Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Giáo trình Văn hóa trong du lịch (Nghề: Hướng dẫn du lịch - Cao đẳng): Phần 2 - Trường Cao đẳng Bách Khoa Nam Sài Gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.04 KB, 60 trang )

Nội dung của mơn học/mơ đun:
BÀI 3: TÍN NGƯỠNG VÀ TƠN GIÁO TRONG VĂN HĨA VIỆT
NAM
Giới thiệu: Bài 3 giới thiệu những tơn giáo lớn thế gới có ở Việt Nam
như: Phật gióa, Đạo giáo, Nho Giáo, Thiên Chúa giá, Hồi giáo, Bà LaMoon
giáo,...và những tôn giáo nội sinh trong nước như: đạo Cao Đài, đạo Hòa
Hảo,…Những đặc điểm, những ảnh hưởng của tôn giáo vào đời sống của
người dân, vào kiến trúc, ẩm thực, tập quán,…Bên cạnh đó bài bày cũng giới
thiệu những phong tục, tín ngưỡng của người dân như tín nguowngxphoonf
thực, tín ngưỡng thờ thành hồng làng,…Đây là những mảng kiến thức rất hữu
ích cho cơng việc hướng dẫn du lịch sau này.
Mục tiêu: Giúp cho sinh viên nắm bắt được các kiến thức về tơn giáo,
tín ngưỡng, phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam. Sau khi học xong bài
này, sinh viên có thể vận dụng được những kiến thức này vào trong bài thuyết
trình trên lớp và xa hơn nữa là vận dụng nó vào trong hoạt động hướng dẫn du
lịch của mình sau này.
Nội dung chính:
Bài 3: Tín ngưỡng và tơn giáo trong văn hóa Việt Nam
1.Tín ngưỡng
1.1. Khái niệm:
Tín ngưỡng là niềm tin đến mức độ ngưỡng mộ một tôn giáo, một nhân
vật lịch sử,.. với mong muốn đem lại sự tốt đẹp cho con người
1.2. Một số hình thái tín ngưỡng Việt Nam
1.2.1.Thờ thổ công:
50


Người Việt quan niệm thổ công là một vị thần cai quản, trông nom trong
nhà, quyết định họa phúc cho gia đình, ngăn cản hồn ma quỉ xâm nhập quấy
nhiễu trong gia đình, nên thường gọi là đệ nhất gia chi chủ.
Bàn thờ thổ thường đặt ở gian bên cạnh bàn thờ tổ tiên; các gia đình


khơng lập bàn thờ tổ tiên (chẳng hạn, con thứ đã ra ở riêng nhưng bố mẹ cịn
sống) thì có thể đặt bàn thờ thổ cơng ở gian chính giữa. Tùy điều kiện nhà cửa
của gia đình mà bố trí bàn thờ, có khi chỉ là bát hương thổ cơng. Gia đình có
điều kiện, trên ban thờ có đủ mâm, đài rượu, bài vị (có khi được thay bằng một
mũ đàn bà ở chính giữa, hai mũ đàn ông ở hai bên, bát hương (hoặc đỉnh trầm)
- Bàn thờ thổ công gồm 3 vị:
+ Bản gia Đông trù tư mệnh Táo phủ thần phân (thổ công, trông coi việc
bếp núc).
+ Bản gia Thổ địa Long mạch tôn thần (thổ địa trong coi việc nhà cửa).
+ Bản gia Ngũ phương ngũ thế phúc đức chính thần (thổ kỳ, trông coi
việc chợ búa cho phụ nữ, hoặc việc sinh sản các vật ở vườn đất). Mũ thổ cơng:
gồm một mũ đàn bà (khơng có cánh chuồn), hai mũ đàn ơng (có cánh chuồn).
Mỗi mũ kèm theo một chiếc áo và một đôi hia, dưới mũ đặt 100 đồng vàng
thoi. Mũ, áo, hia mỗi năm một màu, phù hợp với ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ). Hành kim (màu vàng), hành mộc (màu trắng), hành thủy (Màu
xanh), hành hỏa (màu đỏ), hành thổ (màu đen). Cúng thổ cơng vào ngày sóc
(ngày mồng 1) ,vọng (ngày rằm) hàng tháng, 23 tháng chạp. Tuy nhiên có ý
kiến cho rằng, ngày 23 tháng chạp cúng thần lửa, thần bếp để tôn vinh người
phụ nữ đã phát hiện ra lửa từ thời nguyên thủy.
1.2.2. Thờ tiền chủ
+ Tiền chủ là chủ của ngôi nhà đã ở đầu tiên cho đến lúc chết. Sau đó,
ngơi nhà qua nhiều chủ khác, nhưng tại cõ âm, người tiền chủ vẫn nhớ ngôi
51


nhà cũ nên thỉnh thoảng về thăm nom. Vì thế, các chủ sau này không muốn bị
vong hồn người tiền chủ quấy rối phải lập bàn thờ tiền chủ.
+ Bản thờ tiền chủ chính là cây hương đặt ở ngồi sân; là một trụ cao
khoảng 1 mét trở lên, phía trên xây rộng ra như một cái khám thờ, có thành ở
đằng sau và hai bên. Trên bàn thờ đặt một bát hương, khơng có bài vị vì khơng

ai biết tên người tiền chủ, nên khi khấn chỉ khấn “Tiền chủ“, thường cúng vào
các ngày sóc, vọng, ngày giỗ, ngày Tết hay khi trong nhà có chuyện vui mừng,
hoặc chuyện không hay.
1.2.3. Thờ thần tài:
Thần tài là vị thần mang tài lộc cho gia đình, mỗi khi làm việc gì. Thần
tài thường ở xó nhà, xuất phát từ điển tích ở Trung Quốc: một người lái buôn
tên là Âu Minh qua hồ Thanh Thảo, được thủy thần cho một nô tỳ tên là Như
Nguyệt . Âu Minh đưa về nuôi trong nhà, làm ăn ngày càng phát đạt. Sau nhân
ngày tết, Như Nguyệt làm ông bực tức, ông lấy chổi cầm đánh Như Nguyệt.
Nguyệt biến vào đống rác và biến mất. Từ đó Âu Minh làm ăn sa sút dẫn tới sạt
nghệp. Người đời sau tin rằng, đó là do Như Nguyệt là thần tài do thủy thần
đem lại đã bị Âu Minh đánh đuổi. Tục lập bàn thờ thần tài và kiêng quét rác 3
ngày tết xuất phát từ điển tích này.
Ở người Việt, thường chỉ gia đình bn bán mới lập bàn thờ thần Tài.
Bàn thờ là một cái khám bằng gỗ nhỏ, sơn son thiếp vàng đặt ở xó nhà hay cửa
ra vào. Phía trong khám có dán bài vị với hàng chữ “Ngũ phương ngũ thổ long
thần, tiền hậu địa chủ tài thần“ hoặc câu đối: Thổ năng sinh bạc ngọc, địa khả
xuất hoàng kim. Trước bài vị có 2 bát hương, 2 cây nến, chén nước, chén rượu.
Ngày thường chỉ thắp hương thần tài bằng hoa quả. Ngày sóc và ngày vọng
cúng mặn. Thường cúng vào buổi chiều.

52


1.2.4. Thờ đức thánh
Việc thờ Đức thánh ở Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc. Dân gian
quan niệm, những người tài năng xuất chúng, đức độ khi chết đi được hiển
thánh và lãnh nhiệm cai quản một vùng sông nước, phù hộ độ trì cho con người
trong phạm vi cai quản. Đức thánh là vị thần cai quản một vùng sơng nước, cịn
thành hồng làng là người che chở, phù hộ cho từng cộng đồng làng.

Cũng như việc thờ Thành hồng làng, việc thờ Đức Thánh được “Việt
hóa“ và biểu hiện khác nhau theo từng địa phương. Ở ven biển Bắc Bộ, Đức
Thánh ở dạng phổ biến nhất là “Đức Thánh Trần“. Song nhiều vùng ven tỉnh
Quảng Ninh lại thờ Đức Ơng Cửa Sóc tức Trần Quốc Toản, ở huyện Yên Hưng
lại thờ Đức Thánh Niệm, tức Mạc Chính Trung thời nhà Mạc, ở vùng Hà Tĩnh
thánh là Lê Văn Khôi, một nhân vật lịch sử dưới thời nhà Nguyễn. Vào Nam
Bộ nhất là vùng Tây Nam Bộ, thánh có khi là Quan Cơng, một nhân vật lịch sử
thời Tam Quốc; có nơi là Mạc Cửu, có nơi là Nguyễn Trung Trực,....
Dù là nhân vật có nguồn gốc nào thì các vị thánh này đề có sứ mệnh che
chở, phù hộ cho cư dân đi biển, được lập đền miếu thờ phụng.
1.3.Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
- Tục thờ cúng tổ tiên: ông bà sinh thành ra nên tôn kính nhất.
- Tục thờ thổ cơng: thổ cơng định đoạt phúc họa cho cả nhà nên quan
trọng nhất. Ở miền Nam thổ công được thay bằng ông địa: bàn thờ đặt dưới
đất. Nhiều nơi đồng nhất ông địa với thần tài
1.4. Tín ngưỡng thờ mẫu
- Ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ, tín ngưỡng thờ mẫu đã ăn sâu vào văn
hóa người Việt. Các tín ngưỡng này được thờ phụng trong các phủ, đền, điện
như phủ Tây Hồ, điện Hòn Chén,..
53


- Lễ hội tín ngưỡng cũng giống như các lễ hội khác, hiện tượng lên
đồng cũng là tín ngưỡng thờ mẫu. Có bốn vị thần được thờ phụng trong đền,
phủ, điện:
+ Mẫu thiên: mẹ trời được thờ ở chùa Thiên Mụ, Thiên Yana…
+ Mẫu thoải: thần nước
+ Mẫu địa là thần đất
+ Mẫu ngàn thần núi rừng.
+ Các bà Mây- Mưa - Sấm - Chớp: gọi là tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ,

Pháp Lôi, Pháp Điện) cũng được thờ phụng trong đền chùa,…
1.5.Tín ngưỡng thờ thần Thành Hồng:
Là vị thần che chở, phù hộ cho dân làng được sống yên ổn, tránh mọi
hoạn nạn.
- Tín ngưỡng này xuất phát từ Trung Quốc và truyền vào Việt Nam
khoảng thế kỷ thứ XV.
- Mỗi làng có một vị thần để thờ trong đình làng, Vị thần này có thể
được sắc phong thần. Người dân trong làng tơn vinh thần hồng làng có thể đó
là vị anh hùng có cơng với dân với nước, có thể đó là những nhân vật lịch sử văn hóa, và cũng có thể là một ơng tổ nghề sau khi mất được suy tơn thành
thần hồng làng, hoặc thậm chí là một kẻ ăn mày mà chết trong giờ thiêng,..
1.6. Tín ngưỡng phồn thực:
Là khát vọng sinh sơi nảy nở của cư dân văn hóa nơng nghiệp lúa nước,
với mong muốn vạn vật sinh sôi, phát triển. Biểu tượng sinh thực khí linga và
yoni và hành vi giao phối của nam và nữ.
- Các dấu ấn:
54


+ Các tượng linga và yoni trong các tháp Chăm với các hình dạng như là
khối trụ trịn, hay khối trụ trịn linga phía trên và hình vng yoni phía dưới,..
+ Trong các tranh truyền thống như tranh hứng dừa, hay trên các điêu
khắc nam nữ đùa giỡn trên các đình làng,...
+ Trong văn học dân gian như các câu đố tục giải thanh, trong thơ Hồ
Xuân Hương – bà chúa thơ nôn của Việt Nam,..
+ Được thể hiện trong các lễ hội dân gian: như trò tắt đền trong đêm lễ
hội Giã la ở Hà Tây; trò múa mo ở trong lễ hội ở Sơn Đồng – Hoài Đức – Hà
Nội; trò bắt chạch trong chum ở Vĩnh Phúc
- Thờ hành vi giao phối: là thể hiện khát vọng sinh sôi nảy nở, phát triển
của con người của vạn vật thiên nhiên, có ở:
+ Trên nắp thạp đồng Đào Thịnh: có 4 cặp giao phối

+ Hình ảnh chày cối, hình ảnh giã gạo….cũng là biểu tượng của hành vi
giao phối.
2. Tôn giáo
2.1. Khái niệm và những tác động của tơn giáo đến Việt Nam
Tùy theo từng góc tiếp cận mà người ta có thể định ngĩa tơn giáo khác
nhau. Tồn tại như một thực thể khách quan của lịch sử, tôn giáo là do con
người sáng tạo ra như định nghĩa của L. Phơ bách trong cuốn sách sự ra đời
của Ki Tô giáo từ thế kỷ XVIII: “Con người tư duy thế nào, được sắp đặt thế
nào thì chúa của họ là thế. Ý thức Chúa là ý thức mà con người rút ra từ bản
thân nó“. Các - Mác đã làm rõ thêm bằng quan niệm: “Sự khổ ải tôn giáo vừa
là sự biểu hiện sự khổ ải hiện thực, vừa là sự phản kháng sự khổ ải hiện thực
đó. Tơn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới
55


khơng có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng thái khơng có tinh
thần. Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Tôn giáo là hạnh phúc hư ảo của
nhân dân“
Như vậy, trong mỗi tôn giáo, bao giờ cũng có hai yếu tố: cái trần tục và
cái thiêng liêng, hay nói như Max Weber: tơn giáo là một dạng hoạt động của
cộng đồng gắn với cái siêu nhiên. Với hai yếu tố này, vai trị của tơn giáo trong
xã hội qua các thời kì lịch sử khác nhau có khác nhau. Thái độ đối xử của các
giai cấp thống trị xã hội khác nhau với tôn giáo cũng khác nhau. Dù vậy “một
thực tế cho thấy, cho dù là quan niệm, thái độ, nội dung về tôn giáo về tơn giáo
ln thay đổi và dù có thay đổi bao nhiêu đi nữa thì nó vẫn là một thực thể
khách quan của lịch sử, sinh ra cùng với xã hội loài người, do con người sáng
tạo ra, rồi con người lại bị chi phối bở nó. Tơn giáo cịn tồn tại lâu dài“
2.2.Tơn giáo và tiếp thu tơn giáo trong sự phát triển của văn hóa Việt Nam
Trong q trình phát triển lịch sử của đất nước có nhiều tôn giáo đã du
nhập và phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam. Có những tơn giáo lớn mang tính phổ

quát như: Nho Giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Ki tô giáo, Hồi Giáo... Những tôn
giáo này du nhập vào Việt Nam những thời điểm khác nhau và được người
Việt tiếp nhận một cách hịa bình và biến đổi nó theo văn hóa bản địa cho phù
hợp với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước. Những tôn giáo này phát triển ở
Việt Nam không mâu thuẫn, đối kháng nhau mà cùng nhau tồn tại và phát
triển.Gọi là “tam giáo đồng nguyên“ (3 tông giáo: phật giáo, nho giáo, Đạo
giáo) cùng xuất phát từ một nguyên nhân; “tam giáo đồng hành“ là cùng nhau
tồn tại và phát triển; “tam giáo đồng qui“ là 3 tơn giáo này cùng qui về một
mục đích. Người Việt tiếp nhận tôn giáo theo cách thức mền mỏng, nghĩa là họ
có nền tin vào tơn giáo nhưng họ khơng cuồng đạo, khơng tử vì đạo. Họ có thể
vừa tin vào Phật nhưng vẫn kính trọng chúa Gesu. Ngồi ra cịn có những tơn
56


giáo nội sinh, tức là ra đời trong đất nước Việt Nam như: đạo Cao Đài, đạo
Hòa Hảo, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa...
Đảng và nhà nước ta luôn luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của
nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH có
viết: “Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Thực hiện
nhất quán chính sách tơn trọng đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng. Chống mọi
hành động vi phạm tự do, tín ngưỡng, đồng thời, chống việc lợi dụng tín
ngưỡng làm tổn hại đến lợi ích của tổ quốc và nhân dân“. Hiến pháp nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam viết: “cơng dân Việt Nam có quyền tín
ngưỡng tơn giáo, theo hoặc khơng theo tơn giáo nào. Các tơn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng tôn giáo được pháp
luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng tơn giáo hoặc lợi dụng
tín ngưỡng tơn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của đảng và nhà nước“
2.3. Nho giáo
2.3.1. Sự hình thành của Nho giáo
- Nho giáo là hệ thống giáo lý của các nhà nho nhằm tổ chức xã hội có

hiệu quả, những cơ sở này được hình thành từ thời Tây Chu. Đến thời Khổng
Tử được hệ thống lại và truyền bá. Vì vậy Khổng Tử được xem là người sáng
lập Nho Giáo. Khổng tử sinh năm 551 tr.CN mất năm 479 tr.CN, năm 23 tuổi
ông mở lớp dạy học. Năm 34 tuổi ông đi khắp nơi để truyền bá tư tưởng và tìm
người biết dùng mình.
- Sách kinh điển của Nho giáo có 2 bộ:
+ Bộ thứ nhất là ngũ kinh: gồm 5 cuốn


Kinh thi: trong đó chủ đề về tình yêu nam nữ khá nhiều

57




Kinh thư: ghi lại những truyền thuyết và những biến cố về các đời

vua cổ như Nghêu, Thuấn, Kiệt, Trụ,...


Kinh lễ: ghi chép những nghi lễ thời trước



Kinh dịch: ghi chép về âm dương bát quái



Kinh xuân thu: là bộ sử ký của nước Lỗ, quê hương của Khổng


Tử, ông soạn và kèm theo những lời bình, lời thoại để giáo dục các vua chúa.
+ Bộ thứ hai là Tứ thư: sau khi Khổng Tử mất các học trò của ông biên
soạn.


Luận ngữ: các lời bàn luận



Đại học: do Tăng Sâm soạn dựa vào lời thầy, dạy phép làm người

quân tử.


Trung dung do Tử Tư (cháu của Khổng Tử) viết ra nhằm phát

triển tư tưởng của ơng nội mình về cách sống dung hòa.
Đây là 2 bộ sách gối đầu giường của nho gia
2.3.2.Nội dung cơ bản và sự phát triển của Nho giáo
- Để tổ chức xã hội, điều cốt lõi là đào tạo được những người cai trị kiểu
mẫu, phải tu thân và có 3 têu chuẩn:
+ Đạt đạo: đó là những con đường, và những mối quan hệ mà con người
phải biết ứng xử trong cuộc sống. Có 5 đạo: Quân thần - phụ tử - phu thê huynh đệ - bằng hữu.
+ Đạt đức: Người quân tử có 3 điều: Nhân - trí - dũng sau thành 4 đức:
nhân - lễ - nghĩa - trí - tín.
+ Người quan tử phải: tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ. Phương
châm thứ nhất là lấy nhân trị là cai trị bằng tình người.

58



Phương châm thứ hai là chính danh tức là phải đúng với tên gọi, người
làm phải đúng với chức phận của mình.
2.3.3.Quá trình xâm nhập, phát triển và những đặc điểm của nho giáo ở Viêt
Nam.
- Thời kỳ Bắc thuộc nho giáo chưa có chỗ đứng ở Việt Nam. Năm 1070
với sự kiện vua Lí Thánh Tơng cho lập Văn miếu nho giáo mới chính thức có
chỗ đứng ở Việt Nam.
- Sang thời kỳ nhà Lê nho giáo đã phát triển mạnh và trở thành quốc
giáo. Sang thời kỳ nhà Nguyễn và Pháp thuộc thì nho giáo suy yếu và dần dần
đánh mất thế độc tôn .
- Việt Nam tiếp thu nho giáo và biến đổi theo cách của người Việt:
+ Nho giáo vào Việt Nam thích hợp cho vệc quản lý đất nước:


Tổ chức triều đình theo hệ thống pháp luật của Trung Hoa



Hệ thống thi cử để bổ sung người tài vào bộ máy cai trị đất nước

thông qua các kỳ thi


Người Việt đã sử dụng chữ hán và sáng tạo ra chữ nôm trên cơ sở

chữ hán, để trở thành văn tự chính thức trong hành chính, học hành thi cử.
+ Nho giáo vào Việt Nam đã bị biến đổi cho phù hợp với truyền thống
văn hóa dân tộc:



Tạo nên một xã hội ổn định, nho gia đã tạo ra sự phụ thuộc của bộ

máy quan lại vào nhà cầm quyền bằng hai biện pháp: thứ nhất là biện pháp
kinh tế “Nhẹ lương nặng bổng“, thứ 2 là biện pháp tinh thần là “trọng đức
khinh tài“
+ Nho giáo vào Việt Nam coi trọng tình người: đây là truyền thống lâu
đời của người Việt.

59


+ Tư tưởng Trung quân: vào Việt Nam gắn liền với tinh thần yêu nước,
tinh thần dân tộc sẵn có.
+ Xu hướng trọng văn hơn võ
+ Thái độ đối với nghề bn: Trọng nơng ức thương, vì người Việt
chúng ta là mang đậm nét nông nghiệp lúa nước.
- Sở dĩ nho giáo được Việt Nam dỡ ra, cải biến cho phù hợp với hồn
cảnh và truyền thống của mình vì giữa văn hóa Việt Nam và nho giáo Trung
Hoa có sự tương đồng với nhau.
2.4.Phật giáo
2.4.1. Sự hình thành và nội dung cơ bản của phật giáo
- Đạo phật hình thành ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI tr.CN, người
sáng lập do thái tử Sidharta (Tất Đạt Đa), họ Gotama. Ông sinh năm 624 tr.CN,
vào lúc ở Ấn Độ đạo Bà la Môn giáo đang thống trị với sự phân chia đẳng cấp
rất sâu sắc trong xã hội. Nỗi bất bình của thái tử về sự phân chia đẳng cấp, kỳ
thị màu da và đồng cảm với nỗi thống khổ của muôn đân là những nguyên
nhân dẫn tới sự hình thành một tơn giáo mới.
- Thực chất của đạo Phật là một Học Thuyết về nỗi thống khổ và sự giải

thoát. Cốt lõi của học thuyết là tứ diệu đế:
+ Khổ đế: chân lý về bản chất của nỗi thống khổ phổ biến ở con người,
sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt li khổ, oán tăng hội khổ, sở cầu bất
đắc,....
+ Nhân đế: Nguyên nhân của nỗi khổ đó là do ái dục và vơ minh. Dục
vọng thể hiện bằng hành động gọi là nghiệp; hành động xấu khiến lãnh hậu quả
của nó là nghiệp báo. Thành ra luẩn quẩn trong ln hồi khơng thốt ra được.

60


+ Diệt đế: là chân lý về cảnh giới diệt khổ. Nỗi khổ sẽ bị tiêu diệt khi
nguyên nhân gây ra nỗi khổ bị loại trừ. Sự tiêu diệt khổ đau gọi là niết bàn,
nghĩa đen là không ham muốn, dập tắt. Đó là thế giới sụ giác ngộ, giải thoát.
+ Đạo đế: là chân lý chỉ ra con đường diệt khổ. Con đường diệt khổ, giải
thoát và giác ngộ đòi hỏi phải rèn luyện đạo đức (giới), tư tưởng (định), khai
sáng trí tuệ (tuệ). Ba mơn học này được học cụ thể trong khái niệm Bát chính
đạo (tám nẻo đường chân chính).
- Sau khi Phật tạ thế, do bất đồng trong chính kiến nên chia thành 2 phái
+ Phái Thượng Tọa (phái Tiểu Thừa là cỗ xe nhỏ phát triển xuống phía
Nam gọi là Nam Tơng): phái các vị trưởng lão, theo xu hướng bảo thủ, chủ
trương bám sát kinh điển, giữ nguyên giáo phật, phật tử tự giác ngộ cho bản
thân, chỉ thờ Phật Thích Ca và tu đến bậc La hán.
+ Phái Đại Chúng (phái Đại Thừa là cỗ xe lớn phát triển lên phía Bắc gọi
là Bắc Tông): chủ trương không cố chấp kinh điển, khoan dung đại lượng trong
thực hiện giáo luật, thu nạp tất cả những ai muốn qui y giác ngộ, giải thoát cho
nhiều người, thờ nhiều phật, tu qua các bậc la hán, Bồ tát, Phật.
2.4.2. Quá trình xâm nhập và phát triển phật giáo ở Việt Nam
- Theo đường biển, các nhà sư Ấn độ đã đem phật giáo vào Việt Nam
ngay từ những năm đầu Công nguyên. Nuy lâu đã trở thành trung tâm phật giáo

quan trọng. Sang thế kỷ thứ 4 – 5 lại có thêm luồng phật giáo Đại Thừa phái
Bắc Tông tràn vào từ Trung Hoa. Chẳng mấy chốc đã thay thế luồng phật giáo
Nam Tơng có từ trước đó.
- Từ Trung hoa có 3 tơng phái phật giáo được truyền vào Việt Nam
+ Thiền tông: là tông phái do nhà sư Ấn Độ Đề Đạt Ma (Bodhidharma)
sáng lập ra ở Trung quốc vào đầu thế kỷ thứ 6. Chủ trương tập trung trí tuệ
ngồi thiền để tìm ra chân lý. Thiền tơng vào Việt Nam ln đề cao cái Tâm,
61


phật tại Tâm. Tu theo Thiền tơng phải có khả năng trí tuệ cao, do vậy chỉ phổ
biến giới trí thức thượng lưu.
+ Tịnh Độ Tông dựa vào sự giúp đỡ bên ngồi để cứu chúng sinh thốt
khổ, đó là việc hướng họ đến một cõi niết bàn cụ thể. Họ phải thường xuyên đi
chùa lễ phật, thường xuyên tụng niệm phật.
+ Mật Tông: là phái sử dụng phép tu huyền bí như dùng linh phù, mật
chú, ấn quyết... để thu hút tín đồ mau chóng đạt đến giác ngộ, giải thốt. Vào
Việt Nam mật tơng khơng tồn tại như một giáo phái riêng mà nhanh chóng hịa
vào tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu đồng, dùng pháp thuật,
yểm bùa, chữa bệnh, trừ tà,...
- Đến thời Lý –Trần phật giáo đã phát triển một cách cực thịnh. Rất
nhiều chùa tháp có qui mơ to lớn kiến trúc độc đáo được xây dựng trong thời
gian này như: chùa Phật tích, chùa Dạm, chùa Diên Hựu, chùa Phổ Minh,....
Trong thời kỳ này có 4 cơng trình lớn nổi tiếng gọi là An Nam tứ đại
khí:
+ Tượng phật chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều Quảng Ninh được xây
dựng từ thế kỷ XI có pho tượng phật bằng đồng đen cao 6 trượng (24 mét) đặt
trong tòa phật điện cao 7 trượng, cách xa 10 dặm cũng trơng thấy nóc điện
+ Tháp Báo Thiên: gồm 12 tầng cao 20 trượng do vua Lý thánh Tông
cho xây dựng vào năm 1057 trên khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phía Tây hồ

Lục Thủy (Hồ Gươm) bằng đá và gạch, riêng tầng 12 đúc bằng đồng. Đến năm
1414 bị quân Vương Thông tàn phá, đến thời pháp bị phá hủy hoàn toàn để xây
nhà thờ Lớn trên đất ấy
+ Chuông Qui điền được vua Lý Thái Tông cho đúc vào năm 1104 định
treo ở chùa Diên Hựu nhưng to quá. Đường kính 1, 5 trượng, cao 3 trượng

62


nặng tới vài vạn cân. Đành để ở ngoài ruộng , rùa bị ra bị vào nên dân gọi là
chng qui điền.
+ Vạc Phổ Minh đúc bằng đồng thời vua Trần Nhân Tông, đặt tại chùa
Phổ Minh (ngoại thành Nam Định),vạc sâu 4 thước, rộng 10 thước, nặng trên 7
tấn. Đến nay còn 3 trụ đá kê chân vạc trước sân chùa.
- Sang nhà Lê, nhà nước lấy Nho giáo làm quốc giáo, phật giáo dần dần
suy thoái.
- Đầu thế kỷ XX phong trào chấn hưng phật giáo được dấy lên khởi đầu
từ các đô thị ở Miền Nam những năm 30. Phật giáo dần dần phát triển mạnh và
cho đến nay phạt giáo có số lượng tín đồ đơng nhất ở Việt Nam.
2.4.3. Những đặc điểm của phật Giáo Việt Nam
- Tính tổng hợp: đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, cũng là đặc trưng
nổi bật nhật của phật giáo Việt Nam
+ Phật giáo tổng hợp với tín ngưỡng dân gian, như hệ thống chùa tứ
pháp thực chất vẫn là những đền miếu dân gian thờ những vị thần tự nhiên:
Mây, mưa, sấm, chớp. Trong kiến trúc chùa phổ biến ở Việt Nam là thiền phật
hậu thần (ở trước thờ phật, phía sau là thờ thần).
+ Phật giáo Việt Nam tổng hợp nhều tôn giáo khác như nho giáo, đạo
giáo: tam giáo đồng qui, tam giáo đồng hành, tam giáo đồng nguyên (ba tôn
giáo Phật, nho, đạo đều qui về một mối, ban đầu xuất phát cùng một ngun
nhân và cùng nhau phát triển trong hịa bình. Phật giáo Việt Nam cũng tổng

hợp của ba tông phái khác nhau, các tơng phái vào Việt Nam khơng có tách
biệt rành mạch mà có liên quan, dính dánh với nhau.
+ Phật giáo Việt Nam kết hợp việc đạo với việc đời, các cao tăng được
nhà nước mới ra tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng. Đầu thế kỷ

63


XX phật giáo đã tham gia hăng hái vào các hoạt động xã hội, thời Mỹ Diệm
phật giáo đã xuống đường biểu tình chống lại các chính sách của Mỹ Diệm...
- Khuynh hướng thiên về nữ tính
+ Là đặc trưng của văn hóa nơng nghiệp: các vị phật ở Ấn độ là đàn ông
sang VIệt Nam được biến thành phật bà quan âm với nghìn tay nghìn mắt
+ Ở Việt Nam có nhiều chùa chiền mang tên các bà: chùa bà Dâu, chùa
bà Đậu, chùa bà Đanh...
- Tính linh hoạt
+ Người Việt coi việc sống phúc đức, trung thực hơn đi chùa: thứ nhất tu
tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ 3 tu chùa,...
+ Vào Việt Nam người dân coi các vị phật như các vị thần trong tín
ngưỡng dân gian có khả năng cứu giúp mọi người thốt khỏi tai họa: làm nên
mây mưa, sấm chớp, ban cho người hiếm muộn con cái, ban phát tài lộc cho
người dân làm ăn trong năm....
- Sự cải biến tính linh loạt tạo nên Phật giáo Hòa hảo: đạo Hòa Hảo lấy
pháp môn Tịnh độ làm căn bản, rồi kết hợp với đạo của dân tộc thờ ông bà tổ
tiên mà đề ra thuyết Tứ Ân, trong tứ Ân ơn tam bảo xếp hàng thứ 3 còn ơn cha
mẹ được xếp hàng thứ 1.
2.5. Đạo giáo
- Từ đạo Gia đến đạo Giáo
+ Đạo giáo được hình thành trong phong trào khởi nghĩa nông dân ở
Trung Quốc ở thế kỷ thứ II. Triết thuyết do Lão Tử đề xướng. Đạo của Lão Tử

là chỉ cái Tự nhiên. Con người sống hòa nhập với tự nhiên đừng làm gì thái
quá, mà theo luật âm dương . Áp dụng vào xã hội đương thời Lão Tử không
tán thành lối cai trị cưỡng chế, áp đặt của xã hội đương thời.

64


+ Đạo giáo thờ Đạo và tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là Thái Thượng
Lão Quân. Đạo giáo có 2 phái: Phái Đạo Giáo Phù Thủy là dùng các pháp thuật
trị bệnh chủ yếu giúp cho dân thường khỏe mạnh. Đạo Giáo Thần Tiên dạy tu
luyện, luyện đan giành cho quí tộc cầu trường sinh bất tử.
- Sự thâm nhập và phát triển của đạo Giáo ở Việt Nam
+ Đạo giáo vào Việt nam từ cuối thế kỷ thứ II, đạo giáo kết hợp với các
tín ngưỡng dân gian và đã có sức lan tỏa mạnh mẽ
+ Bên cạnh thờ ngọc hoàng thượng đế, Thái Thượng Lão Quân, thần
Trấn Vũ, đạo giáo cũng còn thờ các vị thần khác do Việt Nam xây dựng: Đức
Thánh Trần, Liễu Hạnh..
+ Đạo giáo gắn liền với thuật lên đồng (đồng bóng), Đức Thánh Trần gọi
là ơng Đồng, cịn Bà Đồng thì thờ tam phủ, tứ phủ, gọi là thờ chư vị, Lên đồng
gọi là Hầu bóng, mỗi lần người gồi đồng được thần thánh nhập vào phán bảo
hoặc chữa trị, ... gọi là Giá đồng.
2.6.Ki tô giáo
- Ki tô giáo với văn hóa Việt Nam
+ Ki tơ giáo du nhập vào Việt nam vào thế kỷ thứ XVI, các linh mục
theo các đồn thuyền bn sang châu Á truyền đạo trong đó có Việt Nam. Năm
1533, một người tây dương tên là Ignatio theo đường biển lẻn vào giảng đạo ở
làng Ninh Cường, Quỳnh Anh, Trà lũ (thuộc Nam Định); năm 1593 Nghệ An
đã có 12 làng cơng giáo tồn tịng.
+ Cuối năm 1624 giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes sang truyền
giáo ở Đàng trong và Đàng ngoài Việt Nam

+ Cuộc chiến tranh Nguyễn Ánh – Tây Sơn là cơ hội tốt cho sự bành
trướng của giáo hội nước ngoài vào Việt Nam. Giám mục Bá Đa Lộc đại diện
cho tòa thành ở Đàng Trong đã trở thành người đỡ đầu tích cực cho Nguyễn
65


Ánh, ơng đã đưa hồng tử Cảnh đi Pháp và đại diện Pháp ký hiệp ước
Versailles
+ Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi lập nên nhà Nguyễn mặc dù chịu ơn các
giáo sĩ những nhà Nguyễn đã có những chính sách khá khắt khe với Ki tơ giáo
như chính sách cấm đạo và thậm chí là sát đạo.
+ Sau 4 thế kỷ truyền đạo, tới nay Ki Tơ đã có chỗ đứng vững chắc ở
Việt Nam với khoảng 5 triệu tín đồ Cơng giáo và hơn nửa triệu tín đồ Tin
Lành.
- Văn hóa Phương Tây và văn hóa Việt Nam
+ Ki tơ giáo vào Việt Nam đã có sự phân hóa linh hoạt và biến đổi cho
phù hợp, thể hiện rõ trong kiến trúc nhà thờ pha lẫn với kiến trúc dân gian của
người Việt. Do truyền thống trọng nữ ở Việt Nam đã đưa Đức mẹ Maria trên vị
trí đặc biệt mà ở phương Tây khơng gặp.
+ Về văn hóa vật chất ảnh hưởng đáng kể nhất là phát triển đô thị, công
nghiệp, và giao thông đây là các lĩnh vực mà Phương Tây mạnh. Về Đô thị từ
mô hinh đơ thị chức năng chính trị đã chuyển thành đơ thị với chức năng công
thương nghiệp chú trọng phát triển kinh tế. Ở đơ thị lớn hình thành một tầng
lớp tư sản dân tộc. Nhiều ngành công nghiệp khác nhau ra đời như khái thác
mỏ, chế biến lâm sản,..... Về Kiến trúc xuất hiện kiến trúc đô thị với nhà cao
tầng, vật liệu xây dựng mới nhưng có kết hợp tài tình với tính cách dân tộc mà
hiện nay các kiến trúc đó cịn có nhiều giá trị trong sử dụng và khai thác du lịch
như: các tòa nhà của trường đại học Đông Dương, viện Viễn Đông Bác Cổ, các
nhà thờ .... Về lĩnh vực giao thơng thì xuất hiện hệ thống đường sắt, đượng bộ
được xây dựng mở rộng, xây các cầu bắc qua sông suối như cầu Long Biên...

+ Lĩnh vực văn hóaTinh Thần: chữ quốc ngữ đã hình thành và phát triển
song song với quá trình truyền đạo của các linh mục. Báo chí ra đời, phát triển
66


mạnh mẽ nhất là ở các đô thị lớn như Sài Gòn, Hà Nội, tờ báo đầu tiên ra đời là
Gia Định báo (năm 1865). Về văn hóa thì các loại tiểu thuyết hiện đại, thơ mới
ra đời với các nhà văn, nhà thơ tiêu biểu: Nguyễn Trọng quản, Xâu Diệu, Thế
Lữ, Huy Cận, Hàm Mặc Tử,.... Trong ngôn ngữ Việt nam cũng vay mượn
nhiều của ngôn ngữ Pháp để diễn tả những khái niệm mới, hay những hoạt
động mới, đây là sự giao lưu văn hóa Việt Nam - Phương Tây,(các từ vay
mượn như: mít tinh, ghi đơng, ga ba ga,..). Nghệt thuật xuất hiện bút pháp tả
thực của phương Tây, các loại hình nghệ thuật biểu diễn như kịch nói, cải
lương, ca múa nhạc... phát triển mạnh. Trong giáo dục đã đào tạo theo hệ thống
giáo dục của phương Tây, các môn học tự nhiên, xã hội được vào giảng dạy
như: Toán, Vật lý, thiên văn, sử, địa.... Trong lĩnh vực tư tưởng thì các tư
tưởng tư sản, sau đó là tương tưởng mác xít từ phương Tây cũng được truyền
bá vào Việt Nam.
2.7.Tin lành
- Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu vào thế kỷ thế XVI có nguồn gốc chính
trị, xã hội sâu xa. Trước hết là sự xuất hiện của giai cấp tư sản với những yêu
cầu mới về chính trị, xã hội, tư tưởng tôn giáo. Đạo Tin lành ra đời xét về mặt
văn hoá, tư tưởng được thúc đẩy bằng phong trào Văn hóa phục hưng - chủ
nghĩa nhân văn, chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu thế kỷ XV - XVI. Với chủ trương
đề cao con người, đề cao nhân tính, nhân quyền đối lại việc đề cao thần tính,
thần quyền, đề cao tự do cá nhân, dân chủ và sự hưởng lạc, đối lại sự kìm hãm
dục vọng và sự ràng buộc của chế độ phong kiến và luật lệ Công giáo, đề cao
lòng yêu nước cụ thể đối lại đề cao lòng yêu Thiên Chúa và một nước Chúa
chung chung diệu vợi... Văn hoá phục hưng - chủ nghĩa nhân văn đã tạo ra
chiều kích mới về văn hố, tư tưởng, cách nhìn mới về con người và tơn giáo,

làm cơ sở cho việc nảy nở và tiếp thu những tư tưởng cải cách tôn giáo. Đến
67


nay, chỉ gần năm trăm năm kể từ khi ra đời, đạo Tin lành phát triển với tốc độ
rất nhanh, trở thành một tôn giáo lớn, đứng thứ ba sau đạo Hồi giáo, Cơng giáo
với khoảng 550 triệu tín đồ của 285 hệ phái có mặt ở 135 nước của tất cả các
châu lục, trong đó tập trung ở các nước công nghiệp tiên tiến như Tây Âu, Bắc
Âu và Bắc Mỹ.
- Đạo Tin lành có nhiều tổ chức hệ phái. Mặc dù có những điểm khác
nhau về nghi thức hành đạo và cách tổ chức giáo hội giữa các hệ phái, nhưng
nhìn chung đều thống nhất ở những nội dung, ngun tắc chính. Có thể khái
qt giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ chức của đạo Tin lành để so sánh với đạo Công
giáo như sau:
+ Kinh thánh và giáo lý
* Trước hết về Kinh thánh, cả hai tôn giáo Tin lành và Công giáo đều
lấy Kinh thánh (gồm Cựu ước và Tân ước) làm nền tảng giáo lý. Đạo Tin lành
đề cao vị trí của Kinh thánh, coi đó là chuẩn mực căn bản, duy nhất của đức tin
và sự hành đạo. Đạo Công giáo lại cho rằng ngồi Kinh thánh cịn có những
văn bản khác như nghị quyết các Công đồng chung, các sắc chỉ, thông điệp...
của Giáo hồng, về ngun tắc cũng có giá trị như giáo lý. Đạo Tin lành đề cao
Kinh thánh một cách tuyệt đối, tất cả tín đồ và chức vụ mục sư, truyền đạo đều
sử dụng Kinh thánh, nói và làm theo Kinh thánh. Đối với đạo Tin lành, Kinh
thánh có vị trí cực kỳ quan trọng. Trong các trường hợp, Kinh thánh giữ vai trò
như một giáo sĩ trên cả hai phương diện mục vụ và truyền giáo.
* Giáo lý của đạo Tin lành và Công giáo về cơ bản giống nhau. Cả hai
tôn giáo đều thờ Thiên Chúa. Tuy nhiên, có một số chi tiết trong một số tín
điều truyền thống của đạo Công giáo được đạo Tin lành sửa đổi và lược bỏ tạo
ra sự khác biệt nhất định giữa đạo Tin lành và Công giáo.


68


* Đạo Tin lành tin có sự hồi thai Chúa Giêsu một cách mầu nhiệm của
bà Maria nhưng cho rằng bà Maria chỉ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu,
sau đó khơng cịn đồng trinh nữa. Thậm chí một số phái Tin lành cho rằng
Kinh thánh nói Bà Maria sau khi sinh Chúa Giêsu cịn sinh cho ơng Giuse một
số người con khác một cách bình thường. Do vậy, đạo Tin lành chỉ kính trọng
chứ khơng tơn sùng thờ lạy bà Maria như đạo Công giáo. Bà Maria chỉ có cơng
sinh và ni dạy Chúa Giêsu, chứ khơng phải là mẹ của Thiên Chúa.
* Đạo Tin lành tin có Thiên sứ, có các thánh Tơng đồ, các Thánh tử đạo
và các Thánh khác, nhưng cũng chỉ kính trọng và noi gương, chứ không tôn
sùng và thờ lạy họ như đạo Công giáo. Đạo Tin lành không thờ các tranh ảnh,
hình tượng cũng như các di vật. Khơng tơn sùng và thực hiện hành hương đến
các Thánh địa, kể cả Giêrusalem, núi Xinai, đền thánh Phêrô và Phaolô.
* Đặc biệt, đạo Tin lành khơng thờ lạy các hình tượng và họ cho rằng
Kinh thánh đã dạy. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đạo Tin lành có dùng
các tranh ảnh, hình tượng trong sinh hoạt tơn giáo nhưng mang ý nghĩa tài liệu
để giảng giải, truyền thụ.
* Đạo Tin lành tin có Thiên đàng, Hoả ngục nhưng khơng q coi trọng
tới mức dùng nó làm cơng cụ khun thưởng răn đe, trừng phạt đối với con
người.
+ Luật lệ, lễ nghi: Trong đời sống tín ngưỡng, đạo Tin lành là một tơn
giáo đặc biệt đề cao lý trí trong đức tin, cho rằng sự cứu rỗi chỉ đến bởi đức tin
chứ khơng phải vì những "hình thức ngoại tại" (tức là khơng phải vì các luật lệ,
lễ nghi). Do đó luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo của đạo Tin lành đơn giản
không cầu kỳ, rườm rà như đạo Công giáo.
+ Trong bảy phép Bí tích của đạo Cơng giáo (Rửa tội, Thêm sức, Giải
tội, Thánh thể, Sức dầu, Truyền chức, Hôn phối) đạo Tin lành chỉ thừa nhận và
69



thực hiện phép Rửa tội (Bắptem), phép Thánh thể. Vì họ cho rằng Kinh thánh
chỉ nói đến những phép đó mà thơi. Một số phái Tin lành có thêm lễ Dâng con
trẻ cho Thiên Chúa, dựa theo tích trong Cựu ước rằng A-bra-ham đã dâng con
trai là Y-Sác cho đức Giê-hô-va.
+ Đạo Tin lành cho rằng phép Bắptem không phải tẩy trừ tội lỗi một
cách linh nghiệm mà đó là sự thay cũ đổi mới của mỗi con người, một sự liên
lạc bằng lương tâm và lý trí đối với Chúa Trời. Do vậy, người chịu Bắptem
phải đủ tuổi để hiểu biết các lẽ đạo, và nhất là phải ăn ở trong sạch, không
được phạm tội. Nghi lễ Bắptem của đạo Tin lành được tiến hành theo lối cổ
như thánh Gioan rửa tội cho Chúa Giêsu trên sông Gio-đăng bằng cách dìm cả
người xuống nước, chứ khơng dội ít nước lên đầu một cách tượng trưng như
Công giáo.
+ Các phái Tin lành cịn có những quan điểm khác nhau về Lễ Thánh thể
nhưng nhìn chung đều phủ nhận "thuyết biến thể" của đạo Công giáo. Đa số
phái Tin lành cho rằng Lễ Thánh thể là kỷ niệm về sự chết của Chúa Giêsu
chuộc tội cho lồi người, qua đó nhắc nhở con người sống xứng đáng với
Thiên Chúa. Lễ Thánh thể của đạo Công giáo được tiến hành với nghi thức
rườm rà, tín đồ chỉ được ăn "Bánh thánh" cịn "Rượu thánh" không được uống
mà dành cho các giáo sĩ. Đạo Tin lành thực hiện nghi lễ Thánh thể đơn giản
hơn, tất cả tín đồ và giáo sĩ cùng uống rượu và ăn bánh. Lễ Thánh thể thường
được tổ chức vào chủ nhật đầu tiên của từng tháng.
+ Đạo Công giáo cho rằng con người không những phải làm việc thiện
mà cịn phải hãm mình để chuộc tội. Đạo Tin lành lại quan niệm rằng việc
chuộc tội cho loài người đã có Chúa Giêsu làm trọn rồi. Con người làm việc
thiện để tỏ ra xứng đáng với Thiên Chúa. Con người phải có đức tin mới được
cứu vớt.
70



+ Tín đồ đạo Cơng giáo xưng tội trong tồ kín với linh mục là hình thức
chủ yếu nhất, cịn tín đồ đạo Tin lành xưng tội trực tiếp với Thiên Chúa. Khi
xưng tội cũng như khi cầu nguyện, tín đồ đạo Tin lành có thể đứng giữa nhà
thờ, trước đám đơng để sám hối hoặc nói lên ý nguyện của mình một cách cơng
khai.
* Nhà thờ (thánh đường) của đạo Công giáo được xây dựng tốn kém,
kiến trúc đồ sộ theo lối cổ, bài trí cơng phu cầu kỳ và cho rằng đó là Nhà Chúa
- nơi Chúa ngự một cách linh thiêng, đặc biệt, trong và ngoài nhà thờ, treo
nhiều ảnh tượng. Nhưng trái lại, nhà thờ đạo Tin lành thường kiến trúc hiện
đại, đơn giản, trong nhà thờ khơng có tượng ảnh, chỉ có cây thập giá biểu
tượng Chúa Giêsu chịu nạn.
+ Chức sắc và tổ chức Giáo hội
* Chức sắc của đạo Tin lành gồm các chức vụ: mục sư (tên gọi theo
Kinh thánh) và dưới mục sư là truyền đạo (còn gọi là giảng sư).
+ Đạo Tin lành thường có hai sinh hoạt về mặt tổ chức là Bồi linh và Hội
đồng (đại hội đại biểu). Bồi linh còn gọi là Hội đồng linh tu được tổ chức hàng
năm theo các cấp giáo hội để nâng cao trình độ giáo lý, thần học cho tín đồ,
mục sư, truyền đạo.
- Qua phân tích q trình ra đời, phát triển, giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ
chức giáo hội chúng tôi khái quát một số nét đặc trưng cơ bản của đạo Tin lành
như sau:
+ Đạo Tin lành là tôn giáo tách ra từ đạo Công giáo ở thế kỷ XVI cùng
với sự xuất hiện của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Nội dung cải cách
chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng dân chủ tư sản, ý chí tự do cá nhân. Trong
sinh hoạt tơn giáo, đạo Tin lành đề cao vai trị cá nhân. Trong sinh hoạt về tổ
chức, đạo Tin lành đề cao tinh thần dân chủ. Các luật lệ, lễ nghi, cách thức
71



hành đạo, cơ cấu tổ chức của đạo Tin lành đơn giản, nhẹ nhàng khơng rườm rà,
gị bó như đạo Công giáo.
+ Những nội dung cải cách đã làm cho đạo Tin lành trở thành một tơn
giáo có mầu sắc mới mẻ, thích hợp với giai cấp tư sản, tiểu tư sản, cơng chức,
trí thức, thị dân nói chung trong xã hội công nghiệp. Đặc biệt với lối sống đạo
nhẹ nhàng, đề cao đức tin và vai trò cá nhân, đạo Tin lành duy trì tín ngưỡng
trong mọi hồn cảnh chính trị, xã hội, kể cả những khi bị o ép, cấm cách.
+ Đạo Tin lành cịn là một tơn giáo có đường hướng và phương thức
hoạt động rất năng động, ln đổi mới từ nội dung đến hình thức để thích nghi
với hồn cảnh xã hội. Đặc biệt, đạo Tin lành tham gia tích cực vào các hoạt
động xã hội, nhất là lĩnh vực từ thiện nhân đạo, lấy đó làm phương tiện mở
rộng ảnh hưởng. Điều này tạo ra uy tín và khả năng tiếp cận, chung sống với
nhiều chế độ chính trị khác nhau.
+ Ngồi tầng lớp thị dân, đối tượng truyền đạo quan trọng thứ hai của
đạo Tin lành là đồng bào các dân tộc thiểu số. Đó là những vùng đất mới - nơi
chưa có tơn giáo chính thống hoặc tơn giáo, tín ngưỡng cũ đang suy thối, mất
uy tín, nơi đời sống dân sinh, trình độ dân trí thấp. Truyền đạo đến những vùng
này, đạo Tin lành không những phát huy lợi thế vốn có "đơn giản về luật lệ, lễ
nghi, cách thức hành đạo" mà còn nghiên cứu rất kỹ đặc điểm lịch sử, văn hoá,
tâm lý, lối sống, phong tục, tập quán của từng dân tộc, chủ động địa phương
hoá, dân tộc hố để dễ dàng hồ nhập.
+ Ra đời, phát triển cùng với giai cấp tư sản cho nên đạo Tin lành có mối
quan hệ khá chặt chẽ với giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản sử dụng đạo Tin lành
như một thứ vũ khí trong các cuộc cách mạng tư sản ở thời kỳ đầu và việc tìm
kiếm thị trường thuộc địa sau này. Ngược lại, đạo Tin lành nhờ dựa vào giai

72


cấp tư sản để củng cố phát triển lực lượng, kể cả việc lợi dụng các cuộc chiến

tranh xâm thực mà giai cấp tư sản tiến hành.
+ Tuy nhiên, trong từng thời kỳ lịch sử, từng tổ chức hệ phái Tin lành,
mối quan hệ nói trên có sự thay đổi ở từng nước, từng khu vực. Thời gian sau
này, đạo Tin lành chịu ảnh hưởng của các xu hướng tiến bộ trên thế giới nên
nhiều phái Tin lành tách dần khỏi sự kiềm tỏa của các thế lực chính trị.
2.8.Hồi giáo
2.8.1. Người Hồi giáo ở Việt Nam
- Người Chăm là dân tộc duy nhất ở Việt Nam theo Hồi giáo. Hồi giáo
thế giới có những luật lệ khắt khe nhưng khi du nhập vào cộng đồng người
Chăm nó đã bị biến đổi rất nhiều và mang đậm tính nhân văn tộc người bởi sức
sống mãnh liệt của truyền thống văn hóa bản địa. Đó chính là đặc trưng văn
hóa Chăm.
- Sơ lược lịch sử Người Chăm ở Việt Nam: Người Chăm hiện nay cư trú
khá tập trung trong các palei (hoặc puk) thuộc các tỉnh Bình Định, Phú n,
Khánh Hịa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh, An
Giang và Thành phố Hồ Chí Minh. Ngồi ra, họ cịn sinh sống ở một số tỉnh
Tây Ngun nhưng khơng nhiều. Dân số Chăm hiện nay có khoảng 1,5 triệu
người. Do đặc điểm cư trú và bản sắc văn hóa mang tính địa phương, người
Chăm ở Việt Nam được chia thành ba nhóm cộng đồng: Chăm Hroi (Chăm
theo tín ngưỡng cổ truyền), Chăm Panduranga (ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và
Hồi giáo đã bị bản địa hóa), Chăm Nam Bộ (ảnh hưởng Hồi giáo chính thống).
Sự phân hố người Chăm thành 3 nhóm đã chứng tỏ ở cộng đồng này vấn đề
dân tộc gắn bó chặt chẽ với vấn đề tơn giáo và tín ngưỡng. Đồng thời, bản sắc

73


dân tộc cũng được biểu hiện thông qua từng cộng đồng tôn giáo với những
mức độ khác nhau.
- Sự du nhập Hồi giáo vào Việt Nam: Hồi giáo Islam là một tôn giáo

độc thần, là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới sau Kitô giáo, và là tôn giáo đang
phát triển nhanh nhất về số lượng tín đồ. Được ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 7
tại bán đảo Ả Rập, do Muhammad sáng lập, đạo Hồi chỉ tôn thờ Allah Đấng tối
cao, Đấng duy nhất. Muhammad là vị Thiên sứ. Đối với người Chăm, đặc biệt
là người Chăm Nam Bộ ở Việt Nam thì vai trị của Hồi giáo rất lớn trong đời
sống văn hoá và tâm linh. Đạo Hồi là một tôn giáo xuất hiện khá sớm ở Việt
Nam nhưng không phổ biến mà chỉ trong một phạm vi nhỏ, chủ yếu của người
Chăm ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Sự quá ngặt nghèo của nghi lễ
Hồi giáo, sức sống trường tồn của văn hóa bản địa, sự ảnh hưởng sâu rộng của
đạo Phật, đạo Hindu từ Ấn Độ và Trung Quốc, đạo Thiên chúa giáo với sự bảo
trợ của các thuyền buôn và thực dân phương Tây… là những nguyên nhân cản
bước đạo Hồi thâm nhập vào Việt Nam, thậm chí những khu vực đạo Hồi đã
thâm nhập cũng biến đổi khá nhiều để phù hợp với văn hóa truyền thống của
cư dân bản địa (đặc biệt là người Chăm Bàni ở Ninh Thuận và Bình Thuận).
- Đặc điểm Hồi giáo của người Chăm ở Việt Nam Nguời Chăm theo đạo
Hồi ở Việt Nam chia thành hai nhánh: Chăm Bàni (một bộ phận Chăm Islam) ở
miền Trung và Chăm Islam ở Nam Bộ:
+ Người Chăm theo Hồi giáo ở Ninh Thuận và Bình Thuận là những
người “Hồi sớm”, tức là đến sớm mà không sâu, căn bản vẫn là Chăm, lưu giữ
và pha trộn nhiều tập tục Hindu trong tín ngưỡng và cấm kị Hồi giáo. Họ
không theo đầy đủ, không đúng quy tắc và khơng liên hệ gì với thế giới Hồi
giáo cũng như với những đồng đạo của mình ở miền Nam. Họ không biết giáo
lý Hồi giáo, không biết chữ Arab, không thông hiểu kinh Cora. Cộng đồng
74


×