Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

hợp tác xã trên địa bàn tỉnh gia lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.17 MB, 125 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp tác xã được khởi nguồn từ thuở bình minh của lồi người dưới
hình thức cộng đồng ngun thủy hay cơng xã ngun thủy. Từ khi công xã
nguyên thủy tan rã, xã hội lồi người phân chia thành giai cấp thì cơng xã hợp tác xã là diều mong muốn, ước mơ của những người lao động bị áp bức
về một xã hội dân chủ, công bằng, một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi
người, đặc biệt là những người dân lao động, những người nghèo, dễ bị chèn
ép trong xã hội. Các hình thức kinh tế hợp tác đã từng tồn tại trong chế độ xã
hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến dưới hình thức cơng xã nơng thôn
hoặc các tổ chức phường hội. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất hoàn
thành, các phong trào xã hội, các hình thức liên kết của thợ thủ cơng dưới
hình thức “hợp tác xã công nhân” liên tiếp diễn ra nhằm tương trợ giúp đỡ lẫn
nhau khắc phục các khó khăn trong cuộc sống, phát huy sức mạnh tập thể,
nâng cao tiếng nói và vị thế xã hội chống lại sự bóc lột, chèn ép của giới chủ.
Từ đó đến nay, hợp tác xã với những nguyên tắc tự nguyện, tự chịu trách
nhiệm, dân chủ, bình đẳng, cơng bằng và đồn kết, với những giá trị đầy tính
nhân văn, trung thực, cởi mở, trách nhiệm với xã hội và quan tâm đến mọi
người, đến cộng đồng đã phát triển, lan rộng như một công cụ hữu hiệu để
người dân lao động thực hiện mong muốn và ước mơ của mình. Sự tồn tại và
phát triển của hợp tác xã là một tất yếu kinh tế, là thể hiện tính nhân văn của
con người.
Ở Việt Nam, trong suốt chặng đường xây dựng đất nước, hợp tác xã luôn
được Đảng, Nhà nước ta quan tâm phát triển trong các giai đoạn cách mạng.
Từ 1975 đến 1985, mặc dù số lượng các hợp tác xã ngày càng tăng lên:
Cả nước đã có trên 79.000 hợp tác xã, trong các lĩnh vực ngành nghề khác
nhau, tập hợp trên 20 triệu xã viên và hộ gia đình tham gia. Đồng thời, có gần
50.000 tập đồn sản xuất trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp



2
và dịch vụ ở cả hai miền Nam Bắc. Thế nhưng, do nhiều sai lầm chủ quan
trong chỉ đạo và thực hiện, mơ hình hợp tác xã ngày càng bộc lộ nhiều hạn
chế, triệt tiêu động lực phát triển sản xuất.
Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương phát triển kinh tế tập thể của
Đảng và Nhà nước, những năm qua từ khi Luật hợp tác xã ra đời năm 1996 và
được sửa đổi, bổ sung năm 2003 nhằm thích ứng kịp thời với môi trường sản
xuất - kinh doanh mới, và hỗ trợ kinh tế hộ phát triển. Đặc biệt trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng
các hợp tác xã kiểu mới càng có ý nghĩa quan trọng. Kinh tế tập thể cùng với
kinh tế Nhà nước dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Sau khi có
Nghị quyết số 13NQ/TW Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) về "Tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, đến nay các hợp tác xã đã
có những thay đổi quan trọng và có bước phát triển mới. Đến tháng 2/2009,
tồn quốc có 46 liên hiệp hợp tác xã, 18.180 hợp tác xã và trên 320 ngàn tổ
hợp tác làm nhiệm vụ hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế cho trên 12,5 triệu xã viên và
3,5 triệu thành viên tổ hợp tác là hộ gia đình, tiểu chủ, doanh nghiệp nhỏ v.v.."
(Báo Nhân dân, ngày 9-3-2009).
Những năm qua, các hợp tác xã ở Gia Lai không ngừng được củng cố
và ngày càng khẳng định vai trị quan trọng của mình, nhất là trong nơng
nghiệp, nông thôn, không những thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà còn
phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm, đóng góp tích cực vào xây dựng và
phát triển kết cấu hạ tầng, tạo được sự phát triển bền vững, cán bộ xã viên gắn
bó với hợp tác xã khơng chỉ đơn thuần về lợi ích kinh tế mà cịn thể hiện tính
xã hội tốt đẹp, sâu sắc. Có thể khẳng định rằng, sự tồn tại và phát triển của
hợp tác xã là một tất yếu khách quan trong điều kiện cơ chế thị trường, khi
kinh tế hộ thực sự trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Bên cạnh những thành công
bước đầu của hợp tác xã, quá trình phát triển các hợp tác xã trên địa bàn của
tỉnh Gia Lai vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm như: Kinh tế hộ nông dân



3
Gia Lai hầu hết là nhỏ bé, thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất, thiếu hiểu biết về
kỹ thuật canh tác và nhiều khâu của quá trình sản xuất - hộ nông dân không tự
làm được, năng lực nội sinh, địa vị và quyền lợi của xã viên và người lao
động; vị thế kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã trong nền kinh tế
nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa còn thấp. Năng lực nội tại của
hợp tác xã về vốn liếng, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực yếu; trình độ
tổ chức, năng lực quản lý trong các hợp tác xã yếu kém; vấn đề nhận thức,
mặc cảm về mô hình hợp tác xã cũ, tâm lý ỷ lại trơng chờ vào sự giúp đỡ của
Nhà nước; sự hiểu biết về hợp tác xã kiểu mới còn hạn chế...
Từ thực tế đó, để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh, trong đó kinh tế tập thể ngày càng giữ vị trí quan trọng trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, xố đói giảm nghèo, góp
phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi cơng nghiệp hố - hiện đại hố
nơng nghiệp, nơng thơn. Vì vậy vấn đề cơ bản và cấp bách đặt ra đối với Gia
Lai là phải đánh giá đúng tình hình và kết quả hoạt động của các hợp tác xã,
rút ra những kinh nghiệm và đề ra những giải pháp tiếp tục đổi mới và nâng
cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã trong thời gian đến.
Đó là lý do tơi chọn “Hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Gia Lai” làm đề tài
luận văn Thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị, nhằm góp phần giải quyết
một vấn đề cấp bách và cơ bản trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh Gia Lai.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhìn một cách khái quát, về các thành phần kinh tế, kinh tế tập thể nói
chung và hợp tác xã trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta đã được nhiều
nhà lãnh đạo, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm ở những góc độ,
phạm vi khác nhau và đã có nhiều bài viết được đăng trên một số báo, tạp chí;
cùng với một số cơng trình khoa học, đề tài tiến sĩ, thạc sĩ viết về kinh tế tập
thể, kinh tế hợp tác và hợp tác xã, cụ thể như sau:



4
- Nguyễn Văn Bính, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng (2001): “Kinh tế
hợp tác - hợp tác xã ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển”, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
- Hồ Văn Vĩnh (2004): ‘‘Cơ sở lý luận và thực tiễn của mơ hình phát
triển hợp tác xã nông nghiệp ở nước ta’’. Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Vũ Văn Phúc (2004) “Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển hợp
tác xã nông nghiệp ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI ’’.
- Phạm Thị Cầm, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003) “Kinh tế hợp
tác trong nông nghiệp nước ta hiện nay” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Hà (2000) “Kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
- Trần Minh Tâm (2000) về “Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành
Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ Kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Lưu Văn Tiền (2000) về “Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp
kiểu mới ở tỉnh Vĩnh Long”, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- PGS.TS. Vũ Văn Phúc, “Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nước ta”;
Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2002.
- Đặng Hùng Anh “Phát triển kinh tế hợp tác nông nghiệp trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Huy Oánh (2005) “Tìm hiểu quan điểm của Mác-Ănghen,
Lênin về sở hữu tập thể và kinh tế tập thể”, Thông tin những vấn đề kinh tế
chính trị học, số 05, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Kỷ yếu khoa học đề tài cấp bộ năm 2003 - 2004 “Mơ hình phát triển

hợp tác xã nơng nghiệp trong tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng


5
nghiệp, nông thôn hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, Khoa Quản lý kinh tế, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- “Hợp tác hóa nơng nghiệp Việt Nam - lịch sử và triển vọng” của PTS
Chử Văn Lâm, PTS Trần Quốc Toản và các tác giả, NXB Sự thật, H, 1933.
- “Lý luận về hợp tác hóa nơng nghiệp - kinh nghiệm lịch sử và sự vận
dụng ở nước ta”, do Giáo sư PTS Lưu Văn Sùng chủ biên. Nxb Sự thật, H, 1990.
- “Vài nét về hợp tác hóa nơng nghiệp ở các nước trên thế giới”, của
Nguyễn Văn Điền, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 178, H, 1990.
- “Định hướng mơ hình hợp tác xã sản xuất trong cơ chế quản lý mới”,
Tạp chí Nơng nghiệp, cơng nghiệp - thực phẩm số 8, 1990 của Võ Ngọc Hồi.
- “Hợp tác hóa nơng nghiệp - kinh nghiệm nước ngồi”, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, H, 1989.
- “Báo cáo phân tích thống kê 30 hợp tác xã nông nghiệp”. Tổng cục
Thống kê 1989.
- "Kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam", năm 2001
của tiến sĩ Nguyễn Thanh Hà.
Các cơng trình đã đề cập đến vấn đề hợp tác xã với những nội dung chủ
yếu như:
- Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của kinh tế hợp tác và hợp tác xã.
- Đánh giá thực trạng hoạt động của kinh tế hợp tác và hợp tác xã trước
và sau đổi mới nói chung và sau khi thực hiện chuyển đổi hợp tác xã nói
riêng, đánh giá việc thực hiện luật hợp tác xã của một số địa phương và trên
phạm vi cả nước.
- Phân tích những đặc trưng của mơ hình hợp tác xã kiểu mới, trình bày
những kinh nghiệm hoạt động và những kiến nghị, giải pháp, chính sách cụ
thể về phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt hợp tác xã.

- Dự báo sự vận động, phát triển hợp tác xã trong hai thập niên đầu thế
kỷ XXI.


6
Nhìn chung, các cơng trình kể trên đã nghiên cứu nhiều khía cạnh của
hợp tác xã; trong đó, các cơng trình nghiên cứu trước năm 2001 chủ yếu đi
vào làm rõ những yếu kém của mơ hình hợp tác xã kiểu cũ, luận giải sự cần
thiết, thực trạng chuyển đổi mơ hình hợp tác xã theo Luật hợp tác xã (1996);
các cơng trình nghiên cứu sau năm 2001, nghiêng về nghiên cứu sự phát triển
của kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX.
Tuy có nhiều cơng trình nghiên cứu về kinh tế hợp tác, hợp tác xã
nhưng chưa có một cơng trình nào nghiên cứu “hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Gia
Lai”. Thực hiện đề tài này, tôi muốn kế thừa những thành quả nghiên cứu từ
những đề tài có liên quan trên, cùng với quá trình hoạt động thực tế của bản thân
trên địa bàn, tôi làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra đối với các
hợp tác xã ở Gia Lai để đề xuất những giải pháp phát triển trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Kế thừa và bổ sung các kết quả nghiên cứu về hợp tác xã để làm cơ sở
cho việc đánh giá tình hình phát triển của các hợp tác xã ở tỉnh Gia Lai, nhằm
rút ra định hướng phát triển và đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế
HTX ở tỉnh từ nay đến năm 2015.
* Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về hợp tác xã và nghiên cứu thực
tiễn phát triển hợp tác xã ở một số nước, địa phương để rút ra những bài học
cho sự phát triển hợp tác xã ở tỉnh Gia Lai.
- Đánh giá thực trạng phát triển hợp tác xã ở tỉnh Gia Lai trong những
năm qua (2005 - 2009)
- Xác định những mục tiêu và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm

phát triển các hợp tác xã ở tỉnh Gia Lai đến năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu Luận văn lấy đối tượng là các quan hệ kinh tế
trong việc xây dựng và phát triển các hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Gia Lai.


7
- Phạm vi nghiên cứu là các hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Gia Lai từ năm
2005 đến 2009. Tập trung chủ yếu nghiên cứu các hợp tác xã trong lĩnh vực
nông nghiệp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được hình thành trên cơ sở nhận thức những quan điểm lý
luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm cùng những tổng kết kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước, tham
khảo và kế thừa có chọn lọc những ý kiến của các nhà kinh tế học và các hoạt
động kinh tế thực tiễn qua các bài viết trên các báo và tạp chí, các cơng trình
nghiên cứu khoa học, các luận án tiến sỹ, thạc sỹ có nội dung gần gũi với đề
tài, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của một số tỉnh miền núi và những
nước có điều kiện tương tự về phát triển các hợp tác xã.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu kinh tế chính trị Mác
Lênin, lý luận gắn liền với thực tiễn, kết hợp lơgíc với lịch sử và đặc biệt coi
trọng việc phân tích và tổng hợp để rút ra những kết luận cần thiết.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu về thực trạng tình hình hoạt động của các hợp
tác xã trên địa bàn tỉnh Gia Lai, đánh giá những kết quả đã đạt được, những hạn
chế, yếu kém. Bước đầu đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm góp
phần phát triển các hợp tác xã đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh
trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn.
Qua nghiên cứu, phân tích thực trạng tình hình, đề xuất giải pháp cơ
bản nhằm phát triển các hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Gia Lai, luận văn có thể

làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, hoạch định chính sách, chỉ đạo thực
tiễn góp phần thúc đẩy q trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đồng thời
có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong công tác giảng dạy ở
Trường Chính trị tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 11 tiết.


8
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỢP TÁC XÃ
1.1. CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐƯỜNG
LỐI CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA VỀ HỢP TÁC XÃ

1.1.1. Quan niệm của C.Mác - Ph.Ăngghen về hợp tác xã
Lịch sử phát triển của xã hội lồi người chính là lịch sử của sự phát
triển LLSX, đi với nó là một QHSX phù hợp, là lịch sử của sự phát triển phân
công và hiệp tác lao động xã hội. Phân công và hiệp tác lao động là một tất
yếu trong các công xã nguyên thủy. Sự hợp tác giữa người và người trong thời
kỳ này khơng chỉ vì u cầu của sản xuất mà cịn cả yêu cầu của cuộc sống để
nương tựa nhau, hỗ trợ nhau và bảo vệ cho nhau.
Trong các chế độ xã hội dựa trên sở hữu tư nhân về TLSX như xã hội
chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến và tư bản chủ nghĩa, phân công và hiệp
tác lao động được thực hiện một cách tự giác trong từng đơn vị sản xuất,
nhưng trên quy mơ tồn xã hội thì mang tính tự phát.
Nghiên cứu q trình phát triển của CNTB, Các Mác đã nghiên cứu các
hình thức phân công và hiệp tác lao động cá biệt gắn với phân công và hiệp tác
lao động xã hội thông qua cơ chế thị trường. C.Mác cho rằng hình thức hiệp

tác (giản đơn) là điểm xuất phát lịch sử và lơgích của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa [24, tr.468]. Sự khởi đầu này bắt nguồn từ sự mở rộng các
xưởng sản xuất của những người thợ cả làm nghề thủ cơng có tính chất phường
hội thành các cơng xưởng. Trong các cơng xưởng đó, sự hiệp tác được hiểu là
sự hoạt động của một số công nhân làm việc trong cùng một thời gian, trên
cùng một không gian (hoặc trên cùng một địa điểm lao động) để sản xuất ra
cùng một loại hàng hóa dưới sự điều khiển của một nhà tư bản [24, tr.468].
Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn hiệp tác đơn giản, khái niệm hiệp tác đã
được mở rộng hơn, đó là hình thức lao động trong đó nhiều người làm việc theo


9
kế hoạch bên cạnh nhau và cùng với nhau, trong cùng một quá trình sản xuất
hay trong những quá trình khác nhau nhưng gắn liền với nhau [24, tr.478].
Theo tiến trình phát triển của lịch sử, LLSX khơng ngừng phát triển và
ngày càng nâng cao thì tất yếu sẽ xuất hiện các QHSX và hình thức tổ chức
sản xuất tương ứng. Chuyển sang giai đoạn công trường thủ công tư bản chủ
nghĩa, tuy cơ sở kỹ thuật vẫn dựa trên công cụ và lao động thủ công nhưng do
qui mô sản xuất tăng lên nhờ sự hiệp tác của nhiều ngành nghề khác nhau, tất
yếu xuất hiện các hình thức phân cơng và hiệp tác lao động với trình độ và qui
mô lớn hơn mà C.Mác đã khái quát thành ba loại: phân công lao động chung,
phân công lao động đặc thù, phân công lao động cá biệt, tức là sự hiệp tác
diễn ra trên ba phạm vi: xã hội, trong từng ngành và trong từng công xưởng,
và như vậy sự trao đổi hàng hóa, phát triển thị trường trở thành cơ sở và động
lực của sự hiệp tác trên phạm vi toàn xã hội, thúc đẩy những người sản xuất
hàng hóa khơng chỉ hiệp tác mà cịn cạnh tranh với nhau. C.Mác viết: "Sự
phân công lao động trong xã hội đặt những người sản xuất hàng hóa độc lập
đối diện với nhau, những người này không thừa nhận một uy lực nào khác
ngoài uy lực của cạnh tranh" [24, tr.517]. Và cũng chính từ sự hiệp tác trên
qui mơ rộng lớn dựa trên nền sản xuất hàng hóa đi đôi với những phát kiến về

khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
chuyển sang giai đoạn đại cơng nghiệp cơ khí dựa trên cơ sở phân công lao
động và công cụ máy móc. Về phần mình, đại cơng nghiệp cơ khí lại tạo cho
sự hiệp tác trở thành một tất yếu kỹ thuật khơng thể nào cưỡng chế nổi, khi
C.Mác nói là q trình sản xuất đó khơng liên quan gì đến bàn tay của con
người mà là dựa trên các nguyên lý của kỹ thuật học. "Nền đại công nghiệp
không ngừng đảo lộn những cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất, và cùng với
chúng là những chức năng của công nhân và những sự kết hợp xã hội của q
trình lao động" [24, tr.692]. Chính trong giai đoạn đại cơng nghiệp cơ khí,
khoa học và kỹ thuật khơng chỉ là cơ sở của sản xuất mà còn là điều kiện của
hiệp tác và là đối tượng hiệp tác của sản xuất và kinh tế.


10
Như vậy, cùng với sự phát triển không ngừng của LLSX mà quy mơ và
trình độ của sự hiệp tác cũng tăng lên, đi liền với nó là hình thức tổ chức sản
xuất cũng trở nên hết sức đa dạng, đồng thời cũng chính từ qui mơ, trình độ và
hình thức hiệp tác không ngừng tăng lên lại thúc đẩy phát triển LLSX. Mối quan
hệ tác động biện chứng đó diễn ra trong lịch sử nhân loại hàng trăm năm nay,
đưa loài người bước sang nền văn minh mới với sự hiệp tác trên phạm vi toàn
thế giới. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết:
Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới... thị trường thế
giới thúc đẩy cho thương nghiệp, hàng hải, những phương tiện giao
thơng tiến bộ phát triển mau chóng lạ thường, sự phát triển này lại
thúc đẩy công nghiệp, thương nghiệp, hàng hải càng phát triển làm
tăng tư bản của giai cấp tư sản lên [23, tr.598].
Rõ ràng, hiệp tác là một q trình khách quan, khơng ngừng phát triển,
cũng giống như khoa học là một lực lượng tự nhiên, khơng tốn kém gì đối với
nhà tư bản mà chỉ mang lại lợi ích mà thơi. Trong tác phẩm của mình, C.Mác
đã chỉ ra những lợi ích của sự hiệp tác giản đơn như sau:

- Sử dụng chung các tư liệu lao động
- Tạo ra sức mạnh gấp bội để làm những công việc mà cá nhân riêng rẽ
không thể làm nổi.
- Tạo ra khơng khí thi đua tăng năng suất lao động.
- Tạo cho đối tượng lao động được chuyển vận nhanh chóng.
- Phân cơng chun mơn hóa nên có thể rút ngắn thời gian tạo ra sản phẩm.
- Hồn thành cơng việc khẩn cấp trong một thời gian nhất định.
- Mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi không gian của lao động một cách phù hợp.
- Tạo ra sức sản xuất của lao động xã hội, qua đó tạo ra giá trị thặng dư
cho nhà tư bản.
Ở trình độ cao hơn, hiệp tác có phân cơng sẽ tạo ra điều kiện để chun
mơn hóa cơng cụ và lao động, thúc đẩy sản xuất các máy móc ngày càng tinh
xảo, đồng thời thúc đẩy thị trường phát triển.


11
Tuy nhiên, để tận dụng và phát huy các lợi thế của hiệp tác cần phải có
các điều kiện, trong đó C.Mác đã chỉ ra các điều kiện tiên quyết sau đây:
Thứ nhất, phải có một lực lượng tư bản đủ để mua sức lao động và tư
liệu lao động. C.Mác viết:
Con số những công nhân hiệp tác, hay qui mô sự hiệp tác, phụ
thuộc trước hết vào đại lượng của tư bản mà một nhà tư bản riêng rẽ
có thể chi ra trong việc mua sức lao động... sự tích tụ một khối
lượng lớn tư liệu sản xuất vào trong tay những nhà tư bản riêng rẽ là
điều kiện vật chất cho sự hiệp tác của những công nhân làm thuê và
qui mô hiệp tác hoặc qui mô sản xuất phụ thuộc vào qui mơ của sự
tích tụ đó [24,tr.479].
Thứ hai, phải có sự chỉ huy, quản lý với trình độ có thể đảm bảo cho q
trình sản xuất luôn suôn sẻ và đạt hiệu quả cao, và quản lý trở thành một tất yếu
của lao động hiệp tác. C.Mác viết: "Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều

khiển lấy mình, cịn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng" [24, tr.480].
Thứ ba, cần phải có những người lao động tự do, bán sức lao động cho
nhà tư bản. C.Mác viết: "Hình thức tư bản của sự hiệp tác thì ngay từ đầu đã
giả định phải có người lao động làm thuê tự do, bán sức lao động của mình
cho nhà tư bản" [24, tr.485].
Thứ tư, đảm bảo lợi ích thỏa đáng là một điều kiện của sự hiệp tác. Nhà
tư bản phát triển các hình thức hiệp tác từ thấp đến cao là nhằm thu được giá
trị thặng dư cao nhất, còn người lao động làm thuê tiến hành hiệp tác lao động
trước hết là vì lợi ích của bản thân và qua đó đem lại lợi ích cho nhà tư bản.
C.Mác viết: "Động cơ thúc đẩy và mục đích quyết định của q trình sản xuất
tư bản chủ nghĩa là sự tăng lên càng nhiều càng tốt của tư bản, tức là sự sản
xuất ra giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt" [24, tr.480].
Qua nghiên cứu lý luận "hiệp tác" trong học thuyết của C.Mác có thể
rút ra một số vấn đề sau đây:


12
Hiệp tác là một hiện tượng khách quan của xã hội loài người và đã xuất
hiện rất sớm kể từ khởi đầu nền văn minh của lồi người và khơng ngừng phát
triển theo sự phát triển của LLSX, tuy nhiên mỗi chế độ xã hội khác nhau có
nội dung và hình thức hiệp tác khác nhau. Hiệp tác tư bản chủ nghĩa là sự
hiệp tác của những người lao động làm thuê tự do với nhà tư bản. Người lao
động bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để chịu sự chỉ huy điều hành
của nhà tư bản nhằm sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Hiệp tác
XHCN theo C.Mác là sự hiệp tác của những người sản xuất tự do và bình
đẳng liên hiệp lại để tiến hành lao động xã hội theo một kế hoạch chung và
hợp lý [21, tr.86].
Hiệp tác là một tất yếu do q trình phân cơng lao động đặc thù và
phân công lao động xã hội quy định, do đó có các phạm vi hiệp tác khác nhau:
cá biệt, đặc thù và trên tồn xã hội và cịn diễn ra trên phạm vi thế giới với các

hình thức hết sức đa dạng và phong phú.
Hiệp tác mang lại nhiều lợi ích có thể sánh như khoa học là lực lượng
tự nhiên mà nhà tư bản khai thác nó không tốn một đồng xu và đã đưa đến sự
phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, việc khai thác lợi thế của sự hiệp
tác trong xã hội có giai cấp đối kháng bao giờ cũng mang tính chất giai cấp.
1.1.2. Quan niệm của Lênin về hợp tác xã
Phát triển lý luận về hợp tác của C.Mác, Lênin đã luận giải sự cần thiết,
các tiền đề của kinh tế hợp tác và các nguyên tắc hợp tác dưới CNXH. Theo
Lênin, đi lên CNXH có nghĩa là tiến tới chế độ xã hội văn minh cần cả một
thời kỳ cải biến cách mạng có tính lịch sử nhằm tạo nên tiền đề cho một chế
độ kinh tế mới - chế độ hợp tác kinh tế XHCN. Và khi tất cả những người lao
động đã được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột và tự nguyện hợp tác lao
động với nhau thì sẽ có CNXH. Theo V.I. Lênin, HTX có ý nghĩa đặc biệt, nó
là bước quá độ sang một chế độ mới bằng con đường đơn giản nhất dễ tiếp
thu nhất đối với nông dân.


13
Lênin viết: "Khi nhân dân lao động đã vào hợp tác xã với mức độ nhất
định, thì chủ nghĩa xã hội tự nó sẽ được thực hiện". Lênin cũng nêu lên các
tiền đề của chế độ hợp tác dưới CNXH bao gồm:
- Tiền đề chính trị, có tính tiên quyết, đó là chính quyền thuộc về nhân
dân và do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo;
- Tiền đề kinh tế mà cốt lõi là quan hệ kinh tế giữa các HTX với kinh tế
nhà nước để thúc đẩy q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
- Tiền đề văn hóa, xã hội tạo cho chế độ hợp tác tính nhân bản, trình độ
văn minh trong lao động hợp tác và quản lý kinh tế hợp tác.
Lênin rất quan tâm đến việc Nhà nước giúp đỡ tài chính cho HTX.
“Một chế độ xã hội chỉ nảy sinh nếu được một giai cấp nhất định nào đó giúp
đỡ về tài chính... Trong lúc này, chế độ xã hội mà chúng ta ủng hộ hơn hết là

chế độ HTX....”
Phải cho chế độ HTX hưởng một số đặc quyền kinh tế, tài chính, ngân
hàng; sự ủng hộ mà nhà nước XHCN của chúng ta mang lại cho nguyên tắc tổ
chức mới của dân cư phải là như vậy” [21].
Lênin đã nêu lên các nguyên tắc và hình thức tổ chức kinh tế hợp tác.
Nguyên tắc đầu tiên của hợp tác là tự nguyện, không cưỡng ép nông dân vào
HTX bằng bất cứ hình thức nào, ngồi ra phải tơn trọng ngun tắc cùng có
lợi, quản lý dân chủ và có sự giúp đỡ của nhà nước. Bước đi của hợp tác là
phải tiến hành từng bước, phù hợp với quá trình phát triển KT-XH, tức là theo
qui luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Trong chính
sách kinh tế mới (NEP) Lênin nêu ra bước đi của hợp tác là từ thương mại rồi
dần đi vào sản xuất. Lênin nhấn mạnh tính thiết thực, cụ thể, phù hợp với từng
ngành, từng lĩnh vực SXKD, phù hợp với phong tục, tập quán và dân trí của
từng vùng.
1.1.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về hợp tác xã
Hồ Chí Minh, trong tác phẩm "Đường cách mệnh" viết năm 1927 đã để
một chuyên mục viết về HTX, trong đó nêu rõ lịch sử phát triển HTX của thế


14
giới mà đầu tiên là HTX dệt vải ở Anh năm 1761 và lan rộng ra các nước
khác như Nga, Đức, Đan mạch, Nhật bản. Lý luận về hợp tác theo Hồ Chí
Minh thật là đơn giản khi Người nêu ra các câu tục ngữ Việt Nam: "nhóm lại
thành giàu, chia nhau thành khó", "một cây làm chẳng nên non, nhiều cây
nhóm lại thành hịn núi cao". Hình thức hợp tác có 4 loại, hay 4 cách, đó là:
HTX tiền bạc; HTX mua; HTX bán và HTX sinh sản nhằm mục đích giúp
nhau, nhờ lẫn nhau, "làm sao cho ai trồng cây thì được ăn trái, ai muốn ăn trái
thì giùm vào trồng cây". Đặc biệt Hồ Chí Minh nhấn mạnh cách tổ chức HTX
đảm bảo tính đa dạng, tuỳ hồn cảnh cụ thể mà lập HTX, khơng rập khn,
nên tạo sự liên kết các HTX với nhau, đảm bảo các thành viên được hưởng lợi

và bình đẳng.
Khi lãnh đạo nhân dân xây dựng CHXH ở miền Bắc Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln quan tâm đến việc xây dựng củng cố HTX “Muốn nâng cao đời sống
là chỉ có một cách là tổ chức nông dân làm ăn tập thể tức là tổ chức nông dân
vào HTXNN... Chúng ta phải củng cố thật tốt các tổ đổi công và các HTX để
tuyên truyền và giáo dục nông dân, làm cho phong trào phát triển vững chắc...”.
Tổ đổi công và HTX phát triển cái nào phải củng cố thật tốt cái ấy.
Cần phải nêu cao tính chất hơn hẳn của HTX, bằng chứng kết quả thiết
thực làm cho thu nhập của xã viên được tăng thêm, làm cho xã viên sau khi
vào HTX thu hoạch nhiều hơn hẳn khi còn ở ngồi. Như thế thì xã viên sẽ
phấn khởi, sẽ gắn bó chặt chẽ với HTX của mình. Đó là phương pháp tun
truyền thuyết phục tốt nhất để khuyến khích nơng dân vào HTX. Phải cần
kiệm xây dựng HTX vì HTX là lực lượng chính ở nơng thơn. Mục đích tổ
chức HTX là để tăng gia sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân, trước
hết là của nông dân. Thế là vừa lợi riêng cho nông dân và lợi chung cho
Nhà nước, hai cái lợi đó đi đơi với nhau. Vì vậy phải củng cố HTX. Về mặt
vật chất phải quản lý cho tốt; về mặt tinh thần, phải giáo dục cho nơng dân
hiểu vì sao phải củng cố HTX.


15
Quan niệm, tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã được thể hiện ở
những điểm sau đây:
Về bản chất HTX là một tổ chức tự nguyện của người dân, hợp nhau
lại để tăng thêm sức mạnh. Là: "Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó"
hay "Một cây làm chẳng nên non, nhiều cây chụm lại nên hòn núi cao".
Về quan hệ trong HTX là dân chủ và cùng có trách nhiệm, đã vào
HTX, trở thành xã viên HTX thì bất kỳ góp nhiều hay góp ít, vào trước hay
vào sau, ai cũng bình đẳng như nhau về trách nhiệm.
Về mục đích HTX trước hết là của những người nghèo, người khó

khăn, yếu thế trong xã hội... hợp nhau lại để cùng tồn tại và phát triển, tương
trợ, giúp đỡ lẫn nhau, mưu lợi chung, chung nhau góp sức cùng có lợi, là hợp
tác với nhau để cùng mạnh lên, vươn lên, chống lại sự áp bức, chống lại tình
trạng khơng bình đẳng về kinh tế, xã hội. Cho nên, HTX khác với hội buôn,
công ty cổ phần ở chỗ hội buôn, công ty cổ phần mưu lợi riêng, lấy mục tiêu
chính là lợi nhuận. HTX đồng thời cũng khác với hội từ thiện, trong đó hội từ
thiện chỉ có tiêu đi mà khơng làm ra, HTX có tiêu đi, có làm ra, chỉ giúp người trong hội, nhưng giúp một cách bình đẳng, mang tính chất cách mạng sâu
sắc, ai cũng được giúp mà ai cũng phải giúp.
Về vai trò của HTX là: con đường đi lên của người dân để vượt qua
khó khăn, đói nghèo, xây dựng cộng đồng văn minh, tương thân, tương ái,
chống lại mọi sự bất công, áp bức về kinh tế - xã hội.
Về nguyên tắc tổ chức HTX phải thật sự dân chủ, tự nguyện. Việc phát
triển HTX phải phù hợp với thực tiễn cuộc sống, không rập khuôn cứng nhắc,
phát triển một cách tuần tự, khơng nóng vội, tiến hành từ thấp đến cao. HTX
là tổ chức thiết thực, bình đẳng và cùng có lợi của những ngời dân, nhưng để
đảm bảo cho sự phát triển HTX phải có sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước. Các HTX cũng phải liên kết với nhau và liên kết với các tổ chức,
loại hình kinh tế - xã hội khác để tạo điều kiện cho sự phát triển.


16
Nói đến bản chất kinh tế và vai trị xã hội của HTX, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã coi HTX có nhiều mục tiêu đồng nhất với mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội, vì ở một nước tiểu nơng, khi tịan bộ nơng dân tham gia HTX cũng có
nghĩa là đi theo con đường đúng đắn để đến ấm no, hạnh phúc. Mục tiêu của
Chủ nghĩa xã hội là cũng làm cho tòan bộ xã hội được ấm no, hạnh phúc.
HTX văn minh là thể hiện một mặt, một mức độ nào đó của các đặc trưng,
bản chất của Chủ nghĩa xã hội. Trong vấn đề này V.I. Lê Nin cũng đã khẳng
định như vậy, "HTX chính là một chủ nghĩa xã hội thu nhỏ".
Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về HTX vẫn cịn ngun

giá trị trong điều kiện hiện nay ở Việt nam, khi Đảng và Nhà nước chủ trương
tiến hành đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần
kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, trong đó có phát triển kinh tế tập thể,
mà HTX là nòng cốt nhằm đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp nơng thơn.
Qua nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về hợp tác cho chúng ta thấy rằng: Những vấn đề lý luận về hợp
tác, kinh tế hợp tác và HTX không quá phức tạp và đều bắt nguồn từ thực tế
cuộc sống. Một xã hội muốn tồn tại phải có sản xuất, hoạt động kinh tế và đều
là một q trình phân cơng và hợp tác lao động hoặc là tự phát, hoặc là tự giác
trên phạm vi xã hội. Bản thân thị trường là lĩnh vực trao đổi, thông qua trao
đổi mà thực hiện sự hiệp tác giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Thị trường
lúc đầu mang tính tự phát và tiến dần và tiến dần tới tự giác khi có sự quản lý
của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức kinh tế như doanh
nghiệp và HTX là những đơn vị phân công và hợp tác lao động một cách tự
giác, tuy nhiên trên quy mô xã hội việc phân công và hiệp tác giữa các chủ thể
trong nền kinh tế được thự hiện theo tín hiệu của thị trường. Cho nên sự hợp
tác thông qua thị trường cũng khơng thể loại trừ tính tự phát, và chính sự phân
công và hợp tác sản xuất và trao đổi trên thị trường một cách tự phát, mang


17
tính tự nhiên cũng là một ưu thế, một vẻ đẹp của thị trường. Ở tầm vĩ mô, sự
phân công và hợp tác lao động, hợp tác kinh tế và tổ chức các hình thức hợp
tác là do yêu cầu phát triển sản xuất. Trong sản xuất nông nghiệp nước ta từ
xa xưa đó có sự hợp tác nào đó như đổi công, vần công, hợp tác trong chăn trả
trâu bị, trong tưới tiêu nước... do các hộ nơng dân tự liên kết với nhau. Sự
hình thành các hình thức tổ chức hợp tác đó mang tính tự nhiên tự giác của
từng người nơng dân là phù hợp với tính tự phát của lực lượng sản xuất - của
các quy luật khách quan. Từ khi có Đảng lãnh đạo thì việc tổ chức các đơn vị

hợp tác mới thực sự là tự giác, có đường lối hợp tác hóa và sự chỉ đạo thành
lập các hình thức hợp tác từ thấp đến cao và tác động vào ý thức tự giác của
nơng dân đi vào con đường hợp tác hóa. Tất nhiên khơng phải mọi sự chủ
động, có tổ chức tiến hành một cơng việc nào đó dưới một sự chỉ đạo chung
nào đó đều được coi là một sự tự giác của người lao động mà phải thấy rằng
tự giác phải là sự thể hiện tính chủ quan trên cơ sở nhận thức và vận dụng
đúng các qui luật khách quan. Tự giác đó dược gọi là tự giác hoạt động theo
các quy luật khách quan. Cái gọi là "tự giác" mà không phù hợp với qui luật
khách quan thì vơ tình hay hữu ý cũng là một sự chủ quan duy ý chí, cũng
nguy hại hơn cả tính tự phát theo sự vận động tự nhiên của sự vật. Hợp tác là
một nhu cầu khách quan của con người cả trong sản xuất và đời sống, bắt
nguồn từ nhu cầu thực tiễn của con người theo qui luật QHSX phù hợp với
tính chất và trình độ của LLSX, là một qui luật phổ biến đối với mọi chế độ
xã hội khác nhau. Tính tự giác và chủ động trong sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước là tôn trọng các quy luật khách quan để không ngừng
tác động để thúc đẩy phát triển LLSX và tùy theo trình độ của LLSX và nhu
cầu của sản xuất mà chủ động xây dựng QHSX phù hợp. Quá trình lãnh đạo
xây dựng QHSX trong nơng nghiệp nước ta đã trải qua nửa thế kỷ với các
bước thăng trầm trong tổ chức thực tiễn, cũng là quá trình nhận thức cơ sở lý
luận về HTX ngày càng tự giác hơn.


18
1.1.4. Một số quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới quản lý
hợp tác xã
1.1.4.1. Quan điểm của Đảng về kinh tế hợp tác xã (từ Đại hội VI
đến nay)
Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề xướng và Nghị quyết 10-NQ/TW
của Bộ Chính trị (khố VI) đ· khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, trong đó kinh tế hợp tác xã được khẳng định cùng với kinh

tế nhà nước dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; đồng thời thừa
nhận sự tồn tại của kinh tế hợp tác xã phải đi đôi với sự phát triển đa dạng của
các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao, hợp tác xã là bộ phận nòng cốt
của kinh tế hợp tác. Mọi tổ chức sản xuất - kinh doanh được quản lý theo
nguyên tắc dân chủ đều là hợp tác xã. Nghị quyết Hội nghị TW 5 (khoá VII)
tháng 6/1993 làm rõ thêm bản chất của hợp tác xã trên cơ sở phát huy tính tự
chủ của kinh tế hộ, coi kinh tế hộ là bộ phận khăng khít của kinh tế hợp tác
xã. Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khoá VII) tiếp tục khẳng định và phát
triển quan điểm của Đảng coi kinh tế hợp tác với nhiều hình thức phong phú
và đa dạng từ thấp đến cao, phù hợp với nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi,
quản lý dân chủ, kết hợp đựơc sức mạnh của hộ xã viên, làm cho kinh tế hợp
tác trở thành một thành phần kinh tế vững mạnh, cùng với kinh tế quốc doanh
trở thành xương sống của nền kinh tế quốc dân.
Đại hội VIII quan điểm phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp
tác xã; kinh tế nh nc giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nh nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Tổng kết
thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát triển mạnh hơn
các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức
sản xuất kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú trọng


19
phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã cổ phần”.
Quan điểm của Đảng ®ược cụ thể hố trong Nghị quyết 13-NQ/TW
tại Hội nghị BCH TW 5 (khoá IX):
Thứ nhất, kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã thời gian tới phải
phát triển đa dạng về hình thức, không giới hạn quy mô lĩnh vực và địa bàn

bao gồm nhiều hình thức sở hữu, với nhiều trình độ khác nhau, từ tổ hợp tác
đến hợp tác xã và lên đến trình độ cao là liên hiệp hợp tác xã.
- Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là
hợp tác xã.
- Sở hữu trong kinh tế tập thể dựa trên sở hữu của các thành phần sở
hữu tập thể, liên kết rộng rãi với các thành phần kinh tế khác, không giới hạn
về quy mô, lĩnh vực và địa bàn.
- Phân phối vừa theo lao động, vừa theo vốn góp và mức độ tham gia
dịch vụ.
- Nguyên tắc hoạt động: Tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
- Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả thể nhân và pháp nhân... cùng
góp vốn và góp sức trên cơ sở tơn trọng các ngun tắc tự nguyện, bình đẳng,
cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Thứ hai, kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã phải là một tổ chức
kinh tế kết hợp hài hồ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội của các thành viên
và lợi ích tập thể:
- Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các
thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành
viên, góp phần xố đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên và
phát triển cộng đồng.
- Do vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể phải dựa trên cơ sở quan
điểm tồn diện, cả kinh tế- chính trị- xã hội, cả hiệu quả của tập thể và hiệu
quả của các thành viên.


20
Thứ ba, khẳng định sự cần thiết phải: Tiếp tục phát triển rộng rãi các
hình thức kinh tế tập thể trong tất cả các ngành, lĩnh vực và địa bàn là cần
thiết, trong đó trọng tâm là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn:
- Phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn phải đảm bảo

quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại.
- Kinh tế tập thể đóng vai trị hỗ trợ, nâng đỡ kinh tế hộ, trang trại phát
triển, làm cầu nối để tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước cho kinh tÕ hé,
kinh tÕ trang tr¹i.
- Khẳng định kinh tế tập thể tuyệt nhiên không thay thế hoặc thủ tiêu
kinh tế hộ và kinh tế trang trại.
- Gắn phát triển kinh tế tập thể với q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố nơng nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
- Thúc đẩy kinh tế tập thể không ngừng phát triển sức sản xuất, vươn
lên cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và
phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân trong phát triển kinh tế tập thể:
- Nhà nước ban hµnh các chính sách trợ giúp kinh tế tập thể trong
quá trình xây dựng và phát triển, thông qua việc giúp đỡ đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển, giải quyết nợ tồn đọng trước đây,
khuyến khích việc tích luỹ và sử dụng có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã.
- Phát huy vai trò của Liên minh HTX Việt Nam, Mặt trận tổ quốc và
các đồn thể nhân dân (Hội Nơng dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Cơng đồn, Hội cựu chiến binh...) trong việc
tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia kinh tế tập thể, thực hiện tốt quy
chế dân chủ cơ sở, đảm bảo cơng tác kiểm tra, kiểm sốt của các thành viên,
ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí.


21
Thứ năm, Nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ phương châm phát triển kinh
tế tập thể trong thời gian tới:
- Phát triển hợp tác xã phải theo phương ch©m tích cực, chủ động,
nhưng phải vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đa
dạng về mơ hình, vì hiệu quả thiết thực, trước hết là vì sự phát triển của sức

sản xuất, triệt để tơn trọng ngun tắc tự nguyện, nhất quyết khơng nóng vội,
chủ quan duy ý chí, áp đặt.
- Nhưng cũng yêu cầu các cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp cần
khắc phục sự buông lỏng lãnh đạo, bị động ngồi chờ, để mặc sự phát triển tự
phát của nền kinh tế, mà chậm trễ trong việc nắm bắt và đáp ứng những đòi
hỏi của nhân dân về phát triển kinh tế tập thể.
Nghị quyết TW lần này đã đặt yêu cầu phải xác lập mơi trường thĨ
chế và tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh tế hợp tác, hợp tác xã phát triển, tập
trung vào một số việc sau đây:
Đối với môi trường thể chế, tập trung vào một số vấn đề sau:
- Sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật hiện hành về những vấn
đề liên quan đến kinh tế tập thể, bảo đảm tính nhất quán giữa các luật như:
Luật Đất đai, Luật Ngân hàng, Luật các tổ chức tín dụng, các Luật về thuế, Bộ
Luật Dân sự về Bảo hiểm xã hội, Pháp lệnh Cán bộ công chức ..., tạo điều
kiện để luật HTX được đi nhanh vào cuộc sống theo hướng:
+ Giảm tối đa thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh.
+ Thành viên HTX bao gồm cả thể nhân và pháp nhân; cán bộ, công
chức được tham gia HTX với tư cách là xã viên.
+ Phân định rõ chức năng nhiệm vụ quản lý của Ban quản trị và chức
năng điều hành của chủ nhiệm.
+ Chủ nhiệm có thể là xã viên hoặc người ngoài hợp tác xã do Ban
quản trị thuê.


22
+ Hợp tác xã tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong lựa chọn ngành, nghề
kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu, đa dạng hoá lĩnh vực hoạt động phù hợp với
nhu cầu thị trường.
- Ban hành đồng bộ, kịp thời các văn bản dưới luật, sửa đổi bổ sung
Điều lệ mẫu phù hợp với đặc thù của các loại hình hợp tác xã để dễ vận dụng.

- Hướng dẫn về tổ chức, hoạt động đối với tổ hợp tác theo Bộ luật Dân sự.
Tạo lập môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh tế hợp tác và
hợp tác xã phát triển bằng việc
- Tăng cường tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã và các mơ hình làm
ăn có hiệu quả.
- Biểu dương, khen thưởng những cá nhân và tập thể có thành tích và
đóng góp cho kinh tế hợp tác và hợp tác xã.
- Đưa nội dung phát triển kinh tế hợp tác v hp tỏc xó vo ging dy
trong cỏc trng đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp
và dạy nghề.
1.1.4.2. Lut pháp và chính sách về Hợp tác xã
Trước thời kỳ đổi mới, các chính sách phát triển kinh tế hợp tác, HTX
của Đảng và Nhà nước được thiết kế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao
cấp; quan hệ giữa Nhà nước-HTX- xã viên không được phân chia hợp lý, đặc
biệt lợi ích xã viên và người lao động trong HTX ít được chú trọng.
Giai đoạn từ thời điểm khởi đầu cơng cuộc đổi mới đến trước khi có
Luật HTX 1996, xu hướng chính sách lại coi trọng khuyến khích và tạo điều
kiện tối đa cho lợi ích cá nhân, mở rộng quyền tự chủ cho xã viên, có phần coi
nhẹ sự phát triển của HTX, thậm chí “lãng quên” việc xây dựng chính sách
cho các HTX trong cơ chế kinh tế thị trường.
Giai đoạn từ thời điểm Luật HTX 1996 có hiệu lực đến trước Nghị
quyết 13-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 (khố IX), các chính sách được


23
ban hành để khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác và HTX chưa thực sự đi
vào cuộc sống, chưa được triển khai thực hiện. Nghị định 02/CP và 15/CP cho
đến khi ban hành Luật HTX năm 2003 vẫn chưa có Thơng tư hướng dẫn thực
hiện. Do vậy, sự quan tâm về chính sách thời kỳ này hầu như chưa tác dụng

tốt đối với sự phát triển của HTX. Các HTX hầu như khơng được thụ hưởng
chính sách gì đáng kể. Kinh tế hợp tác, HTX vẫn bị “thả lỏng, bng trơi” cả
về chính sách và quản lý nhà nước.
1.1.4.3. Các nghị định, thông tư về phát triển kinh tế Hợp tác xã
Từ khi Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) ra Nghị quyết chuyên đề về
phát triển kinh tế tập thể mà nịng cốt là HTX, các chính sách phát triển kinh
tế tập thể được quan tâm một cách toàn diện và đầy đủ hơn theo nội dung của
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) và Luật HTX mới. Hướng chính của các
chính sách phát triển kinh tế hợp tác, HTX như sau:
* Chính sách cán bộ đào tạo nguồn nhân lực:
Điểm mới trong chính sách cán bộ cho HTX đã xác định rõ hơn trách
nhiệm đào tạo cán bộ cho HTX của các ngành, địa phương với sự hỗ trợ kinh
phí của Nhà nước, chế độ thuê Chủ nhiệm, chế độ bảo hiểm xã hội cho cán bộ
xã viên HTX. Cụ thể như sau:
- Các ngành, các địa phương chủ động xây dựng quy hoạch đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và nghiệp vụ cho khu vực kinh tế tập thể.
- Nhà nước hỗ trợ tồn bộ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho HTX.
- Có chính sách thu hút cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật về
công tác tại HTX.
- Thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với xã viên HTX và người
lao động làm việc theo hợp đồng, hưởng tiền lương, tiền công theo Bộ luật lao
động; các thành viên khác không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì tạo
điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo nhu cầu.
* Chính sách đất đai:


24
Khuyến khích và tạo điều kiện cho hộ nơng dân “dồn điền, dồn thửa”,
tập trung ruộng đất theo chính sách của Nhà nước để phát triển sản xuất hàng
hoá, mở mang ngành nghề.

- Nhà nước giao đất không thu tiền và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho HTXNN xây dựng trụ sở, làm cơ sở SX-KD...
- HTX phi nông nghiệp được thuê đất dài hạn, giảm mức nộp thuế sử
dụng đất cho HTXNN trong một thời gian nhất định và được nộp tiền thuê đất
nhiều lần.
- Đất do HTX đầu tư để khai phá, tôn tạo, khi Nhà nước chuyển sang
chế độ cho thuê, cần trả lại chi phí cho HTX.
* Chính sách tài chính, tín dụng:
- Chính sách thu: Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền
đến năm 2010 cho hộ nông dân; Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong một
thời gian nhất định đối với HTX nông, lâm, ngư nghiệp mới chuyển đổi hoặc
thành lập.
- Thực hiện chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nơng nghiệp.
- Khuyến khích nhiều hình thức góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị
quyền sử dụng đất...của thành viên để tăng thêm vốn kinh doanh cho HTX,
nhưng phải cơng khai hố những đóng góp của thành viên.
- Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của HTXNN từ năm 1996 về trước; tiếp
tục xem xét để xử lý nợ tồn đọng cho HTX phi nông nghiệp.
- Những tài sản của HTX cũ và tài sản của Nhà nước giao cho HTX sử
dụng trước đây cho phép HTX chuyển đổi để làm vốn không chia thuộc sở
hữu chung.
* Chính sách tín dụng: HTX là một loại hình doanh nghiệp, được vay
vốn bình đẳng như doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác. Các tổ
chức tín dụng tăng mức cho vay và tạo thuận lợi đối với hộ và các tổ hợp tác,
HTX, liên HTX; Các HTX được vay vốn cả bằng hình thức thế chấp và tín


25
chấp: được thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay để vay vốn ngân hàng,
được vay vốn bằng tín chấp và vay theo dự án SX-KD có hiệu quả; HTX

được vay vốn từ các chương trình dự án quốc gia và các tổ chức phi chính
phủ, được làm chủ một số dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng
các quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ bảo lãnh tín dụng cho kinh tế tập thể. Tăng
cường quản lý và củng cố Quỹ tín dụng nhân dân, hướng dẫn nghiệp vụ và
chỉ đạo chặt chẽ đối với hoạt động tín dụng nội bộ trong HTX nhằm tăng khả
năng đáp ứng vốn sản xuất cho xã viên.
* Chính sách hỗ trợ về khoa học-công nghệ:
Nhà nước hỗ trợ cho kinh tế tập thể ứng dụng các thành tựu KH-CN,
nhất là giống, công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản, chế biến, công nghệ
thông tin... qua hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyên lâm, khuyến
ngư, khuyến công.
Đầu tư tập trung để nâng cao năng lực nghiên cứu của một số Viện,
trung tâm nghiên cứu và chuyển giao KH-CN theo vùng nhằm hỗ trợ HTX và
hộ nơng dân. Khuyến khích cơ quan chuyển giao các thành tựu KH-CN mới
cho HTX, nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới, khai thác và sử dụng các nguồn
ngun liệu sẵn có trong nước.
Khuyến khích xây dựng các cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề...ở nông thôn, hướng dẫn
và giúp các HTX tiểu thủ công nghiệp đổi mới cơng nghệ, đa dạng hố sản
phẩm, hạ giá thành, tạo sức cạnh tranh.
* Chính sách hỗ trợ tiếp thị và mở rộng thị trường:
Các ngành, các địa phương, các hiệp hội ngành nghề và Liên minh
HTX hỗ trợ xúc tiến thương mại, cung cấp thơng tin, tìm kiếm thị trường giúp
đỡ các hộ, tổ hợp tác và HTX; tổ chức các hình thức giới thiệu sản phẩm ở
trong và ngồi nước phù hợp với trình độ hiện tại và xu hướng phát triển của
kinh tế tập thể.


×