1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chiến tranh lạnh chấm dứt đã đưa tới những thay đổi nhanh chóng về
nhiều mặt trên thế giới và các khu vực. Cục diện thế giới sau chiến tranh lạnh
đang biến đổi khó lường, bên cạnh việc tạo ra thuận lợi, nó cịn đưa lại rất
nhiều khó khăn thử thách đối với độc lập dân tộc của các nước đang phát triển
trong quá trình tồn cầu hóa.
Để giữ vững ổn định về chính trị, bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc, các
quốc gia đã tiến hành các chính sách cải cách kinh tế, chính trị, xã hội. Trong
q trình đó, có nhiều nước đã gặt hái được những thành công bước đầu, đưa
nền kinh tế từ nghèo nàn, lạc hậu, bất ổn định trở thành nền kinh tế năng
động, hiện đại và ngày càng có vai trị quan trọng trong nền kinh tế tồn cầu,
điển hình là các quốc gia đang phát triển châu Á.
So với các nước đang phát triển ở châu Á, Nam Phi tiến hành công cuộc
bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc trong những điều kiện khá đặc biệt. Từ một
vùng đất đang ở tình trạng thị tộc, bộ lạc, bị thực dân Hà Lan đô hộ vào thế kỷ
XV, thực dân Anh thế kỷ XIX, trở thành một quốc gia đa sắc tộc và đa ngôn
ngữ nhất ở châu Phi, một quốc gia chịu ách cai trị của chế độ Apacthai phân
biệt chủng tộc hà khắc nhất trên thế giới. Bước vào thời kỳ sau chiến tranh
lạnh cùng với những biến đổi chung của thế giới, Nam Phi đã làm một cuộc
chính biến ngoạn mục, tổ chức thành công cuộc bầu cử dân chủ hợp Hiến đầu
tiên vào năm 1994, thành lập Nhà nước Cộng hòa Nam Phi mới, mở ra một
thời kỳ mới cho sự phát triển của đất nước.
Trong công cuộc xây dựng xã hội mới đầy khó khăn, gian khổ, Đảng Đại
hội Dân tộc Phi (ANC) đã lãnh đạo chính quyền mới cùng toàn thể nhân dân
Nam Phi thực hiện những cải cách kinh tế, xã hội mang tính cách mạng, toàn
diện và căn bản trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã
hội, nhờ đó đã tạo ra được những chuyển biến to lớn trên hầu hết các mặt đời
sống kinh tế xã hội của đất nước, củng cố và bảo vệ nền độc lập dân tộc.
2
Về chính trị, Nam Phi đã thực sự chấm dứt hơn bốn thập kỷ cai trị của
chế độ phân biệt chủng tộc, chuyển sang một xã hội mới hướng tới tự do dân
chủ, công bằng và thịnh vượng. Về đối ngoại, Nam Phi đã thốt khỏi sự cơ
lập ở khu vực và cấm vận của cộng đồng quốc tế, mở rộng hội nhập, phát
triển ngoại thương và đầu tư nước ngồi, góp phần giải quyết các cuộc xung
đột ở châu Phi, khởi xướng chương trình: “Đối tác mới vì sự phát triển châu
Phi” (NEPAD) đưa Nam Phi trở thành một nước có vai trị tiên phong ở châu
Phi trong bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc và nâng cao vị thế trên trường
quốc tế. Đặc biệt là chính sách “Nam Phi mới” của Tổng thống Nelsơn
Mandela đã tạo lập được một nền dân chủ, một chế độ chính trị đa sắc tộc và
tạo môi trường phát triển kinh tế mới ở Nam Phi. Về kinh tế, Nam Phi đã từng
bước thay đổi tư duy và phương thức phát triển kinh tế cũ dựa chủ yếu vào các
ngành khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có, sang một phương thức
mới, tăng cường phát huy những lợi thế so sánh sẵn có về tài nguyên thiên
nhiên, sử dụng các nguồn tài nguyên như những lợi thế từng bước xây dựng
nền công nghiệp, công nghệ hiện đại, phát triển kinh tế tri thức, trở thành nền
kinh tế phát triển nhất châu Phi, một thế mạnh vừa mang tính truyền thống vừa
mang tính hiện đại như cơng nghiệp khai khống, nhất là khai thác vàng và kim
cương, công nghiệp chế tạo gồm luyện kim, chế tạo cơ khí các loại như máy
bay, ô tô, tàu thủy, chế tạo vật liệu xây dựng và các sản phẩm hóa chất, cơng
nghiệp chế biến thực phẩm và nhiều ngành công nghiệp khác khá phát triển. Về
mặt xã hội, Nam Phi đã chuyển từ một chế độ dành đặc quyền cao cho thiểu số
người da trắng, sang một xã hội công bằng và phúc lợi, tăng các cơ hội học
tập, tạo việc làm, chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống cho
hầu hết mọi người dân, coi trọng văn hóa và ngơn ngữ dân tộc.
Những chuyển biến về mọi mặt nêu trên đã góp phần bảo vệ và củng cố
độc lập dân tộc của Cộng hòa Nam Phi trong điều kiện đầy biến động, phức
tạp, khó lường của châu lục từ khi chiến tranh lạnh kết thúc đến nay.
3
Bên cạnh những thành tựu rất đáng tự hào, Nam Phi vẫn cịn phải đối
mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức lớn như tình trạng đói nghèo, bệnh
tật, thất nghiệp, tội phạm, tình trạng thiếu lương thực… Tuy vậy, những thành
công trên đã khẳng định một chiều hướng không thể đảo ngược của Nam Phi
trong việc xây dựng xã hội mới. Công cuộc đổi mới ở Nam Phi đã đưa đất
nước từ một quốc gia đã từng nhiều thập kỷ chìm trong cảnh tối tăm của nạn
phân biệt chủng tộc trở thành một điểm sáng, thành đầu tầu phát triển của cả
châu Phi, chứng minh cho các nước châu Phi về một con đường mà một nước
châu Phi có thể tự mình tạo ra được sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế,
củng cố độc lập dân tộc, mở rộng hội nhập quốc tế và khu vực, tạo ra nhiều cơ
hội cho sự phát triển tương lai, dân chủ và thịnh vượng.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu cụ thể quá trình củng cố độc lập dân
tộc ở Cộng hòa Nam Phi từ năm 1993 đến 2010 có một ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc. Xuất phát từ lý do trên, tôi quyết định chọn chủ đề: “Quá trình
củng cố độc lập dân tộc ở Cộng hòa Nam Phi (1993 - 2010)” làm đề tài luận
văn tốt nghiệp thạc sỹ Khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử phong trào cộng
sản - công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* “Quá trình củng cố độc lập dân tộc ở Cộng hòa Nam Phi (1993 2010)” là một đề tài mới mẻ. Hiện nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên
cứu nào mang tính chất chun khảo về vấn đề này. Tuy nhiên, đây là một vấn
đề đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới, đặc
biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Xung quanh vấn đề về
quá trình củng cố độc lập dân tộc ở Nam Phi từ trước đến nay đã có một số
cơng trình sau:
a. Ngồi nước:
- Cuốn Nelson Mandela: From Freedom to the Future: Trbutes and
Speeches của tác giả Kader Asmal, David Chidester, Wilmot Jame - Johannesbutg,
4
Cape Town, 2003. Cuốn sách nói về tổng thống Nelson Mandela thông qua
những bài phát biểu và những cống hiến của ông cho đất nước Nam Phi thông
qua các tiêu đề: Một linh hồn của sự giải phóng dân tộc; Cuộc sống tự do của
chúng ta; đàm phán các cuộc hòa giải, Xây dựng đất nước; Phát triển đất nước.
- Cuốn An Economic History of South Africa: Conquest, Disrimination and
Development của tác giả Charles H.Feinstein. Đây là cuốn sách đầu tiên nói về
lịch sử kinh tế của Nam Phi trong hơn 60 năm qua được Giáo sư Charles H.
Feinstein nghiên cứu, lịch sử kinh tế Nam Phi được bắt đầu từ năm 1652 - khi
người châu Âu thành lập nên cho đến cuối thời kỳ Apathai. Từ giai đoạn phát
triển chậm chạp và sau đó là sự biến chuyển kinh tế khi tìm thấy kim cương,
vàng những năm 1870, sau đó là sự tăng trưởng cơng nghiệp nhảy vọt trong thời
kỳ chiến tranh, cuối cùng là kinh tế của thời kỳ Aparthai sau năm 1948.
- Cuốn The Mbeki Inheritance: South Africa s Economy, 1990 - 2004 của
tác giả Raymond Parsons. Tổng thống Mbeki cùng chính phủ Nam Phi chèo lái
con thuyền của mình thốt khỏi giai đoạn tụt hậu đầu những năm 1990, thập kỷ
của chế độ Aparthai và tăng trưởng thấp. Người dân Nam Phi muốn mình trở
nên thịnh vượng hơn và muốn chia sẻ những thay đổi về kinh tế và kỹ thuật có
ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới tại thời điểm bình minh của thiên niên kỷ mới.
b. Trong nước:
Cuốn: “Nam Phi con đường tiến tới dân chủ, công bằng và thịnh
vượng” của PGS, TS Đỗ Đức Định đã đi sâu tìm hiểu những chủ trương chính
sách và giải pháp, những thành cơng hạn chế, những bài học kinh nghiệm của
cải cách, cung cấp những thông tin dữ liệu, góp phần vào việc tăng cường
nhận thức và thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt, thiết thực cùng có lợi, cùng
phát triển giữa Việt Nam và Nam Phi.
Ngồi ra, việc nghiên cứu về q trình củng cố độc lập dân tộc ở Cộng
hòa Nam Phi từ năm 1993 đến năm 2010 còn được đề cập trong một số sách
báo, tạp chí nghiên cứu chuyên ngành. Điển hình là các tác phẩm: Trịnh Huy
5
Hịa (Biên dịch), Đối thoại với các nền văn hóa: Nam Phi, Nxb Trẻ, 2005;
Trần Thị Lan Hương (chủ biên), Hợp tác phát triển nông nghiệp ở châu Phi:
đặc điểm và xu hướng, Nxb Khoa học xã hội (2009) PGS, TS Đỗ Đức Định
(chủ biên), Tình hình chính trị kinh tế cơ bản của châu Phi, Nxb Khoa học xã
hội, 2006; Một số nét khái quát nghiên cứu châu Phi và Trung Đông, số 1
năm 2005; “Những chuyển biến về chính trị của Nam Phi sau năm 1994” của
tác giả Ngơ Thị Linh Hịa, Tạp chí Nghiên cứu châu Phi và Trung Đơng, số 10
năm 2007; “Thể chế chính trị dân chủ của Nam Phi hiện nay” của tác giả
Nguyễn Thanh Hiền, Tạp chí Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông số 12 năm
2007; “Nam Phi thời kỳ Aparthai; chế độ nhà nước và các chính sách phát
triển” của tác giả Trần Thị Lan Hương, Tạp chí Nghiên cứu châu Phi và
Trung đơng số 01 năm 2010…
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đưa ra những lĩnh vực cải cách riêng biệt
của Nam Phi, những tác động của nó đối với vấn đề độc lập dân tộc của Nam
Phi sau khi chế độ Aparthai sụp đổ. Tuy nhiên, nhiều công trình mới chỉ dừng lại
ở những chính sách cải cách đơn lẻ chưa hệ thống, gián đoạn về thời gian, khơng
theo trật tự thời gian thống nhất. Các cơng trình trên là cơ sở cung cấp luận cứ,
luận chứng để tác giả nghiên cứu, hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm rõ những nội dung và giải pháp củng cố độc lập dân tộc ở Cộng hòa
Nam Phi từ năm 1993 đến năm 2010, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm
về củng cố độc lập dân tộc của nhân dân Nam Phi.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích các nhân tố tác động đến độc lập dân tộc của Cộng hòa Nam
Phi từ năm 1993 đến năm 2010
- Tổng hợp, làm rõ những quan điểm của Đảng Đại hội dân tộc Phi
(ANC) về độc lập dân tộc từ năm 1993 đến năm 2010.
6
- Phân tích những nội dung nhằm củng cố độc lập dân tộc của Nam Phi
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội từ năm 1993 đến 2010.
- Đánh giá và rút ra những kinh nghiệm về củng cố độc lập dân tộc của
Cộng hòa Nam Phi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Quá trình củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Nam Phi từ năm 1993 đến
năm 2010.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Từ năm 1993 đến năm 2010
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu các chính sách củng cố độc lập dân
tộc trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Cộng hòa Nam
Phi dưới thời Tổng thống Nelson Mandela và Thabo Mbeki.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở những quan điểm, nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề
như giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc, giải quyết xung đột, mâu thuẫn dân
tộc, sắc tộc; vấn đề chiến tranh và hịa bình…
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là các giải pháp củng cố độc lập dân tộc
của Cộng hòa Nam Phi hướng tới dân chủ và phát triển.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin với phương pháp lịch sử và lôgich là phương pháp chủ
yếu. Ngồi ra, các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống,
so sánh, tổng kết…được sử dụng hỗ trợ phương pháp nghiên cứu chính để
làm rõ những nội dung chủ yếu của đề tài.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học
- Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các nhà khoa học đi trước, luận
văn khái quát và làm rõ hơn công cuộc cải cách kinh tế, chính trị, xã hội ở
7
Nam Phi dưới chế độ mới nhằm củng cố độc lập dân tộc hướng tới dân chủ và
phát triển. Luận văn cịn phân tích những thành cơng và bài học kinh nghiệm,
từ đó đưa ra những nhận định về triển vọng của Cộng hòa Nam Phi.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng có thể làm tài liệu tham khảo
phục vụ cho những ai đã, đang và sẽ quan tâm đến khu vực châu Phi nói
chung và Cộng hịa Nam Phi nói riêng, đồng thời cịn có thể phục vụ cho công
tác nghiên cứu, giảng dạy quan hệ quốc tế và độc lập dân tộc ở khu vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương 6 tiết.
8
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở NAM PHI SAU CHIẾN TRANH LẠNH
1.1. NHỮNG NHÂN TỐ KHÁCH QUAN HÓA TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỘC LẬP
DÂN TỘC Ở NAM PHI
1.1.1. Cách mạng khoa học công nghệ và xu thế tồn cầu hóa tác
động đến độc lập dân tộc ở Nam Phi
Đặc điểm nổi bật của thế giới hiện nay là sức phát triển mạnh mẽ của
cách mạng khoa học cơng nghệ và tồn cầu hóa. Tồn cầu hố kinh tế là xu
thế khách quan của thế giới đương đại do sự phát triển của lực lượng sản xuất
xã hội. Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, xu thế toàn cầu hóa, mà trước hết là tồn
cầu hóa kinh tế, bắt đầu phát triển và ngày càng gia tăng tốc độ với sự ra đời
chính thức và phát triển của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tồn cầu
hố kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất
bình đẳng, gây nên những khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là
các nước đang phát triển, trong đó có Nam Phi. Trong điều kiện cách mạng
khoa học cơng nghệ và tồn cầu hóa, "cạnh tranh kinh tế - thương mại, giành
giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ giữa
các nước ngày càng gay gắt” [11, tr.73].
Thực chất q trình tồn cầu hố kinh tế là sự phát triển và xã hội hóa
cao của lực lượng sản xuất và khoa học cơng nghệ, nhưng bị các tập đồn tư
bản độc quyền xuyên quốc gia, đa quốc gia, các nước tư bản lớn thao túng,
chi phối nhằm biến quá trình đó thành tồn cầu hố tư bản. Các nước tư bản
phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia là những lực lượng chủ chốt
đang chi phối q trình tồn cầu hố; họ nắm trong tay những nguồn lực vật
chất và phương tiện hùng mạnh nhất để tác động lên thế giới như vốn, kỹ
thuật, công nghệ, lên các tổ chức và thiết chế kinh tế, tài chính, thương mại
9
quốc tế, để thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị của mình. Vì thế, vấn đề
bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền và an ninh đất nước của các quốc gia trên
thế giới sẽ gặp phải nhiều khó khăn, phức tạp mới, đứng trước những thách
thức khơng nhỏ.
Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và xu thế tồn
cầu hố, các quốc gia dân tộc khơng thể đứng ngồi cuộc nếu khơng muốn bị
tụt hậu và đánh mất cơ hội phát triển. Vì thế, các nước đều phải có chiến lược
hội nhập với các nền kinh tế thế giới, trong đó các nước coi phát triển công
nghệ cao là hướng đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, thúc đẩy tiến bộ xã hội, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an
ninh, bảo vệ đất nước. Sự tác động của cách mạng khoa học cơng nghệ và q
trình tồn cầu hóa đối với các quốc gia dân tộc nói chung, đối với Nam Phi
nói riêng là sự tác động khách quan và ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc, có cả
tác động tích cực tạo điều kiện thuận lợi, thời cơ cho sự phát triển đất nước,
có cả những tác động tiêu cực đặt ra những khó khăn, phức tạp và nguy cơ đối
với sự phát triển kinh tế và bảo vệ độc lập dân tộc của các quốc gia, cũng như
của Cộng hịa Nam Phi.
Tồn cầu hố là một xu thế lớn và xu thế này đang phát triển mạnh mẽ,
lôi cuốn tất cả các quốc gia dân tộc, dù là tự giác hay là không tự giác, vào xu
thế đó. Có người đã nghĩ đến xu thế này, cùng với sự phát triển của cuộc cách
mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại, sẽ xố nhồ ranh giới giữa các quốc
gia, mất dần đi các khái niệm dân tộc, văn hố dân tộc, hình thành “ngơi nhà
chung” của thế giới. Thế nhưng, tình hình lại khơng phải như vậy. Trong xu
thế tồn cầu hố, ý thức dân tộc, độc lập dân tộc lại vươn lên mạnh mẽ; độc
lập dân tộc gắn với hội nhập. Người ta ngày càng khẳng định rõ, muốn có thể
hội nhập một cách tích cực, chủ động thì chỉ có thể trên cơ sở độc lập dân tộc,
trên cơ sở củng cố sự vững chắc độc lập dân tộc mà mở rộng, phát triển quan
hệ quốc tế, thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế với các nước trên thế giới. Như
10
vậy có thể thấy rằng, dù cho cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ hiện đại và
xu thế tồn cầu hố có phát triển mạnh mẽ như thế nào chăng nữa, đến mức
người ta có thể gọi thế giới là “ngơi nhà chung”, là “làng tồn cầu”, thì ý thức
dân tộc, độc lập dân tộc vẫn là cái “bảo bối”, là giá trị và sức mạnh để từng
quốc gia dân tộc tự khẳng định mình, thể hiện diện mạo của mình và khơng
ngừng vươn lên trước cộng đồng nhân loại.
Trong xu thế tồn cầu hố, độc lập dân tộc gắn với hội nhập, trên cơ sở
độc lập dân tộc để mở rộng và phát triển quan hệ quốc tế. Các quốc gia dân tộc
một mặt phải ra sức củng cố nền độc lập của mình, mặt khác phải thực hiện
chiến lược hội nhập phù hợp để chẳng những giữ vững được nền độc lập dân
tộc, mà còn thúc đẩy đất nước ngày càng phát triển trong xu thế toàn cầu hoá
hiện nay. "Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu
tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp,
áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc" [12, tr.69].
Nam Phi trong bối cảnh đó, cũng khơng phải là ngoại lệ.
1.1.1.1. Những tác động tích cực đến độc lập dân tộc ở Nam Phi
Thứ nhất, kích thích tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sự phát triển các quan
hệ kinh tế quốc tế, tạo cơ hội cho Nam Phi tận dụng thị trường thế giới, đẩy
mạnh các hoạt động sản xuất kinh doanh để phát triển kinh tế - xã hội.
Những thành tựu cơ bản của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại,
cùng với tồn cầu hóa tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến tiến trình phát triển
của Cộng hịa Nam Phi, tạo thuận lợi cho quốc gia này củng cố độc lập về
kinh tế, kích thích tăng trưởng. Thị trường là một trong những vấn đề có ý
nghĩa sống cịn đối với bất cứ nền kinh tế của quốc gia nào, đối với Nam Phi
thị trường càng trở nên quan trọng. Trong điều kiện tồn cầu hố, vấn đề thị
trường lại càng trở nên quan trọng, hội nhập kinh tế, chiếm lĩnh thị trường,
phát triển thị trường là một quá trình đột phá. Trong trào lưu tồn cầu hố
kinh tế, Nam Phi có điều kiện khai thác thị trường quốc tế rộng lớn, đa dạng
11
không ngừng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Cơ hội thâm nhập sâu
rộng vào thị trường thế giới của nền kinh tế Nam Phi là rất to lớn, đã và đang
được hiện thực hoá ở nước này. Cộng hịa Nam Phi có thể tận dụng được thị
trường thế giới, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất kinh doanh để phát triển
kinh tế - xã hội đất nước, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội. Một
loạt thị trường: thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường khoa học công
nghệ, thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa, phát triển thương mại, dịch vụ, du
lịch... của Nam Phi đều được phát triển và ngày càng mở rộng, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Thứ hai, tạo khả năng cho Nam Phi tham gia nhanh và hiệu quả vào hệ
thống phân công lao động quốc tế, tận dụng cơ hội và mọi nguồn lực cho phát
triển, khắc phục tụt hậu.
Hội nhập và giao lưu quốc tế là yêu cầu phát triển của các quốc gia. Tham
gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, Nam Phi sẽ tận dụng được mọi
nguồn lực cho phát triển, khắc phục tụt hậu và trình độ lạc hậu của nền kinh tế
đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để khai thác, sử dụng tốt hơn nguồn
nhân lực, làm cho quá trình phân cơng lao động mới và xã hội hố lao động diễn
ra nhanh chóng, chất lượng nguồn nhân lực sẽ được nâng cao. Q trình chuyển
giao cơng nghệ từ các nước phát triển đến sẽ tạo cơ hội cho sự chuyển đổi từ lao
động giản đơn sang lao động có kỹ thuật diễn ra nhanh chóng.
Tham gia vào nền kinh tế thế giới, các nhà quản lý, các doanh nghiệp của
Nam Phi có điều kiện tiếp cận các thị trường khu vực và thế giới, các thị
trường lớn một cách bình đẳng; bước vào mơi trường cạnh tranh khắc nghiệt
ở cả thị trường quốc nội và thị trường bên ngoài. Điều này đòi hỏi và thúc đẩy
các nhà quản lý, doanh nghiệp của Nam Phi phải đổi mới cách tổ chức sản
xuất, đổi mới công nghệ và trang thiết bị, tiếp thu những phương pháp quản lý
tiên tiến, từ bỏ lối làm việc quan liêu, trì trệ cũ, để khơng ngừng nâng cao
năng lực cạnh tranh. Điều đó tạo khả năng cho Nam Phi tham gia nhanh chóng
12
và hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tận dụng tốt mọi nguồn
lực phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, khắc phục sự tụt hậu về khoảng
cách trong trình độ phát triển với khu vực và thế giới.
Thứ ba, gia tăng các nguồn vốn, công nghệ sản xuất - kinh doanh tiên
tiến và khoa học quản lý hiện đại cho Cộng hòa Nam Phi.
Vấn đề vốn, khoa học công nghệ, khoa học quản lý nền kinh tế có tầm
quan trọng to lớn, đặc biệt quan trọng đối với Nam Phi trong thời kỳ củng cố
quốc gia độc lập dưới chế độ mới. Cách mạng khoa học cơng nghệ và xu thế
tồn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển và làm lưu chuyển tự do các nguồn vốn,
công nghệ sản xuất - kinh doanh tiên tiến và khoa học quản lý hiện đại; đồng
thời đặt các yếu tố quan trọng này vào khả năng tiếp cận, sử dụng của Cộng
hịa Nam Phi trong q trình xây dựng một nền kinh tế độc lập và phát triển.
Cơng nghệ thơng tin là lĩnh vực được Cộng hịa Nam Phi đặc biệt quan tâm và
là lĩnh vực phát triển hết sức nhanh chóng ở Nam Phi.
Ở Nam Phi hiện nay, sự phát triển nhanh chóng của cơng nghệ thơng tin,
mạng Internet đã giúp Cộng hịa Nam Phi tiếp cận nhanh với thế giới, giúp xã
hội Nam Phi dân chủ và minh bạch hơn, nhưng cũng là thách thức đối với độc
lập dân tộc của nước này khi phương Tây lợi dụng để chống phá, như đối với
các nước Bắc Phi hiện nay. Khoa học cơng nghệ và tồn cầu hóa làm gia tăng
các nguồn vốn, cơng nghệ sản xuất - kinh doanh tiên tiến và khoa học quản lý
hiện đại cho Cộng hòa Nam Phi. Thị trường vốn ngày càng mở rộng, các
nguồn vốn ngày càng trở nên dồi dào, đa dạng; công nghệ sản xuất tiên tiến,
khoa học quản lý hiện đại của các nước tiên tiến trên thế giới ngày càng được
các doanh nghiệp cũng như các nhà quản lý Nam Phi tiếp nhận, thực hiện cải
cách kinh tế, tạo điều kiện vật chất - kỹ thuật cho việc giữ vững độc lập, tự
chủ về kinh tế của Nam Phi.
Thứ tư, tạo điều kiện cho Nam Phi tham gia tích cực hơn vào q trình
hợp tác liên kết khu vực và quốc tế, thúc đẩy sự năng động hóa các quan hệ
chính trị, đối ngoại, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước.
13
Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ và xu thế tồn cầu hóa,
Cộng hịa Nam Phi có điều kiện tham gia tích cực hơn vào các q trình hợp
tác liên kết khu vực và quốc tế, thúc đẩy sự năng động hóa các quan hệ chính
trị, đối ngoại, tạo điều kiện cho Nam Phi tham gia tích cực vào đời sống quốc
tế, bày tỏ chính kiến của mình, để bảo vệ lợi ích, tập hợp lực lượng nhằm thực
hiện mục tiêu củng cố độc lập dân tộc và nâng cao vị thế quốc tế trong bối
cảnh mới. Kể từ năm 1994, Nam Phi đã tái liên kết khu vực và quốc tế mạnh
mẽ; Cộng hòa Nam Phi ngày càng đóng vai trị quan trọng trong nhiều tổ
chức chủ chốt của châu lục và thế giới, nâng cao vị thế quốc tế của mình.
Nam Phi đóng vai trị quan trọng trong Cộng đồng Phát triển miền Nam
châu Phi (SADC); gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); đàm phán
Hiệp định Thương mại với EU; mở rộng quan hệ ngoại thương với nhiều quốc
gia khu vực và trên thế giới (đến năm 2005 Nam Phi đã có 118 cơ quan ngoại
giao ở nước ngồi). Nam Phi cịn giữ vai trò quan trọng trong Liên minh châu
Phi (AU); trong thực hiện Chương trình Đối tác mới vì sự Phát triển của châu
Phi (NEPAD) của Liên minh này... Trong quan hệ với châu lục - châu Phi,
Nam Phi cịn đóng vai trò chủ đạo trong việc tái cơ cấu Tổ chức Thống nhất
châu Phi (OAU) trở thành tổ chức hiệu quả hơn so với tên gọi cũ Liên minh
châu Phi (AU).
Những tác động tích cực của cách mạng khoa học cơng nghệ và tồn cầu
hóa đã tạo điệu kiện thuận lợi, thời cơ để Nam Phi có những tiến bộ về kinh
tế, xã hội, củng cố độc lập dân tộc, nâng cao vị thế đất nước.
1.1.1.2. Những tác động tiêu cực đến độc lập dân tộc ở Nam Phi
Trong lĩnh vực kinh tế.
Trước sự tác động của cách mạng khoa học cơng nghệ và tồn cầu hóa,
nền kinh tế non trẻ của Nam Phi chịu sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc, nguy
cơ đe dọa đến tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế là rất lớn. Trong lĩnh vực
kinh tế, thách thức lớn nhất, gay gắt nhất đối với Cộng hòa Nam Phi là nguy
14
cơ tụt hậu và lệ thuộc vào nước ngồi, đó thách thức mang tính tổng hợp, là
vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, là việc giữ gìn độc lập về kinh tế
trong quá trình hội nhập.
“Xương sống” của q trình tồn cầu hố kinh tế hiện nay là do hơn
60.000 công ty xuyên quốc gia với hơn 500.000 chi nhánh bố trí khắp nơi trên
thế giới hợp thành. Các cơng ty này có tham vọng thơn tính các cơng ty bản địa
đang có xu hướng sát nhập chuyển dần từ độc quyền đơn sang độc quyền nhóm
để cùng nhau thống trị kinh tế thế giới. Các nền kinh tế như Nam Phi có thể
đương đầu với chính sách bành trướng của các cơng ty xun quốc gia hay
không, phụ thuộc rất quyết định nội lực của đất nước được phát huy như thế
nào. Có những khó khăn thử thách đơn thuần kinh tế như cạnh tranh trên
thương trường quốc tế, là thách thức to lớn đặt ra đối với tất cả các nước đang
phát triển. Cạnh tranh gay gắt không chỉ diễn ra trên thị trường thế giới, mà còn
diễn ra rất quyết liệt ngay trong thị trường nội địa trên tất cả các yếu tố hợp
thành của nền kinh tế. Để có thể vượt qua thách thức này, nhất thiết phải gia
tăng nội lực đất nước và cải thiện, làm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư.
Đối với Nam Phi, vừa bước ra khỏi chế độ phân biệt chủng tộc, với một
nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển, thì nguy cơ tụt hậu càng gây áp lực lớn,
tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế trở nên yếu ớt. Nguy cơ tụt hậu biểu hiện
ở trình độ thiết bị, cơng nghệ thuộc tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền
kinh tế cịn ở trình độ thấp hơn nhiều nước trung bình của thế giới, ảnh hưởng
lớn đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh.
Năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao, nên việc tiếp cận, chiếm
lĩnh thị trường khu vực và trên thế giới của sản phẩm của các ngành kinh tế
Nam Phi gặp rất nhiều khó khăn. Thậm chí ngay cả việc chiếm lĩnh thị trường
nội địa cũng không hề đơn giản, phải chịu lép vế ngay trên “sân nhà” trước
những mặt hàng nhập khẩu chính ngạch và tiểu ngạch cùng loại của các nước
trên thế giới.
15
Thách thức cịn biểu hiện ở chỗ, đó là việc Nam Phi phải chia sẻ thị phần
trong nước với các đối tác ngoài nước ở ngay cả những lĩnh vực mà lâu nay
do những nhà đầu tư trong nước chiếm lĩnh: ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông,
tư vấn… Phải giảm thuế nhập khẩu, điều này đồng nghĩa với giảm nguồn thu
ngân sách. Sản xuất trong nước phải đương đầu với việc khơng cịn được bảo
hộ, nhiều doanh nghiệp quản lý yếu kém bị phá sản, tình trạng thất nghiệp gia
tăng là điều khó tránh khỏi.
Vấn đề vay vốn, cơng nghệ và sử dụng vốn có hiệu quả cũng là một
thách thức lớn đối với Nam Phi. Nếu không thu hút được các nguồn vốn đủ
lớn, đặc biệt nếu không sử dụng tốt và hiệu quả các nguồn vốn, để cho thất
thốt nhiều, thì Nam Phi có thể mang lại gánh nợ nặng nề cho thế hệ mai sau.
Lao động và nguồn nhân lực là vấn đề cơ bản, trong điều kiện tồn cầu hóa
và hội nhập ngày càng sâu rộng, nếu không thực hiện tốt chiến lược đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực, thì Cộng hịa Nam Phi khơng thể tận dụng
được cơ hội, vượt qua thách thức, để phát triển đất nước.
Trong lĩnh vực xã hội.
Trong lĩnh vực xã hội, Cộng hòa Nam Phi đứng trước thách thức của
nguy cơ phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc, tàn dư của chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc Aparthai còn nặng nề, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định và
nền độc lập dân tộc và an ninh quốc gia. Dưới chế độ phân biệt chủng tộc
Aparthai, tình trạng giáo dục thấp, gây hậu quả tai hại cho người da đen và da
màu; bất bình đẳng xã hội, sắc tộc sâu sắc đã được luật hóa; bất bình đẳng về
việc làm và thu nhập giữa người da đen và da trắng; nghèo khổ và thất nghiệp lan
rộng, tỷ lệ thấp nghiệp cao (đến năm 1993 có địa phương số người nghèo lên tới
hơn 70%) [14, tr.64]; dịch bệnh tràn lan; tội phạm gia tăng, xã hội bất ổn.
Di sản nặng nề đó, dưới tác động của khoa học cơng nghệ và tồn cầu
hóa, trong điều kiện của chính quyền mới, nếu khơng thực thi được chính
sách đúng đắn, thì sẽ có thể càng trở nên trầm trọng và bùng phát, đe dọa sự
16
ổn định chính trị - xã hội và nền độc lập dân tộc, cũng như đe dọa đến chính
sự tồn vong của Đảng cầm quyến và thể chế chính trị mới của Nam Phi.
Trên lĩnh vực chính trị và an ninh quốc gia.
Trên lĩnh vực chính trị và an ninh quốc gia, cuộc cách mạng khoa học
cơng nghệ và tồn cầu hóa đặt ra cho Cộng hịa Nam Phi trước hàng loạt vấn
đề mới, phức tạp. Đó là nguy cơ bất ổn về chính trị, cơng cuộc củng cố nền
độc lập về chính trị gặp nhiều khó khăn, phức tạp bởi ảnh hưởng khá sâu nặng
của chế độ phân biệt chủng tộc Aparthai, đặc biệt là sự can thiệp, chống phá
của các lực lượng chống đối, của chủ nghĩa đế quốc.
Thách thức về chính trị là những thách thức đối với sự ổn định chính trị
của đất nước, đối với vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền - Đảng ANC, sự
vững vàng của chính quyền mới, an ninh quốc gia và độc lập dân tộc. Trong
điều kiện toàn cầu hố kinh tế, nguy cơ đe dọa về quốc phịng và an ninh quốc
gia càng gia tăng, bởi sự lợi dụng quá trình này để can thiệp và chống phá của
các lực lượng thù địch. Vì thế, vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc; bảo
đảm độc lập tự chủ của nền kinh tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; bản
sắc văn hố, an ninh, quốc phòng đất nước thực sự là yêu cầu trọng yếu của
Nam Phi trong quá trình hội nhập với thế giới trong bối cảnh mới của cách
mạng khoa học công nghệ và tồn cầu hóa.
Muốn có độc lập dân tộc thực sự, bền vững, phải xây dựng thực lực, phải
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp.
Đó là luận điểm cơ bản, là yêu cầu cốt tử của việc giữ vững độc lập dân tộc đối
với các quốc gia dân tộc trên thế giới nói chung và Nam Phi nói riêng. Trong
xu thế tồn cầu hố hiện nay, u cầu cốt tử này càng cần phải nhận thức thấu
đáo và tuân thủ nghiêm ngặt.
Trong xu thế tồn cầu hố, độc lập dân tộc và chủ quyền của Nam Phi bị
đặt trước những thách thức nghiêm trọng. Một là, nếu không chọn được chiến
lược và những giải pháp thích hợp, thì tồn cầu hố có thể làm cho sức mạnh
17
tổng hợp của quốc gia có sự suy giảm tương đối, đe doạ đến độc lập dân tộc và
chủ quyền quốc gia dân tộc. Hai là, tồn cầu hố làm cho an ninh chính trị, bản
sắc văn hố dân tộc, cho đến đời sống của mỗi cá nhân con người trở nên mong
manh hơn, xâm hại đến những giá trị vốn có của độc lập dân tộc và chủ quyền
quốc gia. Trong bối cảnh trên, việc bảo vệ và phát huy những giá trị truyền
thống của quốc gia độc lập có chủ quyền trên mọi lĩnh vực, khơng chỉ về kinh
tế, chính trị, mà cịn cả về văn hố, tư tưởng, xã hội, chống lại mọi mưu toan áp
đặt đe doạ độc lập chủ quyền quốc gia của các thế lực đế quốc là một vấn đề
bức xúc, gay go và phức tạp đối với Nam Phi.
Như vậy, vấn đề độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia và phát
triển dân tộc của Nam Phi trong bối cảnh tồn cầu hố đã trở nên bức thiết và
bị đe doạ bởi nhiều nguy cơ, thách thức hơn bao giờ hết. Cộng hịa Nam Phi
khơng thể thực hiện được các mục tiêu phát triển của mình trong khơng gian
tồn cầu với sự tác động mạnh mẽ, đa chiều, nhiều tầng, nhiều nấc, với sự
chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, nếu khơng có chiến lược phát triển phù hợp, không biết gia tăng
sức mạnh của bản thân mình, kết hợp với sức mạnh thời đại để có thể thích
ứng với tình hình và phát triển đi lên.
Nhận thức được những thuận lợi và những khó khăn, cơ hội và thách
thức do cách mạng khoa học công nghệ và tồn cầu hố mang lại, Cộng hịa
Nam Phi đã lựa chọn mục tiêu, phương phướng, xác định lộ trình và biện
pháp cải cách, phát triển đất nước, củng cố nền độc lập dân tộc của mình. Sự
tác động đó có cả tác động tích cực lẫn tiêu cực, mặt tích cực và mặt tiêu cực
cùng tồn tại, song chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau có thể tạo ra thuận lợi
hay khó khăn, cơ hội hay thách thức mới, thời cơ hay nguy cơ mới. Điều đó
phụ thuộc vào tình hình cụ thể và hiệu quả hoạt động thực tiễn của nhân tố
chủ quan, trước hết phụ thuộc vào vai trị của các lực lượng chính trị đang
cầm quyền ở nước này - Đảng ANC.
18
1.1.2. Cục diện thế giới sau chiến tranh lạnh tác động đến độc lập
dân tộc của Cộng hòa Nam Phi
Từ sau chiến tranh lạnh, trật tự thế giới cũ hai cực đã bị xóa bỏ, nhưng
những hệ lụy của nó chưa phải đã chấm dứt. Xu hướng hình thành trật tự thế
giới mới đa cực ngày càng thể hiện rõ, nhưng chưa phải đã được định hình
chắc chắn; cuộc đấu tranh giữa trật tự đơn cực và trật tự đa cực trong việc
hình thành trật tự thế giới mới vẫn đang tiếp tục, với những biểu hiện phức
tạp mới. Các nước lớn đều muốn khẳng định vai trị của mình và tìm mọi cách
gây ảnh hưởng đến vùng cịn lại của thế giới, diễn ra cục diện vừa hợp tác vừa
kiềm chế, cạnh tranh lẫn nhau gay gắt.
Nước Mỹ ra khỏi chiến tranh lạnh, tự cho mình là siêu cường duy nhất, có
“sứ mệnh lãnh đạo” thế giới. Từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến
nay, Mỹ đã đề ra và thực thi những chính sách để khẳng định vị thế lãnh đạo của
mình. Có thể khái quát những chính sách của Mỹ thành ba vấn đề lớn: một là,
phát triển kinh tế, dùng kinh tế làm một trong những công cụ chủ chốt để lãnh
đạo thế giới; hai là, lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố, gia tăng tiềm lực quân
sự, dùng nó làm "vũ khí" để răn đe thế giới và triệt tiêu các đối thủ cạnh tranh
vai trò lãnh đạo của Mỹ; ba là, thực hiện chính sách đơn phương, cường quyền,
khống chế các đối thủ có khả năng “đe doạ” đến lợi ích và an ninh của Mỹ.
Nhật Bản, từ sau chiến tranh lạnh, đã đưa ra và thực hiện nhiều đối sách
lớn: điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu chính trị tiến tới xây dựng nước Nhật
Bản thành cường quốc tồn diện trong thế giới tồn cầu hố; điều chỉnh chính
sách đối ngoại hướng về châu Á, quyết tâm giữ vững vai trò chủ đạo ở châu
lục này, trong khi vẫn tiếp tục coi trọng tăng cường liên minh với Mỹ; và
nâng cao vai trò, vị thế quốc tế thơng qua Liên hợp quốc. Nga, Trung Quốc
cũng có những hành động ngày càng mạnh mẽ thể hiện vai trò và gia tăng ảnh
hưởng của mình trong đời sống chính trị thế giới, trên tất cả các khu vực,
trong đó có châu Phi và Cộng hịa Nam Phi.
19
Cuối những năm 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ XX với sự tan rã chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu đã chấm dứt chiến tranh lạnh và trật
tự thế giới hai cực từng tồn tại gần nửa thế kỷ. Cục diện chính trị quyền lực
thế giới nghiêng hẳn về các nước tư bản, đế quốc đứng đầu là Mỹ. Phát huy
những thành tựu đã đạt được trong “cuộc chiến dân chủ” ở Liên xô và Đông
Âu, Mỹ và phương Tây tiếp tục “khuyếch trương” các giá trị “dân chủ”,
“nhân quyền”, hịng “trói buộc” các nước khác trong vịng kiềm toả của mình,
các nước phương Tây đã đặt ra khơng ít các điều kiện cả về kinh tế lẫn chính
trị cho các nước khi muốn nhận viện trợ. Kết thúc trật tự thế giới hai cực, vai
trò và ảnh hưởng của các nước lớn đối với độc lập dân tộc của Cộng hòa Nam
Phi có những biểu hiện mới, phức tạp, thể hiện rõ tính cạnh tranh và kiềm chế
lẫn nhau giữa các nước lớn.
Các nước lớn là lực lượng chủ yếu chi phối đời sống chính trị, kinh tế thế
giới và đối với Nam Phi cũng như châu Phi. Năm 2005, FDI vào Nam Phi đạt
6,4 tỷ USD, các nhà đầu tư lớn nhất vào Nam Phi là EU, Mỹ, Ôxtraylia,
Canađa và Nhật Bản [14, tr.140]; EU là bạn hàng thương mại và đầu tư lớn
nhất ở Nam Phi, năm 2005 chiếm 38,1% tổng kim ngạch xuất khẩu và 40,1%
tổng kim ngạch nhập khẩu của Nam Phi. Mỹ muốn thể hiện vai trò nước lớn
của mình, can thiệp sâu vào châu Phi và Nam Phi, tìm mọi cách hạn chế, loại
bỏ ảnh hưởng của Nga và Trung Quốc đối với châu lục này.
Sau chiến tranh lạnh, trước những thay đổi to lớn của cục diện thế giới,
trước những tác động tiêu cực của xu thế tồn cầu hố, để bảo vệ chủ quyền
quốc gia dân tộc, nhiều nước duy trì trạng thái cân bằng với tất cả các nước
lớn, thực dụng hơn để phát triển, để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, thực hiện nhiều cải cách kinh tế - xã hội tiến bộ, đồng thời tranh thủ sự
ủng hộ của các nước, nâng cao vị thế và uy tín trước cộng đồng thế giới.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, quan hệ Mỹ - Nam Phi tập trung vào
việc đầu tư ký kết FTA Mỹ - SACU; khuyến khích đầu tư nước ngoài vào
20
Nam Phi; xây dựng Nam Phi thành điểm đến tiềm năng cho các doanh nghiệp
và nhà đầu tư của Mỹ; xuất khẩu của Nam Phi sang Mỹ giai đoạn 2000 - 2004
tăng 9%/năm. Sự cạnh trạnh về kinh tế - thương mại, về vốn đầu tư, cả về sự
ảnh hưởng chính trị diễn ra quyết liệt giữa các nước lớn, nhất là giữa Mỹ, EU,
Trung Quốc trên thị trường Nam Phi, làm cho việc củng cố nền độc lập dân
tộc của Cộng hịa Nam Phi gặp khơng ít khó khăn. Trong bối cảnh đó, Nam
Phi vừa phải quan hệ với các nước lớn để tranh thủ điều kiện cho phát triển,
vừa phải cố gắng tránh rơi vào tình trạng bị lệ thuộc và phụ thuộc, mất độc
lập về kinh tế và cả về chính trị, bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ QUAN TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỘC LẬP DÂN TỘC
NAM PHI
1.2.1. Quá trình đấu tranh củng cố độc lập dân tộc trước 1993
Nam Phi, tên chính thức là Cộng hịa Nam Phi là một quốc gia nằm ở
mũi phía Nam của lục địa châu Phi. Quốc gia này giáp biên giới với các nước
Namibia, Botswana, Zimbabwe, Mozambique, Swaziland, và Lesotho, một
lãnh thổ ngoài mẫu quốc bị lãnh thổ Nam Phi bao quanh. Nam Phi là thành
viên của Khối thịnh vượng chung Anh.
Nam Phi có một lịch sử rất khác biệt với các quốc gia khác ở châu Phi,
kết quả của quá trình nhập cư sớm từ châu Âu và tầm quan trọng chiến lược
của con đường biển Cape. Những người nhập cư châu Âu đã bắt đầu tới đây
ngay sau khi Công ty Đông Ấn Hà Lan thành lập một điểm đồn trú (sau này
sẽ trở thành) Cape Town năm 1652. Việc đóng cửa Kênh đào Suez trong cuộc
chiến tranh sáu ngày đã cho thấy tầm quan trọng của nó. Nước này có cơ sở
hạ tầng khá phát triển giúp trữ lượng tài nguyên khoáng sản phong phú và có
giá trị cao tiếp cận tới thị trường phương Tây, đặc biệt trong suốt thế kỷ XIX,
khi cuộc cạnh tranh diễn ra khốc liệt giữa các đối thủ thời chiến tranh lạnh.
Nam Phi là quốc gia đa sắc tộc, với các cộng đồng da trắng, Ấn Độ, và
người lai lớn nhất tại châu Phi. Người da đen Nam Phi, nói chín ngơn ngữ
được cơng nhận chính thức và nhiều thổ ngữ khác, chiếm đến gần 80% dân
21
số. Sự xung đột giữa thiểu số da trắng và đa số da đen đóng một vai trị quan
trọng trong lịch sử và chính trị đất nước Nam Phi, lên cực đỉnh thành chế độ
Apartheid, được Đảng Quốc gia Nam Phi ghi thành Hiến pháp năm 1948 (dù
sự phân biệt đã tồn tại từ trước đó).
Đất nước Nam Phi từ năm 1948 đến năm 1993 là giai đoạn độc trị của
chế độ phân biệt chủng tộc Aparthai đầy dẫy bất cơng và hà khắc. Q trình
đấu tranh củng cố độc lập dân tộc ở Nam Phi trong giai đoạn này gắn với quá
trình đấu tranh của nhân dân Nam Phi chống chế độ phân biệt chủng tộc
Aparthai. Các phong trào phản kháng của nhân dân đã liên tiếp diễn ra ở khắp
nơi trên đất nước Nam Phi nhằm chống lại các chính sách hà khắc và bất cơng
của chính phủ dưới chế độ phân biệt chủng tộc Aparthai.
Sự phản kháng của nhân dân Nam Phi ngày càng mạnh mẽ, trở thành
mối đe doạ đối với nền an ninh và chính bản thân sự tồn tại của chính phủ
phân biệt chủng tộc Aparthai. Vì thế, đến cuối thập kỷ 1970, chính phủ
Aparthai ở Nam Phi đã phải tăng cường công tác an ninh, gia tăng các biện
pháp quân sự mạnh mẽ để củng cố chế độ của mình. Các phương tiện thơng
tin đại chúng, đặc biệt là báo chí viết bằng tiếng Phi (Africaan), được yêu cầu
phải lên tiếng bảo vệ chế độ phân biệt chủng tộc. Sau các cuộc nổi dậy đấu
tranh của nhân dân vùng Soweto, chính phủ Aparthai đã tăng cường áp dụng
nhiều biện pháp kiểm duyệt chính thức đối với báo chí, thắt chặt dân chủ, đặc
biệt đối với người da đen.
Hệ thống phân biệt chủng tộc được thể chế hoá ở Nam Phi dưới chế độ
phân biệt chủng tộc Aparthai đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hiệp quốc và Tuyên bố chung của thế giới về quyền con người.
Vì thế, nó đã bị cô lập cả ở khu vực và trên trường quốc tế, bị Liên hiệp quốc
chính thức lên án, bị cộng đồng thế giới tẩy chay. Năm 1973, Đại hội đồng
Liên hiệp quốc đã nhất trí thơng qua văn bản gọi là Công ước Quốc tế về đàn
áp và trừng phạt tội phân biệt chủng tộc. Công ước Quốc tế đã chính thức đưa
22
ra một khuôn khổ hợp pháp để các nhà nước thành viên áp dụng các biện
pháp trừng phạt, gây áp lực đối với chính phủ Aparthai ở Nam Phi, địi chính
phủ này phải thay đổi các chính sách phân biệt chủng tộc của họ. Cơng ước
này bắt đầu có hiệu lực từ năm 1976, từ năm 1984, các cuộc cải cách được
tiến hành ở Nam Phi.
Cùng với kết quả đấu tranh, phản kháng của nhân dân Nam Phi, đặc
biệt của những người da màu và da đen, với áp lực của cộng đồng quốc tế,
những bộ luật ngăn cấm đối với người da đen, da màu đã phần nào được
nới lỏng; nhiều đạo luật của chính phủ Aparthai đã bị bãi bỏ, trong đó có
Luật Thơng hành. Hiến pháp năm 1984 của Nam Phi có những tiến bộ nhất
định với việc đã cho phép những người gốc châu Á và người da màu được
có mặt trong nghị viện, nhưng vẫn loại trừ những người da đen gốc châu
Phi vốn chiếm tới 75% dân số cả nước không được phép tham gia. Với sự
phản kháng quyết liệt từ bên trong, sự cơ lập và trừng phạt của thế giới từ
bên ngồi, cộng với sự suy yếu của chế độ hà khắc, trái đạo lý, phản nhân
đạo, đầu những năm 1980, chính phủ Aparthai khơng cịn con đường lựa
chọn nào khác là phải thực hiện những chính sách chấp nhận loại bỏ một số
định chế phân biệt chủng tộc.
Tuy nhiên, điều đó cũng chỉ là những chính sách mang tính chất nhượng
bộ, nửa vời nhằm cứu vãn sự tồn tại của chế độ phân biệt chủng tộc Aparthai
đã mục ruỗng, chứ không phải là sự thay đổi bản chất, không phải nhằm phát
triển dân chủ xã hội. Do đó, nó khơng thể chấm dứt được các cuộc đấu tranh
phản kháng của nhân dân các chủng tộc chống chính phủ Aparthai, trái lại
cuộc đấu tranh chống chế độ phân biệt chủng tộc càng trở nên quyết liệt hơn.
Tổng thống Nam Phi Bôtha của chế độ phân biệt chủng tộc Aparthai đã phải
lựa chọn giải pháp "thích nghi" - một trong hai giải pháp lựa chọn "thích nghi
hay là chết" [14, tr.76]. Điều đó đã tạo tiền đề cho cuộc bầu cử hịa bình diễn
ra vào năm 1994 với việc trúng cử Tổng thống của Nelson Mandela.
23
Như vậy, quá trình đấu tranh củng cố độc lập dân tộc trước 1993 của nhân
dân Nam Phi cũng chính là quá trình đấu tranh chống chế độ phân biệt chủng tộc
Aparthai. Đó cịn là q trình đấu tranh vừa thực hiện những yêu cầu, định chế,
áp lực của cộng đồng thế giới đối với chế độ phân biệt chủng tộc Aparthai, vừa
bảo vệ, giữ gìn, củng cố độc lập dân tộc của Nam Phi, tạo điều kiện để Nam Phi
thực hiện có hiệu quả những cải cách tiến bộ, tăng cường củng cố nền độc lập
dân tộc trong những giai đoạn sau dưới sự lãnh đạo của Đảng ANC.
1.2.2. Khủng hoảng kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến độc lập dân tộc ở
Nam Phi
Đất nước Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc Aparthai, khủng
hoảng kinh tế - xã hội diễn ra ngày càng trầm trọng và toàn diện, đã ảnh
hưởng tiêu cực đến độc lập dân tộc của quốc gia này. Cuộc khủng hoảng kinh
tế - xã hội ở Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc Aparthai biểu hiện
ngày càng sâu sắc trên những vấn đề kinh tế, xã hội chủ yếu sau:
Nền kinh tế dựa vào tài nguyên, lao động rẻ, nhưng tài ngun thiên
nhiên lại khơng được chính phủ Aparthai khai thác đúng, ở trong điều kiện
chế độ phân biệt chủng tộc, đã dẫn đến tình trạng lạm phát, suy giảm tăng
trưởng. Các nguồn tài ngun thiên nhiên ln đóng vai trị rất quan trọng
trong phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, đặc biệt đối với Nam Phi. Đất
nước châu Phi này là một đất nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú, dồi dào và quý giá, có trữ lượng và sản lượng khai thác lớn của thế giới
với nhiều kim loại, khoáng sản quý. Nam Phi là nước đứng hàng đầu thế giới
về nhôm xilicat, crôm, vàng, mănggan, bạch kim, kim cương, đứng thứ 2 thế
giới về titan, vermiculite và zinconi, đứng thứ 3 thế giới về fluorit, phốt
phát…Nguồn tài nguyên thiên nhiên này nếu có chiến lược khai thác, sử dụng
đúng, thì khơng những thúc đẩy kinh tế phát triển, mà cịn góp phần quan
trọng củng cố độc lập dân tộc khơng chỉ về kinh tế mà cịn cả về chính trị.
Nhưng Nam Phi, dưới chế độ phân biệt chủng tộc Aparthai, không thực hiện
24
được chính sách đúng đắn, phù hợp, nên nền kinh tế dần rơi vào khủng
khoảng trầm trọng.
Dưới chế độ phân biệt chủng tộc Aparthai, cơ cấu kinh tế của Nam Phi
nghiêng mạnh về khai thác tài nguyên và phát triển du lịch, khơng tận dụng
được những tiềm năng sẵn có để xây dựng đất nước trở thành một trong
những nước công nghiệp lớn trên thế giới. Không những thế, chế độ Aparthai
cịn đẩy mạnh chính sách phân biệt chủng tộc hà khắc, dùng người da trắng để
bóc lột đại đa số người da đen, da màu, lợi dụng nguồn lao động giá rẻ của họ
để khai thác các nguồn tài nguyên phong phú và giàu có, để lại những hậu quả
rất to lớn đối với nền kinh tế và xã hội Nam Phi. Vì thế, tốc độ tăng trưởng
GDP ở nước này dần giảm sút, lạm phát ngày càng cao. Trong những năm
1960, lạm phát trung bình của Nam Phi là 3%/năm, đầu thập niên 1980 dao
động khoảng 11% - 14%/năm, đến năm 1986 dâng lên đến mức đỉnh điểm
18,6%. Điều đó do đồng tiền mất giá, do giá dầu lên xuống thất thường, trong
đó phần lớn dầu nhập khẩu của Nam Phi phải thực hiện qua “thị trường đen”,
ngoài luồng để tránh lệnh cấm vận của cộng đồng quốc tế, của Liên hợp quốc.
Đến đầu những năm 1990, lạm phát tiếp tục duy trì ở mức 2 chữ số, gây ảnh
hưởng xấu đối với nền kinh tế, kéo mức tăng trưởng GDP bình quân đầu
người theo giá cố định giai đoạn 1983 - 1994 xuống 1,2%, đưa Nam Phi trở
thành nước có mức tăng trưởng thấp nhất.
Chính sách phân biệt chủng tộc của chính phủ Aparthai trên lĩnh vực
kinh tế là ưu tiên đối với người da trắng, bóc lột và tận dụng nguồn sức lao
động rẻ của người da đen, coi đó là động lực để vực nền kinh tế thốt khỏi trì
trệ, là địn bẩy phát triển kinh tế Nam Phi. Với chính sách đó, hầu hết các
ngành kinh tế của Nam Phi, từ nông nghiệp, công nghiệp, đến ngân hàng, tài
chính đều vào sự thâu tóm trong tay thiểu số những người da trắng. Sự bất
bình đẳng về kinh tế này là nguyên nhân kinh tế cơ bản dẫn đến sự trì trệ và
khủng hoảng kinh tế và những hệ lụy xã hội trầm trọng của Nam Phi.
25
Sự lạc hậu, bất bình đẳng của chế độ sở hữu dẫn đến những bất công và
mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc trong xã hội Nam Phi dưới thời Aparthai.
Vấn đề sở hữu là vấn đề cơ bản, bộc lộ sõ tính chất lạc hậu của chế độ phân biệt
chủng tộc ở Nam Phi. Ở Nam Phi, dưới chế độ phân biệt chủng tộc có đến 80%
đất nơng nghiệp thuộc về sở hữu của thiểu số người da trắng; trong khi đó, người
da đen lại khơng có quyền sở hữu những mảnh đất màu mỡ, họ chủ yếu phải làm
thuê trong các đồn điền, trang trại của người da trắng, nếu có chăng thì họ chỉ
được sử dụng những mảnh đất cằn cỗi rất khó canh tác, năng xuất thấp. Cơng
nghiệp cũng diễn ra tình hình như vậy, người da đen là lực lượng lao động chính
trong các ngành cơng nghiệp, song các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ lại do các
ông chủ da trắng sở hữu và cai quản. Sự giàu có của thiểu số các ơng chủ da
trắng dựa trên sự khai thác sức lao động của đa số công nhân da đen. Thực trạng
này là cội rễ sâu xa của những bất bình đẳng xã hội khác, là nguyên nhân của các
cuộc phản kháng của người da màu và da đen chống chính phủ phân biệt chủng
tộc Aparthai.
Dưới thời Aparthai, Nam Phi nợ nước ngoài chồng chất. Các khoản vay
nước ngoài của Nam Phi tăng từ 60% năm 1970 xuống dưới 30% năm 1984.
Nợ ròng của Nam Phi đối với các ngân hàng quốc tế tăng nhanh chóng, đến
năm 1984 đã chiếm khoảng 2/3 các khoản vay lớn có kỳ hạn thanh tốn trong
vịng 1 năm, trong đó riêng số nợ của ngành ngân hàng chiếm 40%, khu vực
công 16%, khu vực tư nhân 40%. Trong khi đó, Nam Phi cịn bị cơ lập với
khu vực và thế giới, dẫn đến tình trạng tụt hậu với thế giới. Để gây áp lực
buộc Nam Phi phải chấm dứt chế độ Aparthai phân biệt chủng tộc, năm 1985
thế giới đã áp dụng lệnh cấm vận kinh tế đối với Nam Phi.
Theo đó, trong giai đoạn từ năm 1985 đến 1993, các nhà đầu tư nước
ngoài đã dần rút vốn khỏi Nam Phi, đồng thời dừng các hoạt động đầu tư và
cho vay mới đối với nước này, do đó dịng vốn đầu tư vào Nam Phi giảm đi
nhanh chóng. Trong giai đoạn từ năm 1970 đến 1985, dòng vốn ròng trung