Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Th s kinh te chinh tri nông nghiệp phát triển bền vững ở tỉnh bắc ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.47 KB, 120 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước nơng nghiệp, do đó nơng nghiệp đóng vai trò
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập kinh tế quốc tế cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ… Đã và đang tác động mạnh
mẽ đến nông nghiệp, nông thôn nước ta. Một mặt tạo cơ hội cho nơng nghiệp
được hưởng lợi từ thành quả của q trình này…Nhưng mặt khác cũng đặt ra
cho nông nghiệp nhiều thách thức như: Do phát triển công nghiệp sẽ thu hút
và tranh chấp mạnh tài nguyên với nông nghiệp về các lĩnh vực đất đai, nguồn
nước, nguồn lao động trẻ có đào tạo; Hội nhập cũng là thách thức lớn cho
nông nghiệp về sự cạnh tranh giữa hàng nông sản của nước ta đối với thế giới
trong điều kiện xuất phát điểm còn thấp; sự phát triển của khoa học - cơng
nghệ vừa có tác dụng tích cực nhưng do thiếu hiểu biết dẫn đến sự lạm dụng
quá mức việc sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, các sản phẩm cơng nghệ
kích thích tăng trưởng… gây ơ nhiễm mơi trường, mất cân bằng sinh thái, làm
giảm chất lượng sản phẩm nơng sản. Điều đó đang đe dọa dẫn đến mất cân
đối cung cầu làm tăng giá lương thực, thực phẩm và sự nghèo đói ở nhiều nơi
ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững trong nơng nghiệp. Chính vì vậy, phát
triển nơng nghiệp bền vững vừa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển bền vững ở nước ta hiện nay. Đảng và Nhà nước ta đặt phát triển nơng
nghiệp bền vững ở vị trí trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của Việt Nam.
Bắc Ninh là một tỉnh nông nghiệp, nằm trong cái nôi của nền văn minh
lúa nước khu vực đồng bằng châu thổ sơng Hồng, tỉnh có diện tích tự nhiên
803.87 km2 trong đó diện tích đất nơng nghiệp chiếm 64,7%, đất lâm nghiệp
chiếm 0,7%, đất chuyên dùng và đất ở chiếm 23,5%. Đất đai chủ yếu là đồng


2


bằng, vùng đồi núi ít. Tỉnh nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm phía bắc thuộc
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hệ thống sơng ngịi phong phú và giao
thơng thuận lợi. Bình qn sản lượng lương thực hằng năm đạt khoảng trên
425.542 tấn, đảm bảo an ninh lương thực và cung cấp sản phẩm hàng hóa cho
các nơi khác. Với điều kiện như vậy Bắc Ninh hoàn toàn có thể khai thác lợi
thế để phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện và bền vững.
Tuy nhiên, là tỉnh đất chật người đơng, dân số 1.028.844 người, mật độ
bình quân dân số vào loại cao trong cả nước 1251 người/km2. Trong đó, dân
cư nơng thơn chiếm khoảng 81,5% dân số tồn tỉnh, chủ yếu là nơng nghiệp.
Bình qn diện tích đất nơng nghiệp trên đầu người thấp khoảng trên
500m2/người. Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay, lực lượng lao
động chính cịn nhiều bất cập, trình độ chun môn và chất lượng lao động
thấp. Tỉ lệ lao động được đào tạo chỉ khoảng 45%. Sản xuất nông nghiệp nhỏ
lẻ, phân tán, manh mún; công nghiệp chế biến chưa phát triển, nên rất nhiều
sản phẩm nông sản như: cà chua, cà rốt, các loại rau xanh, thủy sản, giá thành
cịn cao, chất lượng khơng đồng nhất, sản xuất manh mún, phân tán, không
được chế biến… dẫn đến sức cạnh tranh thấp, giá trị hàng hóa khơng cao. Sản
xuất cơng nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề ở nông thôn chậm phát
triển, nhỏ lẻ, phân tán, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
lao động nông thôn. Việc lạm dụng quá nhiều sản phẩm sinh hóa đang làm ơ
nhiễm mơi trường nước và chất lượng sản phẩm làm ra. Đời sống, việc làm và
thu nhập của người nông dân trong khu vực nông thôn tuy có được cải thiện
nhưng vẫn cịn thấp và tăng chậm, khoảng cách giàu nghèo giữa đô thị và
nông thôn, trong nội bộ nơng thơn ngày càng dỗng ra. Đồng thời với mục
tiêu đến năm 2015, Bắc Ninh cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp theo
hướng hiện đại, Đảng bộ và nhân dân tồn tỉnh đang tích cực đẩy mạnh phát
triển công nghiệp, dịch vụ, mở mang đô thị, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, giảm tỷ trọng nông



3
nghiệp…Tình hình đó, bên mặt tích cực, cũng đặt ra cho nơng nghiệp nhiều
thách thức như: diện tích đất sản xuất nông nghiệp sẽ tiếp tục bị thu hẹp, lao
động trong nông nghiệp sẽ tiếp tục suy giảm, vấn đề ô nhiễm môi trường,
nước thải… ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững.
Việc nghiên cứu nhằm góp phần tìm hướng giải quyết cho phát triển
nông nghiệp bền vững ở Bắc Ninh nói chung và cả nước nói riêng là một nội
dung có ý nghĩa thiết thực, bức xúc cả về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay.
Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Nông nghiệp phát triển bền vững ở tỉnh Bắc
Ninh hiện nay” làm luận văn thạc sĩ, chun ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nơng dân có vai trị đặc biệt quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, nên được Đảng, Nhà nước, các bộ, các ngành, địa
phương rất quan tâm, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu. Có thể nêu một số
văn bản, cơng trình nghiên cứu liên quan đề tài như:
- Về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách Nhà nước
+ Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX (Tháng 2/ 2002) về đẩy nhanh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn thời kì 2001 - 2010.
+ Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nơng nghiệp, nơng dân, nơng thôn.
+ Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21
của Việt Nam) của Chính phủ.
+ Chương trình phát triển nơng nghiệp và xây dựng nơng thơn mới giai
đoạn 2006 - 2010; chương trình phát triển giống cây trồng giai đoạn 2006 2010 chương trình phát triển rau quả sạch giai đoạn 1999 - 2010; các chương
trình giảm thiểu ơ nhiễm mơi trường; kế hoạch thủy lợi hợp lý nhằm phát
triển bền vững của Bộ nông nghiệp và phát triển nơng thơn.v.v…
- Về cơng trình nghiên cứu
+ CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam, con đường bước
đi”. Đề tài KX - 02-07 do GS.TS Nguyễn Kế Tuấn làm chủ nhiệm.



4
+ Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong phát triển bền vững, Nxb
Chính trị quốc gia (2004), do TS Nguyễn Từ chủ biên.
+ Tác động của hội nhập kinh tế đối với phát triển nơng nghiệp của Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia (2008) do TS Nguyễn Từ chủ biên.
+ Nơng nghiệp, nơng thơn Việt Nam trong thời kì đổi mới (2003) do
PGS. TS Nguyễn Sinh Cúc chủ biên, NXB Thống kê.
+ Thể chế dân chủ và phát triển nông thơn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia (2005) do TS Nguyễn Văn Sáu và GS Hồ Văn Thông chủ biên.
+ Đề tài: “Những biện pháp kinh tế, tổ chức quản lý để phát triển kinh tế
nông nghiệp hàng hóa và đổi mới cơ cấu nơng thơn”. Đề tài cấp Bộ ( 1995)
do GS. TS KH Lương Xuân Quỳ chủ nhiệm.
+ Đề tài: “Nghiên cứu biến động môi trường do thực hiện quy hoạch phát
triển kinh tế xã hội, các biện pháp kiểm soát đảm bảo phát triển bền vững đồng
bằng sông Hồng”. Đề tài cấp bộ (2000) do TS Nguyễn Gia Thắng làm chủ nhiệm.
Mặc dù có nhiều cơng trình nghiên cứu về phát triển nơng nghiệp bền
vững ở các góc độ khác nhau, nhưng chưa có cơng trình nào đặt vấn đề
nghiên cứu cụ thể về phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Bắc Ninh hiện
nay. Vì vậy, mà đề tài “Nơng nghiệp phát triển bền vững ở tỉnh Bắc Ninh
hiện nay” học viên lựa chọn để nghiên cứu là cần thiết và không trùng lặp với
các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích nghiên cứu
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về nông nghiệp phát triển
bền vững, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng phát triển nơng nghiệp bền vững
ở tỉnh Bắc Ninh và đề xuất quan điểm và các giải pháp chủ yếu nhằm thúc
đẩy nông nghiệp phát triển bề vững ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ vấn đề lý luận cơ bản về nông nghiệp phát triển bền vững và
những yếu tố tác động đến nông nghiệp phát triển bền vững.



5
- Nghiên cứu kinh nghiệm trong và ngoài nước về nơng nghiệp phát
triển bền vững. Từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Bắc Ninh.
- Phân tích đánh giá thực trạng nông nghiệp phát triển bền vững Bắc
Ninh thời gian qua; từ đó đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm thúc đẩy
nông nghiệp phát triển bền vững Bắc Ninh trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề chủ yếu liên quan đến nông nghiệp phát triển bền
vững ở Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nông nghiệp phát triển bền vững ở tỉnh Bắc Ninh giai
đoạn 2001- 2011, để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy
nông nghiệp phát triển bền vững ở Bắc Ninh tới năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Luận văn
cịn dựa trên các chủ trương, chính sách về phát triển nông nghiệp của tỉnh
Bắc Ninh và tiếp thu có lựa chọn những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
học đã được công bố về nông nghiệp phát triển bền vững.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử làm cơ sở cho phương pháp luận chung trong nghiên cứu, tiếp cận và giải
quyết vấn đề. Ngồi ra cịn sử dụng phương pháp phân tích, hệ thống, tổng hợp,
thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu luận văn.
6. Những đóng khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về nông nghiệp phát triển

bền vững.


6
- Đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Bắc Ninh
giai đoạn 2001 - 2011.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền
vững tỉnh Bắc Ninh từ nay đến 2020.
- Luận văn có thể tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách, giải
pháp phát triển nơng nghiệp bền vững tại Bắc Ninh và những địa phương có
điều kiện tương tự.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Kết cấu luận văn gồm 3 chương, 6 tiết


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÔNG NGHIỆP
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

1.1.1. Khái niệm về nông nghiệp phát triển bền vững
1.1.1.1. Nhận thức chung về phát triển bền vững
Sự phát triển của lịch sử xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế
- xã hội khác nhau. Trong sự phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều
có bước thăng trầm, nhưng có điểm chung là nếu muốn phát triển đều phải tái
sản xuất mở rộng. Tái sản xuất mở rộng địi hỏi xã hội phải đạt trình độ năng
suất lao động vượt ngưỡng sản phẩm tất yếu và tạo ra ngày càng nhiều sản
phẩm thặng dư. Mà sản phẩm thặng dư là nguồn gốc để tích lũy cho tái sản

xuất mở rộng. Cho nên tái sản xuất mở rộng là hình thức đặc trưng phổ biến
của những xã hội có nền kinh tế phát triển, năng suất lao động xã hội đạt đến
trình độ cao. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh trong mỗi xã hội,
để quá trình tái sản xuất mở rộng phải đảm bảo thực hiện đầy đủ 4 nội dung:
Tái sản xuất ra của cải vật chất, tái sản xuất ra sức lao động, tái sản xuất quan
hệ sản xuất, tái sản xuất môi trường sinh thái. Chừng nào, q trình tái sản
xuất khơng thực hiện đầy đủ, cân đối, hợp lý giữa 4 nội dung trên thì tất yếu
xã hội đó sẽ khó phát triển bền vững ở giai đoạn tiếp theo.
Đến cuối những năm 70 của thế kỷ XX cuộc cách mạng khoa học kĩ
thuật mới bùng nổ và có tác động rõ rệt, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Những của cải được nhân loại tạo ra ngày càng nhiều và phong phú về chủng
loại đã đưa đến sự phát triển mới của nền văn minh nhân loại. Song cũng
chính từ sự phát triển ấy đã làm nảy sinh nhiều thách thức mới như: Tăng
trưởng dân số quá nhanh; tiêu dùng quá mức của cải, tài nguyên, năng lượng
đã gây ra hiện tượng như; thiên tai bão, lũ, lụt, ô nhiễm và sự cố môi trường


8
ngày càng gia tăng làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của xã hội, gây
trở ngại đối với phát triển kinh tế và làm giảm chất lượng sống của con người
hiện tại và tương lai.
Từ những vấn nạn mang tính tồn cầu này buộc con người phải xem xét
lại mối quan hệ và những hành vi của mình với thiên nhiên, cách thức phát
triển kinh tế - xã hội mà mình đang tiến hành. Vấn đề bức xúc của con người
phải tìm ra con đường phát triển mà trong đó vấn đề dân số, kinh tế, xã hội,
tài nguyên và môi trường được xem xét một cách tổng thể, nhằm hạn chế
những tác động cản trở đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Cách lựa chọn duy
nhất là con đường phát triển có sự kết hợp hài hịa cả về kinh tế, văn hóa, xã
hội và bảo vệ mơi trường, đó chính là con đường phát triển bền vững, đảm
bảo cho tái sản xuất xã hội bền vững.

Vào những năm 80 của thế kỷ XX, Liên Hợp Quốc đã đưa ý tưởng về
phát triển bền vững, đó là sự phát triển của một xã hội không sử dụng các
nguồn tài nguyên có thể tái tạo (đất, nước, sinh vật…) nhanh hơn khả năng tự
tạo của chúng; không sử dụng các nguồn tài nguyên không thể tái tạo (khống
sản, nhiên liệu…) nhanh hơn q trình tìm ra những loại thay thế chúng;
không thải ra môi trường những chất độc hại nhanh hơn quá trình trái đất hấp
thụ và đồng hóa chúng. Như vậy, phát triển bền vững là sự phát triển lâu dài,
vừa đáp ứng được nhu cầu hiện tại, vừa khơng xâm phạm đến lợi ích của các
thế hệ tương lai.
Phát triển ý tưởng của Liên Hợp Quốc, Ủy ban quốc tế về phát triển và
môi trường (1987) đã đưa định nghĩa: Phát triển bền vững là q trình của sự
thay đổi, trong đó, việc khai thác và sử dụng tài nguyên, hướng đầu tư hướng
phát triển của công nghệ, kĩ thuật và sự thay đổi về tổ chức là thống nhất,
làm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại tương lai của con người.
Hội nghị thượng đỉnh về trái đất năm 1992 tổ chức tại Rio de Janeiro đã
đưa ra khái niệm vắn tắt về phát triển bền vững và được nhiều quốc gia sử


9
dụng đó là: “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những yêu
cầu của hiện tại mà không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế
hệ mai sau”. Hay nói cách khác: Đó là sự phát triển hài hịa về kinh tế, văn
hóa xã hội, môi trường ở các thế hệ nhằm không ngừng nâng cao chất lượng
sống của con người.
Sự phát triển hài hòa trong phát triển bền vững thể hiện, kinh tế có tốc
độ tăng trưởng cao ổn định trong thời gian dài tất yếu kéo theo chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Đến lượt chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực sẽ
dẫn đến cơ cấu ngành nghề thay đổi (xuất hiện ngành nghề mới, làm việc
mới) thay đổi kết cấu dân cư… Sự phát triển đó lại kéo theo các yếu tố bảo
đảm các điều kiện vật chất và tinh thần giải quyết những vấn đề xã hội như

lao động, việc làm, văn hóa, thể dục thể thao… Như vậy, bản thân phát triển
bền vững về kinh tế đã bao hàm cả phát triển bền vững xã hội. Để có tăng
trưởng và phát triển kinh tế lâu dài thì các yếu tố đầu vào của quá trình sản
xuất ln phải được sử dụng có hiệu quả và tái tạo thường xuyên, mà các yếu
tố này chủ yếu tồn tại trong môi trường và chỉ được tái tạo trong mơi trường.
Nếu mơi trường khơng tốt mà xấu đi, thì khơng thể sử dụng có hiệu quả và
khơng thể tái tạo được các yếu tố của quá trình sản xuất.
Như vậy, theo chúng tơi, có thể hiểu: Phát triển bền vững là sự phát triển
hài hòa về kinh tế, văn hóa, xã hội và mơi trường, nhằm đáp ứng những yêu
cầu của hiện tại mà không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế
hệ mai sau. Trong đó sự phát triển kinh tế là nguồn gốc, là động lực, sự phát
triển xã hội là mục tiêu và sự phát triển môi trường là điều kiện của phát triển
bền vững.
Theo đó, phát triển bền vững gồm 3 nội dung cơ bản sau:
Một là, phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi đảm bảo kết hợp hài hòa,
hợp lý giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu phát triển văn hóa - xã
hội trong đó xác lập được sự cân đối giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với việc


10
sử dụng các nguồn lực con người, tài nguyên thiên nhiên, khoa học, công
nghệ, đặc biệt chú trọng phát triển công nghệ thân thiện với môi trường.
Hai là, phát triển bền vững về xã hội là sự phát triển trong đó trước mắt
xã hội có nền kinh tế tăng trưởng và ổn định gắn liền với xây dựng chế độ dân
chủ, công bằng và tiến bộ xã hội, sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế và phúc lợi xã
hội phải được chăm lo đầy đủ và toàn diện cho mọi đối tượng trong toàn xã hội.
Ba là, phát triển bền vững về tài nguyên và môi trường là sự phát triển
trong đó các dạng tài nguyên thiên nhiên tái tạo được sử dụng trong phạm vi
cho phép và có khả năng khôi phục được cả về số lượng và chất lượng, các
dạng tài nguyên không tái tạo được phải sử dụng tiết kiệm và hợp lý nhất.

Môi trường tự nhiên (khơng khí, đất, nước, cảnh quan thiên nhiên…) và môi
trường xã hội (dân số, chất lượng dân số, sức khỏe, môi trường sống, lao động
và học tập của con người…) nhìn chung khơng bị các hoạt động của con
người làm ơ nhiễm suy thối và tổn hại. Các nguồn phế thải từ công nghiệp và
sinh hoạt được xử lý, tái chế kịp thời, vệ sinh môi trường được đảm bảo, con
người được sống trong môi trường trong sạch…
1.1.1.2. Khái niệm về nông nghiệp phát triển bền vững
Đến nay, Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam đã được triển khai,
trong đó nơng nghiệp, nơng thơn là một trong 5 lĩnh vực kinh tế cần được ưu
tiên phát triển. Ngành nơng nghiệp cũng đã triển khai chương trình phát triển
bền vững của mình. Nhưng quan niệm về nơng nghiệp phát triển bền vững
chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng.
Theo G.A.Cô-Dơ-Lốp và S.P.Pe -Rơ-Vu-Sin và các tác giả cuốn từ điển
kinh tế do Nhà xuất bản chính trị Quốc Gia Liên Xô xuất bản năm 1953 trong
mục từ “Nông nghiệp”, sau khi định nghĩa: Nông nghiệp là một ngành kinh tế
quan trọng và cịn cho rằng: “Trong nơng nghiệp việc sản xuất sản phẩm
không những gắn liền với các quá trình kinh tế, mà cũng gắn liền với quá
trình tự nhiên của tái sản xuất. Muốn kinh doanh nông nghiệp một cách đúng


11
đắn, điều quan trọng là hiểu biết và khéo vận dụng các quy luật kinh tế của
sự phát triển xã hội và các quy luật sinh vật học của sự phát triển động vật và
thực vật”. Cuốn từ điển này được viết và xuất bản trước khi nhân loại đề cập
đến khái niệm phát triển bền vững nhiều năm. Các tác giả cũng không hề đề
cập một từ nào về phát triển bền vững, nhưng nếu căn cứ vào nội dung phát
triển bền vững ngày nay, thì thực chất ở đây đã bàn về phát triển bền vững
trong nông nghiệp. Theo quan niệm hiện đại về phát triển bền vững thì cách
đặt vấn đề của các tác giả “việc sản xuất sản phẩm khơng những gắn liền với
các q trình kinh tế, mà cũng gắn liền với quá trình tự nhiên của tái sản

xuất” và muốn kinh doanh nông nghiệp tốt phải “hiểu biết” và “khéo sử dụng
các quy luật kinh tế của sự phát triển xã hội và các quy luật sinh học của sự
phát triển động vật và thực vật”, thực ra đã đề cập đến những vấn đề cốt lõi
của phát triển bền vững. Bởi vì, khi một sự vật hiện tượng hay quá trình vận
động tuân theo các quy luật kinh tế, xã hội, tự nhiên tức là tuân thủ sự đòi hỏi
khách quan của sự phát triển thì thường đạt hiệu quả và do đó tồn tại và phát
triển ổn định, lâu dài, bền vững.
Theo Bill Mollison và Remy Mia Slay thì nơng nghiệp bền vững được
định nghĩa như sau: “Việc thiết kế những hệ thống cư trú lâu bền của con
người: đó là một triết lý và một cách tiếp cận về việc sử dụng đất tạo ra mối
liên kết chặt chẽ giữa tiểu khí hậu, cây hàng năm, cây lâu năm, súc vật, đất
nước và những nhu cầu của con người xây dựng những cộng đồng chặt chẽ
và có hiệu quả”. Trong khái niệm này, các tác giả cũng đã đề cập đến vấn đề
kinh tế (cây hàng năm, cây lâu năm, súc vật, nhu cầu của con người), đến vấn
đề xã hội (xây dựng những cộng đồng), đến môi trường (sử dụng đất, khí
hậu). Theo tác giả, định nghĩa này chưa đạt đến tầm khái quát và hệ thống,
còn thuần túy từ góc nhìn của các nhà nơng nghiệp, đặc biệt chưa làm rõ các
vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường này cần đến độ như thế nào thì sẽ là nông
nghiệp bền vững.


12
Theo GS. TS Võ Tòng Xuân - Hiệu trưởng trường Đại Học An Giang
thì: “có thể hiểu ngắn gọn khái niệm sản xuất nông nghiệp bền vững là chúng
ta cần chọn một biện pháp sản xuất để cây trồng, vật nuôi của chúng ta tiếp
tục cho mỗi năm một lãi, chất lượng nguồn lãi, chất lượng nguồn nước và đất
đai hàng năm vẫn được duy trì tốt để thế hệ con cháu chúng ta tiếp tục được
hưởng cái lợi từ đất và môi trường nước.v.v….”. Khái niệm này đã đề cập đến
giải pháp kĩ thuật để sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững, còn xem trên
phương diện xây dựng nền nơng nghiệp phát triển bền vững thì chưa đề cập

đầy đủ.
Theo tác giả Châu Minh Thương: “Nông nghiệp bền vững là một hệ
thống trong đó con người tồn tại và sử dụng những nguồn năng lượng không
độc hại, tiết kiệm và tái sinh năng lượng, sử dụng nguồn tài nguyên phong
phú của thiên nhiên mà không liên tục phá hoại những nguồn tài ngun đó.
Nơng nghiệp bền vững khơng chỉ bảo vệ những hệ sinh thái đã có trong tự
nhiên mà cịn tìm cách khơi phục những hệ sinh thái đã suy thoái”. Quan
niệm này cũng thiên về giải pháp kỹ thuật để nơng nghiệp phát triển bền
vững, cịn trên phương diện xây dựng nền nông nghiệp phát triển bền vững thì
chưa được đề cập đầy đủ.
Cổng thơng tin điện tử của Chính phủ đã thống kê 10 khái niệm về phát
triển nơng nghiệp bền vững, trong đó đáng lưu ý là khái niệm số 6, 7 và 9.
Khái niệm số 6 cho rằng: Phát triển nông nghiệp bền vững là sự phát triển
đáp ứng nhu cầu tăng trưởng chung của nền kinh tế nhưng khơng làm suy
thối mơi trường tự nhiên - con người, mà đảm bảo trên mức nghèo đói của
người nơng thơn. Khái niệm số 7: Phát triển nông nghiệp bền vững là đảm
bảo an ninh lương thực, tăng cải tổ kinh tế, khắc phục nghèo đói và tạo điều
kiện tăng tốc độ cơng nghiệp hóa. Khái niệm số 9: Phát triển nông nghiệp
bền vững là cực đại hóa phúc lợi hiện tại khơng làm giảm thiểu các phúc lợi
ấy trong tương lai. Các khái niệm ấy đã đề cập đến những giác độ khác nhau


13
của phát triển nơng nghiệp bền vững, nhưng cịn sa vào các nội dung cụ thể,
chưa đủ bao quát tới mức bỏ qua những nội dung cơ bản của phạm trù.
Ở đây cần làm rõ khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững và nông
nghiệp phát triển bền vững. Khái niệm đầu cho ta thấy rõ tác động chủ quan
của con người vào ngành nông nghiệp về định hướng phát triển của nó theo
hướng bền vững.
Khái niệm: “nơng nghiệp phát triển bền vững” là một phạm trù kinh tế,

có bản chất và nội dung xác định. Trong đó phản ánh mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với nhau trong hoạt động ở
một ngành sản xuất cụ thể là nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững.
Nông nghiệp phát triển bền vững là ngành sản xuất ra lương, thực thực phẩm
đang trong trạng thái phát triển ổn định tăng trưởng cả về quy mô và tốc độ.
Hơn nữa sự phát triển này được duy trì bởi trạng thái cân bằng. Trong đó xác
lập mối quan hệ hài hòa giữa con người với tự nhiên. Ở đây con người là một
bộ phận của tự nhiên, hoạt động theo các quy luật của tự nhiên khơng chỉ khai
thác tự nhiên mà cịn hịa nhập vào tự nhiên, duy trì bồi bổ tự nhiên, ngăn
ngừa những tai biến dẫn đến phá hoại tự nhiên. Ngoài ra, sự hài hòa giữa con
người với tự nhiên chỉ được xác lập thực sự trong điều kiện hài hòa về lợi ích
giữa con người với nhau trong một trật tự xã hội, bảo đảm cho loài người như
một bộ phận tự nhiên thống nhất.
Trên cơ sở đó, chúng tơi đưa ra khái niệm về nông nghiệp phát triển bền
vững như sau: Nông nghiệp phát triển bền vững là ngành nông nghiệp phát
triển phải bảo đảm sự tăng trưởng không làm hủy hoại môi trường. giá trị thu
nhập tăng bền vững và ổn định, mamg lại hiệu quả cả về mặt kinh tế - xã hội
cho thế hệ hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của thế hệ
tương lai. Với quan niệm này, nội dung cụ thể của nông nghiệp phát triển bền
vững phải thể hiện ở 3 khía cạnh: kinh tế, xã hội và mơi trường.
Nội dung kinh tế của nông nghiệp phát triển bền vững là: sự phát triển
duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn ngành cao ổn định, gắn với


14
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, theo chiều hướng tiến bộ; việc ứng
dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản xuất đem lại năng
suất, bảo đảm chất lượng, có giá trị kinh tế cao; sử dụng các nguồn lực vốn,
đất đai, nguồn nước, khoa học - cơng nghệ, lao động, tiết kiệm, có hiệu quả;
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn được củng cố và phát triển.

Nội dung xã hội của nông nghiệp phát triển bền vững, trước hết thể hiện
sự phân bố công bằng các nguồn lực giữa nông nghiệp với các lĩnh vực khác;
Nhà nước có chính sách trong việc đảm bảo an ninh lương thực xóa đói giảm
nghèo, nâng dần mức sống của dân cư nông nghiệp đi đôi với phát triển văn
hóa, giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật (đường, điện, trường,
trạm…), phát triển dịch vụ xã hội và tạo cho người dân được tiếp cận bình
đẳng đối với loại dịch vụ này, thực hiện dân số kế hoạch hóa gia đình.v.v…
Nội dung bảo đảm môi trường cho nông nghiệp phát triển bền vững là
khả năng bảo vệ, tái tạo độ màu mỡ của đất nông nghiệp; bảo vệ môi trường
nước, môi trường khơng khí, bảo vệ rừng; mức độ sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật, phân bón, thức ăn gia súc, các sản phẩm sinh học phải chú ý tới bảo vệ
môi trường và sức khỏe của con người.
1.1.2. Đặc trưng của nông nghiệp phát triển bền vững
Nông nghiệp phát triển bền vững có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, nơng nghiệp phát triển bền vững là nền sản xuất trong đó hoạt
động của con người phù hợp với các quy luật phát triển của tự nhiên, khai
thác và bồi dưỡng được tự nhiên được thực hiện trong cùng một quá trình,
nhờ đó duy trì được mơi trường tự nhiên cho đời sống trường tồn của mọi thế
hệ. Các hoạt động của con người không thể đi ngược các quy luật của tự
nhiên, mà phải nhận thức đúng quy luật của thiên nhiên để sử dụng chúng vào
phục vụ đời sống của con người. Nguyên tắc hoạt động trong nền nông
nghiệp phát triển bền vững là các chủ trương chính sách của nhà nước, của cơ
quan có thẩm quyền phải được xây dựng trên cơ sở tôn trọng các quy luật vốn


15
có của thiên nhiên. Phải xem xét tồn bộ trong sự vận động của nó, khơng
tách rời từng bộ phận; phải suy nghĩ đến lợi ích tồn cục, khơng vì lợi ích của
bộ phận mà làm hại đến tồn cục. Tấn công vào thiên nhiên, hủy hoại môi
trường thiên nhiên vì những lợi ích ngắn hạn trước mắt…là tự tấn cơng vào

chính sự sống của hơm nay và mai sau của mình và cộng đồng. Như vậy,
nơng nghiệp phát triển bền vững không thu hẹp trong phạm vi nông nghiệp,
mà còn tham gia vào giải quyết những vấn đề lớn mang tính tồn cầu.
Thứ hai, nơng nghiệp phát triển bền vững là nền sản xuất nông nghiệp
đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, dựa trên cơ sở ứng dụng thành tựu
khoa học - công nghệ hiện đại vào sản xuất. Khơng thể nói một nền nơng
nghiệp bền vững mà không tăng trưởng. Tăng trưởng là một yếu tố khơng thể
thiếu trong phát triển bền vững nói chung, trong nơng nghiệp phát triển bền
vững nói riêng. Có tăng trưởng cao, ổn định mới giải quyết được các vấn đề
phát triển kinh tế - xã hội khác… Nhưng tăng trưởng cao, bền vững không
phải dựa vào việc khai thác kiệt quệ các nguồn lực (vốn, đất đai, sức lao
động…) mà phải dựa trên những ứng dụng các thành tựu mới về công nghệ
sinh học; bảo quản và chế biến, phát triển nông nghiệp sinh thái, bảo vệ thực
vật. Muốn vậy phải đẩy mạnh CNH, HĐH trong sản xuất nông nghiệp… để
có năng suất, chất lượng, hiệu quả mà vẫn ni dưỡng, tái tạo, phát triển các
nguồn lực cho sự phát triển lâu dài.
Thứ ba, nông nghiệp phát triển bền vững là nền nơng nghiệp sử dụng tiết
kiệm, có hiệu quả các nguồn lực nhưng vẫn đảm bảo sự tăng trưởng. Các
nguồn lực chủ yếu cho phát triển nông nghiệp bền vững bao gồm: vốn, sức
lao động, đất đai, khoa học cơng nghệ. Sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn
vốn thể hiện trước tiên ở chính sách đầu tư đúng hướng, tập trung, không dàn
trải nhưng vẫn đảm bảo tốc độ tăng trưởng. Đối với sức lao động, sử dụng tiết
kiệm, có hiệu quả chính là việc bố trí và tổ chức sản xuất hợp lý, đảm bảo
trong điều kiện lực lượng lao động trong nông nghiệp giảm do tăng cường


16
cho công nghiệp, dịch vụ và các ngành nghề khác nhưng nông nghiệp vẫn
phát triển. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực đất đai là nâng cao hệ số sử
dụng đất, thực hiện trên một diện tích đất được quay vòng sử dụng nhiều nhất

và hiệu quả cao nhất nhưng khơng làm thối hóa đất, ơ nhiễm mơi trường đất,
giải quyết được mâu thuẫn giữa xu hướng đất “bờ xôi ruộng đất” đất hai vụ
lúa ăn chắc trong nông nghiệp thu hẹp do phát triển công nghiệp, đô thị với
vấn đề đảm bảo an ninh lương thực và tăng trưởng trong nơng nghiệp. Sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực khoa học - công nghệ là việc ứng dụng
các thành tựu các nguồn lực này vào sản xuất tạo ra năng suất, hiệu quả
nhưng không lạm dụng, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, sức khỏe của
con người, chống lại các quy luật của tự nhiên.
Thứ tư, nông nghiệp phát triển bền vững là nền nơng nghiệp có cơ cấu
kinh tế hợp lý. Nói đến cơ cấu kinh tế trong nơng nghiệp là nói đến cơ cấu
trong chăn nuôi và trồng trọt. Trồng trọt lại phân ra cơ cấu giữa cây lương
thực, cây công nghiệp, cây rau màu…, trong chăn ni có cơ cấu giữa chăn
ni gia súc, gia cầm, thủy sản… Cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý là cơ cấu
đảm bảo tỷ trọng phù hợp giữa chăn nuôi và trồng trọt, giữa các loại cây
trồng, giữa chăn nuôi các loại con… trên cơ sở cạnh tranh và sự cân đối trong
phát triển nông nghiệp ở từng vùng, từng địa phương.
Thứ năm, nông nghiệp phát triển bền vững là nền nông nghiệp bảo đảm
được công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, tạo được cơ sở vật
chất cho phát triển nông thôn mới. Đây là đặc trưng rất quan trọng trong nông
nghiệp phát triển bền vững, vì nơng nghiệp là ngành sử dụng nhiều lao động,
nhưng lao động nơng nghiệp lại có tính chất thời vụ, thu nhập thấp, điều kiện
sinh sống ở nơng thơn gặp nhiều khó khăn, cho nên hiện tượng bỏ nghề nơng
đi tìm một cơng việc khác có thu nhập cao hơn là một xu thế trong sự phát
triển của xã hội, nhất là thời kì phát triển cơng nghiệp. Vì thế, một đặc trưng
rất quan trọng và cũng là yêu cầu để nông nghiệp phát triển bền vững: vừa


17
đảm bảo việc làm cho người lao động nông nghiệp có mức sống khơng được
chênh lệch thấp q so với mức sống trung bình của cư dân đơ thị và thường

xuyên được cải thiện; vừa phải quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế - kĩ thuật (điện, đường, trường trạm…), kết cấu hạ tầng văn hóa xã hội, (các
thiết chế văn hóa, các điểm hoạt động văn hóa, thể thao, các loại hình dịch vụ…)
ở nơng thôn cũng phải quan tâm tốt hơn, không quá chênh lệch với đô thị.
Thứ sáu, nông nghiệp phát triển bền vững là nền nơng nghiệp, trong đó
địi hỏi trình độ học vấn và chuyên môn của người lao động ngày càng cao.
Yêu cầu của nông nghiệp phát triển bền vững là sự phát triển vừa đảm bảo
mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo mục tiêu ổn định xã hội và bảo vệ
mơi trường. Trong khi đó, người lao động là chủ thể của q trình phát triển
nơng nghiệp. Do đó, muốn nơng nghiệp phát triển bền vững, người lao động
phải có trình độ khoa học kĩ thuật, kiến thức chính trị - xã hội, kiến thức bảo
vệ mơi trường nhất định. Những kiến thức đó giúp cho họ ứng dụng vào trong
sản xuất để nông nghiệp phát triển bền vững. Đến lượt nó, sự phát triển của
nơng nghiệp bền vững lại đặt ra yêu cầu đòi hỏi của người lao động có trình
độ cao hơn.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành nông nghiệp phát triển bền vững
1.1.3.1. Các yếu tố lực lượng sản xuất trong cấu thành nông nghiệp
phát triển bền vững
- Trình độ phát triển và ứng dụng KHCN vào sản xuất, lưu thông và chế
biến nông sản hàng hóa.
KHCN là một yếu tố của LLSX, ngày càng có vai trị to lớn và đã trở
thành ngun nhân của nhiều biến đổi trong sản xuất và đời sống, đúng như
C. Mác dự đoán khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thành lực
lượng sản xuất độc lập. Trong nông nghiệp, yếu tố khoa học công nghệ giữ
vai trò rất quan trọng, quyết định đến vấn đề năng suất hiệu quả, bền vững.
Bởi vì nơng nghiệp có một đặc điểm là chịu sự tác động lớn của yếu tố thiên


18
nhiên, kể cả sản xuất lẫn bảo quản, chế biến. Mức độ phụ thuộc vào thiên

nhiên là một tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của nơng nghiệp. Trình độ
phát triển của nơng nghiệp càng cao thì mức độ lệ thuộc vào thiên nhiên cũng
sẽ giảm dần. Một nền nơng nghiệp tự nhiên (phụ thuộc hồn tồn vào tự
nhiên) là nền nơng nghiệp có trình độ phát triển thấp, không bền vững và chịu
tác động mù quáng của các quy luật tự nhiên. Sự phát triển đó khơng từ nội
tại nền nơng nghiệp mà lệ thuộc hồn tồn vào yếu tố bên ngoài (thiên nhiên).
Sự phát triển của khoa học - cơng nghệ và việc ứng dụng nó vào sản xuất, lưu
thơng và chế biến nơng sản hàng hóa, một mặt giúp nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm nông nghiệp; tăng giá trị của sản phẩm nông nghiệp trên một
đơn vị diện tích. Mặt khác, giúp con người ngăn ngừa được những tai biến
thiên nhiên, làm chủ được thiên nhiên, hạn chế sự lệ thuộc của nông nghiệp
vào yếu tố thiên nhiên, cho phép phát triển nông nghiệp một cách chủ động có
hiệu quả, tăng tính ổn định, giữ được tốc độ phát triển theo hướng bền vững.
- Trình độ phát triển kĩ năng về khoa học cơng nghệ của người lao động
và nhà quản lý là một yếu tố quan trọng của LLSX trong nền nông nghiệp
phát triển bền vững.
Nói đến LLSX, thì yếu tố quan trọng hàng đầu là người lao động với kỹ
năng lao động của họ (bao gồm cả lao động trực tiếp và lao động tổ chức quản
lý), mà đối với nông nghiệp là người nông dân, những người lãnh đạo HTX,
lãnh đạo sản xuất, lãnh đạo điều hành việc đưa các thành tựu khoa học công
nghệ vào sản xuất… Đây là chủ thể của quá trình phát triển, C.Mác viết “lực
lượng sản xuất hàng đầu của tồn nhân loại là cơng nhân, là người lao động”.
Lao động thuần túy, cơ bắp, không có KTCN chỉ thích ứng với nền nơng nghiệp
tự nhiên. Đây là nền nông nghiệp phát triển không bền vững. Nông nghiệp phát
triển bền vững phải dựa trên cơ sở của khoa học cơng nghệ phát triển cao. Vì
vậy, địi hỏi của việc xây dựng nền nông nghiệp bền vững là trình độ phát triển
kĩ năng khoa học cơng nghệ của người lao động và nhà quản lý ngày càng cao…


19

- Phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật nông nghiệp,
nông thôn (điện, đường, trường, trạm, cơ giới hóa, thủy lợi hóa).
Kết cấu hạ tầng có thể hiểu là những tư liệu lao động cấu thành LLSX
trong nông nghiệp. Theo C.Mác, tư liệu lao động là một trong những tiêu thức
cơ bản để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. “Những thời đại kinh tế
khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản
xuất bằng cách nào, với tư liệu lao động nào”. Sự phát triển kết cấu hạ tầng
với tư cách là công cụ lao động giúp người lao động nông nghiệp “nối dài
bàn tay” và nhân lên sức mạnh lao động con người; với tư cách là cơ sở vật
chất phục vụ đời sống, thì sự phát triển kết cấu hạ tầng giúp người nông dân lực lượng lao động nông nghiệp yên tâm hơn với nơi cư trú của mình là nơng
thơn và ngành nghề gắn bó với họ. Sự lạc hậu, yếu kém của kết cấu hạ tầng
nông nghiệp sẽ cản trở sự phát triển nông nghiệp bền vững.
1.1.3.2. Các yếu tố quan hệ sản xuất trong cấu thành nông nghiệp
phát triển bền vững
- Mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tài nguyên
(đất đai, nguồn nước…) và các nguồn lực khác được giải quyết tốt.
Quyền sở hữu là quyền thể hiện mối quan hệ giữa con người với con
người trong chiếm hữu, định đoạt của cải trong xã hội. Quyền sử dụng thể
hiện mối quan hệ giữa con người với con người trong việc thực hiện quyền
được khai thác và sử dụng của cải trong xã hội.
Trong nông nghiệp, quyền sở hữu được thể hiện là quyền sở hữu đất đai,
quyền sử dụng được thể hiện ra là quyền sử dụng đất. Ở Việt Nam, thực hiện
sự nghiệp đổi mới, đã có sự tách bạch tương đối giữa 2 quyền sở hữu và
quyền sử dụng đất. Trong đó, đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân, Nhà
nước thống nhất quản lý, nhưng Nhà nước giao quyền sử dụng lâu dài cho hộ
nông dân. Người nơng dân được tồn quyền sử dụng, chuyển đổi, chuyển
nhượng cho thuê, thừa kế, thế chấp đất đai theo quy định của pháp luật trong


20

thời hạn Nhà nước giao quyền sử dụng. Việc tách biệt giữa sở hữu và quyền
sử dụng đã giải quyết 2 vấn đề cơ bản cho nông nghiệp phát triển bền vững:
Một là, quyền sử dụng đất đai vẫn là tồn dân, cho phép Nhà nước có
thể sử dụng quyền sở hữu đất đai này để can thiệp vào khi thấy quyền sử dụng
được dùng khơng đúng mục đích, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của
nông nghiệp
Hai là, người nông dân với quyền sử dụng đất đai được luật pháp hóa,
đã giải quyết được vấn đề cơ bản của nông nghiệp là trả lại tư liệu sản xuất
(đất đai) cho người nơng dân, mối quan hệ lợi ích được xác lập, cho phép
người nông dân với những kinh nghiệm, kĩ năng vốn có được tồn quyền khai
thác nguồn lực đất đai cho phát triển nơng nghiệp tồn diện để thu địa tơ
chênh lệch II. Chính nhờ chính sách này, mà tạo bước đột phá trong phát triển
nông nghiệp ở Việt Nam. Từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam phải nhập khẩu sang xuất
khẩu lương thực mỗi năm từ 3 - 4 triệu tấn. Tuy nhiên mối quan hệ giữa 2
quyền này nếu nhận thức và sử dụng không đúng sẽ ảnh hưởng đến phát triển
nông nghiệp bền vững. Khi Nhà nước dùng quyền sở hữu can thiệp quá sâu
như: giao quyền sử dụng trong thời gian quá ngắn, không ổn định, hạn chế
quyền lợi của quyền sử dụng… dẫn đến người được quyền sử dụng không
đồng thời khai thác và bồi dưỡng tiềm năng của đất đai, giảm hiệu quả sử
dụng nguồn lực (đất đai, rừng, nước…). Nhưng nếu buông lỏng quản lý
quyền sở hữu, dẫn đến nhiều vi phạm trong thực hiện quyền sử dụng như:
dùng quyền sử dụng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nơng nghiệp sang làm
nhà ở, phát triển tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ sai quy định…làm thu hẹp diện
tích đất nơng nghiệp ảnh hưởng đến an ninh lương thực; khai thác tài nguyên
bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường nước… Do vậy để nông nghiệp phát triển
bền vững phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử
dụng, họ được toàn quyền khai thác tư liệu sản xuất này theo quy định của
pháp luật để phục vụ cho mục đích của họ;



21
Nhà nước đảm bảo quyền sở hữu đất đai không cho sử dụng sai mục
đích. Tức là phải thực hiện giao đất, giao rừng ổn định, lâu dài cho hộ nơng
dân, cịn nhà nước tăng cường quản lý để cho quyền sử dụng được thực hiện
đúng mục đích.
- Các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh trong nơng nghiệp phát
triển đa dạng và phù hợp.
Nông nghiệp là lĩnh vực trình độ phát triển của LLSX chậm nhất so với
những lĩnh vực khác, tương ứng với nó phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu đa
dạng với nhiều thành phần kinh tế khác nhau như: kinh tế hộ gia đình cá thể,
kinh tế tiểu chủ, trang trại; kinh tế HTX; kinh tế nhà nước (các nông, lâm
trường, quốc doanh), kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế hộ gia đình là hình thức kinh tế cá thể, phù hợp với yêu cầu khai
thác có hiệu quả các tiềm năng về đất đai, vốn, sức lao động và tay nghề cá
nhân nhằm phát triển sản xuất ở những nơi có trình độ LLSX thấp, lạc hậu.
Đó là những tổ chức kinh tế của từng gia đình nơng dân khơng tham gia HTX
mà hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào vốn, sức lao động của bản thân và
gia đình.
Kinh tế tiểu chủ, trang trại cũng giống như kinh tế hộ gia đình, nhưng
lớn hơn về quy mơ, sức sản xuất. Có tích tụ, tập trung sản xuất, thuê mướn lao
động, theo hướng sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Kinh tế HTX là tổ chức hợp tác của những người lao động liên kết góp
vốn, góp sức, hoạt động theo nguyên tắc “tự nguyện, dân chủ, bình đẳng cùng
có lợi” để sản xuất, kinh doanh nơng nghiệp và ngành nghề khác theo hướng
dẫn của Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước là các nông, lâm trường quốc doanh do Nhà nước
quản lý và tổ chức sản xuất.
Kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước là những loại hình
doanh nghiệp tư nhân, và doanh nghiệp có vốn tư nhân và vốn của nhà nước
hoạt động trong nông nghiệp.



22
Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là để phù hợp với sự phát triển
không đồng đều của LLSX nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững.
Ở Việt Nam hiện nay, các nông, lâm trường quốc doanh kiểu cũ sản xuất
không hiệu quả đã chuyển đổi theo hình thức khốn, giao rừng cho người lao
động. Nhà nước chỉ nắm vai trị quản lý; các loại hình kinh tế, tư bản tư nhân,
tư bản Nhà nước chưa phát triển ở nơng nghiệp. Loại hình kinh tế hộ gia đình,
hộ xã viên, cá thể, phát triển mạnh đây được coi là chủ thể chủ yếu của mơ
hình kinh tế nơng nghiệp, nơng thơn; các loại hình kinh tế hợp tác dịch vụ (thay
thế cho loại hình HTX sản xuất trước đây) là tổ chức HTX của người nơng dân
đóng cổ phần, làm nhiệm vụ cung ứng dịch vụ mà hộ gia đình khơng làm được
và làm khơng hiệu quả và cùng với chính quyền địa phương chăm lo sự nghiệp
phúc lợi của xã hội và thực hiện đúng nguyên tắc “tự nguyện, dân chủ, cùng có
lợi”; các mơ hình trang trại đang phát triển ở nhiều nơi.
Việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các mơ hình tổ chức kinh tế
trong nơng nghiệp cho phù hợp với trình độ của LLSX sẽ thúc đẩy sản xuất
trong lĩnh vực này phát triển nhanh hơn, ổn định hơn. Thực tiễn hơn 20
năm đổi mới của Việt Nam trên lĩnh vực nơng nghiệp đã chứng minh điều
đó, từ một đất nước thiếu ăn, phải nhập khẩu lương thực, đến nay đủ ăn và
có xuất khẩu.
- Thị trường hàng hóa trong nơng nghiệp phát triển.
Sự phát triển, mở rộng thị trường cho phép mở ra khả năng tiêu thụ các
sản phẩm nông sản hàng hóa mà người dân tạo ra. Sự gia tăng nhu cầu của thị
trường là động lực mạnh mẽ thúc đẩy ngành nông nghiệp mở rộng sản xuất,
thực hiện thâm canh tăng vụ cung cấp nhiều sản phẩm cho xã hội. Đồng thời,
dưới sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, buộc người sản xuất
nông nghiệp phải biết khai thác những lợi thế cạnh tranh, lựa chọn lĩnh vực
sản xuất cho phù hợp, thường xuyên ứng dụng khoa học công nghệ, nhạy bén,

năng động, để tạo ra những sản phẩm nơng nghiệp có năng suất cao, chất


23
lượng hiệu quả, đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu của xã hội. Như vậy, phát
triển thị trường giúp cho sản xuất nông nghiệp không chỉ giải quyết cái “ăn”
cho người nơng dân, mà cái chính tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa phục vụ
cho nhu cầu phát triển khác. Thị trường mở ra khả năng vô cùng rộng lớn, cho
phép phát triển tối đa năng lực sản xuất nơng nghiệp chứ khơng cịn bó hẹp
trong sản xuất manh mún “tự cấp, tự túc”, từ đó thúc đẩy nơng nghiệp tăng
trưởng. Tăng trưởng là yếu tố cấu thành phát triển bền vững. Cho nên phát
triển nông nghiệp bền vững khơng thể thiếu vai trị của thị trường. Thơng qua
phát triển thị trường còn tạo ra sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các vùng, địa
phương trong nước và quốc tế, qua đó tạo điều kiện học hỏi, tiếp thu những tri
thức mới những kinh nghiệm hay vào sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và
văn hóa tinh thần của người dân.
Để phát triển thị trường hàng hóa trong nơng nghiệp, vai trị của Nhà
nước rất quan trọng. Vai trò của Nhà nước thể hiện ở chỗ Nhà nước đề ra các
chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy kinh tế thị trường
hàng hóa nơng nghiệp phát triển theo đúng quỹ đạo của Nhà nước.
1.1.3.3. Các yếu tố về môi trường tự nhiên và xã hội cấu thành nông
nghiệp phát triển bền vững
Môi trường tự nhiên và xã hội cấu thành nội dung cơ bản nhất của nền
nơng nghiệp phát triển bền vững, trong đó mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên được biểu hiện ở thái độ tích cực của con người với tự nhiên. Sự phân
biệt giữa nền nông nghiệp phát triển bền vững với khơng bền vững chính là ở
mối quan hệ này. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên không
bao giờ thực hiện đơn lẻ mà là hành vi mang tính xã hội. Do đó, nơng nghiệp
phát triển bền vững không thể không bao hàm mối quan hệ giữa con người
với con người, trong đó những quan hệ lành mạnh tích cực với nhau trở thành

điều kiện sống và tồn tại cho nền nông nghiệp phát triển bền vững, thể hiện ở
các điều cơ bản sau:


24
- Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững và có hiệu quả các
nguồn tài nguyên thiên nhiên (khai thác đi liền với bồi dưỡng tự nhiên, giảm
thiểu và đi đến loại trừ ô nhiễm môi trường sống).
Các hoạt động khai thác hợp lý sử dụng tiết kiệm, bền vững và có hiệu
quả nguồn tài nguyên thiên nhiên cho nông nghiệp phát triển bền vững bao
gồm: chống tình trạng suy thối đất nơng nghiệp, sử dụng hiệu quả và bền
vững tài nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên
nước; bảo vệ rừng, thực hiện các biện pháp tái tạo rừng, phủ xanh đất trống,
đồi núi trọc; quản lý việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, phân bón,
rác thải, chất thải từ nội tạng động thực vật ở những nơi chế biến; bảo tồn đa
dạng sinh học, thực hiện các biện pháp giảm nhẹ những ảnh hưởng có hại do
biến đổi khí hậu, tích cực phịng, chống thiên tai, phát triển nền nơng nghiệp
sinh thái…
- Thành thị hóa nơng thôn, xây dựng nông thôn văn minh loại trừ những
tiêu cực gây ô nhiễm môi trường xã hội.
Nông thôn là môi trường sống của nông dân, chủ thể của nông nghiệp
phát triển bền vững. Nông nghiệp phát triển bền vững thì đồng thời phải xây
dựng nơng thơn bền vững. Xây dựng nông thôn bền vững bao gồm các hoạt
động: phát triển, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nơng thơn, thực
hiện thành thị hóa nơng thơn; tích cực xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống
vật chất tinh thần; bài trừ các hủ tục lạc hậu, các tệ nạn xã hội, xây dựng nông
thôn văn minh…Các hoạt động này đều tạo cho nơng dân có cuộc sống ổn
định gắn bó với nơng thơn và phát triển nơng nghiệp bền vững.
- Hệ thống chính trị (HTCT) ở nông thôn vững mạnh.
Việc tổ chức thực hiện nông nghiệp phát triển bền vững là ở cơ sở.

HTCT ở nơng thơn bao gồm cơ quan hành chính (chính quyền), tổ chức
Đảng, các đồn thể chính trị - xã hội là chủ thể lãnh đạo, đưa nông nghiệp
phát triển bền vững vào cuộc sống. Cho nên HTCT ở cơ sở là cực kì quan


25
trọng. Vai trị của HTCT ở nơng thơn thể hiện ở chỗ trực tiếp tổ chức cho
nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về nông nghiệp phát triển bền vững vào thực tiễn cuộc sống.
Các chủ trương đường lối, chính sách đó dù có đúng nhưng khâu thực hiện
khơng tốt thì cũng chỉ dừng lại trên sách vở đó là chưa tính đến thực hiện sai
có thể dẫn đến phá hoại. Sự vững mạnh của HTCT ở nông thôn là yếu tố
chính trị - xã hội bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện nông nghiệp phát triển
bền vững đạt được mục đích.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển nông nghiệp bền vững
Nông nghiệp phát triển bền vững chịu tác động của nhiều nhân tố, nhưng
lại khái quát có 3 nhóm nhân tố chính ảnh hưởng sau:
1.1.4.1. Nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên
Những nhân tố về điều kiện tự nhiên bao gồm: Điều kiện đất đai, thời
tiết, khí hậu, nguồn nước, rừng, khống sản và các yếu tố sinh học khác…có
ảnh hưởng rất lớn đến phát triển nông nghiệp bền vững, nhất là đối với các
nước có trình độ cơng nghiệp hóa cịn thấp.
Các nhân tố về điều kiện tự nhiên có tác động trực tiếp tới việc hình
thành, vận động biến đổi ngành nơng nghiệp. Trong các nội dung của nông
nghiệp phát triển bền vững đều chịu ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên.
Môi trường sản xuất nông nghiệp cũng do yếu tố tự nhiên quy định. Mỗi vùng
nơng nghiệp lại có đặc điểm tự nhiên riêng, do đó đặc điểm về kết cấu xã hội
cũng có cái riêng, vùng núi khác vùng đồng bằng…
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng khá lớn đến phát triển kinh tế. Ở những
địa phương thuần nông, nông nghiệp là ngành có tỷ trọng lớn và ảnh hưởng

rất lớn đến các ngành khác. Các vùng kinh tế có điều kiện tự nhiên khác nhau,
do đó quy mơ của các ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng) và
trong nội bộ ngành nông nghiệp cũng khác nhau. Điều đó được thể hiện rõ nét
trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp giữa các vùng đồng bằng, trung du, miền


×