Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Đảng lãnh đạo lực lượng công an nhân dân đấu tranh chống phản cách mạng ở miền bắc thời kỳ 1954 1965

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.41 KB, 106 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh chống phản cách mạng bảo vệ an ninh trật tự là một nhiệm
vụ quan trọng, một bộ phận trọng yếu, gắn liền với quá trình đấu tranh cách
mạng, đấu tranh giai cấp đồng thời là một chức năng không thể thiếu của
chính quyền dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Đấu tranh
chống phản cách mạng đã góp phần to lớn vào sự nghiệp vẻ vang giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, giữ vững ổn định chính trị, phục vụ cơng cuộc
đổi mới và đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Đấu tranh
chống phản cách mạng, bảo vệ an ninh trật tự ở nước ta vừa mang tính chất
đấu tranh giai cấp, vừa mang tính chất đấu tranh dân tộc. Đó là cuộc đấu tranh
một mất một còn giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa một bên là lực
lượng quần chúng nhân dân đông đảo, với một bên là thiểu số phản cách
mạng. Vì vậy, cuộc đấu tranh này mang đầy đủ tính chất phức tạp, gay go,
quyết liệt và lâu dài.
Cũng như các công tác cách mạng khác, công tác đấu tranh chống phản
cách mạng nhất thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Căn cứ vào tình
hình chính trị chung và tình hình chống phá của kẻ thù, Đảng đề ra đường lối,
chủ trương và những chính sách cụ thể cho công tác đấu tranh chống phản
cách mạng. Kinh nghiệm thực tiễn đã chứng minh rằng nếu công tác trấn áp
phản cách mạng thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, thốt ly đường lối, chính sách
của Đảng, thì khơng những khơng đem lại kết quả mà cịn dẫn tới những sai
lầm, lệch lạc, tác hại khôn lường, không đánh được địch và cũng khơng bảo
vệ được mình. Để bảo đảm cho công tác đấu tranh chống phản cách mạng
giành được thắng lợi, thì điều kiện tiên quyết, mấu chốt là phải luôn tăng
cường sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng nói chung, cơng tác
đấu tranh chống phản cách mạng nói riêng, Đảng ta ln có đường lối đúng



2
đắn, sáng tạo; sách lược mềm dẻo, khôn khéo, đối sách thích hợp với từng
loại đối tượng, có nghệ thuật chỉ đạo sắc sảo; giải quyết thành công hàng loạt
vấn đề phức tạp của cuộc đấu tranh chống phản cách mạng đặt ra; phát huy
được sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, sử dụng đồng bộ các biện pháp
công tác; chú trọng xây dựng lực lượng chuyên chính như: Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân…trong đó, Cơng an nhân dân
là một cơng cụ chuyên chính quan trọng.
Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đất nước ta tạm thời chia làm hai
miền với hai nhiệm vụ cách mạng khác nhau. Ở miền Bắc, Đảng chỉ rõ: cuộc
đấu tranh chống phản cách mạng là một cuộc đấu tranh quyết liệt, sống còn,
lâu dài. Lực lượng phản cách mạng ở miền Bắc nước ta bao gồm:
những bọn gián điệp của các nước đế quốc, các nước tư bản và của
bọn Diệm; bọn phản động lợi dụng đạo Thiên chúa; và các lực
lượng phản động khác có tổ chức hoặc cá nhân chưa có tổ chức
chống đối lại cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp thống nhất
nước nhà. Nguy hiểm nhất đối với chúng ta là bọn gián điệp MỹDiệm. Trong bọn tay sai đắc lực nhất của gián điệp Mỹ-Diệm ở
miền Bắc, phải đặc biệt nêu lên bọn phản động trong đạo Thiên chúa
và bọn phản động trong các tầng lớp tề ngụy, tổ chức phản động cũ.
Ở các vùng miền núi, phải rất chú ý đến bọn đặc vụ Tưởng, bọn
phản cách mạng bên Trung Quốc chạy sang lôi kéo bọn phản động ở
miền núi gây bạo động và phá hoại việc thực hiện các chính sách
của Đảng và Chính phủ [31, tr.107-108].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và lãnh đạo Bộ Công an, lực
lượng Công an nhân dân miền Bắc đã không ngừng đấu tranh với các thế lực
phản cách mạng, giành được những thắng lợi hết sức to lớn, góp phần thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và bảo vệ
công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Ngày nay, những xung đột



3
vũ trang, chiến tranh cục bộ, chạy đua vũ trang, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều
nơi trên thế giới. Đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm
mưu “diễn biến hịa bình” nhằm xóa bỏ Chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện
mới, công tác đấu tranh chống các thế lực phản cách mạng vẫn là một công
tác quan trọng, cấp thiết để bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa.
Đề tài “Đảng lãnh đạo lực lượng Công an nhân dân đấu tranh
chống phản cách mạng ở miền Bắc thời kỳ 1954-1965” mong muốn làm
sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giữ vững an ninh chính trị nói
chung, cơng tác đấu tranh chống phản cách mạng nói riêng, những chủ trương
của Bộ Cơng an và hoạt động trấn áp phản cách mạng của lực lượng Công an
nhân dân miền Bắc thời kỳ 1954-1965, từ đó, rút ra một số kinh nghiệm trong
đấu tranh chống phản cách mạng thời kỳ 1954-1965, góp phần vào sự nghiệp
bảo vệ an ninh chính trị trong giai đoạn mới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bộ Cơng an đã chỉ đạo thực hiện nhiều cơng trình nghiên cứu, tổng kết
tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như: sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
trên lĩnh vực bảo vệ an ninh-trật tự nói chung, hoạt động của lực lượng Công
an nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an tồn
xã hội… Cuốn “Lịch sử biên niên Cơng an nhân dân Việt Nam (1954-1975)”
và “Lịch sử Công an nhân dân Việt Nam (1954-1975) trình bày những hoạt
động tiêu biểu của lực lượng Công an nhân dân trong xây dựng lực lượng, đấu
tranh chống phản cách mạng và các loại tội phạm khác góp phần bảo vệ cơng
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà.
Cuốn “60 năm Công an nhân dân Việt Nam (1945-2005)” trình bày khái quá
trình ra đời, chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của lực lượng Công an nhân
dân trong 60 năm qua. Cuốn “Tổng kết lịch sử Đảng lãnh đạo công tác bảo
vệ an ninh trật tự (1945-2000)” trình bày khái quát quá trình Đảng lãnh đạo



4
công tác bảo vệ an ninh, trật tự và những bài học kinh nghiệm Đảng lãnh đạo
công tác bảo vệ an ninh trật tự từ năm 1945-2000.
Cho đến nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống
sự lãnh đạo của Đảng về công tác đấu tranh chống phản cách mạng ở miền
Bắc thời kỳ 1954-1965 dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Góp phần làm sáng tỏ thêm vai trò lãnh đạo, đường lối, chủ trương
đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cơng tác giữ gìn an ninh
chính trị nói chung, đấu tranh chống phản cách mạng nói riêng ở miền Bắc
thời kỳ 1954-1965; những chủ trương của Bộ Công an cũng như hoạt động
của lực lượng Công an nhân dân trong đấu tranh chống phản cách mạng. Từ
đó, luận văn nêu lên một số kinh nghiệm đấu tranh chống phản cách mạng
thời kỳ 1954-1965, góp phần bổ sung lý luận cho sự nghiệp bảo vệ an ninh
chính trị và an ninh quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Nêu rõ những âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động chống phá
cách mạng của các thế lực phản cách mạng ở miền Bắc (1954-1965).
- Trình bày một cách có hệ thống quan điểm, đường lối, chủ trương của
Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng Công an nhân dân đấu tranh chống
phản cách mạng (1954-1965).
- Trình bày những chủ trương lãnh đạo của Bộ Công an trong chỉ đạo
lực lượng công an các cấp đấu tranh chống phản cách mạng
- Hoạt động và những kết quả đạt được của lực lượng Công an nhân
dân trong công tác đấu tranh chống phản cách mạng ở miền Bắc (1954-1965).
- Từ thực tiễn lãnh đạo lực lượng Công an nhân dân đấu tranh chống
phản cách mạng, nêu lên một số kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo đấu
tranh chống phản cách mạng.



5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu quan điểm, chủ
trương, đường lối, sự chỉ đạo của Đảng và những chủ trương, biện pháp, hoạt
động của lực lượng Công an nhân dân trong công tác đấu tranh chống phản
cách mạng ở miền Bắc từ 1954 đến 1965.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là sự lãnh đạo của Đảng và những
chủ trương, biện pháp, hoạt động đấu tranh của lực lượng Công an nhân
dân trong công tác đấu tranh chống phản cách mạng từ 1954 đến 1965, chủ
yếu tập trung ở một số địa bàn trọng điểm của các tỉnh, thành phố miền Bắc
Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận của quá trình nghiên cứu luận văn là hệ thống quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về đấu tranh và bảo vệ chính quyền cách
mạng; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
nguyên lý giữ vững an ninh chính trị trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
*Phương pháp nghiên cứu của luận văn chủ yếu là phương pháp lịch
sử và phương pháp logic, đồng thời kết hợp một số phương pháp khác như:
phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp…
* Nguồn tài liệu:
- Các tác phẩm kinh điển của Mác-Lênin và Hồ Chí Minh.
- Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Văn kiện của Nhà nước.
- Văn kiện của Bộ Cơng an
- Các cơng trình nghiên cứu, tổng kết của Bộ Công an
- Lịch sử Công an các địa phương miền Bắc
- Các ấn phẩm đã xuất bản liên quan đến lịch sử kháng chiến chống

thực dân Pháp, lịch sử kháng chiến chống Mỹ.


6
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn trình bày một cách có hệ thống quan điểm cơ bản, đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, chủ trương của Bộ Công an
trong lãnh đạo công tác đấu tranh chống phản cách mạng và những hoạt động
của lực lượng Công an nhân dân miền Bắc trong đấu tranh chống phản cách
mạng. Từ đó rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu của Đảng trong lãnh đạo lực
lượng Công an nhân dân đấu tranh chống phản cách mạng (1954-1965).
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.


7
Chương 1
CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG PHẢN CÁCH MẠNG
PHỤC VỤ KHÔI PHỤC KINH TẾ VÀ CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở MIỀN BẮC (1954-1960)
1.1. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI MIỀN BẮC VÀ ÂM MƯU CỦA CÁC
THẾ LỰC PHẢN CÁCH MẠNG

1.1.1. Tình hình chính trị, xã hội và những u cầu mới về bảo vệ
miền Bắc
Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chiến, lập lại hồ bình ở Đơng Dương
được ký kết ngày 21-7-1954. Nước Pháp phải thừa nhận độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước ở Đông Dương. Vĩ tuyến 17
được lấy làm giới tuyến quân sự tạm thời để lực lượng hai bên rút quân tập

kết. Theo quy định của Hiệp định, sau 2 năm kể từ ngày ký hiệp định, nước ta
sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do, thống nhất Tổ quốc. Đây là một thắng lợi lớn
của nhân dân ba nước Đông Dương, nhân dân Pháp, nhân dân u chuộng hồ
bình thế giới và là một thất bại lớn của đế quốc Mỹ, hiếu chiến Pháp và bọn
tay sai của chúng âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương, uy
hiếp hồ bình châu Á cũng như thế giới. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc chống đế quốc gần một thế kỷ qua của nhân dân Đông Dương,
đặc biệt là kết quả cuộc đấu tranh vũ trang anh dũng của nhân dân Việt Nam
trong 9 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ đây, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta bước sang giai đoạn
mới, giai đoạn đất nước tạm thời chia làm hai miền Nam-Bắc, thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược khác nhau: xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và tiếp tục đấu tranh giành độc lập thật sự, thống nhất nước nhà. Cuộc
kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta chuyển sang hình thức đấu tranh chính
trị để củng cố hồ bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ
trong toàn quốc.


8
Chín năm qua, mọi nỗ lực chiến đấu của nhân dân ta đều nhằm giành
thắng lợi cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Tồn bộ cơng tác, đấu tranh
của ta đều tiến hành trong hoàn cảnh chiến tranh. Từ nay, ở miền Bắc nhân dân
ta công tác, đấu tranh trong hồ bình. Đó là một sự thay đổi rất lớn, ảnh hưởng
tới tồn bộ cơng tác, chính sách, nhiệm vụ, tổ chức, lề lối làm việc của ta.
Trước đây, trong hồn cảnh cả nước có chiến tranh, vùng tự do của ta
chủ yếu ở nơng thơn. Đình chiến, chúng ta khơng những có vùng tự do nơng
thơn cũ, tiếp thu vùng nông thôn mới ở đồng bằng Bắc Bộ, mà còn tiếp quản
những thành phố, thị xã lớn. Điều này địi hỏi chúng ta khơng những phải
quản lý nơng thơn mà cịn phải quản lý thành thị.
Do đặc điểm chiến tranh nhân dân, các địa phương, các ngành tổ chức

có tính chất phân tán, việc tập trung lãnh đạo và thống nhất lãnh đạo thường
chỉ hạn chế trong phạm vi nhất định. Nhưng hiện nay, chúng ta có đủ điều
kiện cần thiết để thực hiện tập trung và thống nhất lãnh đạo. Từ phân tán đến
tập trung, thống nhất; từ khơng chính quy đến chính quy, đó là một biến đổi
lớn đồng thời cũng là một cuộc đấu tranh vơ cùng khó khăn, gian khổ.
Nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta chưa hồn
thành, cuộc đấu tranh cách mạng vẫn còn tiếp tục với phương thức đấu tranh
mới. Nhiệm vụ chung của Đảng ta trong thời gian tới là:
đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định đình
chiến, đề phịng, khắc phục mọi âm mưu phá hoại Hiệp định để
củng cố hồ bình, ra sức hồn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và
nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội để củng cố miền
Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân
miền Nam, củng cố hồ bình, thực hiện thống nhất, hồn thành độc
lập, dân chủ trong tồn quốc [28, tr.285].
Tình hình mới đặt ra những nhiệm vụ mới và cũng đòi hỏi chúng ta căn
cứ vào tình hình mới để đề ra đường lối, nhiệm vụ cơng tác, chính sách,


9
phương thức lãnh đạo cụ thể, phù hợp về các mặt như: tiếp quản các thành thị
và vùng nông thôn mới giải phóng, phục hồi nền kinh tế quốc dân, cải cách
ruộng đất, cơng tác dân vận, chính sách lao động…
1.1.2. Âm mưu, hoạt động của các thế lực phản cách mạng
Tuy bị thất bại trong âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh ở Đơng
Dương nói chung, Việt Nam nói riêng, nhưng đế quốc Mỹ, thực dân phản
động Pháp và tay sai vẫn tìm mọi cách phá hoại việc thi hành Hiệp định Giơne-vơ, thực hiện âm mưu chống phá ta lâu dài. Chúng khiêu khích, phá hoại
việc ngừng bắn, chuyển quân tập kết; tìm mọi cách vơ vét hoặc phá huỷ, tháo
dỡ tài sản, phương tiện, máy móc; mang theo hay đốt hồ sơ tài liệu quan trọng
gây cản trở cho ta trong việc kiểm kê, kiểm sốt và điều hành cơng việc sau

này; đóng cửa nhà máy, trường học, công sở, sa thải công nhân, viên chức làm
cho sinh hoạt ở các thành phố, thị xã bị đình trệ.
Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chủ trương tăng cường hoạt động gián
điệp, thành lập và sử dụng các tổ chức vũ trang phản động để chống phá cách
mạng, gây rối loạn khi ta vào tiếp quản các thành phố, thị xã và các vùng mới
giải phóng. Từ năm 1954, Mỹ còn lập ra tổ chức “Phong trào hồ bình xây
dựng chính phủ liên bang thế giới ở Việt Nam” nhằm tranh thủ, tìm cách gây
tín nhiệm với quần chúng. Một cơ quan gián điệp của Mỹ, nguỵ trang dưới
hình thức “Viễn đơng sự vụ” đặt ở Băng Cốc (Thái Lan) để chỉ huy các hoạt
động gián điệp, huấn luyện tay sai cài lại miền Bắc. Chúng còn phái những tên
đặc vụ cao cấp của Tưởng Giới Thạch như Mã Hiền Lương, Trương Kim
Đông… từ Đài Loan đến Hải Phòng thành lập các tổ chức phản động như “Á
châu phản động liên minh”, “Hoa kiều chí nguyện quân” để tập hợp lực lượng và
tổ chức đặc vụ. Một số tên gián điệp đội lốt linh mục, giám mục trong đạo Thiên
chúa như Dooley, Seitz…từ Sài Gòn, Kon Tum ra Hà Nội để hoạt động tình báo.
Địch ráo riết thả biệt kích xuống nhiều vùng miền núi như Sơn La, Hà
Giang, Lai Châu…với âm mưu gây phỉ, xây dựng những nơi này thành “Khu


10
vực an tồn và đón tiếp khi qn đồng minh trở lại Đông Dương”. Thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ còn tiếp tay cho các tổ chức phản động như “Đại Việt”,
“Việt Nam quốc dân đảng”, “Phục quốc”…tổ chức ra các nghiệp đoàn giả
hiệu, “các đoàn thể tự động” để lơi kéo quần chúng, bí mật cho số cốt cán của
“Đại Việt” đã được Mỹ huấn luyện về Hải Phòng trước khi ta vào tiếp quản.
Chúng âm mưu cho tay sai nổ mìn phá hoại những cơng trình cơng cộng, di
tích lịch sử văn hố của ta (chùa Một Cột, cầu Đồng Lạc, cầu Thạch Lỗi, nhà
máy điện ng Bí…), bịa đặt, xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng và
Chính phủ ta hịng làm cho quần chúng hoang mang, lo lắng, khơng n tâm
sản xuất.

Ngồi ra, đế quốc Mỹ, thực dân Pháp còn lợi dụng một số điều khoản
trong Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương để dụ dỗ, cưỡng ép những người đã
cộng tác với chúng từ trước và đồng bào (chủ yếu là đồng bào Thiên chúa
giáo) di cư vào Nam. Đây là một âm mưu có tính quy luật diễn ra khi đế quốc
thất bại phải rút lui. Mục đích của chúng là nhằm tập trung người di cư vào
những vùng chiến lược quan trọng, tạo thành vành đai chống cộng sản, bảo vệ
các cơ quan đầu não của chính quyền Mỹ-nguỵ; tăng thêm nhân lực, vật lực
phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ; tăng thêm lá phiếu
bầu cử có lợi cho chính quyền Sài Gịn khi có tổng tuyển cử. Đó là một âm
mưu hết sức thâm độc của địch nhằm làm cho tình hình an ninh chính trị và
trật tự xã hội ở miền Bắc mất ổn định. Để thực hiện âm mưu đó, thực dân
Pháp đã chi 66 tỷ ph-răng, đế quốc Mỹ đã chi 55 triệu đô-la, 41 tàu và tài trợ
tồn bộ chi phí chun chở cho những người di cư. Ở Sài Gòn, Mỹ-Pháp
thành lập Tổng uỷ di cư vào tháng 8-1954. Ngơ Đình Diệm cùng một số thành
viên trong nội các và một số nhân vật cao cấp của Cục tình báo trung ương
Mỹ đến kiểm tra việc tổ chức di cư ở Hải Phòng và lập ra Uỷ ban di cư Bắc
Việt để chỉ huy chiến dịch đưa người miền Bắc vào miền Nam. Bọn phản
động lợi dụng đạo Thiên chúa tìm mọi cách xuyên tạc chính sách của Đảng và


11
Chính phủ ta bằng những luận điệu mị dân như “chống chia cắt đất nước, vào
Nam sẽ có tự do”; tuyên truyền cộng sản sẽ cấm đạo, tàn sát giáo dân hoặc
quy giáo dân theo Pháp để bắt, xuyên tạc rằng Chính phủ ta sẽ đánh thuế nơng
nghiệp-cơng thương nghiệp rất nặng, nếu ở lại sẽ chết đói; vào Nam sẽ được
Mỹ viện trợ, được cấp ruộng đất, nhà cửa, trâu bị. Chúng tìm cách tác động
tâm lý, tinh thần nhân dân, nhất là những người trước đây đã cộng tác với
chúng, nếu không vào Nam sẽ bị cộng sản đánh đập, trả thù…làm cho quần
chúng, giáo dân hoang mang, sợ sệt, xa lánh cách mạng. Chúng dùng thần
quyền, giáo lý để khống chế giáo dân, phao tin “Chúa đã vào Nam, khơng

theo Chúa thì sẽ mất phần hồn”... Ngồi việc mua chuộc, dụ dỗ, bọn phản
động còn trắng trợn đe doạ, dùng vũ lực cưỡng bức, ép buộc đồng bào ta di
cư. Ở phía Nam Quảng Bình, phía Bắc Quảng Trị, bọn phản động đốt hàng
nghìn nóc nhà buộc đồng bào ta phải di cư, trắng trợn bắt cả người lớn, trẻ em
đưa lên xe. Tính đến tháng 10-1954, bọn phản động đã gây ra 436 cuộc vây
ráp, cưỡng ép hàng chục vạn người vào Nam. Chúng tập trung chỉ đạo, tung
nhiều tên tay sai hoạt động tích cực ở các địa phương, âm mưu gây thành
phong trào quần chúng địi di cư. Một số tỉnh như Thái Bình, Nam Định, Ninh
Bình, Thanh Hố, Hà Tĩnh, địch ngang nhiên lập ra các trại tập trung, gây ra
trên 200 vụ biểu tình dưới danh nghĩa giáo dân địi di cư để phá rối an ninh
trật tự. Nhiều nơi, bọn phản động còn tổ chức cho thanh niên theo đạo Thiên
chúa vũ trang, rèn giáo mác, tự động canh gác làng, lập đội “Thanh niên quyết
tử”, chống đối chính quyền địa phương. Chúng đã gây ra nhiều vụ đánh cán
bộ, bộ đội, có nơi biến thành những vụ bạo loạn như ở Phát Diệm (Ninh
Bình), Ba Làng (Thanh Hố), Trù Sơn (Nghệ An). Tàu biển của Pháp, Mỹ đỗ
ngay tại bờ biển Vạn Lý-Nam Định để đón người di cư vào Nam. Máy bay
Pháp thường xuyên rải truyền đơn và gọi loa tuyên truyền di cư vào Nam ở
vùng công giáo tập trung tại Nam Định, Ninh Bình. Nhiều nhà thờ đã biến
thành trại tập trung nhốt giáo dân chuẩn bị di cư vào Nam. Nhiều đồng bào


12
công giáo bị bọn phản động bắt buộc bỏ nhà cửa, ruộng vườn để theo chúng
vào Nam. Cho đến tháng 11 năm 1954, hơn ¼ đồng bào Cơng giáo ở Ninh
Bình di cư vào Nam, trong số 75% số dân Cơng giáo cịn lại một phần quan
trọng đang chuẩn bị để đi. Ở miền Nam, chúng công khai dùng đài phát thanh
phản tuyên truyền, xuyên tạc chế độ miền Bắc để kích động vấn đề di cư.
Chúng tổ chức người trốn đi Nam bằng nhiều đường. Trước đây, chúng
thường đi qua giới tuyến. Khi ta kiểm soát chặt giới tuyến thì chúng đi đường
biển, khi ta chú ý kiểm sốt đường biển thì chúng đi qua biên giới Việt-Lào

theo đường Thanh Hoá đi Sầm Nưa.
Ngay từ khi nhận thấy nguy cơ thất bại trên chiến trường Đông Dương,
thực dân Pháp đã ráo riết triển khai nhiều kế hoạch hậu chiến để phục vụ cho
âm mưu quay trở lại. Từ giữa năm 1953, cơ quan tình báo hỗn hợp nhảy dù
(GCMA) đã tiến hành tuyển lựa những binh lính là người dân tộc đưa về Hà
Nội, Hà Đông, Sơn Tây để đào tạo, huấn luyện thành gián điệp biệt kích
nhằm tung vào các vùng núi, vùng dân tộc dọc hành lang biên giới Việt-Lào,
Việt-Trung như Thanh Hố, Nghệ An, Hồ Bình, Sơn La, Lai Châu, Hà
Giang, Cao Bằng, Hồng Quảng… Số này có nhiệm vụ vừa phá hoại, gây rối
hậu phương ta vừa tiến hành móc nối với bọn thổ ty, lang đạo, phìa, tạo để
gây phỉ nhằm tạo ra “khu an toàn” khi chiến tranh kết thúc, làm chỗ dựa và cơ
sở sẵn sàng đón Pháp quay trở lại. Khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết,
GCMA có 15.000 tên (cả người Pháp và người Việt). Chúng dự định sẽ phát
triển thêm để có 50.000 tên là người Việt Nam vào cuối năm 1954.
Từ sau Hiệp định Giơnevơ, can thiệp Mỹ và bè lũ tay sai đã đẩy mạnh
các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. Các cơ quan tình báo Mỹ tăng
cường lực lượng, ráo riết triển khai hoạt động tình báo phục vụ cho âm mưu
thay chân Pháp xâm lược nước ta. Ngay trong thời hạn quân Pháp chuyển
quân tập kết, Mỹ đã gấp rút thực hiện kế hoạch tuyển lựa, huấn luyện gián
điệp và cài lại miền Bắc mà địa bàn chủ yếu là khu vực trong thời hạn 100


13
ngày và 300 ngày. Đồng thời, Mỹ mua chuộc số gián điệp, tay sai cũ của
Pháp, điều chuyển từ nơi này đến nơi khác hoạt động để không bị lộ tung tích.
Chúng cài gián điệp vào các cơ quan, tổ chức, các cơ sở kinh tế, huấn luyện
số nguỵ quân của Pháp thành gián điệp rồi cho giải ngũ về nằm tại xã hoặc
chui vào nhà giam để hy vọng sau này được ta tin tưởng sử dụng. Từ cuối
năm 1955, khi làn sóng di cư lắng xuống, cơ quan tình báo Mỹ và bọn tay sai
chuyển hướng đưa gián điệp xâm nhập miền Bắc theo phương hướng mới:

xâm nhập qua đường biển, vượt biên giới, vượt giới tuyến; theo đường Việt
kiều hồi hương hoặc tạo vỏ bọc núp dưới danh nghĩa nhân viên ngoại giao,
nhân viên trong các đoàn lâm thời, các cơ quan thường trú… để xâm nhập
miền Bắc một cách bất hợp pháp hoặc hợp pháp với nhiệm vụ bắt liên lạc với
các cơ sở cũ, xây dựng khu căn cứ bí mật, tập hợp lực lượng phản cách mạng
chờ khi Mỹ, ngụy Bắc tiến thì nổi dậy.
Gây phỉ, biệt kích ở miền núi là một âm mưu chính trị rất thâm độc, lâu
dài của chủ nghĩa đế quốc. Từ năm 1953, trước sự thất bại không thể tránh
khỏi, thực dân Pháp âm mưu gây phỉ, biệt kích nhằm chuẩn bị điều kiện quay
trở lại. Ngay khi Hiệp định đình chiến được ký kết, Pháp đã thả 200 biệt kích
xuống Hồng Xu Phì, 120 dù tiếp tế xuống Xín Chải, 300 dù tiếp tế xuống
Piêng-lao thuộc địa bàn Tây Bắc. Cuối tháng 7-1954, chúng đưa một số tên
đầu sỏ (như Đèo Văn Ngảnh, Nông Văn Kiếm, Lương Chính Phương, Tạ
Quốc Tài…) ra Hà Nội huấn luyện rồi tung về hoạt động ở các vùng dân tộc
Tây Bắc, cấu kết với tàn quân của Tưởng Giới Thạch chuẩn bị kế hoạch phá
hoại trước mắt và lâu dài; một số sang Lào lập chiến khu ở Sầm Tợ, sát biên
giới nước ta. Những tên chỉ huy và nhân viên của tổ chức “Đội biệt kích hỗn
hợp nhảy dù” trước đây ở Lai Châu, Sơn La chạy sang Thượng Lào nhập với
số tàn quân của Tưởng Giới Thạch chiếm Mường Sình, U-tay, Ma-li-tao làm
bàn đạp đánh về phía Bắc Lai Châu và Lào Cai. Đơn vị biệt kích của Lị
Khăm Thi thường tung người sang vùng biên giới thuộc tỉnh Nghệ An hoạt


14
động điều tra tình hình bộ đội biên phịng của ta, gây cơ sở, tuyên truyền chống
chính sách của Đảng, Chính phủ ở miền núi. Ở những vùng biên giới ViệtTrung, Việt-Lào, bọn phỉ hoạt động lẻ tẻ từng nhóm từ 10 đến 20 tên chuyên đi
quấy rối, tung tin đồn nhảm, xuyên tạc chính sách của Đảng, Chính phủ.
1.2. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG PHẢN
CÁCH MẠNG Ở MIỀN BẮC (1954-1960)


1.2.1. Chủ trương của Đảng
Sau khi thực dân Pháp thua trận buộc phải rút quân, Việt Nam tạm thời
bị chia cắt thành hai miền. Miền Bắc được hồn tồn giải phóng, miền Nam
tạm thời nằm dưới sự cai trị của đế quốc Mỹ và chế độ cai trị độc tài, phát xít
do Ngơ Đình Diệm đứng đầu. Nắm vững đường lối giương cao hai ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã lãnh đạo toàn dân, toàn quân
tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam nhằm mục tiêu chung là
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, thực hiện thống nhất
đất nước. Đảng xác định nhiệm vụ chung, trước mắt của toàn Đảng, tồn dân
ta là khơi phục, phát triển kinh tế-văn hoá, cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa miền
Bắc tiến dần lên Chủ nghĩa xã hội và giữ vững, đẩy mạnh cuộc đấu tranh
chính trị của nhân dân ta ở miền Nam.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm đẩy mạnh công tác củng
cố miền Bắc về mọi mặt mà Đảng ta xác định là: “Tăng cường bảo vệ an ninh
quốc gia, bảo vệ thắng lợi của cách mạng” [29, tr.582]. Trước tình hình gián
điệp, phản động phá hoại một cách nghiêm trọng, Đảng ta chỉ đạo:
không ngừng nâng cao cảnh giác chính trị, tăng cường cơng tác phịng
gian, bảo mật. Phải củng cố tổ chức và chỉnh đốn chế độ bảo mật trong
các cơ quan Đảng, chính, quân, dân; gấp rút quy định chế độ bảo vệ
máy móc và bảo vệ sản xuất trong các xí nghiệp. Đồng thời đẩy mạnh
và kịp thời trấn áp mọi hoạt động phá hoại hiện hành của bọn gián điệp
và của những phần tử phản cách mạng khác [29, tr.583].


15
Tháng 8-1955, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa II) ra Nghị
quyết nhấn mạnh: Trước tình hình gián điệp, phản động phá hoại một cách
nghiêm trọng, theo yêu cầu củng cố miền Bắc về mọi mặt, Trung ương Đảng
nhắc nhở các cấp không ngừng nâng cao cảnh giác chính trị, tăng cường cơng

tác phịng gian bảo mật; đẩy mạnh và kịp thời trấn áp mọi hoạt động phá hoại
hiện hành của bọn gián điệp và những phần tử phản cách mạng. Bước vào
thời kỳ này, cuộc đấu tranh chống phản cách mạng và bọn tội phạm khác để
bảo vệ an ninh, trật tự vẫn tiếp tục diễn ra vô cùng gay go, phức tạp, quyết
liệt. Để thiết lập trật tự cách mạng vùng mới giải phóng (nhất là thành phố, thị
xã lớn), vấn đề quan trọng nhất là phải phịng ngừa tình trạng hỗn loạn, phịng
ngừa bọn phản động trong thành phố lợi dụng thời cơ quấy rối. Trước mắt,
nhiệm vụ tiếp quản các thành thị lớn và vùng nơng thơn mới giải phóng là
nhiệm vụ cấp bách, quan trọng và nặng nề của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta. Việc trước mắt khi vào tiếp quản là giữ gìn trật tự an ninh, trấn áp bọn phản
cách mạng, bọn tàn binh cịn vũ khí, bọn lưu manh côn đồ đang âm mưu phá
hoại để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, bảo vệ các cơ quan, xí nghiệp,
kho tàng của Nhà nước. Phải tuyên truyền, giáo dục, giải thích chính sách của
Đảng, Chính phủ một cách sâu rộng, thường xuyên ổn định tư tưởng quần chúng
trên cơ sở đó vận động quần chúng tố giác những hành động phá hoại của bọn
phản cách mạng, bọn lưu manh cơn đồ, giữ gìn trật tự an ninh. Việc giải thích tốt
chính sách cịn có tác dụng phân hoá hàng ngũ bọn phản cách mạng và bọn phá
hoại. Tiếp thu tốt các cơ quan, công sở, xí nghiệp của chế độ cũ khơng những có
tác dụng lớn đối với cơng tác giữ gìn trật tự an ninh mà cịn có tác dụng nhanh
chóng ổn định sinh hoạt bình thường của quần chúng, phục vụ cho nhiệm vụ
phục hồi và phát triển kinh tế. Trước khi tiếp quản, Đảng đề ra chính sách: Ai có
cơng bảo hộ các xí nghiệp, kho tàng sẽ được khen thưởng. Ai phá hoại sẽ bị
trừng trị. Ai muốn làm việc phục vụ nhân dân thì sau khi chính quyền nhân
dân tiếp quản sẽ được tuyển dụng theo tài năng.


16
Nghị quyết của Bộ Chính trị họp tháng 9-1954 nêu rõ:
Vấn đề quan trọng nhất trong việc tiếp quản là phịng ngừa tình
trạng hỗn loạn, phịng ngừa bọn phản động, bọn lưu manh, côn đồ

lén lút trong thành phố lợi dụng thời cơ quấy rối, phịng ngừa những
hành động vơ tổ chức, vơ kỷ luật, vơ trật tự có thể xảy ra trong một
số bộ đội và đơn vị, trong một số dân qn du kích ở nơng thơn và
quần chúng nông dân vào thành. Việc trước mắt trong thời kỳ mới
vào thành không phải là tiến hành những việc cải tạo xã hội chủ
nghĩa mà là bảo hộ tài sản công và tư, đừng để bị phá hoại, duy trì
trật tự xã hội và đời sống bình thường trong thành phố, phục hồi
công ăn việc làm, phục hồi chợ búa, phục hồi các trường học, duy trì
việc cung cấp lương thực và tất cả các thứ hàng cần thiết, duy trì
những sự nghiệp có tính chất lợi ích cơng cộng như điện, nước, bưu
chính, giao thơng, bệnh viện, v.v. làm cho mọi hoạt động của thành
phố có thể tiếp tục như thường [28, tr.291-292].
Đối với một số phần tử phá hoại, lưu manh, thổ phỉ đang hoạt động thì
phải kiên quyết trấn áp.
Ngày 3-11-1954, Bộ Chính trị ra chỉ thị số 102 CT/TW về mấy vấn đề
cần chú ý khi xử trí địa chủ có tội ác trong phát động quần chúng giảm tô và
cải cách ruộng đất. Khi xét xử các vụ án, ngoài việc xét những tội về việc
hình, việc hộ, tội phá hoại phát động quần chúng và các tội chính trị, Ban xử
trí các cấp vẫn cần xét đến tội Việt gian phản động trong thời kỳ chiến tranh
mà cân nhắc tội trạng và định cách trừng trị. Phương trâm khi xét xử địa chủ
có tội ác là: cường hào gian ác có tội chính trị thì xử nặng hơn cường hào gian
ác khơng có tội chính trị, tội sau cách mạng xử nặng hơn tội trước cách mạng,
tội giết người xử nặng hơn tội bóc lột, thủ mưu xử nặng hơn hung thủ, thủ
phạm xử nặng hơn tòng phạm, khoan hồng với kẻ đã hối cải, Việt gian phản
động trong thời kỳ chiến tranh khơng có tội cường hào gian ác hay tội phá


17
hoại phát động quần chúng hoặc tội chống lại Chính phủ thì khơng xét xử.
Chính sách xử lý cũng cần phân biệt từng loại phạm nhân: Đối với bọn cường

hào gian ác đồng thời là Việt gian phản động nguy hiểm thì căn cứ vào tội
cường hào gian ác. Đối với bọn Việt gian phản động nguy hiểm khác khơng
có tội ác như cường hào gian ác nếu có hành động phá hoại phát động quần
chúng, ngoan cố không chịu chấp hành chính sách ruộng đất của Chính phủ,
thì trừng trị nghiêm khắc. Đối với Việt gian phản động thường, khơng nguy
hiểm, tuy có tội ác với nơng dân nhưng không bị coi là cường hào gian ác đầu
sỏ, sau Hiệp định đình chiến khơng tỏ thái độ cơng khai chống lại ta, trong
phát động quần chúng chịu chấp hành chính sách và thú nhận tội ác, sau khi
tự kiểm thảo trước quần chúng, thì tuyên bố khoan hồng. Đối với Việt gian
phản động không bị coi là cường hào gian ác và khơng có lý do đưa ra xét xử
trước tồ án nhân dân đặc biệt nhưng vẫn bí mật hoạt động chống ta thì giao
cho cơng an theo dõi, khơng nên đem ra truy về vấn đề chính trị trong khi
phát động quần chúng. Đối với địa chủ Việt gian phản động thuộc tầng lớp
trên có tiếng tăm, địa chủ kiêm nhà công thương nghiệp, phản động đội lốt
thày tu thì nói chung khơng đem xử trong phát động quần chúng mà cần báo
cáo tội trạng của chúng lên cấp trên và giao cho công an theo dõi.
Đối với thủ đô Hà Nội, ngày 6-9-1954, Trung ương Đảng quyết định
thành lập Đảng uỷ tiếp quản do đồng chí Trần Hồn, uỷ viên Trung ương
Đảng, Bộ trưởng Bộ Cơng an làm Bí thư. Ngày 19-7-1954, Hội đồng Chính
phủ thơng qua 8 chính sách đối với các thành phố mới giải phóng và 10 điều
kỷ luật của bộ đội, cán bộ và nhân viên công an khi vào thành phố1.
1

Tám chính sách là:
- Bảo hộ tính mệnh, tài sản của tồn thể nhân dân thành phố.
- Bảo hộ cơng thương nghiệp.
- Tiếp thu và quản lý các xí nghiệp cơng sở của chính quyền Pháp và Bảo Đại.
- Bảo hộ các trường học, nhà thương, cơ quan văn hoá giáo dục.
- Những viên chức trong cơ quan chính quyền Pháp và Bảo Đại đều được tuyển dụng theo tài năng.
- Sĩ quan, binh lính trong quân đội Pháp và Bảo Đại cịn ở lại trong vùng mới giải phóng. Sau khi đến

ghi tên có thể giúp đỡ về quê hoặc được tuyển dụng tuỳ theo năng lực.
- Bảo hộ tính mệnh, tài sản của ngoại kiều.


18
Trước âm mưu và hoạt động dụ dỗ, cưỡng ép di cư của địch, ngày 8-91954 Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 91/CT-TW về việc đấu tranh chống Pháp
và Ngơ Đình Diệm dụ dỗ và bắt ép một số đồng bào ta vào miền Nam. Chỉ thị
xác định: việc phá tan âm mưu của địch bắt ép đồng bào ta vào Nam là một
cuộc đấu tranh chính trị gay go và cấp bách hiện nay, cốt tranh thủ quần
chúng ở lại quê hương, làng mạc tham gia công việc kiến thiết nước nhà,
không để bị địch bắt đi làm lính, làm phu đồn điền và bị đày ải khổ sở. Nếu
địch thực hiện được âm mưu của chúng thì sẽ khơng có lợi cho ta về chính trị.
Chỉ thị nêu hai vấn đề về lãnh đạo cuộc đấu tranh là: khơng làm trái với quy
định trong Hiệp định đình chiến đối với việc di chuyển nhân viên của hai bên
nhưng phải vạch rõ và chống lại địch lừa dối, cưỡng bức đồng bào ta đi theo
chúng; ra sức tranh thủ nhiều người ở lại miền Bắc làm cho những người chưa
đi thì kiên quyết khơng đi, những người đã đi mà chưa vào Nam thì trốn ở lại
hoặc địi Pháp phải đưa về quê cũ, những người đã vào Nam thì đấu tranh địi
Pháp phải trả về q cũ. Trung ương đã đề ra một số phương pháp chính để
đấu tranh chống địch bắt đồng bào Công giáo di cư vào Nam như:
Đối với quần chúng tôn giáo phải mạnh dạn tập trung cán bộ giải
thích rõ chính sách của Đảng và Chính phủ, phải thi hành đúng đắn
chính sách tơn trọng tự do tín ngưỡng, làm cho quần chúng yên tâm,
thấy rõ âm mưu lừa bịp của địch nguỵ… Đối với bọn phản động lừa
phỉnh, áp bức quần chúng phải kiên quyết vạch mặt chúng trước
- Thực hiện tự do dân chủ, bảo hộ tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Mười điều kỷ luật của cán bộ và nhân viên công an khi vào thành phố mới giải phóng:
- Khi làm nhiệm vụ phải có giấy uỷ nhiệm.
- Cấm việc phá hoại tài sản công cộng trong thành phố.
- Không được tự ý bắt bớ nhân dân, trừ trường hợp đối với những kẻ cầm vũ khí chống lại bộ đội và

nhân dân.
- Tất cả mọi tài sản, vật dụng đã tước được của địch, nguỵ đều phải nộpvào của công, không được tự ý
dùng hoặc phân phối
- Thái độ đối với nhân dân phải hồ nhã, khơng được hống hách, cưỡng bức, mệnh lệnh
- Không được tự tiện vào nhà dân và cửa hiệu để khám xét hoặc ở trọ
- Mua bán công bằng, không được lấy một mũi kim, sợi chỉ của dân, nghiêm cấm ăn hối lộ
- Không được tự ý chiếm đoạt nhà cửa công cộng và tự ý khuân dọn đồ đạc nơi này đi nơi khác
- Khi mới vào thành phố không được tự ý mua hàng
- Không được uống rượu say, không được chơi bời trác táng


19
nhân dân…Cơng tác trong các linh mục, trùm trưởng: tìm những
người tương đối tiến bộ hoặc tương đối ít phản động để gần gũi, làm
cho họ dần dần tách rời ảnh hưởng bọn phản động, khiến cho bọn
phản động bị cơ lập. Khuyến khích và giúp đỡ cho những trùm
trưởng, linh mục tốt đi giải thích cho quần chúng Cơng giáo...Phải
kết hợp đấu tranh của quần chúng và đấu tranh của chính quyền mà
giải thốt cho quần chúng hiện đang bị bọn phản động và lưu manh
nhốt vào các nhà thờ hay vào các trại tập trung để chuẩn bị bắt di cư
vào Nam… [28, tr.365-366]
Ngày 9-2-1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng điện cho Xứ uỷ Nam Bộ
và Liên khu uỷ V về chống âm mưu địch dụ dỗ và cưỡng ép giáo dân di cư
vào Nam. Sau khi nhận định tình hình, Trung ương chủ trương: “Đẩy mạnh
đấu tranh mọi mặt, phá âm mưu mới của địch trong việc lừa bịp, cưỡng ép
giáo dân di cư, chủ động tiến cơng địch, tranh thủ cảm tình của quần chúng,
tranh thủ dư luận trong nước và thế giới. Đây là một công tác trọng tâm trong
những công tác trọng tâm nửa đầu năm 1955” [29, tr.53]. Yêu cầu của cuộc
vận động đấu tranh này là: Bóc trần âm mưu địch, làm cho quần chúng thấy
dã tâm của chúng, oán ghét chúng, không để cho chúng lừa bịp, cưỡng ép. Ổn

định tư tưởng giáo dân và các tầng lớp nhân dân để họ tin tưởng vào chính
sách của Đảng, yên tâm sản xuất. Vận động quần chúng đã bị địch dụ dỗ,
cưỡng ép di cư vào Nam, đấu tranh đòi cải thiện sinh hoạt, chống bạc đãi và
đòi về Bắc. Giành lấy thế chủ động, phá ngay từ đầu, phá tận gốc những âm
mưu của địch; đẩy mạnh cuộc đấu tranh tồn diện, đấu tranh khắp các vùng
có dân di cư, đấu tranh một cách tích cực, khẩn trương, bền bỉ, liên tục.
Ngày 16-2-1955, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 07-CT/TW nêu rõ: “Đẩy
mạnh đấu tranh mọi mặt, phá âm mưu mới của địch trong việc dụ dỗ và
cưỡng ép giáo dân di cư, chủ động tiến công địch, tranh thủ cảm tình của quần
chúng, tranh thủ dư luận trong nước và thế giới”[29, tr.71] với yêu cầu: bóc


20
trần âm mưu của địch, ổn định tư tưởng giáo dân và các tầng lớp nhân dân;
vận động quần chúng đã bị địch dụ dỗ cưỡng ép vào Nam đấu tranh đòi cải
thiện sinh hoạt, chống bạc đãi, đòi trở về Bắc; làm cho nhân dân trong nước
và thế giới thấy rõ là ta thực hiện đúng tự do tín ngưỡng, ln nêu cao lá cờ
hồ bình, thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định đình chiến; giành lấy thế chủ
động, phá ngay từ đầu những âm mưu mới của địch, phá ngay tận gốc âm
mưu dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân vào Nam và đẩy mạnh cuộc đấu tranh toàn
diện khắp các vùng có dân di cư. Đảng cũng đã đề ra những công tác cụ thể
như: mở chiến dịch tuyên truyền vận động tranh thủ nhân dân, dư luận
trong nước, dư luận quốc tế; tuyên bố về vấn đề tự do đi lại; tổ chức giúp
đỡ cho đồng bào quyết tâm đi; chú trọng giải quyết những khó khăn về đời
sống cho nhân dân, giúp đỡ những người trở về; ngăn ngừa bọn phản động
tập trung dân và thúc đẩy quần chúng vũ trang chống lại cách mạng. Trung
ương chỉ đạo:
Tăng cường công tác tranh thủ linh mục, vận động giáo dân giữ các
linh mục ở lại. Phải giúp đỡ các tỉnh và các đội công tác vận động
cụ thể về việc theo dõi và phát hiện phản động, trấn áp kịp thời

những hành động phản động của chúng. Đề cao cảnh giác theo dõi
và đối phó kịp thời những hoạt động dưới hình thức tơn giáo sau
việc cấm phong của các giám mục và linh mục [29, tr.230-231].
Trong Chỉ thị số 16-CT/TW ngày 21-4-1955 về tăng cường chỉ đạo,
tích cực đấu tranh phá âm mưu địch cưỡng ép và dụ dỗ giáo dân di cư, Ban Bí
thư Trung ương Đảng nêu một số vấn đề chính cần phải giải quyết như: tăng
cường chỉ đạo, đẩy mạnh công tác, gây thành phong trào đấu tranh rộng rãi
của quần chúng; kiên quyết trấn áp bọn phản động đầu sỏ cưỡng ép, dụ dỗ đi
Nam, kể cả bọn phản động đội lốt tơn giáo, cần đem xử án một số vụ điển
hình và công bố trước dư luận…


21
Công tác chống âm mưu dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào
Nam của địch là một cơng tác gay go, phức tạp, cấp bách của tồn Đảng. Các
cấp uỷ phải chỉ đạo trực tiếp, chặt chẽ cuộc đấu tranh này. Mọi hoạt động phải
thật khẩn trương, tích cực, kiên quyết giành chủ động, vận động tồn Đảng,
tồn dân tích cực đứng lên tố cáo âm mưu địch, vạch mặt bọn phản động,
tranh thủ quần chúng và dư luận trong nước cũng như dư luận quốc tế.
Trước tình hình hoạt động ráo riết của bọn phỉ, Trung ương Đảng nhận
định: “Vấn đề phỉ chưa giải quyết xong về căn bản mà cịn là vấn đề nghiêm
trọng khó khăn, lâu dài cần phải tiếp tục tích cực giải quyết. Hiện nay phỉ
nặng về hoạt động bí mật, gây cơ sở, hoạt động gián điệp đồng thời chú trọng
hoạt động phá hoại, biệt kích ám sát cán bộ cốt cán, cướp bóc nhân dân để
phá rối hậu phương ta”[29, tr.257] và đề ra chủ trương: “Đề cao cảnh giác,
chống chủ quan khinh địch, tiếp tục tích cực phá âm mưu gây phỉ của đế quốc
Mỹ, phái thực dân Pháp phản Hiệp định và bọn tay sai của chúng nhằm đạt
yêu cầu chung là đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, phá âm
mưu gây phỉ của đế quốc, xây dựng và củng cố cơ sở, củng cố biên phòng”
[29, tr.257]. Phải kiên quyết dựa vào nhân dân để tiễu trừ chúng, để tăng

cường đoàn kết dân tộc, củng cố biên phịng và sự an tồn của giao thông vận
tải. Một trong những nhiệm vụ trước mắt của công an, quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay là quét sạch thổ phỉ. Cần quét sạch sớm bọn này, vì chậm ngày
nào chúng càng phát triển ngày ấy”. Phương châm cơng tác là: hoạt động
chính trị kết hợp với cải thiện dân sinh là chính với 6 công tác cụ thể (tuyên
truyền giáo dục nhân dân; tranh thủ tầng lớp trên; thực hiện chính sách khoan
hồng; cải thiện dân sinh; xây dựng củng cố tổ chức quần chúng, tổ chức chính
quyền và dân quân, du kích; đào tạo cán bộ địa phương).
Bên cạnh hoạt động phỉ, ở các tỉnh có đơng đồng bào dân tộc sinh sống,
bọn phản động thuộc tầng lớp trên còn liên tục gây ra các vụ “xưng vua, đón
vua”. Chúng tuyên truyền tư tưởng dân tộc hẹp hịi, ly khai, bài xích người


22
Kinh, phần lớn đều bắt đầu từ các luận điệu hoang đường “có vua hiện ra, vua
có nhiều phép lạ, ai theo vua thì được sung sướng, khơng phải trồng trọt…”.
Khi tập hợp được nhiều quần chúng tham gia, chúng thành lập tổ chức, xây
dựng lực lượng vũ trang, tiến hành các hoạt động tuyên truyền chống lại
chính sách của Đảng, Nhà nước; kích động chia rẽ dân tộc, phá hoại sản xuất,
sử dụng lực lượng vũ trang tấn công chính quyền cơ sở, giết cán bộ làm cho
tình hình an ninh, trật tự trở nên hết sức nghiêm trọng. Ở các vùng đồng bằng,
duyên hải bọn phản động đội lốt linh mục, số đối tượng từng cộng tác với
địch ráo riết kích động bà con giáo dân chống đối chủ trương, chính sách của
Đảng, Chính phủ. Một số họ đạo, xứ đạo tại các tỉnh Nam Định, Ninh Bình,
Thanh Hóa, Nghệ An… đã hình thành những tổ chức vũ trang trá hình “đồn,
đội” trong Thiên chúa, cơng khai chống chính quyền cơ sở, có đối tượng đã
tìm cách liên lạc với Mỹ, Diệm nhen nhóm tập hợp lực lượng chờ khi Mỹ,
Diệm “Bắc tiến” sẽ làm tay sai cho chúng. Diễn biến tình hình an ninh xã hội
ở vùng núi, vùng nông thôn miền Bắc mấy năm sau giải phóng đã xuất hiện
nhiều vấn đề phức tạp, nhất là hoạt động của phản động lợi dụng dân tộc, tôn

giáo gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, sinh hoạt của nhân dân, có
nơi chúng cịn đe dọa, vơ hiệu hóa chính quyền cấp cơ sở. Trước tình hình đó,
Đảng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo giải quyết từng vấn đề đối với dân
tộc và tôn giáo. Chủ trương của Đảng ở vùng dân tộc thiểu số là: “đoàn kết
rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các dân tộc” [29, tr.259], nghiêm trị kết hợp
với khoan hồng, tranh thủ tầng lớp trên, cô lập đánh đổ bọn đầu sỏ, phá hoại,
bọn ngoan cố tay sai của đế quốc Mỹ, cải thiện dân sinh, xây dựng và củng cố
tổ chức quần chúng, chính quyền du kích. Chỉ thị 48/CT-TW của Trung ương
Đảng ngày 14-7-1956 nêu rõ: cần tuyên truyền cho quần chúng ý thức giữ gìn
trật tự an ninh. Khu ủy, Tỉnh ủy cần căn cứ tình hình địa phương mà định kế
hoạch đối phó cho thích hợp nhằm bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân, bảo
vệ pháp luật.


23
1.2.2. Cuộc đấu tranh chống phản cách mạng ở miền Bắc của lực
lượng Cơng an nhân dân
Đồng chí Trần Quốc Hồn-Bộ trưởng Bộ Cơng an nêu rõ: Phản cách
mạng là những phần tử nhìn thắng lợi của cách mạng, của nhân dân bằng con
mắt thù địch, căm hờn đến cực độ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và
tiến hành hoạt động phá hoại chính quyền dân chủ, phá hoại sự nghiệp củng
cố hồ bình, thực hiện thống nhất, phá hoại việc củng cố miền Bắc, làm nguy
hại đến lợi ích và an tồn của Nhà nước và nhân dân. Trong cơng tác đánh kẻ
địch bí mật, mỗi cán bộ, chiến sĩ công an phải luôn luôn thông suốt phương
châm mà Trung ương Đảng đã đề ra: “Nâng cao cảnh giác, khơng để lọt một
kẻ gian; đề phịng lệch lạc, không được làm oan một người ngay” và yêu cầu
đánh địch là “đánh cho đúng, đánh cho vững, đánh cho mạnh”.
Hội nghị cơng an tồn quốc lần thứ IX (2-1955) xác định nhiệm vụ của
lực lượng Cơng an:
Tích cực đả kích mọi hoạt động hiện hành của địch nhằm phá hoại

hồ bình và thống nhất của ta, bọn phản động lừa phỉnh cưỡng ép
đồng bào di cư, bọn gián điệp, bọn biệt kích, bọn cường hào gian ác,
bọn phá rối trị an; xây dựng và củng cố mau chóng trật tự cách
mạng ở nông thôn và thành thị; tăng cường công tác bảo vệ nội bộ
và công tác cảnh vệ, bảo đảm chắc chắn sự an toàn tuyệt của lãnh tụ,
Trung ương, các thủ trưởng của những cơ quan đầu não, các tân
khách quan trọng và các chuyên gia; mật thiết kết hợp với công tác
phát động quần chúng và cơng tác khơi phục kinh tế; tích cực ngăn
ngừa và nghiêm khắc trấn áp mọi sự phá hoại của bọn cường hào
gian ác và các phần tử phản cách mạng khác; tăng cường lực lượng
trinh sát, trị an, cảnh vệ, đồng thời xây dựng và bổ sung các bộ phận
của công tác bảo vệ khác để củng cố miền Bắc và bảo vệ Đảng ở
miền Nam, góp phần tích cực đấu tranh để củng cố hồ bình thực
hiện thống nhất nước nhà [39, tr.354].


24
Nghị quyết Bảo vệ chính trị lần thứ II của Công an (4-1955) nêu rõ:
Đánh mạnh vào bọn gián điệp ở miền Bắc của bọn đế quốc Mỹ, Pháp, Anh do
đế quốc Mỹ cầm đầu và bọn chó săn của chúng là đặc vụ Tưởng. Tích cực
đập tan âm mưu và hoạt động hiện hành có mục đích phản cách mạng của các
đảng phái phản động, phản động trong tôn giáo, phản động trong tầng lớp trên
dân tộc thiểu số, các tổ chức và cá nhân phản cách mạng ẩn núp ở thành thị và
nơng thơn; tích cực phát hiện và thanh trừng những phần tử gián điệp, phản
động ẩn núp trong nội bộ cơ quan, trường học, công xưởng của ta...
Hội nghị cơng an tồn quốc lần thứ X (1-1956) thông qua đề án công
tác công an năm 1956 lấy công tác đẩy mạnh việc trấn áp bọn phản cách
mạng, bọn gián điệp đang hoạt động chống Chính phủ, nhân dân làm cơng tác
trọng tâm của tồn Ngành cơng an năm 1956. “Đẩy mạnh việc trấn áp bọn
phản cách mạng, bọn gián điệp đang hoạt động” là cuộc vận động với quy mô

rộng lớn mà công an là lực lượng cốt cán chủ yếu, là cuộc vận động toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân tham gia trấn áp bọn phá hoại, bọn gián điệp đang
hoạt động nhằm mục đích yêu cầu là: định rõ ranh giới giữa cách mạng và
phản cách mạng trong nội bộ và trong nhân dân, đánh thật đúng, vững, mạnh
vào bọn phá hoại, bọn gián điệp đang hoạt động, làm cho đội ngũ cách mạng
thêm củng cố, đoàn kết dân tộc thêm vững mạnh, rộng rãi.
Chấp hành chỉ thị của Trung ương Đảng và Chính phủ, để chủ động
trong bất cứ tình hình nào, Bộ Cơng an chỉ thị: Phải nắm thật vững tình hình
âm mưu, hoạt đông của địch, của các phần tử xấu và kịp thời có kế hoạch đối
phó… Phải thơng qua các chun án hiện có, đi sâu tìm hiểu các đối tượng
xem chúng có nhận được những chỉ thị mới và do đó có những luận điệu hành
động gì mới, để qua đó có thể tìm hiểu rõ âm mưu hoạt động của địch. Phải
bám sát bọn gián điệp, chỉ điểm, những phần tử phản động trong nguỵ quân,
nguỵ quyền, biệt kích, thổ phỉ cũ, bọn phản động nhất là bọn phản động lợi
dụng Thiên chúa giáo, bọn địa chủ ngoan cố để tìm hiểu rõ động thái của
chúng, xem chúng có những âm mưu hoạt động phá hoại gì.


25
Đi đơi với việc nắm vững tình hình, phải kiểm điểm ngay việc giữ gìn
trật tự trị an và kịp thời có kế hoạch bổ khuyết cho sát hợp. Đặc biệt phải chú
ý những điểm sau đây: Ở các thành phố, thị xã, thị trấn quan trọng phải củng
cố lại các đồn trạm công an, phải tăng cường công tác quản lý hộ khẩu, có kế
hoạch cho hộ tịch viên trong một thời gian nhất định (do địa phương quy định
cụ thể) phải nắm được khơng những tình hình di biến động của các trọng
điểm mà cả tình hình chính trị, tình hình tư tưởng của từng hộ trong phạm vi
của từng hộ tịch viên phụ trách. Ở các vùng nông thôn, nhất là vùng tập trung
đồng bào theo đạo Thiên chúa, cần phải tiến hành củng cố công an xã, đảm
bảo cho tổ chức được vững mạnh, khơng có phần tử xấu lọt vào. Đối với dân
quân du kích, phải phối hợp với tỉnh đội, huyện đội, xã đội tiến hành quản lý

vũ khí cho chặt chẽ, bảo đảm cho vũ khí phải ở trong tay những người tốt,
tuyệt đối không được để lọt vào những phần tử xấu. Ở miền núi nơi trước đây
có biệt kích, thổ phỉ hoạt động, phải có kế hoạch theo dõi, bám sát những tên
biệt kích, thổ phỉ cũ, phải tăng cường giáo dục, phân hố chúng khơng để
chúng cấu kết với nhau và trở lại hoạt động phá hoại. Đối với bọn phản cách
mạng đang phá hoại và tội phạm hình sự cần phải trấn áp kịp thời. Kịp thời truy
tìm, trừng trị đối với bọn phao tin đồn nhảm, tuyên truyền chiến tranh làm quần
chúng hoang mang; bắt, trừng trị kịp thời bọn hoạt động phá hoại trắng trợn, bọn
tuyên truyền tổ chức di cư khi có đủ chứng cứ; kịp thời phá án, trừng trị các đối
tượng trong các chuyên án nếu có âm mưu hoạt động phá hoại, ám hại cán bộ
hoặc tổ chức trốn đi Nam; kịp thời phân loại và tuỳ từng tên mà xử lý, không nên
để tập trung ở khu vực giới tuyến đối với bọn tay sai của địch tung qua biên
giới, giới tuyến; tiếp tục tập trung đưa đi trại giáo dưỡng với bọn lưu mạnh,
tên nào có tội đang xử thì đưa ra xử rồi cho vào trại cải tạo.
1.2.2.1. Đấu tranh chống phản cách mạng thực hiện
nhiệm vụ tiếp quản


×