Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Dàn ý phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
I. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả Tơ Hồi và truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" với chất
thơ độc đáo
II. Thân bài:
* Chất thơ trong hình ảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc
● Tây Bắc hiện lên với núi rừng trùng điệp quanh năm ẩn hiện trong mây và
sương mù.
● Chất thơ được thể hiện rõ nét khi Tơ Hồi miêu tả khung cảnh mùa xuân nơi
rẻo cao Tây Bắc.
● Những trang văn viết về thiên nhiên rẻo cao và mùa xuân ấy hài hòa, đẹp như
bài thơ trữ tình viết bằng văn xi.
* Chất thơ qua đời sống sinh hoạt và phong tục tập quán của con người
- Xây dựng những hình ảnh quen thuộc trong đời sống thường nhật của người Tây Bắc
như ngôi nhà gỗ với bếp lửa bập bùng suốt mùa đông không, công việc cõng nước,
quay sợi...
- Ngày Tết: Không giống như người miền xuôi, người vùng cao ăn tết khi ngơ lúa đã
gặt xong.
● Khơng khí ngày Tết của Hồng Ngài mang đậm hơi thở, hương vị của núi rừng
Tây Bắc khi "trai gái tìm nhau để tỏ tình", chơi ném cịn, chơi quay, thổi sáo,
đàn mơi, uống rượu...
● Đặc biệt, tác giả dành nhiều tình cảm và câu chữ cho việc miêu tả tiếng sáo cầu nói truyền tải ngôn ngữ của người H'Mông, thay họ cất lên tiếng lòng sâu
thẳm, vượt qua dòng chảy thời gian, trở thành dịng chảy tâm hồn của biết bao
đơi trai gái miền sơn cước.
* Chất thơ trong con người - Mị
● Mị là cô gái trẻ, nết na xinh đẹp như một bơng hoa ban trên rẻo cao Tây Bắc, vì
món nợ truyền kiếp của bố mẹ, Mị bị thống lý Pá Tra bắt về làm dâu trừ nợ và
rơi vào cảnh tăm tối. Những tưởng Mị có lẽ sẽ héo hắt, sống mòn mỏi lầm lũi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
hết cuộc đời song ẩn sau tâm hồn ấy vẫn le lói những ánh lửa của khát vọng tự
do và tình u cuộc sống mãnh liệt.
● Vẻ ngồi của Mị đều toát lên vẻ âm thầm nhẫn nhịn, chịu đựng nhưng kỳ thực
bên trong đó lại tiềm tàng 1 sức sống vô cùng mãnh liệt.
● Âm thanh tiếng sáo quen thuộc của núi rừng Tây Bắc ấy đã chạm vào sâu thẳm
tâm hồn Mị, làm rạo rực tâm hồn người con gái trẻ đẹp
=> Chính sức sống tiềm tàng, rạo rực âm thầm cháy tựa như ánh sáng nâng đỡ, ngăn
cản sự lụi tàn của tâm hồn. Khi bùng cháy lên lại biến thành sức mạnh có thể xua tan
tất cả.
* Chất thơ thể hiện qua ngôn ngữ nghệ thuật
● Tơ Hồi sử dụng hàng loạt âm thanh cùng nhiều hình ảnh gợi cảm vừa rực rỡ
màu sắc vừa rất đỗi nên thơ.
● Ngôn ngữ văn xuôi vừa cụ thể rõ ràng vừa trừu tượng vơ hình.
● Âm điệu và tiết tấu cũng như giọng kể nhẹ nhàng theo mạch cảm xúc êm đềm
chảy trôi trong tâm trạng
● Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình
cùng sự mượt mà của văn phong điêu luyện.
III. Kết bài:
- Đánh giá lại giá trị tác phẩm với nền văn học
Chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ - Mẫu 1
“Mỗi người nghệ sĩ có một cái tạng riêng, một tố chất tâm hồn riêng tạo nên một thứ
nam châm hút lấy những cái gì phù hợp” (Nguyễn Đăng Mạnh). Có lẽ vì vậy mà mỗi
khi đọc những tác phẩm của Nam Cao, như “Chí Phèo” chẳng hạn, tơi lại cảm, lại
thấm thía cái nỗi đau tột cùng của người nông dân trong xã hội cũ. Cũng có những khi
cuộc sống xơ bồ, tơi lại tìm đến với Thạch Lam, mượn chiếc chìa khóa để bước vào
cánh cổng của miền thần tiên, cổ tích, cảm nhận tâm hồn mình lắng lại “dưới bóng
hồng lan”. Nhưng khơng hiểu sao, tơi vẫn thích nhất cái cảm giác mỗi khi đọc những
“trang thơ” rất thơ của Tơ Hồi - “Vợ chồng A Phủ”.
Có lẽ “chất thơ” chẳng cịn xa lạ gì đối với những bạn đọc yêu văn học, đặc biệt là với
những thi gia, đó là tính chất trữ tình, tính chất được tạo nên từ sự hòa quyện giữa vẻ
đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của các biểu hiện nó để có thể khơi
gợi những rung động thẩm mỹ và tình cảm nhân văn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Thế nhưng có mâu thuẫn gì khơng khi nói một tác phẩm văn xi, truyện ngắn cũng
thấm đẫm chất thơ? Chúng ta hồn tồn có thể và có quyền nói như vậy. Chất thơ tự
bao giờ đã khơng cịn bó hẹp mình trong khn khổ của những bài thơ trữ tình, nó đã
tự bật tung, phát ra ánh sáng và phù lên văn đàn Việt Nam một lớp áo vơ hình chỉ
được cảm nhận bằng rung động con tim, xúc động tâm hồn.
Trên văn đàn Việt Nam có biết bao những tác phẩm văn xuôi thấm đẫm chất thơ
nhưng không phải tác phẩm nào được sinh ra dưới ngịi bút của người nghệ sĩ đều
mang sẵn trong mình tính chất trữ tình, đều thấm đẫm những ý thơ trong văn xuôi.
Một truyện ngắn được coi là giàu chất thơ khi mối bận tâm của người viết không đặt
vào việc kể lại một biến cố, sự việc, hành động mà là việc làm bật lên một trạng thái
của đời sống hoặc của tâm hồn con người, và “Vợ chồng A Phủ” của Tơ Hồi là một
tác phẩm như vậy.
Cách đây hơn sáu mươi năm trước, có một người lữ khách đã băng rừng, lội suối để
tìm đến với một vùng đất mới, để khai phá và mang những nét đẹp của một vùng đất
xa xôi đến với bạn đọc bấy giờ: Tơ Hồi trên con đường tìm đến với mảnh đất Tây
Bắc thân yêu. “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn tập trung tinh hoa của ngịi bút Tơ
Hồi về Tây Bắc khơng chỉ vì nó đem lại những hương sắc lạ về cảnh trí, con người
mà quan trọng hơn cịn là khả năng phân tích tinh tế những diễn biến đầy mâu thuẫn
của nội tâm, kết đọng một tình cảm nhân đạo đậm đà để rồi bao trùm lên tất cả là điều
mà sau này Tơ Hồi đã cảm thấy “một chất thơ vời vợi bay lên từ cảnh vật của nơi
rừng núi tuyệt vời thơ mộng ấy”
Trước tiên tơi muốn nói tới một yếu tố tạo nên sức hấp dẫn diệu kỳ của nơi rừng núi
Tây Bắc. Một thế giới khơng phải cổ tích mà như thoảng hương ca dao, cổ tích, một
thế giới hứa hẹn rất nhiều sức gợi cảm hiện lên qua bức tranh thiên nhiên sống động,
quyến rũ, đẹp mê hồn của Hồng Ngài: “năm ấy, Hồng Ngài ăn tết sớm giữa lúc gió
thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đô,
những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Với
những gam màu tự nhiên, tất cả cảnh vật, thiên nhiên, đất trời cùng thêu dệt tạo nên
một bức tranh thủy mặc của tạo hóa chỉ được tìm thấy ở chốn núi rừng Tây Bắc.
Sẽ là chưa đủ nếu bức tranh ấy thiếu bóng dáng của con người. Tuyệt vời làm sao khi
mỗi độ tết đến, người ta lại trông thấy “đám trẻ đội Tết, chơi quay, cười ầm trên sân
trước nhà”. Rồi những đêm tình mùa xuân, những người con trai mang tiếng khèn,
điệu nhạc đi tìm “bạn yêu”. Khung cảnh ấy mở ra trong tâm trí người đọc một miền
đất thanh bình với những nét đẹp văn hóa bình dị nhưng đầy ý nghĩa đối với con
người.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Thiên nhiên dù đẹp đến đâu cũng chỉ là phông nền cho con người tỏa sáng, truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” thơ nhất có lẽ phải kể tới bức tranh đời sống tâm hồn của con
người nơi đây. Những cô gái như cô Mị tài sắc dù bị vùi dập bởi chế độ phong kiến
miền núi, bởi nam quyền, thần quyền nhưng sức sống tiềm tàng chưa bao giờ tắt lịm.
Những chàng trai như A Phủ dù cuộc đời trăm đắng ngàn cay nhưng vẫn đầy bản lĩnh,
gan góc, quyết liệt, dữ dội.
Khi cánh cửa “Vợ chồng A Phủ” vừa mở ra, Tơ Hồi đã dắt nẻo hồn ta đến với một
con người hay đúng hơn là một kiếp người, một số phận nghiệt ngã qua hình ảnh của
người thiếu phụ buồn “ngồi quay sợi bên tảng đá trước của, cạnh tàu ngựa. Lúc nào
cũng vậy, dù quay sợ, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối
lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị như một cái bóng, một mảng tối im
lìm trong cảnh giàu sang của nhà thống lí Pá Tra. Càng ngày Mị càng khơng nói, chỉ
“lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Người đàn bà ấy bị cầm tù trong ngục thất tinh
thần, nơi lui vào, lui ra chỉ là một căn buồng kín mít “chỉ có một chiếc cửa sổ lỗ
vng bằng bàn tay”. Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, cũng
chẳng đi chơi Tết.
Nhà văn có tả hình dáng nhưng khơng nhằm khắc họa chân dung ngoại hình mà chủ
yếu làm nổi bật con người số phận, một số phận nghiệt ngã đắng cay, tủi cực. Điều đó
có sức ám ảnh đối với độc giả, gieo vào lịng người đọc những xót thương. Ách áp
bức nặng nề của bọn chúa đất miền núi, cả cường quyền và thần quyền đã đè nén một
tâm hồn yêu đời khát sống trở thành một người hoàn toàn tê liệt về ý thức: “sống lâu
trong cái khổ Mị cũng quen rồi”, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa”, “Mị
chỉ cúi mặt không nghĩ ngợi”, chỉ “nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau”, Mị khơng
cịn ý thức được về thời gian, tuổi tác và cuộc sống. Cô giống như một cỗ máy hoạt
động theo một quy luật đã được lập trình sẵn. Mị vơ cảm, khơng tình u, khơng khát
vọng, thậm chí cũng khơng cịn biết đến khổ đau.
Nhưng đâu đó trong thẳm sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì khổ đau, cơ cực ấy
vẫn tiềm ẩn một cô Mị ngày xưa, một cô Mị trẻ đẹp như đóa hoa nơi núi rừng Tây Bắc
đầy sức sống, một người con gái trẻ trung, hiếu thảo. Ngày ấy tâm hồn yêu đời của Mị
gửi vào tiếng sáo: “Mị thổi sáo giỏi, khơng có sáo, Mị uốn chiếc lá trên môi cũng hay
như thổi sáo vậy”/ Ở Mị, khát vọng tình u, tự do ln ln mãnh liệt. Nếu không bị
bắt làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị sẽ trở thành hiện thực bởi “trai làng đến
đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của
người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình u nhưng khơng ngờ lại sớm rơi vào
cạm bẫy.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này.
Nhà văn miêu tả những tố chất này ở Mị khiến cho câu chuyện phát triển theo một
hướng tự nhiên, hợp lý. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền
có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người
nhưng từ trong sâu thẳm, cái bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ
hội nó sẽ bùng lên mãnh liệt.
Bị bắt về nhà thống lí làm con dâu gạt nợ, Mị định tự tử, Mị tìm đến cái chết chính là
sự phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể nào
làm khác được trong hồn cảnh ấy, có đến “mấy tháng rịng đêm nào Mị cũng khóc”,
Mị trốn về nhà cầm nắm lá ngón trên tay. Chính khát vọng được sống một cuộc sống
đúng nghĩa đã khiến Mị không thể chấp nhận một cuộc sống bị chà đạp, bị đối xử như
một con vật. Mị tìm đến cái chết như một sự giải thốt.
Đêm tình mùa xn là cái đêm đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời của Mị. Mị đột nhiên
lại muốn đi chơi và sửa soạn để đi chơi. Tơ Hồi đã bộc lộ tất cả những anh hao của
mình trong việc lý giải sự chuyển biến tâm lý của Mị, nó vừa như là một hành động
bộc phát, lại vừa là một hệ quả tất yếu của một sức sống tiềm tàng được khơi dậy,
bùng lên để quên đi thực tại, sống với bản chất của mình.
Sự thức tỉnh ý thức của Mị trước hết là nhờ sự tác động của hồn cảnh, khi mà Mị
nhìn thấy vẻ đẹp của cảnh vật Hồng Ngài khi xuân đến. Nếu ngoại cảnh là chất xúc
tác gián tiếp thì rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời khát sống của Mị trỗi
dậy. “Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một” như nuốt cay, nuốt đắng, nuốt
uất, nuốt hận vào lịng. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị đi theo tiếng sáo.
Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trị đặc biệt quan
trọng. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi, Mị ngồi nhẩm thầm lời bài hát của
người đang thổi”. Với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của
khát khao hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại dụng công miêu tả tiếng
sáo nhiều lần đến vậy. “Tiếng sáo gọi bạn cứ tha thiết, bồi hồi”, “ngoài đầu núi lấp lấp
ló đã có tiếng ai thổi sáo”, “tai Mị vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”, “mà tiếng sáo gọi
bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những
cuộc chơi, đám chơi”, “trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Tơ Hồi đã miêu tả tiếng sáo
như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh tâm hồn Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của khát
vọng tình u tự do, là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa tưởng chừng đã nguội tắt.
Thoạt tiên, tiếng sáo cịn “lửng lơ”, “lấp ló” ngồi đầu núi, ngồi đường. Sau đó tiếng
sáo đã thâm nhập vào thế giới nội tâm của Mị và cuối cùng trở thành lời mời gọi tha
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
thiết để rồi tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo. Mị đã thoát khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội
lạnh lâu nay.
Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn
ngủi của tuổi trẻ của mình và niềm vui sống trở lại: “Mị còn trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ
lắm. Mị muốn đi chơi”. Phản ứng đầu tiên của Mị là “nếu có nắm lá ngón trong tay,
Mị sẽ ăn cho chết” chứ không buồn nhớ lại nữa cái ngày xưa đẹp đẽ ấy bởi nhớ lại
“chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Những giọt nước mắt tưởng chừng đã cạn kiệt vì đau khổ
đã lại có thể lăn dài. Đau khổ tưởng đã làm Mị tê liệt về lý trí lẫn tình cảm nhưng từ
trong sâu thẳm, tâm hồn Mị khơng chết, Mị vẫn cịn khóc được cho hồi niệm của
mình, khóc cho vết thương tưởng như đã mãi mãi thánh sẹo, thành chai. Từ những sôi
sục trong tâm tư đã dẫn tới hành động: “lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa
dầu”. Đây là hành động của sự thức tỉnh. Mị muốn thắp sáng cho cuộc đời tăm tối của
mình. Chi ít, thứ ánh sáng này cũng giúp Mị cảm thấy mình khơng phải là một thứ đồ
vật bị lãng quên. Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”.
Và cứ như một người đàn bà mộng du, Mị quên hẳn sự có mặt của A Sử, qn hẳn
mình đang bị trói mà tiếng sáo vẫn dìu tâm hồn Mị “đi theo những cuộc chơi, đám
chơi”. Tâm hồn Mị đã thuộc về một thế giới khác, một thế giới lung linh như ngọc
bích, lóng lánh như pha lê, một thế giới mà ở đó, Mị thổi sáo, Mị hát, Mị yêu và được
yêu. Đó là một sức sống tiềm tàng, dữ dội và mãnh liệt.
Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt ở Mị được biểu hiện rõ nhất ở hành động “vùng bước
đi” giữa lúc cả người bị trói đứng vào cột. Chỉ khi “tay chân đau không cựa quậy
được”, Mị mới sực tỉnh trở về hiện tại. Tiếng sáo im bặt, thay vào đó là “tiếng chân
ngựa đạp vách” khiến Mị cay đắng nghĩ “mình khơng bằng con ngựa”. Trong tác
phẩm, rất nhiều lần tác giả nhắc đến cuộn dây trói, đó là biểu tượng cho chế độ cường
quyền và thần quyền khắc nghiệt, nhưng ngay cả khi cuộn dây thít chặt cũng khơng
thể ngăn con người nghĩ đến cuộc sống, sống với thế giới của tình yêu và khát vọng.
Tơ Hồi đã đặt sự hồi sinh của Mị vào một tình huống bi kịch: “khát vọng mãnh liệt –
hiện thực phũ phàng khiến cho sức sống của Mị càng thêm phần dữ dội. Quá trình hồi
sinh của một sức sống tiềm ẩn được nhà văn miêu tả không hề hời hợt, dễ dãi. Nhân
vật thoát khỏi sự thờ ơ, nguội lạnh không hề đơn điệu, dễ dàng. Mị sống quá lâu trong
cái khổ, vì thế, sự hồi sinh đến quá nhanh rất dễ gây cảm giác giả tạo. Đó phải là một
quá trình chuyển biến lớn dần và phải có một sự tác động đặc biệt. Sự tác động đó
khơng gì thay thế được chính là tiếng sáo trong đêm tình mùa xn. Một làn sóng cảm
xúc đi qua, dù mãnh liệt cũng không thể làm thay đổi cuộc đời Mị. Nhưng những gì
mà Tơ Hồi viết về đêm tình mùa xn ấy thật vơ cùng ý nghĩa. Qua đây nhà văn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
muốn khẳng định: Sức sống của con người dù bị giẫm đạp, bị trói chặt vẫn ln âm ỉ,
chỉ cần gặp dịp là sẽ bùng lên.
Khi tiếng sáo im bặt, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vách cũng là lúc mọi ký ức tan
biến, cuộc đời Mị lại như những đêm đông trên miền núi cao, vừa dài vừa buồn.
Trước cảnh A Phủ bị trói, Mị hồn tồn vơ cảm, vẫn “thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Có
đêm, bị A Sử đánh gục ngay trên bếp lửa mà đêm say, Mị vẫn trở dậy thổi lửa, hơ tay
như thế. Ta cứ tưởng như sức sống trong Mị như ngọn đèn cạn dầu, chỉ bùng lên rồi
tắt ngấm. Nhưng không, phần trên mới chỉ là phần chuẩn bị cho một bước đột phá.
Tâm hồn tê dại của người đàn bà ấy đột ngột bùng lên thật mãnh liệt: cắt dây cởi trói
cứu A Phủ và tự giải thốt cho chính mình.
Hành động của Mị vừa mang tính tự phát, vừa có ý thức tự giác. Tự phát bở sự việc
đến nhanh, đột ngột và Mị khơng kịp tính trước sẽ đi đâu, làm gì, ngay cả việc có chạy
theo A Phủ hay không Mị cũng chỉ quyết định ngay sau khi cắt dây cởi trói, đứng lặng
một phút trong bóng tối. Tơ Hồi thật tinh tế và bản lĩnh khi sắp xếp chi tiết này bởi
nếu không khéo rất có thể có hai khả năng xảy ra. Một là Mị trốn chồng vì khổ quá,
hai là Mị bỏ chồng theo A Phủ vì A Phủ là người mà bao cơ gái mong ước có được.
Hai khả năng này đều hạ thấp giá trị nhân vật. Mị cắt dây trói cho A Phủ nhưng khơng
hề chạy theo. Chỉ sau khi định thần lại nỗi hoảng sợ đã đẩy bàn chân Mị vùng chạy
theo một cách tự nhiên.
Tuy vậy hành động của Mị chính là kết quả tất yếu của một con người có sức sống
tiềm tàng. Hành động này có nguồn gốc từ bản chất của một người con gái hiếu thảo,
yêu đời, ham sống trong quá khứ. Từ cái “buồn rười rượi”, từ cách uống rượu “ừng ực
từng bát một” và ngay cả ý định tự sát của Mị nữa. Trực tiếp hơn là những giây phút
Mị rạo rực nghe tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân. Sâu xa hơn nữa là vì Mị cảm thấy
đau đớn giống như những lần Mị bị trói, Mị khơng thể để một con người vô tội phải
chết dần trong đau đớn.
Tất cả được khởi dậy đúng lúc Mị trông thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống
hai hõm má đã đen sạm lại của A Phủ”. Giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp
Mị nhớ lại, nhận ra mình, xót xa cho mình, nhận ra sự tàn ác của nhà thống lí, tất cả đã
khiến cho hành động của Mị mang tính tất yếu.
Tất nhiên Mị cũng rất lo lắng, hoảng sợ. Mị sợ mình bị trói thay vào cái cọc ấy. Khi
đã chạy theo A Phủ, cái ý nghĩ ấy vẫn còn đuổi theo Mị: “Ở đây thì chết mất”. Nỗi lo
lắng của Mị cũng là một khía cạnh của lịng ham sống, tiếp thêm sức mạnh cho Mị
vượt lên số phận.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Những vẻ đẹp đặc biệt là sức sống tiềm tàng trong tâm hồn của người con gái nơi
núng rừng Tây Bắc đã làm cho truyện ngắn tỏa ngát hương thơm, thấm đẫm trữ tình.
Lại một minh chứng cho tài hoa của người nghệ sĩ đã có cơng khai phá một vùng đất
mới.
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” sẽ vượt qua thách thức của thời gian để sống mãi với
tâm hồn bạn đọc không chỉ bởi nhà văn đã đưa vào những “ý thơ trong văn xuôi” mà
hơn hết ta cảm nhận được tấm lòng nhân đạo cao cả, luôn sẵn sàng “nâng giấc cho
những kẻ cùng đường tuyệt lộ”.
Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 2
Tơ Hồi là một trong những cây bút nổi bật của nền văn học Việt Nam hiện đại, với số
lượng tác phẩm đồ sộ viết về nhiều đề tài, thể loại, hướng đến nhiều đối tượng độc giả
khác nhau. Đặc biệt trong quãng thời gian 9 năm tham gia kháng chiến chống Pháp
tạo vùng núi Tây Bắc nước ta đã để lại cho Tơ Hồi nhiều những xúc cảm cũng như
những dấu ấn sâu sắc với con người và thiên nhiên nơi đây. Trong quá trình kháng
chiến, cùng ăn ở, sinh hoạt với đồng bào dân tộc thiểu số, tác giả đã có cái nhìn thấu
hiểu và thơng cảm sâu sắc với những con người phải chịu sự áp bức từ cả cường
quyền lẫn thần quyền. Chính vì thế mà các tác phẩm hiện thực đã ra đời tiêu biểu nhất
là Vợ chồng A Phủ khơng chỉ có nội dung, ý nghĩa sâu sắc, phản ánh chân thực cuộc
sống của đồng bào miền núi những năm kháng chiến, mà nó cịn là tất cả những gì
tinh túy về mảnh đất Tây Bắc mà Tơ Hồi đã khám phá, góp nhặt được. Sự hiểu biết,
gắn bó và trân trọng của tác giả được thể hiện một cách rất tinh tế nhẹ nhàng thông
qua các ý thơ trong tác phẩm, khiến độc giả càng có ấn tượng sâu sắc về cuộc đời, số
phận của từng nhân vật, cũng như những nét độc đáo từ mảnh đất xa xôi ngút ngàn
mây phủ.
Khi nói về Truyện Tây Bắc mà tiêu biểu nhất là Vợ chồng A Phủ Tơ Hồi đã nói rằng
“Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất cả miền Tây, tôi đã đưa vào một khơng khí vời vợi,
làm cho đất nước và con người bay bổng lên hơn, rời bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt
vặt thường làm co quắp nhân vật, nhỏ bé vấn đề và khung cảnh đi”. Rõ ràng rằng cuộc
đời của nhân vật Mị hay A Phủ đều là cuộc đời bao trùm bởi những bi kịch và đau khổ
đến mức tuyệt vọng, thế nhưng dưới ngịi bút của Tơ Hồi, dưới cái nhìn thấm thía và
sâu sắc vào nội tâm của nhân vật, ơng không quá nhấn mạnh những nỗi đau ấy, mà
thay vào đó To Hồi để người đọc tự cảm nhận thơng qua những suy nghĩ, cử chỉ của
nhân vật. Và cả cái cách khi ông viết về khung cảnh sinh hoạt vùng Tây Bắc, viết về
những thói quen, những cơng việc, những đặc nhưng mà chỉ nơi này mới có được,
khiến độc giả dễ dàng cảm nhận được tâm hồn cũng như số phận và nỗi đau của từng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
nhân vật. Tơ Hồi muốn diễn tả cái cuộc đời bế tắc và tuyệt vọng của Mị thông qua
một hình ảnh rất đặc sắc, ấy là căn buồng Mị ở chỉ có một ơ cửa sổ bé bằng bàn tay
mà trông ra “lúc nào cũng thấy trăng trắng khơng biết là sương hay là nắng”. Đó chính
là một ý thơ rất đẹp, người đọc dễ dàng liên tưởng đến một vùng đất bốn bề mây phủ
sương giăng, bay bổng và thơ mộng, ban ngày thì mây hịa với nắng, ban đêm thì
sương quyện với trăng. Ấy thế nhưng một vùng đất đẹp, đầy chất thơ như thế lại có
những cuộc đời đớn đau giống Mị, cơ thấy trăng trắng ấy nhưng lại không phân biệt
được đêm với ngày, không nhận thấy được sự huyền diệu tươi đẹp của thiên nhiên, thể
hiện một cuộc đời cầm tù và bế tắc đến khơn cùng. Có thể nói rằng chất thơ trong văn
xi của Tơ Hồi lại càng tơ đậm thêm số phận của nhân vật.
Một dẫn chứng khác về chất thơ, chất nhạc trong văn của Tơ Hồi phải kể đến cảnh
mùa xuân ở Hồng Ngài có biết bao nhiêu náo nhiệt, vui nhộn và đặc sắc “Trên đầu
núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp tên đầy các nhà kho”, “trẻ con
đốt những lều canh nương”, “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa đã
đem phơi trên những mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ, gió và rét rất dữ dội”. Đọc
những câu văn ấy người ta thấy một cái không khí thật dễ chịu, dường như cịn cảm
nhận được cả cái gió se se lạnh của mùa xuân, cái nắng ấm áp những ngày giáp Tết,
đến cả cái khơng khí rộn ràng, vui tươi trong những ngày xuân vừa tới. Như vậy chỉ
bằng vài câu văn tả cảnh, nhưng đã gợi ra một không gian Tây Bắc rộng lớn, sống
động, và có lẽ gợi ra nhiều nhất ấy là cảm giác tự do, phóng khống. Ấy thế nhưng khi
quay lại với cuộc đời của Mị, Mị lại càng bất hạnh hơn khi bản thân ở tại một vùng
đất tươi đẹp như thế, nhưng đời Mị lại toàn là những bi kịch đen tối và đớn đau nhất
ấy là sự mất tự do, bị cầm tù bằng một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Song song
với việc miêu tả cuộc đời Mị, với những diễn biến tâm trạng, ý thơ của Tơ Hồi cũng
len lỏi khắp trong từng câu văn. Khi kể về cuộc đời của Mị tại nhà thống lý Pá Tra,
người ta dễ dàng nhận thấy những nếp sống, phong cách sinh hoạt của người dân tộc
H’Mông ở miền núi phía Bắc, như đi làm nương ngơ, nương lúa, quay sợi gai, dệt vải,
cõng nước, thái cỏ ngựa, chẻ củi, giặt đay, xe đay,…
Rồi những cảnh bếp lửa bập bùng, khơng tắt hịn than vào những đêm đơng giá rét,…
Hoặc trong cách ăn mặc phục sức thì phụ nữ mặc váy hoa, vấn tóc chít khăn, đàn ơng
đeo vịng bạc, đội khăn trắng. Và đáng chú ý nhất khi nói về chất thơ trong Vợ chồng
A Phủ có lẽ phải kể đến cái cách mà Tơ Hồi đã miêu tả về mùa xuân ở Hồng Ngài,
mùa xuân ở miền cao. Ở đây người ta đoán mùa xuân đến dựa vào vụ mùa canh tác,
ăn tết không kể ngày tháng, cứ kết thúc một mùa thu hoạch ngô lúa, là họ lại ăn Tết
vừa mừng xuân đến, vừa mừng việc mùa màng được no đủ. Và trong mùa xuân ấy Tơ
Hồi cũng rất tinh tế khi đưa vào những cảnh trai gái mùa xn tìm nhau để tỏ tình, họ
khốc lên mình những bộ áo đẹp nhất, đi chơi theo từng đoàn, lập hội ném pao, thổi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
sáo, đàn môi, uống rượu,… đầy náo nức và mê say, mang đậm phong vị núi rừng Tây
Bắc, tự do và bay bổng. Trong đó ngày Tết được Tơ Hồi đặc tả bằng những hình ảnh
giàu tính nhạc và màu sắc, mang đến một khơng khí rộn ràng, náo nức “Trong các
làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con
bướm sặc sỡ […] Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Hay
cái cách ăn vận ngày Tết của người phụ nữ miền núi, mỗi một dân tộc lại có những nét
đặc sắc riêng biệt “Các chị Mèo đỏ, váy thêu, áo khoác, khăn hoa chùm rực rỡ. Các
chị Mèo trắng chít khăn xếp phẳng lì, tóc mai cạo xanh nhẵn”. Có thể nói rằng thơng
qua đơi mắt nhạy bén, giàu tình cảm của Tơ Hoài, mùa xuân vùng Tây Bắc đã hiện lên
một cách thật chân thực và nhiều ấn tượng.
Một điểm nhấn đặc biệt, có thể xem là âm thanh sự sống đã thức tỉnh khao khát tự do,
khao khát hạnh phúc ở nhân vật Mị ấy là tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn vào những đêm
tình mùa xn “Ngồi đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”, “Tiếng sáo
réo rắt suốt đêm ngoài đầu núi tranh”. Tiếng sáo ấy gợi Mị nhớ đến những câu hát:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Tao khơng có con trai con gái
Tao đi tìm người u…
Anh ném pao em khơng bắt
Em khơng u quả pao rơi rồi”
Đó là những câu hát thể hiện lối sống phóng khống, tự do của đồng bào dân tộc miền
núi, mà khi đến với Mị nó lại dường như đánh động vào tâm hồn, Mị vẫn còn trẻ, Mị
khao khát được tự do, hạnh phúc, khao khát tình yêu, thứ mà chồng Mị không cho Mị
được. Nỗi đau đớn dần trỗi dậy trong tâm hồn cô gái, cũng là lúc Mị thức tỉnh sau
nhiều năm câm lặng, chịu đựng. Mị uống rượu, uống ừng ực từng bát, nó khơng chỉ là
thể hiện những nỗi uất ức, đau đớn chất chứa trong lòng Mị bấy lâu nay, mà còn là
biểu hiện của sức sống tiềm tàng mãnh liệt, của ngọn lửa đang bùng cháy trong lòng,
nhiều chất thơ và ý vị. Mị lại cảm thấy yêu đời, lại nhớ về những ký ức thật tươi đẹp
khi xưa: “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi
sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người
mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Rồi sau tất cả, dưới tác động của tiếng sáo gọi
bạn, dưới men say của rượu “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn cịn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Có
thể nói rằng sự thức tỉnh của Mị gắn liền với nét văn hóa đặc sắc của người miền núi
phía Bắc, đem đến cho độc giả những ấn tượng sâu sắc về cuộc đời một người phụ nữ
H’Mông ở Hồng Ngài khi xưa. Tính nhân văn trong tác phẩm đã được Tơ Hồi khéo
léo đưa vào trong tác phẩm bằng những ý thơ thật tinh tế, những cảm nhận và lịng
thơng cảm sâu sắc, mà không phải bất cứ một cây bút nào cũng có được
Bên cạnh những nét phong tục tập qn tốt đẹp, thì Tơ Hồi cũng chỉ ra những ngang
trái và bất công đang diễn ra ở vùng miền núi phía Bắc, khi mà người dân tộc nơi đây
luôn phải chịu sự áp bức của cả cường quyền và thần quyền. Đầu tiên phải kể đến hủ
tục bắt vợ, cuộc đời Mị đã phải bước vào cảnh đớn đau khi bị bắt về nhà thống lý Pá
Tra làm con dâu gán nợ, sống một cuộc đời nhiều đớn đau, khổ cực, đến độ chai lỳ.
Mà căn nguyên của bi kịch ấy cũng là đến từ sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn, và sự
ngang ngược tàn ác của giai cấp thống trị. Xoay quanh nhân vật A Phủ, cũng là một
nhân vật nhiều bi kịch, chất thơ ở nhân vật này hiện lên với vẻ đẹp của một người đàn
ông khỏe mạnh, khôi ngô, không sợ cường quyền, sẵn sàng lao vào đánh kẻ đã phá tan
cuộc chơi của mình, mặc kệ hắn là con nhà thống lý. Tuy nhiên sự nghèo khó, thân cơ
thế cơ đã đẩy anh vào bi kịch, với cảnh xử kiện sặc mùi khói thuốc phiện, ăn uống của
bè lũ cầm quyền, cịn bản thân A Phủ thì bị đánh bầm dập, bắt trói, bắt quỳ, cuối cùng
phải chấp nhận món nợ mà có lẽ cả đời anh, đời con cháu anh cũng chưa trả hết, trở
thành nô lệ cho nhà thống lý Pá Tra. Có bất cơng đến cùng cực, mới có sự vùng dậy
mạnh mẽ, giống như Tơ Hồi nói “Ở nơi rừng núi mơ màng ấy, các dân tộc đã không
lặng lẽ chịu đựng”, cả Mị và A Phủ đều là những con người phải chịu áp bức đến tột
cùng, thế nhưng chưa khi nào cái tâm hồn khao khát được sống, được tự do, được
hạnh phúc hoàn toàn bị chơn vùi, dập tắt, mà nó chỉ chờ đợi cơ hội là bùng lên mạnh
mẽ hơn bao giờ hết. Cảnh Mị và A Phủ dắt tay nhau chạy xuống triền đồi, mang đến
cho người đọc những xúc cảm sâu sắc, trước hết là đến từ sự tự giải phóng, vùng dậy
mạnh mẽ của hai nhân vật chính, sau đó là những hy vọng về một tương lai tươi sáng
cho tất cả những con người nơi đây, có lẽ vào một ngày không xa tất cả những con
người bị áp bức cũng sẽ đều tìm được cho mình một lối thốt riêng.
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi là một trong những tác phẩm hiện thực
tiêu biểu nhất khi viết về đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc những năm tháng kháng
chiến chống Pháp. Cái hay của tác phẩm không chỉ đến từ nội dung mang giá trị hiện
thực và nhân văn sâu sắc mà còn xuất phát từ những ý thơ trong văn xuôi, đem đến
cho người đọc những cái nhìn, những cảm nhận thật sâu sắc về thiên nhiên và con
người miền núi phía Bắc. Có thế mới thấy được tấm lịng chân thành, gắn bó sâu nặng
với mảnh đất Tây Bắc cũng như tài năng của tác giả trong lĩnh vực văn học hiện thực
giai đoạn sau cách mạng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ - Mẫu 3
Nói về việc sáng tác “Truyện Tây Bắc”, Tơ Hồi cho biết, “ngồi tài liệu và trên cả
sáng tạo”, ơng đã đưa vào trong tác phẩm của mình “những ý thơ”: “Ở mỗi nhân vật
và trùm lên tất cả miền Tây, tơi đã đưa vào một khơng khí vời vợi, làm cho đất nước
và con người bay bổng lên hơn, rời bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm
co quắp nhân vật, nhỏ bé vấn đề và khung cảnh đi”. Thật vậy, cụ thể trong “Vợ chồng
A Phủ”, ta bắt gặp một trong những nét đặc sắc nhất của Tơ Hồi là biệt tài phát hiện
và chuyển tải chất thơ trong cuộc sống bình dị vào trang viết. Chất thơ man mác bao
phủ bầu không khí của tác phẩm là sự cộng hưởng hiệu ứng của nhiều thủ pháp nghệ
thuật, ánh lên từ tình huống truyện đầy nhân văn, từ ngôn ngữ hàm súc và giọng điệu
trần thuật giàu tính nhạc. Để rồi từ đó, hiện lên trong tác phẩm bàng bạc chất thơ này
là thiên nhiên, là lối sống, là phong tục và tâm hồn con người không lẫn vào đâu được.
Chất thơ trong sáng tác của Tơ Hồi hiện lên trước hết qua hình ảnh thiên nhiên vời
vợi với những núi non, nương rẫy, sương giăng… không thể lẫn được với một nơi nào
trên đất nước ta. Những chi tiết miêu tả thiên nhiên đan xen, hoà quyện trong lời kể
của câu chuyện. Có khi, chỉ một vài điểm nhấn, tác giả đã phác ra được cái nét rất
riêng của đối tượng. Những ngày sống trong căn phòng ngột ngạt, tù túng của mình ở
nhà thống lí Pá Tra, Mị nhìn ra trời qua khung cửa sổ bé bằng bàn tay, lúc nào Mị
cũng “chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Khơng gian ấy chỉ có thể
tìm được ở Tây Bắc bởi núi rừng trùng điệp. Ban ngày, ánh mặt trời cũng khó có thể
xua tan những màn sương giăng trắng làng bản. Đêm xuống, sương đêm hòa với ánh
trăng tạo nên thứ không gian huyền ảo như trong ảo mộng. Đặc biệt, nhà văn đã có
những câu văn thật hay nêu bật được hình ảnh đặc trưng về thiên nhiên Tây Bắc
những ngày giáp Tết: “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã
xếp yên đầy các nhà kho”, “trẻ con đốt những lều canh nương”, “gió thổi vào cỏ gianh
vàng ửng, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên những mỏm đá xoè như con bướm
sặc sỡ, gió và rét rất dữ dội”. Những câu văn mang đầy “ý thơ” đã lột tả được hồn cốt
thiên nhiên Tây Bắc với núi rừng trùng điệp, cao rộng vời vợi. Điểm vào cái nền thiên
nhiên xanh mướt ấy là những dấu ấn của con người: những nương lúa, nương ngô uốn
lượn trên sườn đồi sườn núi; những đống lửa bốc lên từ các lều canh nương; những
đám cỏ gianh vàng ửng; những chiếc váy hoa xịe rực rỡ nhiều màu sắc của những cơ
gái H’mơng là điểm nhấn đầy thi vị cho bức tranh thiên nhiên ấy.
Chất thơ còn được nhận ra bởi đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán của con người
nơi đây. Đọc truyện, ta rất dễ bắt gặp những hình ảnh thường xuyên xuất hiện trong
đời sống hằng ngày của đồng bào Tây Bắc. Đó là ngơi nhà gỗ với bếp lửa đặt trong
nhà suốt mùa đơng khơng tắt hịn than, là những công việc hằng ngày như cõng nước,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
cắt cỏ cho ngựa ăn, quay sợi,… Trang phục đặc trưng của người phụ nữ H’mông vùng
cao này là váy xoè sặc sỡ đi kèm với những chiếc vòng bạc lấp lánh.
Truyện cũng miêu tả rất tinh tế một phong tục rất đẹp, rất thơ của đồng bào vùng cao
là lễ hội mùa xuân. Tết của người vùng cao khơng giống tết ở miền xi. Người vùng
cao có cách tính ngày Tết rất độc đáo thể hiện thuần túy tư duy nông nghiệp. Họ ăn tết
khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui thu hoạch mùa màng. Và dù cái Tết
năm ấy đến Hồng Ngài “giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ
dội” cũng không ngăn được niềm vui đang trỗi dậy trong tâm hồn những người dân ở
đây, đặc biệt là ở những đôi trai gái yêu nhau. Khơng khí ngày xn của Hồng Ngài
mang những dấu ấn đặc trưng đậm hương vị núi rừng Tây Bắc: Mùa xuân đến, trai gái
tìm đến nhau để tỏ tình. Họ bận những bộ quần áo đẹp nhất. Họ chơi ném cịn, chơi
quay, thổi sáo, đàn mơi, uống rượu,… Tất cả đều mê mải, say sưa trong tiếng sáo dìu
dặt, tình tứ.
Tơ Hồi đã đặc tả khơng khí ngày tết với những từ ngữ giàu chất tạo hình, qua đó hiện
lên bức tranh ngày tết miền núi tràn ngập màu sắc và âm thanh: “Trong các làng Mèo
Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc
sỡ [...] Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Ông cũng đặc
biệt chú trọng đến phong tục của họ qua con mắt tị mị, hóm hỉnh của mình: “Trai gái
kéo nhau lên núi chơi. Đi chơi trên núi từng đoàn”, “Các chị Mèo đỏ, váy thêu, áo
khoác, khăn hoa chùm rực rỡ. Các chị Mèo trắng chít khăn xếp phẳng lì, tóc mai cạo
xanh nhẵn”.
Khi viết về những ngày tết ở Hồng Ngài, nhà văn Tơ Hồi cũng rất chú ý miêu tả
tiếng sáo. Sáo H’Mơng có khả năng diễn tả ngơn ngữ của người H’Mơng, thay họ nói
lên tình cảm trong lịng: “Anh ném pao, em khơng bắt. Em khơng yêu, quả pao rơi
rồi”. Đó là phương tiện giao duyên hữu hiệu của các chàng trai đối với con gái trong
bản làng. Trong “Vợ chồng A Phủ”, ngịi bút Tơ Hồi cũng tỏ ra rất thành cơng khi lột
tả được nét đặc trưng, lột tả được “cái hồn” của tiếng sáo: “Ngồi đầu núi lấp ló đã có
tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”, “Tiếng sáo réo rắt suốt đêm ngồi đầu núi tranh”.
Tiếng sáo cịn là cách tỏ tình đặc biệt của người con trai miền núi: “Suốt đêm, con trai
đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”. Thời gian cứ tiếp nối,
những ngày tết vùng cao và đêm tình mùa xuân của ngày xưa và ngày sau dường như
vẫn thế. Tiếng sáo gọi bạn tình vượt qua thời gian, tồn tại vĩnh hằng trong trái tim biết
bao chàng trai cô gái miền sơn cước.
Bên cạnh những phong tục đẹp đẽ thể hiện tâm hồn thuần phác, nồng hậu của đồng
bào Tây Bắc là những phong tục cịn mơng muội, chứa nhiều điều bất cơng vẫn còn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
tồn tại ở Tây Bắc những năm trước Cách mạng. Đó là sự phân chia đẳng cấp giàu –
nghèo rất rõ. Trang phục của con nhà giàu cũng có những dấu hiệu khác: “Rủ xuống
những tua chỉ xanh đỏ mà chỉ riêng con cái nhà quan trong làng mới được đeo”. Đó là
tục bắt vợ, cúng ma trình vợ đầy mê tín. Cái hủ tục lạc hậu ấy đã trở thành một thứ
thần quyền ghê gớm án ngữ tư tưởng của người lao động nơi này, khiến họ ln bị
bóng đêm của sự mơng muội đè nén, giày xéo khơng sao ngẩng đầu lên được. Đó là
cái lệ đi ở trừ nợ: “bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt
mày làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt
thế, bao giờ hết nợ tao mới thơi”. Đặc biệt, hình ảnh ngơi nhà gỗ nghi ngút khói thuốc
phiện với bữa tiệc phạt vạ được miêu tả trong câu chuyện không thể tìm thấy được ở
vùng đất nào khác. Tài năng của nhà văn tập trung trong việc quan sát, dựng cảnh sắc
sảo cảnh xử kiện nhà thống lí Pá Tra. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn, hủ tục, lề
lối, sự tàn bạo, dã man của thế lực phong kiến miền núi đã được lột tả hết sức sinh
động: “Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa
nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu.
Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, chửi, lại hút.
Khói thuốc phiện ngào ngạt tn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt
tóc, gọi A Phủ… Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh,
càng chửi, càng hút. […] Ngoài nhà vẫn rên lên từng cơn kéo thuốc phiện, như những
con mọt nghiến gỗ kéo dài, giữa tiếng người khóc, tiếng người kể lào xào, và tiếng
đấm đánh huỳnh huỵch”. Phải thấm thía cảnh sống đau đớn, tủi nhục như thế, ta mới
cảm nhận được hết sức mạnh “cởi trói” tựa như bản năng sinh tồn mãnh liệt của
những thân phận bị chà đạp.
Tóm lại, nghệ thuật miêu tả sinh hoạt và phong tục của nhà văn đã giúp người đọc có
thêm nhiều hiểu biết phong phú về đời sống của đồng bào Tây Bắc. Trong truyện ngắn
này, bằng vốn hiểu biết phong phú và khả năng quan sát tinh tế, tác giả đã khắc hoạ lại
được những bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng, thể hiện được nhiều
phong tục độc đáo và miêu tả sinh động những người H’mông hồn nhiên, ngay thẳng.
Từ cảnh xuân trên bản đến cảnh vui chơi trong ngày Tết, cảnh xô xát giữa hai đám
thanh niên đến cảnh xử kiện,… tất cả đều được phác họa sống động, tài tình, tạo nên
phong vị đặc trưng của vùng núi Tây Bắc cụ thể, xác thực.
Nét đặc sắc nhất của chất thơ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” biểu hiện ở tâm hồn
nhân vật Mị. Ẩn sâu trong tâm hồn Mị, một cô gái tưởng chừng như héo hắt, sống một
cuộc đời lầm lũi “đến bao giờ chết thì thơi” ấy, có ai ngờ, vẫn le lói những đốm lửa
của khát vọng tự do, của tình yêu cuộc sống. Ở nhà thống lí Pá Tra, Mị có cái vẻ ngồi
âm thầm chịu đựng nhưng bên trong, kỳ thực, đó lại là một sức sống tiềm tàng, rạo
rực. Đúng như Tơ Hồi đã nói: “Ở nơi rừng núi mơ màng ấy, các dân tộc đã không
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
lặng lẽ chịu đựng”. Tính nhân văn trong câu chuyện là đây. Chất thơ đặc biệt được tác
giả tạo nên là đây. Đó là khi nghe tiếng sáo gọi bạn trong những đêm tình mùa xn
vọng về, lịng Mị lại “thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo giao duyên ấy chạm vào phần sâu
kín nhất của tâm hồn Mị, phần tâm hồn rạo rực của cô gái trẻ ngỡ như đã chết đi khi
cô mang thân phận con dâu trừ nợ nhà thống lí Pá Tra. Tiếng sáo giao duyên ấy đã
dẫn lối tâm hồn Mị trở về với ký ức của những ngày tự do xưa: “Ngày trước, Mị thổi
sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi,
thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo
Mị”. Và tiếng sáo giao duyên ấy thức tỉnh tâm hồn Mị: “Mị thấy phơi phới trở lại,
trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn
còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Đến đây, ta chợt nhớ lại một câu châm ngôn rằng: “Cái
chết không phải là mất mát lớn nhất trong cuộc sống. Mất mát lớn nhất chính là ta để
tâm hồn mình lụi tàn ngay cả khi còn sống.” Mị, từ một nhân vật sống không bằng
chết, nay đã sống lại trong tâm hồn. Và khi tâm hồn Mị khơng lụi tàn chính là khi sức
sống tiềm tàng, rạo rực trong Mị chỉ chờ cơ hội đến là trỗi dậy mạnh mẽ. Như vậy,
trong quá trình xây dựng nhân vật Mị với một cuộc đời đầy bi kịch, nhà văn Tơ Hồi
đã thật khéo léo thêm vào nhân vật mình một nét tâm hồn rất “thơ” và giàu tính nhân
văn. Dù viết về mảng đề tài bi kịch trong cuộc sống của con người, những trang văn
của Tơ Hồi vẫn thấm đượm chất thơ. Chất thơ ấy chứa đựng trong nỗi khát khao
mãnh liệt về một tương lai tốt đẹp, tươi sáng cho mỗi con người.
Làm nên chất thơ của “Vợ chồng A Phủ” không thể không nhắc đến ngôn ngữ nghệ
thuật của nhà văn với hàng loạt các âm thanh, các hình ảnh gợi hình, gợi cảm rất nên
thơ và đậm màu sắc. Ngơn ngữ văn xi của Tơ Hồi ngồi cái ý nghĩa cụ thể trong
từng câu chữ cịn có một cái vơ hình khó chỉ ra nhưng hồn tồn có thể cảm thấy, đó
chính là giọng điệu, là âm điệu câu văn cùng tiết tấu nhịp nhàng của nó. Tiết tấu đó
chính là sự thể hiện những điệu tâm hồn, những cung bậc khác nhau trong tình cảm
của nhà văn. Những điều này sẽ được trình bày cụ thể ở phần sau, khi phân tích về
nghệ thuật trần thuật của tác phẩm.
Tóm lại, chất thơ trong văn xi của Tơ Hồi được tạo nên bởi sự kết hợp nhuần
nhuyễn cái khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình cùng cái duyên mượt mà của một
văn phong điêu luyện. Đó là kết quả từ việc nhà văn vận dụng các loại hình nghệ thuật
như hội hoạ, âm nhạc vào nghệ thuật viết văn; là kết quả của sự cộng hưởng giữa thơ
ca và văn xi. Chất thơ say đắm lịng người không chỉ ở vẻ đẹp huyền diệu của thiên
nhiên mà còn ở những cung bậc cảm xúc trong tâm hồn con người. Bên cạnh nghệ
thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, Tơ Hồi cịn để lại ấn tượng sâu đậm trong lịng
người đọc bởi khả năng diễn đạt tài tình những rung động sâu xa, tinh tế trong thế giới
đa cung bậc và mn vàn sắc thái của tình cảm. Cảm thức tinh tế của Tơ Hồi trong
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
việc nắm bắt và tái hiện sự biến chuyển của màu sắc, âm thanh, ánh sáng, mùi vị trong
thiên nhiên là một trong những yếu tố tạo nên bầu khơng khí trữ tình, trong trẻo, đẹp
đẽ bao quanh thế giới nghệ thuật truyện ngắn Tơ Hồi. Nhịp điệu, chất nhạc trong văn
xi Tơ Hồi bắt rễ từ vốn hiểu biết tinh tường về ngôn ngữ mẹ đẻ, những trực cảm
tinh tế về ngôn ngữ.
Chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ - Mẫu 4
Tơ Hồi là cây bút nổi tiếng ở thể loại truyện ngắn của văn học Việt Nam. Ông được
mệnh danh là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Nhắc đến truyện ngắn của ông không thể
không nhắc đến tác phẩm "Vợ chồng A Phủ". Trong thiên truyện ngày, người đọc
không chỉ ấn tượng bởi những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà còn dễ dàng rung
động trước chất thơ thấm đượm qua từng câu chữ.
Chất thơ trong tác phẩm văn học chính là vẻ đẹp lãng mạn. Nó tương phản với đời
sống hiện thực nhưng thoát lên từ đời sống hiện thực. Hiện thực là những cái vốn có,
chân thật thì chất thơ là ước mơ, lý tưởng nâng đỡ con người. Trong truyện ngắn "Vợ
chồng A Phủ", chất thơ bàng bạc bao phủ khắp mọi ngóc ngách, lan tỏa những giá trị
vơ cùng đẹp đẽ.
Chất thơ trước hết hiện lên qua hình ảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với núi non,
nương rẫy, sương mù... đặc trưng, không trộn lẫn với bất kỳ địa danh nào. Khung cảnh
nên thơ nên họa được Tơ Hồi miêu tả một cách đầy cá tính và sáng tạo. Tây Bắc hiện
lên với núi rừng trùng điệp quanh năm ẩn hiện trong mây và sương mù. Ban ngày, dù
nắng lên cao cũng không thể xua tan làn sương giăng trắng. Đêm xuống, ánh trăng
hòa quyện càng khiến không gian trở nên huyền ảo như chốn vô thực.
Đặc biệt, chất thơ được thể hiện rõ nét khi Tô Hoài lia bút miêu tả khung cảnh mùa
xuân nơi rẻo cao Tây Bắc. "Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa
đã xếp yên đầy các nhà kho", "gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa
đã đem phơi trên những mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ, gió và rét rất dữ dội". Cái
hồn cốt của thiên nhiên Tây Bắc đã được lột tả qua những câu văn mang đầy "ý thơ".
Những trang văn viết về thiên nhiên rẻo cao và mùa xuân ấy hài hịa, đẹp như bài thơ
trữ tình viết bằng văn xi.
Bên cạnh đó, chất thơ cịn được bộc lộ qua đời sống sinh hoạt và phong tục tập quán
của con người nơi đây. Tơ Hồi đã xây dựng những hình ảnh quen thuộc trong đời
sống thường nhật của người Tây Bắc như ngôi nhà gỗ với bếp lửa bập bùng suốt mùa
đông không, công việc cõng nước, quay sợi... lặp đi lặp lại của họ hay những chiếc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
váy xòe sặc sỡ, vòng bạc lấp lánh - trang phục dân tộc của người phụ nữ H'mông vùng
cao.
Mỗi phong tục, mỗi thói quen của con người bước vào trang văn của Tơ Hồi đều rất
đẹp, rất thơ. Song ấn tượng nhất có lẽ là lễ hội Tết. Không giống như người miền
xuôi, người vùng cao ăn tết khi ngô lúa đã gặt xong. Dù cho Tết năm ấy đến "giữa lúc
gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội" cũng khơng dập tắt được niềm
vui đang len lỏi trong tâm hồn. Khơng khí ngày Tết của Hồng Ngài mang đậm hơi
thở, hương vị của núi rừng Tây Bắc khi "trai gái tìm nhau để tỏ tình", chơi ném cịn,
chơi quay, thổi sáo, đàn mơi, uống rượu...
Đặc biệt, tác giả dành nhiều tình cảm và câu chữ cho việc miêu tả tiếng sáo - cầu nói
truyền tải ngơn ngữ của người H'Mơng, thay họ cất lên tiếng lịng sâu thẳm: "Anh ném
pao, em khơng bắt. Em không yêu, quả pao rơi rồi". Năm tháng trôi qua, tiếng sáo đã
trở thành nét độc đáo không thể thiếu của mảnh đất này: "Suốt đêm, con trai đến nhà
người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách". Tiếng sáo gọi bạn tình vượt qua
dịng chảy thời gian, trở thành dịng chảy tâm hồn của biết bao đơi trai gái miền sơn
cước.
Thiên nhiên trong "Vợ chồng A Phủ" mang đầy chất thơ, thiên nhiên lại là cái nôi
nuôi dưỡng con người trưởng thành. Đi từ cội nguồn ấy, Tơ Hồi bắt đầu hành trình
khám phá chất thơ trong con người mà nét đặc sắc nhất được biểu hiện ở tâm hồn
nhân vật chính - Mị.
Mị là cơ gái trẻ, nết na xinh đẹp như một bông hoa ban trên rẻo cao Tây Bắc, vì món
nợ truyền kiếp của bố mẹ, Mị bị thống lý Pá Tra bắt về làm dâu trừ nợ và rơi vào cảnh
tăm tối. Những tưởng ở nơi hang hùm nọc rắn với ựu lăm le hủy diệt bản tính tốt đẹp
của cái ác, Mị có lẽ sẽ héo hắt, sống mịn mỏi lầm lũi hết cuộc đời "đến bao giờ chết
thì thơi". Song ẩn sau tâm hồn ấy vẫn le lói những ánh lửa của khát vọng tự do và tình
yêu cuộc sống mãnh liệt.
Ở nhà thống lí Pá Tra, từng hành động, cử chỉ, vẻ ngồi của Mị đều tốt lên vẻ âm
thầm nhẫn nhịn, chịu đựng nhưng kỳ thực bên trong đó lại tiềm tàng một sức sống vô
cùng mãnh liệt. Đúng như nhà văn Tơ Hồi từng nhận định: "Ở nơi rừng núi mơ màng
ấy, các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng". Vẻ đẹp nội tâm đáng trân trọng đó chính
là tính nhân văn sâu sắc, là chất thơ đặc biệt được tác giả sáng tạo. Khi nghe tiếng sáo
gọi bạn trong những đêm tình mùa xn, lịng Mị "thiết tha bổi hổi", âm thanh quen
thuộc của núi rừng Tây Bắc ấy đã chạm vào sâu thẳm tâm hồn Mị, làm rạo rực tâm
hồn người con gái trẻ đẹp ngỡ như đã chết đi khi về làm dâu trừ nợ nhà thống lí Pá
Tra. Tiếng sáo giao duyên gợi mở trong tâm trí Mị những hồi ức của ngày xưa cũ, tự
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
do, vui vẻ, ngày mà "Mị thổi sáo giỏi" "Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như
thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị".
Cũng tiếng sáo ấy đã thức tỉnh tâm hồn Mị, khiến "Mị thấy phơi phới trở lại, trong
lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước." Lần đầu tiên sau bước
ngoặt làm dâu nhà thống lí, Mị ý thức được bản thân "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị
muốn đi chơi...". Từ tình trạng bi kịch sống khơng bằng chết, sống mà như cái xác
không hồn, Mị nay đã sống lại thực sự, sinh động trong tâm hồn và suy nghĩ. Chính
sức sống tiềm tàng, rạo rực âm thầm cháy tựa như ánh sáng nâng đỡ, ngăn cản sự lụi
tàn của tâm hồn. Khi bùng cháy lên lại biến thành sức mạnh có thể xua tan tất cả. Để
rồi từ đó, Tơ Hoài đã khéo léo tái hiện nét "thơ" rất đẹp và giàu giá trị nhân văn trong
quá trình xây dựng nhân vật. Ngay cả khi cuộc sống bế tắc trong bi kịch thì ơng vẫn
gửi gắm nỗi khát khao mãnh liệt về một tương lai tốt đẹp, tươi sáng cho mỗi con
người.
Không những thế, chất thơ trong "Vợ chồng A Phủ" cịn được thể hiện qua ngơn ngữ
nghệ thuật độc đáo. Tơ Hồi sử dụng hàng loạt âm thanh cùng nhiều hình ảnh gợi cảm
vừa rực rỡ màu sắc vừa rất đỗi nên thơ. Ngôn ngữ văn xuôi vừa cụ thể rõ ràng vừa
trừu tượng vơ hình. m điệu và tiết tấu cũng như giọng kể nhẹ nhàng theo mạch cảm
xúc êm đềm chảy trơi trong tâm trạng, tình cảm của người cầm bút. Trong thế giới đa
cung bậc và nhiều màu sắc tình cảm, Tơ Hồi cịn có khả năng diễn đạt rung động,
cảm xúc tinh tế một cách tài tình. Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn khí sắc lãng
mạn với bút pháp trữ tình cùng sự mượt mà của văn phong điêu luyện. Hội họa, âm
nhạc được khéo léo lồng ghép trong văn học tạo sự hài hịa cộng hưởng thơ ca và văn
xi.
"Vợ chồng A Phủ" với chất thơ bàng bạc len lỏi thực sự là tác phẩm văn học chân
chính với nhiều giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Với những giá trị ý nghĩa về nội
dung và sáng tạo mang dấu ấn riêng về nghệ thuật, truyện ngắn xứng đáng là tác phẩm
tiêu biểu nổi bật cho hồn thơ Tơ Hồi.
Chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ - Mẫu 5
Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tơ Hồi tính đến nay đã ngót 80 năm cầm bút. Ơng đã
để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ bao gồm hơn 200 đầu sách, hàng nghìn bài báo
với nhiều thể loại phong phú, đa dạng. Mỗi người u văn Tơ Hồi từ trong tiềm thức
của mình, nhắc đến Tơ Hồi trước Cách mạng tháng Tám ta không thể không nhắc
đến tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu kí”. Sau Cách mạng, ơng lại nổi lên với tập “truyện
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Tây Bắc” với ba truyện tiêu biểu đó là “Vợ chồng A Phủ”, “Cứu đất cứu Mường” và
“Mường Giơn giải phóng”.
Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là linh hồn của cả tập truyện. Những năm gần đây người
ta lại xôn xao nhắc đến ông với tác phẩm “Cát bụi chân ai” và tiểu thuyết “Ba người
khác”. Đến nay “Vợ chồng A Phủ” vẫn là mốc thách thức với chính nhà văn Tơ Hồi.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của những người nông dân trên rẻo cao Tây Bắc
thông qua Nhân vật Mị – người con gái Mèo nghèo khổ, xinh đẹp, nết na được Tơ
Hồi xây dựng với sức sống tiềm tàng bất diệt. Toàn nội dung này được bao bọc trong
một khơng khí bàng bạc tựa như sương núi, tựa như ánh trăng. Khơng khí ấy chính là
chất thơ trữ tình – một nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Tơ Hồi trong tác phẩm "Vợ
chồng A Phủ". Nhờ có nghệ thuật này này, "Vợ chồng A Phủ" của Tơ Hồi xứng đáng
là minh chứng cho lời nhận định của một nhà phê bình văn học: văn học Việt Nam ở
giai đoạn 1945-1975 có sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn.
Chất thơ trữ tình có thể được hiểu là vẻ đẹp lãng mạn trong một tác phẩm. Nó là vẻ
đẹp bay bổng thơ mộng thoát lên từ đời sống hiện thực. Nó tương phản với đời sống
hiện thực nhưng lại trong một thể thống nhất. Nếu hiện thực là miêu tả những cái vốn
có, hiện có thì vẻ đẹp lãng mạn là ước mơ, là lý tưởng để nâng đỡ con người vượt qua
đời sống hiện thực vốn trần trụi, quen nhàm. Vì vậy, vẻ đẹp lãng mạn hay chất thơ của
tác phẩm là đối tượng tìm kiếm của mọi ngành nghệ thuật. Văn xi cũng đi tìm cho
nó một vẻ đẹp rất riêng.
Một người nghệ sĩ tài ba, một người nghệ sĩ mẫn cảm là người phải tìm thấy chất thơ
của cuộc sống, hương vị của cuộc ðời ở những chỗ tưởng chừng như khơng có một
chút thơ mộng nào. Tơ Hồi là một nhà văn như thế, bởi “Vợ chồng A Phủ” là một tác
phẩm thấm đẫm và lai láng chất thơ. Ta nhận thấy từ thiên nhiên nói đây cho đến cuộc
sống con người từ tảng ðá, bìa rừng cho đến những nỗi khổ đau của con người nơi đây
đều được bao bọc trong một khơng khí bàng bạc tựa như sương núi, tựa như ánh trăng.
Không khí ấy chính là chất thơ trữ tình của nhà văn Tơ Hồi. Đây là một trong những
lý do tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" được giải thưởng văn học năm 1954-1955 và được
xem như một truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài miền núi Tây Bắc.
Như đã nói chất thơ hay vẻ đẹp lãng mạn chính là vẻ đẹp của thiên nhiên, của tình
người. Đến với vẻ đẹp lãng mạn trong "Vợ chồng A Phủ", ấn tượng đầu tiên của
người u văn đó chính là vẻ đẹp của khung cảnh thiên nhiên nơi đây. "Vợ chồng A
Phủ" lấy bối cảnh là thiên nhiên rẻo cao Tây Bắc – một khung cảnh vô cùng nên họa
nên thơ mà đã hơn một lần bước vào những trang văn của Nguyễn Tn: nơi ấy có
thung lũng lúa chín vàng, có đá chìm đá nổi, có gió cuốn mây bay, có nắng vàng rực
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
rỡ… Khung cảnh thiên nhiên ấy đã được Tơ Hồi triển khai một cách rất cá tính, rất
sáng tạo. Nói đến thiên nhiên nơi đây thì phải nói đến nơi có ngọn núi quanh năm
ngập trong mây và sương mù; nơi có những cánh rừng bạt ngàn nương rẫy khi thì
xanh mướt lúa ngơ, khi thì sặc sỡ hoa thuốc phiện nơi có những bản làng tụ quanh
nguồn nước và dòng suối… Hàng ngày, từng đàn gia súc được lùa ra trên khắp bản
làng. Chiều về, cả con người và cảnh vật chìm dần trong hơi sương. Đêm đến, họ vây
quanh đống lửa bập bùng.
Đọc những trang văn của Tơ Hồi, người u văn cịn bắt gặp hình ảnh của người dân
rẻo cao đi làm nương, đi hái củi, hái lá, trỉa bắp, chăn thả bò ngựa. Đời sống của họ
lam lũ, vất vả nhưng nhịp sống của họ đều đặn, êm đềm trôi hết năm này sang năm
khác. Chưa một lần đặt chân lên rẻo cao Tây Bắc, chưa một lần đến với con người nơi
đây nhưng những trang văn đầy thơ mộng của Tơ Hồi đã đưa người yêu văn đến
chứng kiến cuộc sống của con người ở rẻo cao này. Từ nhận thức ấy, mỗi người yêu
văn tự rút ra cho mình một bài học nhân sinh bởi văn học luôn thanh lọc tâm hồn của
người đọc, nó mang đến, chất chứa biết bao nhiêu nỗi khổ đau. Nó như một trang đời
mà người yêu văn có thể rút ra những bài học qua từng chữ từng câu.
Khơng chỉ dừng lại ở đó, chất thơ của câu chuyện còn được bút lực của nhà văn Tơ
Hồi tập trung miêu tả ở khung cảnh mùa xn nơi rẻo cao Tây Bắc. Có thể khẳng
định những trang văn viết về mùa xn của nhà văn Tơ Hồi là những trang văn tuyệt
bút. Những trang văn viết về thiên nhiên rẻo cao, viết về mùa xuân ấy chẳng khác nào
những bài thơ trữ tình viết bằng văn xi. Nghệ thuật này ta đã từng bắt gặp ở ngòi
bút của Thạch Lam trước Cách mạng ở Nguyễn Tuân khi ông viết tùy bút “Sông Đà”.
Năm ấy xuân về sớm hơn mọi năm, Hồng Ngài có tục lệ cứ gặt hái xong là ăn tết. Tác
giả miêu tả những làn gió đẹp mùa xuân về trên khắp bản làng. Tất cả khơng khí nơi
đây đều là khơng khí ngày hội. Trên những bản của người Mèo Đỏ, trai gái mang váy
áo ra phơi trên mỏm đá trông sặc sỡ như những cánh bướm khổng lồ. Chất thơ của xứ
sở đây còn được tụ vào trong những đám hội. Ban ngày, từng đám thanh niên mặc váy
áo mới xịe ơ dắt ngựa đến đánh quay, ném pao, tung còng… Tối đến, trong không
gian kia những tiếng kèn lá, kèn môi của trai gái gọi bạn tình lại réo rắt đi hết quả đồi
này sang quả đồi khác… Tất cả những không khí lễ hội mùa xuân này làm câu chuyện
hiện lên khơng chỉ đẹp về cảnh sắc thiên nhiên mà cịn đẹp về lễ hội mang tính lịch sử
của dân tộc.
Như vậy rõ ràng thiên nhiên trong tác phẩm này mang đầy chất thơ. Mà thiên nhiên lại
là cái nôi để con người ta sinh ra và lớn lên trên đó. Đứng trong cái nôi thiên nhiên
đầy chất thơ này, nhà văn đã tập trung vào để đi tìm chất thơ trong tâm hồn của con
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
người rẻo cao Tây Bắc: chất thơ của tình người. Nếu đi tìm chất thơ trong một tác
phẩm văn xuôi mà ta chỉ dừng lại ở khung cảnh thiên nhiên thơi thì vơ hình chung ta
đã coi tác phẩm này như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi rồi. Trong một tác
phẩm văn xuôi, yếu tố quyết định đến sự thành bại của nó khơng gì khác hơn chính là
nhân vật. Nhân vật càng chân thực, sống động bao nhiêu tác phẩm càng thành công
bấy nhiêu. Vì vậy, chất thơ trong tác phẩm cịn được tập trung ở vẻ đẹp của nhân vật,
vẻ đẹp của tình người.
Đầu tiên ta thấy ở đây, nhà văn tập trung miêu tả tình người ở những con người ở rẻo
cao Tây Bắc. Họ đang phải sống trong địa ngục trần gian, phải sống ở Hồng Ngài –
nơi cái ác hiện lên từng ngày từng giờ và phát triển đến cùng cực. Như đã biết, truyện
xoay quanh cuộc đời của Mị – một cơ gái nết na xinh đẹp được ví như một bông hoa
ban trên rẻo cao Tây Bắc nhưng vì món nợ truyền kiếp mà bố mẹ Mị vay của thống lí
Pá Tra, Mị đã bị thống lý bắt về trừ nợ. Ở nhà thống lí – nơi hang hùm nọc rắn, nơi
thiên la địa võng, nơi cái ác lúc nào cũng muốn lăm le hòng tiêu diệt bản tính tốt đẹp
của con người. Nhưng khơng phải vì thế mà người dân vùng cao bị sói mịn tình
người, bị cằn cỗi tâm hồn. Ngược lại, ngay trong địa ngục trần gian ấy, lòng tốt của
con người vẫn được bộc lộ, đức tính tốt đẹp của con người vẫn thăng hoa, cái đẹp vẫn
nổi loạn ngay trong lòng cái ác. Điều này được thể hiện rất rõ giữa sự giằng xé của
tình phụ tử giữa cha con nhà Mị.
Mị tuy đang sống hạnh phúc trong những ngày với mối tình đầu của mình nhưng vì
thương cha Mị đành chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra. Vào cái nơi địa ngục trần gian
này, có những lúc Mị tưởng chừng như không tồn tại được. Mị đã từng nghĩ đến cái
chết. Nhưng về đến nhà, thấy rõ gia cảnh nhà mình, thấy bố Mị nói như van xin: “Mày
về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao
trả nợ. Mày chết rồi thì khơng lấy ai làm nương ngơ giả được nợ người ta, tao thì ốm
yếu q rồi. Khơng được, con ơi!” Mị đã phải đứng trước một tình huống ối oăm, éo
le, cay cực: sống khơng muốn, chết cũng không xong. Cuối cùng, Mị đã không chết
bởi Mị khơng bước qua được tình phụ tử, khơng bước qua được chữ “hiếu”. Nói cách
khác, chữ “hiếu” đã giúp Mị tồn tại để vượt qua cái hang hùm nọc rắn này. Như vậy ở
đây, chữ “hiếu” vẫn thăng hoa, lòng tốt của con người vẫn được gìn giữ ngay ở trong
địa ngục trần gian.
Cịn về phía người cha già cả cuộc đời lam lũ vất vả, mong sao thoát khỏi cảnh nghèo
nhưng cũng không xong, bị lâm vào bước đường cùng và phải gả bán con gái cho nhà
giàu mà ruột gan tan nát. Như vậy, nhà văn Tơ Hồi đã phát hiện thấy ở đây tình
người, tình phụ tử của cha con nhà Mị đã chiến thắng ở trong ngục tối, muốn khẳng
định rằng tất cả những gì là tốt đẹp của cuộc đời không bao giờ bị hủy diệt. Cái đẹp
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
luôn luôn tồn tại mãi cùng với thế giới. Dù nó có phải sống trong lịng của ngục tối,
trong lịng của cái ác thì cái đẹp cuối cùng vẫn chiến thắng.
Bên cạnh đó, tình người ở đây cịn được thể hiện rất rõ ở sự thương cảm Mị dành cho
A Phủ. Thân phận của Mị và A Phủ cũng chẳng hơn nhau gì. A Phủ là một đứa trẻ mồ
côi cha mẹ từ nhỏ, sống bộc trực thẳng thắn. Một lần đánh lại A Sử con quan, A Phủ
đã bị bắt về nhà thống lí Pá Tra làm nô lệ. Hàng ngày A Phủ phải đi chăn thả bị ngựa,
đi săn bị tót, bẫy nhím…một lần mải mê bẫy nhím, A Phủ đã để hổ vồ mắt một con
bị. Nhân sự kiện này, gia đình nhà thống lí Pá Tra đã đánh trói A Phủ giữa những
ngày đầy sương muối ở vùng cao.
Đêm nào dậy cời than để hơ tay, Mị vẫn nhìn thấy A Phủ nhưng cơ khơng động lịng
thương bởi sống q lâu trong địa ngục trần gian nơi việc đánh trói con người xảy ra
nhiều hơn cơm bữa, lòng thương người của Mị đã bị chai sạn, trơ lì. Hơm nay thì
khác. Nghe thấy tiếng thở phì phì của A Phủ, Mị nhìn sang, giật mình nhận thấy chàng
trai to khỏe nhất bản giờ đã bị đánh đến tiều tụy. Đúng lúc ấy, hai hàng nước mắt của
A Phủ lặng lẽ bò xuống hõm má. Có lẽ hai dịng nước mắt ấy đã thấm sâu vào trong
tâm hồn của người con gái Mèo nết na xinh đẹp nhưng đang bị chai sạn, chai lì. Động
lịng thương, Mị đã cứu A Phủ và hai người đã giải phóng cho nhau. Tất cả những
điều ấy chính là chất thơ của tình người. Nó muốn khẳng định răng cái ác dù hiện ra
dưới muôn nẻo của cuộc sống nhưng cuối cùng cũng bất lực trước cái thiện. Cái thiện
là bất diệt với cuộc đời.
Một cái nét đẹp nhất trong chất thơ của tình người, quyết định đến tất cả những gì đã
nêu trên đó là sức sống tiềm tàng của Mị. Nhân đây ta nhắc qua sức sống tiềm tàng
của Mị. Hiểu nôm na, sức sống tiềm tàng sức sống tiềm ẩn dưới đáy sâu tâm hồn của
con người. Nó là tồn bộ sức mạnh về tinh thần và thể chất của một con người. Ở
nhân vật Mị, sức sống tiềm tàng được biểu hiện là khát vọng cháy bỏng chân chính
muốn sống một cuộc đời hạnh phúc trong tự do. Niềm khao khát ấy âm ỉ cháy dưới
đáy sâu tâm hồn của Mị như một ngọn lửa chưa bao giờ tắt hẳn, chỉ chờ thời cơ để
bùng lên. Nó như một chồi cây đâm sâu trong lịng đất chỉ chờ cơ hội để phát triển.
Giả sử nếu sức sống ấy chết đi, có nghĩa là Mị khơng tồn tại thì điều đó đồng nghĩa
với cái đẹp đã hoàn toàn thất bại trước cái ác, cái ác đã thăng hoa thì đây khơng cịn là
một tác phẩm nhân đạo chân chính nữa. Chính sức sống này đã giúp Mị giải thoát
người cùng cảnh ngộ và giải thoát được chính bản thân mình. Chính sức sống ấy đã
đưa hình tượng người nông dân trước Cách mạng tăm tối như cuộc đời của Chí Phèo,
của chị Dậu, của Anh Pha đến với ánh sáng của Cách mạng. Sức sống ấy đã đưa ra
chân lý của thời đại: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
những gian khổ, hy sinh. Ở đời này khơng có con đường cùng, chỉ có những ranh giới.
Điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy…” (Nguyễn Khải)
Heming way đã từng nói: “Các cuốn sách có sự bất tử của nó. Đó là sản phẩm bền
vững của lao động con người. Các đền đài sụp đổ, các tranh tượng rồi tiêu tan, nhưng
sách thì tiếp tục tồn tại”. Một trong những cuốn sách ấy là “Truyện Tây Bắc” của Tơ
Hồi. Ai đã từng một lần đọc tập “Truyện Tây Bắc” hẳn sẽ chẳng thể nào quên truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” với cảnh sắc thiên nhiên con người Tây Bắc và con người nơi
đó. Và để lại dấu ấn khó phai trong tâm trí người có lẽ là chất thơ, chất Tây Bắc đậm
đặc của thiên truyện. Mang đến cho người đọc những cảm nhận mới mẻ về miền đất
cực Tây của Tổ quốc.
“Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm văn chương đậm đà chất thơ. Chúng ta đã biết văn
xuôi là sợi cốt còn thơ là sợi ngang… “Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không
đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển, thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh,
không thúc giục, không dẫn dắt ta đi đâu cả”. Phađê ép khẳng định: “Văn vi cần
phải có cánh. Đơi cánh ấy chính là chất thơ, chất thơ chính là chiếc cầu mềm mại đưa
văn xi vào hồn người êm ái, dịu dàng”. Bằng tài năng cùng sự nhậy cảm với cuộc
đời của mình, Tơ Hồi chắp cánh cho những trang văn của mình để chất thơ được bay
cao và tỏa sáng một tâm hồn mẫn cảm.
Sự xâm nhập mạnh mẽ của yếu tố trữ tình và chất thơ vào văn xuôi, đặc biệt là ở thể
loại truyện ngắn đã làm cho truyện của Bunhin có sức cuốn hút và lay động tâm hồn
người đọc, tạo nên đặc sắc trong văn xuôi của ông. Nhà văn K.Pautốpxki cho rằng:
“Văn xuôi là sợi cốt, thơ là sợi ngang. Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không
chứa chất thơ sẽ trở thành thơ thiển”. Chất thơ như dịng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng
văn xuôi làm cho thể loại này trở nên nhẹ nhàng đằm thắm, bay bổng và dễ đến với
tâm hồn đọc giả. Đối với truyện ngắn thì chất thơ và tính trữ tình lãng mạn càng hết
sức quan trọng. Về vấn đề này, nhà văn R.Gamzatốp khẳng định: “Truyện ngắn hay
nhất nếu bị ghép vần có thể biến thành bài thơ dở nhất. Thơ trong truyện có lẽ như
muối trong thức ăn”. Ở một cách hiểu rộng hơn về văn chương đồng thời khẳng định
vai trò của chủ thể sáng tạo, M.Prisvin chỉ ra: “Văn chương, đó là thơ ca của cuộc
sống nhẹ nhàng. Còn như nghệ thuật, nó thực sự đi ra từ cuộc sống bên trong, một
cuộc sống biểu lộ trong ấy cái cảm hứng của con người trước sự bất tử”. Sự thống
nhất giữa cái đẹp của đời sống hiện thực và cái đẹp của tâm hồn nhà văn trên cơ sở trí
tưởng tượng phong phú của người nghệ sĩ là biểu hiện của chất thơ trong văn xi
Bunhin. Sự giao hịa giữa tâm hồn nhạy cảm của tác giả với vẻ đẹp của con người và
thiên nhiên cũng là một nhân tố tạo nên chất trữ tình sâu lắng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Rõ ràng “Vợ chồng A Phủ” mãi mãi là hành trang để chúng ta bước vào cuộc sống.
Mỗi một tác phẩm văn học chân chính là một lời đề nghị về cách sống, có khả năng
nhân đạo hóa con người. “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm như vậy.
Chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ - Mẫu 6
Tơ Hồi được mệnh danh là nhà văn "sinh ra để viết" (Tế Hanh). Hơn sáu mươi năm
cầm bút, ông đã để lại gần hai trăm đầu sách với nhiều thể loại - truyện ngắn, truyện
vừa, tiểu thuyết, hồi kí,... Riêng truyện ngắn, độc giả nhớ nhất và bản thân nhà văn
tâm đắc nhất có lẽ vẫn là Vợ chồng A Phủ. Nói về sức cuốn hút của tác phẩm này,
người đọc nhắc nhiều đến vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục, tập quán của các dân tộc
miền núi; khả năng quan sát tinh tường, lối trần thuật tự nhiên, hóm hỉnh của một
người cầm bút từng trải, sắc sảo; tài nghệ phân tích tâm lí nhân vật, vốn ngôn ngữ dồi
dào;... Nhưng tôi vẫn nghĩ, điều thú vị nhất là ở chỗ, Tơ Hồi đã mang được vào
truyện ngắn Vợ chồng A Phủ cái chất thơ riêng của miền Tây Bắc.
Trong cuốn sổ tay viết văn Tô Hoài từng tâm sự về những ý thơ trong văn xuôi:
"Vâng, đúng là những ý thơ, đã từ lâu tôi làm, tơi cảm thấy mà chưa phân tích được".
Theo ơng, những ý thơ đó sẽ làm nên cái giá trị "ngoài tài liệu và trên cả sự sáng tạo".
Ở đây, tác giả Sổ tay viết văn đã có sự gặp gỡ với quan niệm của nhiều nhà văn lớn:
A.Puskin từng ví chất thơ trong văn xi như "chất nước ngọt ngào thấm trong trái
táo"; L. Tôn-xtôi không chấp nhận ranh giới giữa văn xi và thi ca. Thậm chí, K.
Pau-tốp-xki cịn khẳng định rằng: "Văn xi là sợi cốt, cịn thơ là sợi ngang. Cuộc
sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển,
thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc gọi, khơng dẫn dắt ta đi đâu
cả"... Cũng chính họ - các nhà văn đích thực, bằng tác phẩm của mình, đã giúp cho
người đọc hiểu thế nào là chất thơ trong văn xi. Đó có thể là những cánh đồng Nga,
tâm hồn Nga hiển hiện trên trang văn Puskin; là lời thì thầm của cây sồi mùa đơng, là
hình ảnh người thiếu nữ muốn bay lên cùng ánh trăng (L. Tôn-xtôi) hay giai điệu ngọt
ngào, say đắm, nồng ấm tình đời của Âm nhạc Véc-đi, Lắng quả thơng(Pau-tốpxki),... Cũng có thể là khí nhà văn khiến ta nhớ mãi cả mùi cát bụi "quen thuộc quá,
khiến chị em Liên tưởng đấy là mùi riêng của đất, của quê hương này" (Thạch Lam);
hay bấy nhiêu ngạc nhiên, cảm động, bâng khuâng, ăn năn, khao khát,... được đánh
thức nhờ hương thơm của một bát cháo hành (Nam Cao)... Chất thơ có khi đọng lại
trong chi tiết, hình ảnh; có lúc thấm đượm trong bức tranh đời sống hay lan toả vào
câu chữ...
Trở lại với truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nếu "đọc vội" cũng có thể thấy được sự
phong phú của hiện thực đời sống, đón nhận được niềm cảm thương, trân trọng của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
tác giả dành cho những phận người cùng khổ ở miền cao Tây Bắc. Các giá trị đó được
"tường minh" bằng cốt truyện với sự tương phản quen thuộc của hai phần đời. Lối kể
truyền thống, cách xây dựng nhân vật cũng chưa có gì là "đột phá"... Nhưng muốn
nắm bắt được những ý thơ toát lên từ cảnh sắc và tâm hồn con người nơi đây, thì có lẽ
phải đọc chậm, đọc sâu.
Đọc chậm để các giác quan và trí tưởng tượng có thể "theo kịp" ngịi bút của nhà văn
khi vẽ nên quang cảnh Tết đầy khác biệt trên núi cao. Tết ở đây không đến trong làn
mưa bụi giăng mù gọi chồi non, lộc nõn; cũng không phải với những rừng đào, rừng
mận tưng bừng khoe sắc vẫn mặc nhiên hiện về mỗi khi người ta nghĩ tới mùa xn
Tây Bắc. Nó khơng về theo lời hẹn trước, không nhất nhất phải đồng hành cùng tháng
ấy, ngày ấy trên tấm lịch... Trái lại, người dân vùng núi miền Tây "cứ ăn Tết khi gặt
hái vừa xong, không kê ngày tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống
thì đi vỡ nương mới". Nhịp sống của con người "hòa thuận" một cách hồn nhiên, tự
nhiên cùng nhịp điệu của thiên nhiên, vũ trụ như thuở sơ khai. Khi "các nương ngô,
nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp tên đầy các nhà kho", người được an nhàn, thư
thái thì vui chơi đón Tết. Có phải vì thế mà Tơ Hồi tả cảnh Tết đến vào lúc "gió thổi
vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội", nhưng vẫn gọi được cái khơng khí náo
nức, tươi tắn của mùa xn? Ngịi bút của nhà văn chỉ phát qua vài sắc màu đậm chất
địa phương, và âm thanh quen thuộc của đời thường cũng đủ khiến lịng người háo
hức khơng kém gì đám trẻ "đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà". Hình
ảnh những chiếc váy hoa "đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ" trong
các làng Mèo Đỏ và tiếng sáo gọi bạn đi chơi "lấp ló ngồi đầu núi" mang hương vị
độc đáo của mùa xuân Tây Bắc. Tết ở đây gắn liền với những đêm tình nồng nàn, mê
đắm: "trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Suốt đêm, con trai
đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách". Có cả bữa cơm Tết cúng
ma, bữa rượu bên bếp lửa, rồi "người nhảy đồng, người hát"... Bằng lối "điểm xuyết"
như thế, Tơ Hồi dần xố đi khoảng cách thời gian và không gian, đưa người đọc nhập
vào nhịp sống riêng của miền đất này.
Đọc sâu để "đầu và tim" (theo cách nói của Nguyễn Tuân) có thể cảm nhận được cái
chất thơ vút lên từ cuộc sống của những con người bị vùi dập trong đau khổ, bất hạnh
nhưng chưa bao giờ lụi tắt khát vọng sống, khát vọng tình yêu và tự do. Một A Phủ
mồ côi cha mẹ từ nhỏ, không họ hàng thân thích mà lớn lên vẫn là chàng trai tài khéo,
mạnh mẽ, táo bạo của núi rừng: "biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn
bị tót rất bạo". Dẫu nghèo khó, "Tết đến [...] chẳng có quần áo mới như nhiều trái
khác [...] chỉ có độc một chiếc vịng vía lằn trên cổ", A Phủ vẫn mang khèn, sáo đi tìm
người yêu. vẻ hoang sơ của những cánh rừng, vóc dáng hiên ngang của những ngọn
núi miền Tây như đã hun đúc cho chàng trai này tính cách bướng bỉnh, gan góc và