lại cho rằng, tài chính là hệ thống các quan hệ
kinh tế biểu hiện trong lĩnh vực hình thành và phân phối quỹ tiền tệ trong nền
kinh tế quốc dân nhằm xây dựng và phát triển xã hội.
Có nhiều khái niệm về tài chính, nhưng khái niệm về tài chính dưới đây
cho phép chúng ta nhìn nhận đầy đủ, tồn diện về tài chính:
Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ
thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy
sinh trong phân phối các nguồn tài chính thơng qua việc tạo lập hoặc
sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các
chủ thể trong xã hội [22].
+ Bản chất của tài chính
Từ những biểu hiện bên ngồi của tài chính như việc thu, chi bằng tiền,
sự vận động của các nguồn tài chính hay sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
của các chủ thể trong xã hội, có thể thấy bản chất bên trong của tài chính, đó
là các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình phân phối các nguồn
tài chính, phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Các quan hệ kinh tế
đó được gọi là quan hệ tài chính và chúng chịu sự ràng buộc bởi bản chất của
quan hệ sản xuất xã hội, mà đặc trưng cơ bản là các quan hệ về sở hữu tư liệu
sản xuất [22].
8
Việc xác định đúng đắn quan niệm tài chính và bản chất tài chính có
ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Điều đó tạo cơ sở cho việc
vận dụng các quan hệ tài chính tồn tại khách quan để quyết định chính xác
các chính sách tài chính, đồng thời thơng qua các chính sách tài chính để
tổ chức các quan hệ tài chính nhằm sử dụng tài chính để tác động tích cực
tới các hoạt động và các quan hệ kinh tế xã hội theo các phương hướng đã
xác định.
1.1.1.2. Đặc điểm của tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
Ở Việt Nam, ĐVSN được xác định là loại hình đơn vị hoạt động trong
lĩnh vực giáo dục, khoa học - cơng nghệ, văn hóa - nghệ thuật, phát thanh, truyền
hình, y tế, thể dục thể thao... khơng nhằm mục đích lợi nhuận, do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thành lập. Các đơn vị này được nhà nước đầu tư cơ sở vật
chất, bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên để thực hiện nhiệm vụ chính trị,
chun mơn được giao; và ngồi ra, cịn được phép thu một số khoản phí, lệ phí
theo quy định thông qua hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ.
Có thể nói, khi đời sống kinh tế ngày càng được cải thiện thì nhu cầu về
tăng cường dân trí, nâng cao thể chất cũng như đời sống tinh thần của người
dân ngày càng lớn. Chính vì vậy, theo lộ trình đổi mới, phù hợp với xu hướng
cải cách khu vực công trong bối cảnh hội nhập, nhà nước đã giành nhiều quan
tâm và có những bước đi thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
các đơn vị hành chính, sự nghiệp để đem lại cho người dân chất lượng dịch vụ
tốt nhất. Nếu như trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nhà nước
bao cấp phần lớn cho các khoản chi cho giáo dục đào tạo, y tế, khoa học cơng
nghệ, văn hóa, thơng tin, phát thanh, truyền hình... thì khi chuyển sang cơ chế
mới, các hoạt động sự nghiệp kể trên đã chuyển sang loại sự nghiệp có thu,
nhà nước bảo đảm một phần hay tồn bộ chi phí hoạt động tùy thuộc nguồn
thu tự bù đắp của đơn vị nhiều hay ít. Bởi vậy, hiện nay, ĐVSN được chia
thành 3 loại:
9
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm tồn bộ chi phí hoạt động
thường xun (gọi tắt là ĐVSN tự bảo đảm chi phí hoạt động), là đơn vị có
nguồn thu sự nghiệp bù đắp tồn bộ chi phí hoạt động thường xun, nhà nước
khơng phải cấp kinh phí đảm bảo hoạt động thường xuyên cho đơn vị.
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động
thường xuyên (gọi tắt là ĐVSN tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động), là đơn
vị có nguồn thu chưa tự trang trải tồn bộ chi phí hoạt động thường xun,
NSNN cấp một phần chi phí hoạt động thường xuyên cho đơn vị.
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp, ĐVSN khơng có nguồn thu, kinh
phí hoạt động do NSNN bảo đảm toàn bộ (gọi tắt là ĐVSN do NSNN bảo
đảm toàn bộ chi phí hoạt động).
Với những lí do đó, tài chính của ĐVSN có những đặc điểm sau đây:
- Gắn với đặc điểm hình thành (do cơ quan có thẩm quyền thành lập,
có tư cách pháp nhân) và chức năng, nhiệm vụ đặc thù là cung cấp các sản
phẩm, dịch vụ có tính chất cơng ích nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích chung của
tồn xã hội. Vì vậy, tài chính của các ĐVSN trước hết là tài chính của những
đơn vị dự tốn, có mối quan hệ trực tiếp với nhà nước thơng qua việc tiếp
nhận kinh phí do NSNN cấp để thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao và
đảm bảo hoạt động bình thường của bộ máy. Trong hệ thống tài chính, tài
chính của các ĐVSN được xếp trong nhóm tài chính cơng (tài chính nhà
nước), nghĩa là tài chính thuộc sở hữu nhà nước và phục vụ cho lợi ích chung
của tồn xã hội, cả cộng đồng.
- Gắn với đặc thù của các hoạt động cung cấp dịch vụ công. Các hoạt
động cung cấp dịch vụ cơng là những hoạt động có ý nghĩa quan trọng với đời
sống con người, đó là giáo dục, đào tạo để nâng cao dân trí và kỹ năng lao
động, khám chữa bệnh để đảm bảo sức khỏe; văn hóa, nghệ thuật để nuôi
dưỡng tinh thần; nghiên cứu khoa học để ứng dụng phát triển kinh tế, xã hội...
Những hoạt động này cần nguồn tài chính rất lớn, nhưng lại khơng hoặc khó
10
thu hồi được. Bên cạnh đó, ĐVSN có những đặc điểm khác với cơ quan hành
chính. Cơ quan hành chính là những tổ chức cung cấp trực tiếp các dịch vụ
hành chính cơng cho người dân khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước của
mình. Các dịch vụ hành chính cơng được cung cấp theo luật định, với chất
lượng đồng nhất cho mọi người tiêu dùng và được chi trả trực tiếp bằng
NSNN. Dịch vụ hành chính cơng là chức năng của cơ quan hành chính nhà
nước, là trách nhiệm và nghĩa vụ của bộ máy nhà nước với nhân dân và chỉ có
nhà nước mới có đủ thẩm quyền thực hiện chức năng đó. Nhà nước với tư
cách là một tổ chức cơng quyền phải có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ này
cho nhân dân, còn người dân có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước dưới hình
thức thuế. Như vậy, quan hệ trao đổi các dịch vụ hành chính cơng khơng phản
ánh quan hệ thị trường, mà phản ánh quan hệ nghĩa vụ của nhà nước và
phương tiện thực hiện nghĩa vụ do xã hội công dân cung cấp. Người sử dụng
có thể trả một phần hoặc không phải trả tiền cho sử dụng dịch vụ đó, nhưng
phải đóng thuế để chi trả cho chúng. Chính vì vậy, trong quan hệ tài chính, cơ
quan hành chính chỉ được tự chủ tài chính trong phần kinh phí NSNN cấp (cơ
chế khốn chi), khơng được tự do mở rộng dịch vụ, nguồn thu. Dịch vụ và
nguồn thu là cố định theo luật. Trong khi đó, ĐVSN có thể cạnh tranh với khu
vực tư nhân trong cung ứng dịch vụ và cung ứng theo nhu cầu nên các đơn vị
này được phép khai thác và mở rộng nguồn thu từ các hoạt động sự nghiệp
của mình. Đặc điểm khác biệt này cho phép ĐVSN có thể hoạt động theo
nguyên tắc tự chủ tài chính.
Tài chính của ĐVSN có những điểm khác biệt với tài chính doanh
nghiệp. Bởi lẽ, trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tuân thủ
nguyên tắc hạch toán kinh doanh, hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận
bằng cách tự bù đắp đủ chi phí và có lãi. Doanh nghiệp phải hoạt động theo
quy luật thị trường. ĐVSN khơng hồn tồn hoạt động theo cơ chế thị trường
và không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mình.
11
Lĩnh vực sự nghiệp tạo ra những sản phẩm đặc biệt vừa mang tính phục
vụ chính trị - xã hội, vừa mang tính hàng hóa địi hỏi bù đắp chi phí. Với chức
năng phục vụ xã hội, sản phẩm của hoạt động sự nghiệp không thể đo bằng
giá trị tiền tệ hữu hình. Những đơn vị tạo ra sản phẩm đó khơng thể và càng
khơng thể hạch tốn lỗ lãi một cách đơn thuần, bởi sản phẩm của nó thuộc
chức năng phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. Để tái sản xuất, các ĐVSN phải
thu lại từ NSNN và từ chi trả của người thụ hưởng.
Vì vậy, tùy theo đặc điểm tạo lập nguồn thu nhập của ĐVSN, nhà nước
áp dụng cơ chế tài chính thích hợp để các ĐVSN thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình. Phù hợp với xu thế cải cách khu vực công trong bối cảnh
hội nhập, nhà nước thực hiện chính sách đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối
với các ĐVSN theo hướng nâng cao quyền tự chủ tài chính nhằm nâng cao
chất lượng hàng hố và dịch vụ cơng phục vụ cho xã hội, đồng thời tăng tính
tự chịu trách nhiệm trong cơng tác quản lý tài chính.
1.1.2. Nội dung hoạt động tài chính trong các đơn vị sự nghiệp
1.1.2.1 Huy động tài chính
Ngồi nguồn NSNN đảm bảo trong thời kỳ ổn định phân loại ĐVSN,
các đơn vị có hoạt động dịch vụ (đơn vị tự bảo đảm và đơn vị tự bảo đảm một
phần chi phí hoạt động) cịn được chủ động tiếp nhận các nguồn cung cấp tài
chính khác như:
* Nguồn thu có nguồn gốc từ NSNN (được phép để lại đơn vị từ các
nguồn thu theo chế độ): Các khoản thu từ qun góp, tặng, biếu khơng phải
nộp NSNN theo chế độ.
* Nguồn thu do dân cư chi trả: Là nguồn thu của các ĐVSN do người
nhận dịch vụ đóng góp. Nguồn này gồm các khoản sau:
+ Các khoản phí: Phí thực chất là giá cả của hàng hóa, dịch vụ mà
người tiêu dùng phải trả cho người cung cấp khi được hưởng các hàng hóa,
dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra. Nói cách khác, đây là khoản tiền mà
người tiêu dùng phải trả trực tiếp cho người cung cấp. Tùy tính chất và mục
12
đích sử dụng của từng loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể mà nhà nước quy định
mức phí ĐVSN được phép thu.
Phí thường được thu trong các lĩnh vực: Văn hóa, thơng tin, giáo dục,
đào tạo, khoa học - cơng nghệ, y tế, giao thông - vận tải, nông nghiệp, hải sản,
lao động - thương binh - xã hội... (ví dụ, học phí, viện phí, thủy lợi phí, phí
bảo vệ môi trường,...).
+ Các khoản thu sự nghiệp: Thông qua các hoạt động sự nghiệp, các
đơn vị ứng dụng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ văn hóa, thơng tin, khoa
học, thể thao, y tế... tạo ra nguồn thu. Thu sự nghiệp gồm các khoản thu trong
các lĩnh vực sau:
- Thu sự nghiệp giáo dục, đào tạo: Thu hợp đồng giảng dạy nghiệp vụ
chuyên môn khoa học - kỹ thuật, thu từ kết quả hoạt động sản xuất và ứng
dụng khoa học của các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, các trường
cao đẳng, đại học.
- Sự nghiệp y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình: Thu viện phí, thu dịch
vụ khám chữa bệnh, thực hiện các biện pháp tránh thai; thu từ bán các sản
phẩm do đơn vị ứng dụng khoa học sản xuất để phòng và chữa bệnh (như các
loại vắc xin phòng bệnh,...).
- Sự nghiệp văn hóa-thơng tin: Thu dịch vụ quảng cáo, thu bán sản
phẩm văn hóa như bản tin, tạp chí; thu từ hoạt động biểu diễn của các đoàn
nghệ thuật.
- Thể dục-thể thao: Thu tiền bán vé từ hoạt động thi đấu, biểu diễn thể
dục, thể thao, thu hợp đồng dịch vụ thể thao, như thuê sân bãi, dụng cụ thể
dục thể thao,...
- Sự nghiệp nghiên cứu khoa học, công nghệ, môi trường: Thu bán các
sản phẩm từ kết quả hoạt động sản xuất, nghiên cứu, thử nghiệm, thu dịch vụ
khoa học, bảo vệ môi trường, thu hợp đồng nghiên cứu khoa học trong và
ngoài nước.
- Sự nghiệp kinh tế: Thu từ dịch vụ đo đạc bản đồ, điều tra khảo sát,
13
quy hoạch nông lâm, thiết kế trồng rừng, thu dịch vụ khí tượng thủy văn, dịch
vụ kiến trúc, quy hoạch đơ thị,...
+ Ngồi ra, ĐVSN có thu cịn có thể huy động các nguồn khác như vay
vốn của các tổ chức tín dụng và huy động vốn của cán bộ viên chức để đầu tư
mở rộng hoạt động của mình hoặc có thể tổ chức hoạt động liên doanh, liên
kết để thu hút thêm nguồn vốn của các tổ chức và cá nhân; tham gia góp vốn
với đơn vị và cá nhân khác để thu tiền lãi... theo quy định của pháp luật.
1.1.2.2. Chi tiêu tài chính
Nội dung của hoạt động này là sử dụng nguồn tài chính một cách có
hiệu quả (từ nguồn NSNN cấp, các nguồn thu sự nghiệp cho đến việc trích
lập, sử dụng các quỹ sau khi có kết quả hoạt động tài chính... ), đảm bảo để
các hoạt động thường xuyên, không thường xuyên diễn ra bình thường; đảm
bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao cũng như phục vụ cơng việc thu
phí, lệ phí và các hoạt động dịch vụ khác theo quy định của nhà nước, đồng
thời góp phần cải thiện đời sống của người lao động.
ĐVSN chia nội dung chi tiêu tài chính thành 2 loại: Chi thường xun
và chi khơng thường xuyên
* Chi thường xuyên:
- Chi cho hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ được cấp
có thẩm quyền giao, gồm: Tiền lương; tiền công; các khoản phụ cấp lương;
các khoản trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí cơng đồn theo
quy định hiện hành; dịch vụ cơng cộng; văn phịng phẩm; các khoản chi
nghiệp vụ; sửa chữa thường xuyên tài sản cố định và các khoản chi khác theo
chế độ quy định.
- Chi hoạt động thường xun phục vụ cho cơng tác thu phí và lệ phí,
gồm: Tiền lương; tiền cơng; các khoản phụ cấp lương; các khoản trích nộp
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí cơng đồn theo quy định hiện hành
cho số lao động trực tiếp phục vụ công tác thu phí và lệ phí; các khoản chi
14
nghiệp vụ chuyên môn; sửa chữa thường xuyên tài sản cố định và các khoản
chi khác theo chế độ quy định phục vụ cho cơng tác thu phí và lệ phí.
- Chi cho các hoạt động dịch vụ; gồm: Tiền lương; tiền cơng; các khoản
phụ cấp lương; các khoản trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí
cơng đồn theo quy định hiện hành; ngun, nhiên, vật liệu, lao vụ mua
ngoài; khấu hao tài sản cố định; sửa chữa tài sản cố định; chi trả lãi tiền vay,
lãi tiền huy động theo hình thức vay của cán bộ, viên chức; chi các khoản thuế
phải nộp theo quy định của pháp luật và các khoản chi khác (nếu có).
* Chi khơng thường xun:
- Chi thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ;
- Chi thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức;
- Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia;
- Chi thực hiện các nhiệm vụ do nhà nước đặt hàng (điều tra, quy hoạch,
khảo sát, nhiệm vụ khác) theo giá hoặc khung giá do nhà nước quy định;
- Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài theo
quy định;
- Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao;
- Chi thực hiện tinh giảm biên chế theo chế độ do nhà nước quy định
(nếu có);
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài
sản cố định thực hiện các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
- Chi thực hiện các dự án từ nguồn vốn viện trợ nước ngoài;
- Chi cho các hoạt động liên doanh, liên kết;
- Các khoản chi khác theo quy định (nếu có).
1.1.2.3. Các hoạt động tài chính khác
Ngồi hoạt động chính là huy động nguồn và tổ chức chi tiêu tài chính,
ĐVSN cịn có hoạt động bảo hiểm, dự phịng. Đây là hoạt động mang tính
đảm bảo về mặt tài chính trước những rủi ro, bất trắc có thể xảy ra gây ảnh
15
hưởng đến hoạt động của đơn vị cũng như đến đời sống của người lao động.
Theo quy định hiện hành, ngoài các khoản bảo hiểm đã nêu ở trên, trong
ĐVSN, có thể phát sinh các khoản bảo hiểm như bảo hiểm xe cơ giới, bảo
hiểm cơng trình xây dựng... Bên cạnh đó, quỹ dự phịng ổn định thu nhập
cũng được lập để đảm bảo thu nhập cho người lao động trong đơn vị.
1.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, YÊU CẦU VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của quản lý tài
chính ở các đơn vị sự nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm quản lý tài chính
Quản lý là yêu cầu tất yếu để đảm bảo sự hoạt động bình thường của
mọi quá trình và hệ thống kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị có sự tham gia tự
giác của nhiều người. Thực chất của quản lý là thiết lập và thực hiện hệ thống
các phương pháp và biện pháp khác nhau của chủ thể quản lý để tác động một
cách có ý thức tới đối tượng quản lý nhằm đạt tới kết quả nhất định.
Quản lý bao gồm nhiều phương diện, như quản lý công nghệ, quản lý
thương mại, quản lý nhân sự, quản lý tài chính… Quản lý tài chính là hoạt
động của chủ thể quản lý trong lĩnh vực tài chính nhằm sử dụng nguồn tài sản
dưới hình thái tiền, giấy tờ có giá của một tổ chức vừa đảm bảo cho tổ chức
hoạt động bình thường, vừa đảm bảo cho nguồn tài chính sử dụng tiết kiệm và
sinh lợi nhiều nhất.
Quản lý tài chính là một trong những hoạt động quản lý quan trọng của
bất kỳ một tổ chức nào trong điều kiện kinh tế thị trường. Bởi vì, tài chính
biểu hiện tổng hợp và bao quát hoạt động của đơn vị. Thông qua quản lý tài
chính, chủ thể quản lý khơng chỉ kiểm sốt được tồn bộ chu trình hoạt động
của đơn vị mà cịn đánh giá được chất lượng hoạt động của chúng. Tài chính
cịn biểu hiện lợi ích của các chủ thể tham gia và liên quan đến đơn vị. Thông
16
qua quản lý tài chính, chủ thể quản lý sử dụng được cơng cụ kích thích lợi ích
một cách hữu hiệu.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt động tài chính đã thực sự
trở nên sơi động và phong phú, và tài chính là một cơng cụ sắc bén mà nhà
nước phải nắm và quản lý, để thông qua đó quản lý quốc gia, hướng tới những
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Điều đó cũng có nghĩa
quản lý tài chính là một hoạt động tất yếu và quan trọng, không những ở tầm
vĩ mơ mà cịn đối với tất cả các khâu cịn lại trong hệ thống tài chính.
Như vậy, quản lý tài chính có thể được hiểu là hoạt động của chủ thể
quản lý trong lĩnh vực tài chính nhằm huy động, phân bổ và sử dụng một
cách chặt chẽ, có hiệu quả các nguồn tài chính, quỹ tiền tệ để hướng tới
những mục tiêu đã định.
1.2.1.2. Đặc điểm của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
Gắn với những đặc điểm của tài chính, quản lý tài chính ở ĐVSN có
những đặc điểm sau:
Đặc điểm về đối tượng quản lý: Đối tượng của quản lý tài chính trong
các ĐVSN là các hoạt động tài chính (thu, chi tài chính) chủ yếu gắn với
nguồn thu NSNN, nhằm bảo đảm thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của
các ĐVSN và khơng vì mục đích lợi nhuận. Nguồn tài chính thường ổn định
trong trung hạn và có nhiều khoản thu mang tính chất khơng bồi hồn.
Đặc điểm về chủ thể: Chủ thể quản lý tài chính ở ĐVSN, nếu xét từ
phía nhà nước, là các cơ quan chuyên trách quản lý tài chính ở Trung ương
như Bộ Tài chính, bộ chủ quản; ở địa phương là Sở Tài chính và sở chủ quản
các ĐVSN. Các đơn vị này có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất với nhà nước để
đề ra các cơ chế, chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức... làm căn cứ thực
hiện cho các ĐVSN; đồng thời chỉ đạo tổ chức, kiểm tra, giám sát việc thực
hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các ĐVSN, đảm bảo mọi hoạt động đều
theo đúng định hướng phát triển của nhà nước.
17
Nếu xét từ phía ĐVSN, chủ thể quản lý tài chính là các bộ phận chun
trách như phịng kế tốn, tài vụ. Các đơn vị này có trách nhiệm tổ chức tiếp
nhận và trực tiếp quản lý mọi hoạt động tài chính của đơn vị mình theo đúng
các quy định của nhà nước và của các cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp; đồng
thời tham mưu cho thủ trưởng đơn vị trong việc ra các quyết định liên quan
đến lĩnh vực này.
Đặc điểm về cơ chế quản lý: Các ĐVSN, dù thuộc loại hình tự bảo
đảm, bảo đảm một phần hay do nhà nước đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động,
đều có nguồn thu từ NSNN. Hơn nữa, các ĐVSN lại thuộc sở hữu nhà nước.
Chính vì vậy, cơ chế quản lý tài chính ở các ĐVSN sẽ có sự pha trộn giữa cơ
chế chung của nhà nước với cơ chế riêng của mỗi ĐVSN gắn đặc thù của lĩnh
vực hoạt động.
Như vậy, quản lý tài chính ở các ĐVSN phải hướng tới mục tiêu nâng
cao chất lượng cung ứng dịch vụ công cho xã hội và từng bước cải thiện đời
sống cho người lao động một cách hợp pháp trên cơ sở mở rộng quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của ĐVSN nhằm tạo điều kiện để đơn vị phát huy mọi
khả năng của mình trong việc thực hiện mục tiêu đó.
1.2.2. Nội dung quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
Quản lý tài chính là một bộ phận, một khâu của quản lý kinh tế - xã hội
và là khâu quản lý mang tính tổng hợp. Quản lý tài chính được coi là hợp lý,
có hiệu quả nếu nó tạo ra được một cơ chế quản lý thích hợp, có tác động tích
cực tới các quá trình kinh tế - xã hội theo các phương hướng phát triển đã
được hoạch định. Việc khai thác và sử dụng các nguồn tài chính ở các ĐVSN
có liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh tế - xã hội, do đó phải có sự quản lý
chặt chẽ nhằm nâng cao hiệu quả cũng như hạn chế, ngăn ngừa các hiện
tượng tiêu cực như tham nhũng, lãng phí... trong khai thác và sử dụng các
nguồn lực tài chính này.
Để đạt được mục tiêu đề ra, theo chu trình hoạt động, quản lý tài chính
18
ở các ĐVSN bao gồm ba khâu: Thứ nhất, lập dự tốn thu, chi NSNN trong
phạm vi được cấp có thẩm quyền giao hàng năm; Thứ hai, tổ chức chấp hành
dự tốn thu, chi tài chính hàng năm theo chế độ, chính sách của nhà nước;
Thứ ba, quyết tốn thu, chi NSNN.
1.2.2.1. Nội dung quản lý thu theo chu trình thu
Quản lý thu được thực hiện theo quy trình gồm 3 bước sau:
Bước 1, xây dựng dự toán thu. Việc xây dựng dự toán thu dựa vào bốn
căn cứ cơ bản sau:
- Nhiệm vụ chính trị, xã hội mà đơn vị được giao cũng như các chỉ tiêu
cụ thể do cơ quan có thẩm quyền thơng báo.
- Các văn bản pháp quy hiện hành của nhà nước.
- Số kiểm tra do các cơ quan cấp trên thông báo.
- Kết quả phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự tốn thu của các
năm trước và triển vọng của các năm tiếp theo.
Bước 2, thực hiện dự toán thu. Trong quá trình tổ chức thực hiện dự
tốn thu, đơn vị phải thực hiện thu đúng đối tượng, thu đủ và tuân thủ các quy
định hiện hành của nhà nước.
Bước 3, quyết toán các khoản thu. Đến cuối kỳ báo cáo hàng năm, các
đơn vị tổng hợp, đánh giá chấp hành dự toán thu đã được giao về kết quả thực
hiện, những khó khăn, vướng mắc; rút kinh nghiệm cho việc khai thác các
nguồn thu, cơng tác xây dựng dự tốn và tổ chức thu nộp trong thời gian tới;
nộp báo cáo cho cơ quan quản lý cấp trên.
* Quản lý các nguồn thu ở ĐVSN phải đáp ứng 5 yêu cầu sau:
- Phải quản lý toàn diện các nguồn thu, cả về hình thức, quy mơ và các
yếu tố quyết định số thu. Bởi vì, tất cả các hình thức, quy mô và các yếu tố ảnh
hưởng đến số thu đều quyết định số thu tài chính - cơ sở cho mọi hoạt động của
ĐVSN. Việc khơng tính tồn diện sẽ dẫn đến thất thoát nguồn thu, khoản thu,
ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả quản lý tài chính và hoạt động của ĐVSN.
19
- Quản lý các nguồn thu ở ĐVSN phải góp phần đảm bảo tính cơng
bằng xã hội.
- Quản lý các nguồn thu phải đảm bảo thực hiện nghiêm túc, đúng đắn
các chính sách, chế độ thu do cơ quan có thẩm quyền ban hành. ĐVSN không
được tự ý đặt ra các khoản thu cũng như mức thu.
- Quản lý các nguồn thu phải đảm bảo tính kế hoạch, thu đúng, thu đủ,
tổ chức hợp lý quá trình thu.
- Quản lý các nguồn thu phải đảm bảo tính thống nhất trong từng
đơn vị và toàn hệ thống.
1.2.2.2. Nội dung quản lý chi theo chu trình chi
Nguồn lực tài chính ln có giới hạn trong khi nhu cầu sử dụng lại rất
lớn. Bên cạnh đó, hoạt động sự nghiệp diễn ra trên phạm vi rộng, đa dạng và
phức tạp dẫn đến nhu cầu chi ln gia tăng với tốc độ nhanh chóng trong khi
khả năng huy động nguồn thu có hạn. Do đó, tiết kiệm để đạt hiệu quả trong
quản lý tài chính là vấn đề vơ cùng quan trọng. Điều đó đòi hỏi các ĐVSN
phải sử dụng đồng thời nhiều biện pháp quản lí các khoản chi, bao gồm:
+ Thiết lập các định mức chi. Định mức chi vừa là cơ sở để xây dựng
kế hoạch chi, vừa là căn cứ để thực hiện kiểm soát chi của các ĐVSN. Các
định mức chi phải được xây dựng một cách khoa học. Từ việc phân loại đối
tượng đến trình tự, cách thức xây dựng định mức phải được tiến hành một
cách chặt chẽ và có cơ sở khoa học. Các định mức chi phải bảo đảm phù hợp
với loại hình hoạt động của từng đơn vị.
Các định mức chi phải đảm bảo tính thực, tiễn tức là phải phù hợp với
nhu cầu kinh phí cho các hoạt động. Chỉ có như vậy, định mức chi mới trở
thành chuẩn mực cho quản lý kinh phí.
+ Lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các loại hoạt động hoặc theo nhóm mục
chi sao cho với tổng số chi có hạn nhưng khối lượng cơng việc vẫn hoàn
thành và đạt chất lượng cao. Để đạt được điều này phải có phương án phân
20
phối và sử dụng kinh phí khác nhau. Trên cơ sở đó lựa chọn phương án tối ưu
cho cả quá trình lập dự tốn, phân bổ và sử dụng kinh phí.
+ Xây dựng quy trình cấp phát các khoản chi chặt chẽ, hợp lý nhằm
hạn chế tối đa những tiêu cực nảy sinh trong quá trình cấp phát, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc kiểm soát chi của các cơ quan có thẩm quyền.
+ Thực hiện cơng tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán nhằm ngăn chặn
những biểu hiện tiêu cực trong việc sử dụng nguồn kinh phí của nhà nước,
đồng thời qua công tác này phát hiện những bất hợp lý trong chế độ, chính
sách nhằm bổ sung hồn thiện chúng.
Quản lý chi theo chu trình chi bao gồm các bước sau:
* Lập dự toán chi: Lập dự toán chi là khâu khởi đầu và quan trọng
trong quản lý chi NSNN, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả
của khâu chấp hành, kế toán và quyết toán chi NSNN. Khi lập dự toán cần
dựa trên những căn cứ sau:
- Chủ trương của nhà nước về duy trì và phát triển các hoạt động sự
nghiệp trong từng giai đoạn nhất định. Căn cứ này sẽ giúp cho việc xây dựng
dự tốn chi tài chính ở ĐVSN có một cái nhìn tổng qt về những mục tiêu,
nhiệm vụ mà đơn vị phải hướng tới trong năm, từ đó xác lập được các hình
thức, phương pháp phân phối nguồn vốn vừa tiết kiệm, vừa đạt hiệu quả cao.
- Các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các chỉ
tiêu có liên quan trực tiếp đến việc cấp phát kinh phí chi NSNN kỳ kế hoạch
cho các ĐVSN. Đây chính là việc cụ thể hóa các chủ trương của nhà nước
trong từng giai đoạn thành các chỉ tiêu cho kỳ kế hoạch. Khi dựa trên căn cứ
này để xây dựng dự toán chi phải thẩm tra, phân tích tính đúng đắn, hiện thực,
tính hiệu quả của các chỉ tiêu thuộc kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trên
cơ sở đó có kiến nghị điều chỉnh lại các chỉ tiêu kế hoạch cho phù hợp.
- Khả năng đáp ứng kinh phí cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên kỳ kế
hoạch. Muốn dự đoán được khả năng này, ĐVSN phải dựa vào cơ cấu thu NSNN
21
kỳ báo cáo và mức tăng trưởng của các nguồn thu kỳ kế hoạch, từ đó thiết lập
mức cân đối tổng quát giữa khả năng đáp ứng kinh phí và nhu cầu chi NSNN.
- Kết quả phân tích, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng kinh phí chi
NSNN kỳ báo cáo.
Q trình lập dự tốn chi NSNN được tiến hành theo các bước sau:
Thứ nhất, căn cứ vào dự toán sơ bộ về thu, chi NSNN kỳ kế hoạch để
xác định các định mức chi tiêu tổng hợp, dự kiến ngân sách sẽ phân bổ cho
mỗi đối tượng. Trên cơ sở đó hướng dẫn các đơn vị tiến hành lập dự tốn kinh
phí. Bước này cịn được gọi là xác định và giao số kiểm tra từ cơ quan tài
chính hoặc cơ quan chủ quản cho ĐVSN.
Thứ hai, dựa vào số kiểm tra và văn bản hướng dẫn lập dự tốn kinh
phí, các đơn vị dự tốn tiến hành lập dự tốn kinh phí của mình để gửi đơn vị
dự tốn cấp trên hoặc cơ quan tài chính. Căn cứ vào mức độ phân cấp về chi
NSNN, cơ quan tài chính ở mỗi cấp có nhiệm vụ xét duyệt, tổng hợp dự tốn
kinh phí các đơn vị trực thuộc để hình thành dự tốn chi ngân sách trình cơ
quan có thẩm quyền xét duyệt.
Thứ ba, căn cứ vào dự tốn chi NSNN đã được cơ quan có thẩm quyền
thơng qua, cơ quan tài chính sau khi xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp sẽ chính
thức phân bổ dự toán chi NSNN cho mỗi đơn vị.
* Tổ chức thực hiện dự toán chi NSNN: Tổ chức thực hiện dự tốn chi
NSNN là khâu thứ hai trong chu trình quản lý chi NSNN. Trong q trình sử
dụng tài chính theo dự toán cần dựa trên những căn cứ sau:
+ Định mức chi được duyệt của từng chỉ tiêu trong dự tốn. Đây là căn
cứ mang tính quyết định nhất trong chấp hành dự toán chi NSNN.
+ Khả năng dành nguồn kinh phí cho nhu cầu chi NSNN trong mỗi kỳ
báo cáo. Chi thường xuyên của NSNN luôn bị giới hạn bởi khả năng huy
động của các nguồn thu. Mặc dù các khoản chi thường xuyên đã được ghi
trong dự tốn nhưng khi số thu khơng đảm bảo vẫn phải cắt giảm một phần
22
nhu cầu chi tiêu. Đây là một trong những giải pháp thiết lập lại sự cân đối
giữa thu và chi NSNN trong q trình chấp hành dự tốn.
+ Các chế độ, chính sách chi NSNN hiện hành. Đây là căn cứ mang
tính pháp lý cho cơng tác tổ chức chấp hành dự tốn chi NSNN, bởi lẽ tính
hợp lý của các khoản chi sẽ được xem xét dựa trên cơ sở các chính sách, chế
độ của nhà nước đang có hiệu lực thi hành.
Để đạt được mục tiêu cơ bản của việc tổ chức thực hiện dự toán chi
NSNN, ĐVSN phải đảm bảo phân phối, cấp phát và sử dụng nguồn vốn hợp
lý, tiết kiệm, thông qua áp dụng các biện pháp sau:
- Trên cơ sở dự toán chi ngân sách đã được duyệt và các chế độ, chính
sách hiện hành, hướng dẫn thực hiện cụ thể, rõ ràng cho các đơn vị sử dụng.
- Tổ chức các hình thức cấp phát vốn thích hợp với mỗi loại hình đơn
vị, mỗi loại hoạt động và nguồn kinh phí hoạt động, trên cơ sở đó quy định rõ
trình tự cấp phát nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thống nhất thực hiện.
- Hướng dẫn các đơn vị thực hiện tốt chế độ hạch toán kế toán nhằm
đảm bảo để việc hình thành nguồn kinh phí và sử dụng kinh phí được hạch
tốn đúng, đủ, chính xác và kịp thời. Điều đó sẽ giúp đảm bảo việc quyết tốn
kinh phí được nhanh, chính xác, đồng thời cung cấp các tài liệu có tính chuẩn
mực cao cho các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt.
- Cơ quan tài chính phải thường xuyên xem xét khả năng đảm bảo kinh
phí cho nhu cầu chi NSNN để có biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm thiết lập
lại thế cân đối mới trong qua trình chấp hành dự toán.
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình nhận và sử dụng kinh phí
tại mỗi đơn vị nhằm đảm bảo để mọi khoản chi tiêu đều được thực hiện theo
dự toán, đúng định mức của nhà nước, qua đó góp phần nâng cao tính tiết
kiệm và hiệu quả trong chi ngân sách.
* Quyết toán chi NSNN:
Quyết tốn chi NSNN là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý chi tài
23
chính. Đó là q trình kiểm tra, rà sốt, chỉnh lý lại các số liệu đã được phản
ánh sau một kỳ chấp hành dự tốn để phân tích, đánh giá kết quả chấp hành
dự toán, rút ra những kinh nghiệm và bài học cần thiết cho kỳ chấp hành dự
toán tiếp theo. Q trình quyết tốn các khoản chi ngân sách phải đảm bảo các
yêu cầu cơ bản sau:
+ Lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời cho các cơ quan
có thẩm quyền xét duyệt theo chế độ quy định.
+ Số liệu trong báo cáo phải đảm bảo tính chính xác, trung thực. Nội
dung các báo cáo tài chính phải theo đúng nội dung ghi trong dự toán được
duyệt và theo đúng mục lục NSNN quy định.
+ Báo cáo quyết toán năm của các đơn vị dự tốn các cấp trước khi
trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phải có xác nhận của kho
bạc nhà nước đồng cấp và phải được cơ quan kiểm toán nhà nước kiểm toán.
+ Báo cáo quyết tốn của các đơn vị dự tốn khơng được để xảy ra tình
trạng quyết tốn chi lớn hơn thu.
Tóm lại, ba khâu trong quản lý tài chính ở ĐVSN đều hết sức quan
trọng, có quan hệ mật thiết với nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sử
dụng các nguồn tài chính, qua đó tới việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
được giao. Nếu như dự toán là phương án kết hợp các nguồn lực trong dự
kiến để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra và là cơ sở để tổ chức chấp
hành thì quyết tốn là thước đo hiệu quả của công tác lập dự toán.
* Yêu cầu đối với quản lý chi:
- Đảm bảo nguồn tài chính cần thiết để các ĐVSN hồn thành các
nhiệm vụ được giao theo đúng đường lối, chính sách, chế độ của nhà nước.
Để thực hiện yêu cầu này, các đơn vị cần xác lập thứ tự ưu tiên cho các khoản
chi để bố trí kinh phí phù hợp.
- Quản lý các khoản chi phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả. Để
đáp ứng yêu cầu này, các ĐVSN phải quản lý chặt chẽ từ khâu xây dựng định
mức, xây dựng dự toán, đồng thời thường xuyên phân tích, đánh giá tổng kết
24
rút kinh nghiệm việc thực hiện chi tiêu, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp tăng
cường quản lý chi đối với các ĐVSN.
1.2.2.3. Thực hiện kiểm tra, kiểm soát hoạt động thu, chi
Để sử dụng NSNN tiết kiệm, hiệu quả, tăng cường kỷ luật tài chính,
góp phần xây dựng nền tài chính cơng lành mạnh thì mọi hoạt động thu, chi
NSNN phải được kiểm tra, kiểm soát thường xuyên và định kỳ bởi các cơ
quan quản lý nhà nước, kho bạc nhà nước, cơ quan quản lý cấp trên và chính
ĐVSN. Các ĐVSN tổ chức cơng tác tự kiểm tra tài chính, kế tốn tại đơn vị
mình nhằm mục đích đánh giá tình hình triển khai chấp hành dự toán ngân
sách hàng năm; đánh giá chất lượng hoạt động, tình hình chấp hành cơ chế
chính sách và quản lý các khoản thu, chi tài chính..., từ đó phát hiện và chấn
chỉnh kịp thời các sai phạm theo thẩm quyền đã được phân cấp; tổ chức rút
kinh nghiệm và đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý tài
chính tại đơn vị.
Việc kiểm tra, kiểm sốt hoạt động thu, chi tại các ĐVSN tập trung vào
những nội dung chủ yếu sau:
- Kiểm tra việc lập dự toán ngân sách, kiểm tra việc thực hiện dự toán,
kiểm tra việc quyết toán.
- Kiểm tra các khoản thu ngân sách, thu hoạt động sự nghiệp; chi
thường xuyên và không thường xuyên của đơn vị.
- Kiểm tra việc quản lý và sử dụng các khoản vốn bằng tiền, quỹ tiền lương.
- Kiểm tra công tác đầu tư xây dựng cơ bản.
- Kiểm tra việc quản lý và sử dụng tài sản của nhà nước.
- Kiểm tra việc xác định các khoản chênh lệch thu, chi hoạt động
thường xuyên và trích lập các quỹ.
- Kiểm tra việc thực hiện quyết toán thu, chi tài chính.
- Kiểm tra việc tổ chức và lãnh đạo cơng tác tài chính, kế tốn.
1.2.3. Các u cầu cơ bản đối với quản lý tài chính ở
25
các đơn vị sự nghiệp
Do đặc thù của ĐVSN là thuộc sở hữu nhà nước, tài chính của
ĐVSN thuộc lĩnh vực tài chính cơng, hoạt động để phục vụ cho lợi ích
chung của tồn xã hội, quản lý chính ở ĐVSN phải đáp ứng các yêu cầu cơ
bản sau đây:
- Đúng chế độ chính sách: Chế độ chính sách trong lĩnh vực quản lý tài
chính do nhà nước ban hành, được xây dựng trên những nguyên tắc nhất định
và có tính đến khả năng đáp ứng của ngân sách, đồng thời là sự cụ thể hóa
chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực này. Chính vì vậy,
việc chấp hành nghiêm các chế độ, chính sách là yêu cầu đầu tiên để đảm bảo
thực hiện nguyên tắc thống nhất và đảm bảo công bằng trong quản lý của nhà
nước đối với các ĐVSN. Ngồi ra, đó cũng là căn cứ để hình thành cơ chế
quản lý tài chính đối với các ĐVSN; là căn cứ để ĐVSN xây dựng quy chế
chi tiêu nội bộ của đơn vị mình, nhằm sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn
lực tài chính. Từ việc thực hiện cơ chế quản lý cho đến việc vận dụng các quy
định cụ thể trong hoạt động tài chính, các đơn vị phải đảm bảo khơng vi phạm
kỷ luật tài chính.
- Bảo đảm tính hiệu quả: Có thể nói, hiệu quả về mặt xã hội do chất
lượng các dịch vụ công mà ĐVSN đem lại có ảnh hưởng rất sâu, rộng đến sự
phát triển của đất nước. Hiệu quả trong quản lý tài chính thể hiện ở sự so sánh
giữa kết quả đạt được trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội với
chi phí bỏ ra. Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động quản lý tài chính
khơng những phải góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng cho xã
hội, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao mà cịn phải tính đến hiệu quả
kinh tế, nghĩa là phải so sánh kết quả đạt được trên tất cả các mặt với chi phí
đã bỏ ra. Mặc dù rất khó định lượng hiệu quả về xã hội, song những lợi ích
đem lại về xã hội phải ln được đề cập, cân nhắc thận trọng trong quá trình
quản lý tài chính cơng. Nhà nước phải cân đối giữa việc thực hiện các nhiệm