MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1
Chương 1: Mối quan hệ truyền thống của Sơn La và các tỉnh
Bắc Lào
1.1. Mối tương đồng về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh
6
Sơn La và các tỉnh Bắc Lào
1.2. Truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm qua các thời kỳ lịch sử
6
10
Chương 2: Công tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La với các
tỉnh Bắc Lào (1986 - 2000)
2.1. Đường lối đối ngoại của Đảng và quá trình lãnh đạo thực hiện
28
công tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La với các tỉnh Bắc Lào
(1986 - 2000)
2.2. Kết quả thực hiện công tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La
với các tỉnh Bắc Lào (1986 - 2000)
28
37
Chương 3: Công tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La với các
tỉnh Bắc Lào (2001 - 2010)
3.1. Công tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La với các tỉnh Bắc Lào
62
trước yêu cầu mới
3.2. Tăng cường công tác đối ngoại, phát triển mối quan hệ hữu nghị và
62
hợp tác toàn diện với các tỉnh Bắc Lào (2001 - 2010)
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
70
102
106
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng, có nhiều nét tương đồng về
điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa, có mối liên hệ qua lại thân thiết từ lâu
đời. Đặc biệt quan hệ Việt Nam - Lào đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ
tịch Cay-xỏn Phơn-vi-hản phát triển, được hai Ðảng, cùng nhân dân hai nước
không ngừng vun đắp vì lợi ích của hai dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của hai
Ðảng, nhân dân hai nước đã đồng lòng hỗ trợ lẫn nhau, kề vai sát cánh đưa sự
nghiệp cách mạng giải phóng của hai dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn.
Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trở thành tài sản vô giá của hai
dân tộc, là quy luật phát triển và là một trong những nhân tố bảo đảm thắng
lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước trong thời kỳ mới.
Từ năm 1986 hai nước Việt - Lào cùng tiến hành công cuộc đổi mới, tiếp tục
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hợp tác và phát triển, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; tích cực và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế; đặc biệt việc thực hiện Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, các nội
dung hợp tác mang tính chiến lược Việt - Lào đang đi vào chiều sâu.
Phát huy mối quan hệ truyền thống của nhân dân hai nước, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, cơng tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La
với các tỉnh Bắc Lào khơng ngừng phát triển tích cực, giành được thành quả
to lớn trên nhiều mặt, góp phần vun đắp mối quan hệ hữu nghị, hợp tác đặc
biệt của hai dân tộc Việt - Lào anh em bền vững.
Công tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La với các tỉnh Bắc Lào là đề
tài rộng lớn, diễn ra vô cùng phong phú, sinh động. Nghiên cứu công tác đối
ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La với các tỉnh Bắc Lào trong công cuộc đổi mới
là việc làm cần thiết, mang ý nghĩa quan trọng.
Với nhận nhận thức đó, là người con của tỉnh Sơn La, có nhiều điều
kiện thuận lợi trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tư liệu, điền dã thực tế tại
địa phương… tác giả chọn đề tài: “Công tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn
2
La với các tỉnh Bắc Lào (1986 - 2010)” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu nhằm góp phần tổng kết, đánh giá sâu sắc thành tựu
đạt được, rút ra những bài học kinh nghiệm về công tác đối ngoại của Đảng
bộ tỉnh Sơn La, cung cấp tư liệu chính xác phục vụ công tác tuyên truyền,
giáo dục truyền thống; đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu của cán bộ, đảng
viên, nhân dân các dân tộc trong tỉnh nói riêng, phục vụ công tác lãnh đạo đối
ngoại của Đảng bộ trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quan hệ đặc biệt Việt Nam, Lào đã được chính phủ hai nước đặc biệt
quan tâm nghiên cứu, có nhiều cơng trình đã được xuất bản và phát hành rộng
rãi….Nghiên cứu về mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa tỉnh Sơn La với các
tỉnh Bắc Lào đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu như:
Cuốn Sơn La lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) do
Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Sơn La biên soạn - Nxb Quân đội Nhân dân, năm
1995, Cuốn Sơn La lịch sử kháng chiến chống Mỹ (1955 - 1975) do Bộ chỉ
huy Quân sự tỉnh Sơn La biên soạn - Nxb Quân đội Nhân dân, năm 2000;
Lịch sử Bộ đội Biên phòng tỉnh Sơn La tập I (1959 - 2000) do Đảng uỷ Bộ chỉ
huy Bộ đội biên phòng tỉnh Sơn La biên soạn, Nxb quân dội nhân dân, năm
2004 đã đề cập về mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau trong liên minh chiến đấu
chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, xây dựng, bảo vệ an ninh biên giới giữa Sơn
La và các tỉnh Bắc Lào thời kì 1945 - 1954, 1955 - 1975 đến năm 2000.
Cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Mai Sơn (1945-1995); Lịch sử Đảng bộ
huyện Sông Mã (1945-1995); Lịch sử Đảng bộ huyện Mộc Châu (19451995); Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Châu (1945-1995), do Ban Chấp hành
Đảng bộ huyện Mai Sơn, Sông Mã, Mộc Châu, Yên Châu biên soạn - Nxb
Chính trị quốc gia, năm 2000. Mối quan hệ liên minh chiến đấu chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ, hợp tác hữu nghị giữa các huyện Mai Sơn, Sông Mã, Mộc
Châu, Yên Châu với các tỉnh Bắc Lào, trọng tâm là các tỉnh giáp biên giới (Hủa
Phăn, Luông Pha Băng) đã được đề cập khái quát trong phạm vi địa phương.
3
Các cuốn Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La, Tập 1 (1939-1954), Tập 2 (19541975), và Tập 3 (1976-2000) do Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La biên soạn Nxb Chính trị quốc gia, năm 2002 và năm 2005, Tỉnh Sơn La 110 năm (1895-2005)
do Tỉnh uỷ - Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Sơn La biên soạn - Nxb
Chính trị Quốc gia, năm 2005 đã đề cập khái quát chủ trương, chương trình, thành
quả đạt được trong quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Sơn La và các tỉnh Bắc Lào.
Nhìn chung nhiều cơng trình nghiên cứu với cách tiếp cận nhiều chiều
về mối quan hệ truyền thống, hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước,
Sơn La với các tỉnh Bắc Lào trong lịch sử. Đó là tiền đề cần thiết, rất quan
trọng để việc nghiên cứu đề tài: “Công tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn
La với các tỉnh Bắc Lào (1986 - 2010)” bảo đảm thành cơng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu về cơng tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La với các tỉnh
Bắc Lào giai đoạn từ 1986 đến 2010 nhằm khẳng định tính đúng đắn của đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại của Đảng ta; những thành quả to lớn đã đạt được trong quan
hệ đối ngoại trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh;
góp phần cung cấp tư liệu, phổ biến, tuyên truyền quan hệ truyền thống đặc biệt
giữa Việt Nam, Lào, Sơn La với các tỉnh Bắc Lào; bảo vệ và phát huy quan hệ
đặc biệt Việt - Lào, Sơn La với các tỉnh Bắc Lào trong thời kỳ mới.
3.2. Nhiệm vụ
Hệ thống hóa một cách chân thực, khoa học hoạt động công tác đối
ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La với các tỉnh Bắc Lào giai đoạn từ 1986 - 2010.
Phân tích những yếu tố cơ bản tác động tới công tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh
Sơn La với các tỉnh Bắc Lào kể từ khi hai nước cùng tiến hành đổi mới đến 2010.
Rút ra những kinh nghiệm nhằm thực hiện có hiệu quả cơng tác đối
ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La với các tỉnh Bắc Lào trong giai đoạn tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là công tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La
với các tỉnh Bắc Lào (1986 - 2010).
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu q trình lãnh đạo cơng
tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La với các tỉnh Bắc Lào giai đoạn (1986 2010) trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phịng, an ninh, văn hóa,
giáo dục đào tạo, y tế, khoa học cơng nghệ, công tác biên giới, hoạt động giao
lưu hữu nghị nhân dân…
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu công tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh
Sơn La với các tỉnh Bắc Lào giai đoạn từ năm 1986 đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận văn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường
lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác đối ngoại.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu để hồn thành luận văn, tác giả đã sử dụng
phương pháp lịch sử, phương pháp lơgíc, phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích, tổng hợp, kết hợp với khảo sát, điền dã thực tế.
6. Cái mới của luận văn
Hệ thống hóa và phân tích những chủ trương trong công tác đối ngoại của
Đảng bộ tỉnh Sơn La với các tỉnh Bắc Lào (1986 - 2010).
Thông qua q trình nghiên cứu, Luận văn có đưa ra những đánh giá về
thành tựu, hạn chế, đồng thời rút ra những kinh nghiệm ban đầu cho q trình thực
hiện cơng tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1.Ý nghĩa lý luận
Luận văn khẳng định việc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế của Đảng ta.
Phân tích làm rõ chủ trương trong cơng tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh
Sơn La với các tỉnh Bắc Lào giai đoạn 1986 - 2010
5
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã đánh giá được những kết quả đạt được và những hạn chế,
rút ra những kinh nghiệm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác đối
ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, khẳng định
sự đoàn kết của hai dân tộc Việt - Lào nói chung, Sơn La và các tỉnh Bắc Lào
nói riêng.
Góp phần cung cấp tư liệu lịch sử phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham
khảo của bạn đọc, yêu cầu công tác tuyên truyền, giáo dục lịch sử quan hệ
hợp tác Sơn La với các tỉnh Bắc Lào, phục vụ công tác lãnh đạo của các cấp
uỷ đảng trong công tác đối ngoại thời kỳ mới.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
có kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Mối quan hệ truyền thống của Sơn La và các tỉnh Bắc Lào
Chương 2: Công tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La với các tỉnh
Bắc Lào (1986 - 2000)
Chương 3: Công tác đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Sơn La với các tỉnh
Bắc Lào (2001 - 2010)
6
Chương 1
MỐI QUAN HỆ TRUYỀN THỐNG CỦA SƠN LA
VÀ CÁC TỈNH BẮC LÀO
1.1. Mối tương đồng về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội của
tỉnh Sơn La và các tỉnh Bắc Lào
1.1.1. Thành lập tỉnh, sự ra đời và tên gọi hành chính Sơn La
Đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, phong trào khởi nghĩa vũ trang
của nhân dân ta từ Bắc chí Nam bước vào thời kỳ suy tàn với sự thất bại của
cuộc khởi nghĩa Hương Sơn - đỉnh cao nhất của phong trào Cần Vương chống
Pháp. Nằm trong bối cảnh chung đó, do thủ đoạn thâm độc của thực dân Pháp
ngày càng kết hợp chặt chẽ giữa đàn áp quân sự, mua chuộc về chính trị,
phong trào kháng Pháp của đồng bào Tây Bắc dưới sự lãnh đạo của các thủ
lĩnh, thổ hào địa phương cũng lần lượt bị dập tắt. Thực dân Pháp một mặt vừa
thẳng tay triệt hạ những pháo đài cuối cùng trong phong trào khởi nghĩa của
nhân dân ta, mặt khác gấp rút tạo dựng một bộ máy phong trào khởi nghĩa của
nhân dân ta, mặt khác gấp rút tạo dựng một bộ máy “thống nhất về bóc lột tài
chính và đàn áp chính trị”, chuẩn bị cho việc khai thác thuộc địa Việt Nam nói
riêng và Đơng Dương nói chung một cách quy mơ. Ở khu vực thượng du Bắc
Kỳ, chúng chuyển dần những vùng được bình định vốn đặt dưới chế độ quân
quản sang chế độ dân sự để bắt tay vào khai thác, mở đầu cho sự ra đời của một
loạt đơn vị hành chính cấp tỉnh. Tỉnh Sơn La ra đời trong hồn cảnh đó.
Do vị thế trọng yếu ở miền Tây Bắc, ngay từ năm 1886, trong khi các
cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc nổi dậy còn diễn ra sôi nổi, Tổng Trú sứ
Trung - Bắc Kỳ (Résident général de l’Annam et du Tokin) đã ra nghị định
chuyển châu Sơn La thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa thành một cấp tương
đương với cấp tỉnh, nhưng đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của một sĩ quan với
cương vị Phó cơng sứ. Đến ngày 20/8/1891, Tồn quyền Đơng Dương
(Gouverneur gesesneral de l’Indo-chine) ra nghị định đưa địa hạt Sơn La vào địa
bàn của đạo quan binh thứ tư (thành lập ngày 4/9/1891), thủ phủ đặt tại Sơn La.
7
Ngày 27/2/1892, Tồn quyền Đơng Dương ra nghị định lập một Tiểu
quân khu (Cercle) trực thuộc đạo quan binh thứ tư Sơn La, thủ phủ của Tiểu
quân khu này đặt ở Vạn Bú gồm phủ Vạn Yên với các châu Mộc, châu Phù
Yên; phủ Sơn La với các châu Sơn La, châu Yên, Mai Sơn, Thuận Châu, Tuần
Giáo, Điện Biên (tất cả đều tách ra từ tỉnh Hưng Hóa).
Ba năm sau, vào ngay 10/10/1895, Tồn quyền Đơng Dương ra Nghị
định chuyển Tiểu quân khu Vạn Bú (Cercle de Van Bu) thuộc đạo quân binh
số 4 (4è Territoire militaire) là vùng đất quân quản sang chế độ dân sự
(Autorité Cevile). Tên thực dân Caya (M.Caillat) thay thiếu tá Nóocminơ
(Norminot) làm phái viên chính phủ bảo hộ tại Vạn Bú (Commissaire de
Gouvernement à Van Bu) với cương vị là quan Chưởng ấn (Chancelier) tức là
quan Chủ tỉnh (chef de province) đầu tiên. Lỵ sở của tỉnh vẫn đặt tại Pá
Giang, tổng Hiếu Trai - thủ phủ của Tiểu quân khu Vạn Bú. Với việc chuyển
Vạn Bú sang chế độ dân sự, chính quyền thuộc địa cho rằng địa bàn này đã
được bình định. Ngày 10/10/1895 trở thành thời điểm ra đời tỉnh Sơn La.
Do việc chuyển bộ máy chính quyền đến Sơn La, nên vào ngày
23/8/1904, theo yêu cầu của phái viên Chính phủ bảo hộ tại Sơn La, theo đề
nghị của thống sừ Bắc Kỳ, được sự đồng ý của Hội đồng tối cao Đơng
Dương, Tồn quyền Đơng Dương ra nghị định đổi tên Phái bộ Vạn Bú thành
phái bộ Sơn La (Commissariat de Gouvernement de Sonla). Từ đây tỉnh Vạn
Bú được đổi thành tỉnh5 Sơn La [40, tr.20].
1.1.2. Một số nét về vị trí địa lý, dân cư của tỉnh Sơn La
Về địa lý: Sơn La là một trong những tỉnh miền núi cao, nằm ở phía
Tây Bắc Việt Nam trong khoảng 20039’ - 22002’ vĩ độ Bắc và 103011’ 105002’ kinh độ Đơng. Phía Bắc Sơn La giáp 2 tỉnh n Bái, Lào Cai (252
km), phía Đơng và Đơng Nam giáp tỉnh Phú Thọ, Hịa Bình (135 km), tỉnh
Thanh Hóa (42 km) Phía Tây giáp tỉnh Điện Biên, Lai Châu (85 km), phía
Nam giáp tỉnh Hủa Phăn và Lng Pha Băng của nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào (250 km). Thành phố Sơn La cách thủ đô Hà Nội 320km về
phía Tây Bắc. Diện tích tự nhiên là 14.055 km2, chiếm 4,27% diện tích cả
8
nước, có 10 huyện và 1 thành phố trực thuộc tỉnh gồm: thành phố Sơn La,
huyện Quỳnh Nhai, Thuận Châu, Mường La, Bắc Yên, Phù Yên, Mộc Châu,
Yên Châu, Mai Sơn, Sơng Mã, Sốp Cộp.
Sơn La có khí hậu đặc trưng cận ôn đới, chia thành hai mùa rõ rệt: mùa
khơ và mùa mưa, nhiệt độ trung bình hàng năm là 21,4 độ C, nhiệt độ trung
bình tháng cao nhất là 27 độ C, trung bình thấp nhất là 16 độ C. Lượng mưa
bình quân hàng năm dao động trong khoảng 1.200 - 1600 mm, độ ẩm khơng
khí trung bình là 81%. Địa hình Sơn La có độ cao trung bình 600 - 700m so
với mực nước biển, bị chia cắt và tạo thành ba vùng sinh thái: vùng trục quốc
lộ 6, vùng lịng hồ sơng Đà và vùng cao biên giới. Riêng hai cao nguyên Mộc
Châu (cao 1.050m so với mức nước biển) và Nà Sản (800m so với mực ước
biển) đã tạo nên nét đặc trưng cho địa hình Sơn La thuận lợi cho phát triển
các loại cây công nghiệp và chăn nuôi.
Về dân số và lao động:
Theo cuộc điều tra dân số ngày 01/4/2009, tỉnh Sơn La có dân số là
1.083.700 người (trong đó: thành phố Sơn La: 92.800 người; huyện
Quỳnh Nhai: 59.000 người, Thuận Châu: 148.000 người, Mường La:
91.000 người, Bắc Yên: 57.000 người, Phù Yên: 108.300 người, Mộc
Châu: 152.000, Yên Châu: 68.800 người, Mai Sơn: 138.800 người,
Sông Mã: 127.200 người, Sốp Cộp: 39.100 người), mật độ trung bình
76 người/1 km2, với 12 dân tộc anh em cùng chung sống [53, tr.1].
Về lao động: tỉnh Sơn La có 635.840 người trong độ tuổi lao động
trong đó chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực nông và lâm nghiệp với
542.150 người, còn lại hoạt động rải rác trong các ngành công nghiệp chế
biến, xây dựng, khách sạn, nhà hàng, khai thác mỏ…
1.1.3. Mối tương đồng về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội của
tỉnh Sơn La và các tỉnh Bắc Lào
Tỉnh Sơn La và Bắc Lào liền kề về địa lý, núi liền núi, sơng liền sơng,
có chung 250km đường biên giới, tiếp giáp với 2 tỉnh Luông Pha Băng và
Hủa Phăn (Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào), trong đó Sơn La có 5 huyện
9
biên giới là Sốp Cộp, Sông Mã, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu tiếp giáp với
các huyện Viêng Khăm, Viêng Thoong, Mường Ét, Xiềng Khọ và Sốp Bâu
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Tồn tuyến biên giới có 24 cột mốc
quốc giới gồm: C7, C8, C9, D1, D2, D3, D4, D5, D6, D7, D8, D9, D10, E1,
E2, E3, E4, E5, E6, E7, E8, E9, G1, G2 (Ngoài ra Sơn La cịn quản lý, bảo vệ
giúp tỉnh Thanh Hóa mốc quốc giới G3).
Những điểm tương đồng về đị lý, kinh tế, chính trị, văn hóa, truyền
thống là điều kiện thuận lợi để Sơn La và các tỉnh Bắc Lào mở rộng và tăng
cường quan hệ hợp tác trên nhiều phương diện. “Hiện nay tỉnh Sơn La có
quan hệ hữu nghị và ký kết văn bản hợp tác với 7 tỉnh Bắc Lào gồm: Hủa
Phăn, Lng Pha Băng, Bị Kẹo, Phong Sa Lỳ, U Đôm Xay, Luông Nặm Thà,
Xay Nha Bu Ly” [53, tr.2].
Khu vực biên giới tỉnh Sơn La có 19 xã biên giới với 330 bản; trong đó
64 bản giáp biên, gồm 7 dân tộc anh em sinh sống trong đó chủ yếu là dân tộc
Mơng, Sinh Mun, Thái với tổng số là 15.882 hộ và 89.602 nhân khẩu. Địa bàn
khu vực biên giới hiểm trở, phần lớn là các dãy núi cao, suối sâu, rừng rậm,
giao thông đi lại rất khó khăn. Có 2 trục đường chính đi ra 2 cửa khẩu biên
giới sang Lào là đường 43 nối từ quốc lộ 6 (Mộc Châu) qua cửa khẩu Lóng
Sập - Pa Háng sang huyện Sốp Bâu đến thị xã Sầm Nưa tỉnh Hủa Phăn (Lào)
và đường 105 qua cửa khẩu Chiềng Khương (Sông Mã) sang Xiềng Khùn
huyện Mường Ét đến thị xã Sầm Nưa tỉnh Hủa Phăn (Lào). Ngồi ra cịn có
các đường tiểu ngạch qua lại biên giới sang Lào.
Trên tồn tun biên giới có 9 đồn biên phòng, phân bố dọc theo biên
giới từ đồn 445 đến đồn 473, trong đó có 04 đồn: 449, 465, 457, 461 đã được
xây dựng đảm bảo theo tiêu chuẩn của Bộ tư lệnh bộ đội biên phịng. Có 2
trạm kiểm sốt biên phịng và hải quan tại 2 cửa khẩu Lóng Sập (Mộc Châu)
và Chiềng Khương (Sơng Mã).
Về kinh tế
Do có điều kiện gần gũi về địa lý và nhiều điểm tương đồng về điều
kiện tự nhiên, cư dân tỉnh Sơn La và các tỉnh Bắc Lào từ xưa đã có những
10
điểm tương đồng trong sinh hoạt. Bên cạnh làm nương rẫy, cư dân cịn chăn ni
gia súc, trồng dâu ni tằm, dệt vải và sản xuất hàng hóa thủ cơng. Ngày nay
ngoài hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm trong sản xuất nông - lâm nghiệp nhân dân
tỉnh Sơn La và các tỉnh Bắc Lào cịn tăng cường bn bán, trao đổi hàng hóa, du
nhập ngành nghề mới, khai thác tiềm năng lợi thế của từng địa phương nhằm
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Do những đặc điểm tự
nhiên và xã hội có nhiều điểm giống và khác nhau nên tiềm năng kinh tế của
Sơn La và các tỉnh Bắc Lào cũng có những lợi thế và khó khăn khác nhau. Trong
q trình phát triển kinh tế cần bổ sung cho nhau nhằm phát huy được thế mạnh
và khắc phục được những khó khăn để cùng nhau phát triển.
Về văn hóa
Đặc điểm chung của hai dân tộc Việt - Lào có nhiều nét tương đồng về
mặt văn hóa; Lào và Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng mạnh của hai nền
văn hóa lớn là Ấn Độ và Trung Quốc nên Phật giáo có ảnh hưởng rất sâu rộng
trong nhân dân ở cả Lào và Việt Nam. Mỗi quốc gia đều có lịch sử lâu đời và
tạo nên những nét khác biệt trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội với những
phong tục tập quán tốt đẹp của từng dân tộc. Tuy nhiên, do gần gũi về địa lý
cho nên từ xa xưa giữa hai dân tộc Việt - Lào đã có sự bang giao, nhất là các dân
tộc ở dọc biên giới của hai nước. Từ những tương đồng về phương thức sinh
hoạt vật chất, cư dân tỉnh Sơn La và các tỉnh Bắc Lào ngày một xích lại gần
nhau hơn trong sinh hoạt văn hóa tinh thần; nhân dân có truyền thống yêu nước,
đoàn kết, cần cù lao động, trung thực và mến khách. Văn hóa các dân tộc rất
phong phú về các thể loại như: thơ ca, dân ca, hát đối, hát thơ; nhiều phong tục
tập quán trong ma chay, cưới xin, thờ cúng tổ tiên, thần linh…vốn là những nét
đẹp văn hóa truyền thống lâu đời của hai dân tộc Việt Lào đã và đang được nhân
dân tỉnh Sơn La và các tỉnh Bắc Lào lưu truyền từ đời này sang đời khác.
1.2. Truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm qua các thời kỳ lịch sử
Từ thời vua Hùng, các dân tộc ở Sơn La đã trung lưng đấu cật xây dựng
và bảo vệ quê hương đất nước. Các dân tộc Sơn La ln gắn bó, đồn kết với
nhau và với cả nước cùng làm chủ đất nước Việt Nam, cố kết với nhau một cách
11
bền chặt để cùng tồn tại và phát triển, kiên quyết đẩy lùi và dập tắt mọi biểu hiện
của khuynh hướng chia rẽ, tăng cường sức mạnh của cả cộng đồng và sức mạnh
của mỗi dân tộc trong quá trình phát triển. Sức mạnh đó đã đẩy lùi nguy cơ xâm
lược qua các giai đoạn lịch sử và tô thắm truyền thống bảo vệ quê hương.
Thế kỷ XV, giặc Minh sang xâm lược nước ta, nhân dân ta khắp nơi nổi
dậy kháng chiến. Khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra, trở thành trung tâm phong trào.
Ở Sơn La, các thủ lĩnh châu, mường người Thái là Sa Khả Sâm, Cầm Quý,
Cầm Lạn (ở Mường Sang, Mộc Châu) đã lãnh đạo nhân dân Sơn La hưởng
ứng khởi nghĩa Lam Sơn, cùng nhân dân cả nước dưới sự chỉ đạo của Lê Lợi
đánh thắng quân xâm lược Minh, giành độc lập cho đất nước. Thủ lĩnh Sa
Khả Xâm được vua Lê Thái Tổ phong tước đứng đầu lộ Đà Giang và được
đổi sang họ Lê của nhà vua.
Thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam rối loạn, chiến tranh giữa
các tập đoàn phong kiến diễn ra liên tục, vùng Tây Bắc Tổ quốc bị lơi lỏng
quản lý. Lợi dụng tình hình nước ta rối loạn, giặc Phẻ (hay còn gọi là giặc
Pọng, giặc Nhuồn) từ Bắc Lào và Vân Nam (Trung Quốc) sang cướp phá Sơn
La, Tây Bắc. Chính quyền phong kiến Trung ương khơng dẹp được giặc,
trong lúc nguy cấp đó, thủ lĩnh khởi nghĩa nơng dân Hồng Cơng Chất đã kéo
quân lên Sơn La, đoàn kết với người Thái ở Mường Muổi (Thuận Châu),
Mường La, Quỳnh Nhai, được sự ủng hộ giúp đỡ của nhân dân vùng biên giới
Việt - Lào đã cùng nhau đuổi giặc Phẻ ở Tây Bắc. Thế kỷ XIX thủ lĩnh châu
mường là Bạc Cầm Ten đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc đánh tan quân Xiêm
ở vùng biên giới Việt - Lào.
Khi cả nước bước vào giai đoạn đầu chống Pháp, Sơn La lại bị giặc cờ
Vàng (bộ phận thối hóa của khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Quốc)
sang cướp phá, nhân dân Sơn La vô cùng cơ cực, đến năm 1880 đã đuổi được
giặc cờ Vàng ra khỏi Sơn La và Bắc Lào.
Truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân các dân tộc
Sơn La trước khi địa giới tỉnh được chính thức hình thành (1895) cho thấy nhân
dân các dân tộc nơi đây có tinh thần yêu nước thương nịi sâu sắc, có tinh thần
12
đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động sản xuất và chiến đấu,
sống thủy chung và nhân ái, vị tha, trọng nghĩa tình và ghét bất cơng, cần cù và
sáng tạo, anh dũng và kiên cường đấu tranh bảo vệ quyền sống, bảo vệ quê
hương đất nước, vì độc lập tự do và hạnh phúc của tồn thể cộng đồng. Truyền
thống tốt đẹp ấy còn được lưu giữ và phát triển mãi về sau.
Năm 1918, Ở Tây Bắc lại nổ ra các cuộc bạo động và nổi dậy của đồng
Bào H’Mông cùng nhân dân các dân tộc Khơ Mú, Lào, Thái… dưới sự lãnh
đạo của Vàng Nềnh Pha (vùng cao Điện Biên) và Chư Páo Chay (Vùng cao
Loong Hẹ, Thuận Châu) chống thực dân Pháp với khẩu hiệu: “Quét sạch Tây
trắng (Pháp), chống thuế giành quyền tự chủ”. Hai cuộc nổi dậy này có liên
quan mật thiết với nhau rất chặt chẽ. Phong trào chống thuế, chống thực dân
Pháp đã nhanh chóng phát triển khắp vùng cao từ Sơn La đến Lai Châu, thượng
Lào. Quân Pháp nhiều lần đàn áp khủng bố ác liệt nhưng đến mùa hè năm 1919
và suốt mùa hè năm 1920, phong trào vẫn lan rộng và mạnh mẽ khắp vùng
thượng lưu sông Nậm U, Sầm Nưa (Lào) và Tây Bắc (Việt Nam).
Năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, phong trào đấu
tranh yêu nước cách mạng của đồng bào nhân dân các dân tộc Sơn La phát
triển mạnh mẽ, đặc biệt là từ khi Chi bộ Đảng cộng sản nhà ngục được thành
lập (tháng 12/1939) Sơn La đã lãnh đạo phong trào đấu tranh chống đế quốc
giành độc lập theo đường lối cách mạng của Đảng và Hồ Chí Minh, xây dựng
Mặt trận dân tộc thống nhất, đoàn kết toàn dân trong nước và mở rộng khối
đoàn kết quốc tế cứu nước. Phong trào cách mạng tỉnh Sơn La có sự chuyển
biến nhanh chóng và mạnh mẽ. Đầu năm 1943, cơ sở, tổ chức thanh niên Cứu
quốc đầu tiên của Mặt trận Việt Minh Sơn La đươc thành lập ở Mường La. Sau
đó các tổ chức Thanh niên Cứu quốc, hội người Thái cứu quốc… được thành
lập ở Mai Sơn, Thuận Châu, Mường La, Yên Châu…Mặt trận Việt Minh tỉnh
Sơn La tập hợp đoàn kết các dân tộc trong toàn tỉnh, đoàn kết nhân dân các dân
tộc ở hai bên biên giới Việt - Lào, đẩy mạnh đấu tranh, xây dựng phát triển lực
lượng, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, góp phần đưa Cách
mạng tháng Tám năm 1945 của cả nước đến thành công.
13
Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thực hiện chủ trương
của Trung ương Đảng và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mệnh lệnh
chiến đấu của Bộ chỉ huy tối cao, Tỉnh ủy và Ủy ban hành chính kháng chiến
tỉnh Sơn La đã chỉ đạo tồn quân trong tỉnh tích cực bước vào kháng chiến.
Tỉnh gấp rút mở lớp bồi dưỡng, đào tạo cấp tốc hàng trăm cán bộ Việt Minh,
phần lớn là người địa phương. Tăng cường xây dựng, củng cố lực lượng vũ
trang, chỉ đạo Trung đoàn 148, các đơn vị Tây tiến và đại đội học viên trường
quân sự lên thực tập cùng với các đơn vị lực lượng vũ trang địa phương, dân
quân du kích phối hợp chiến đấu giam chân địch ở Thuận Châu và Chiềng Pấc.
Lúc này Trung đoàn 148 do đồng chí Lê Trọng Tấn làm Trung đồn trưởng,
trung đồn có 3 tiểu đồn tác chiến ở 3 hướng khác nhau. Đồng thời, Trung ương
còn điều lên Sơn La 3 tiểu đồn đó là Tiểu đồn 90, Tiểu đồn 71 và Tiểu đồn
86; Tiểu đồn 86 do đồng chí Kim Thành (người Tày) làm Tiểu đồn trưởng,
đồng chí Đức Sơn làm chính trị viên. Tiểu đồn chịu trách nhiệm tác chiến ở địa
bàn Mộc Châu. Các đại đội của tiểu đồn đóng qn từ Xồm Lồm tới Pa Háng
và biên giới Việt - Lào với nhiệm vụ đánh chặn quân địch từ Lào sang.
Tại Sơn La, thực dân Pháp tìm mọi cách mở rộng phạm vi kiểm sốt
nhằm cơ lập Tây Bắc với Việt Bắc, bảo vệ các cứ điểm của chúng ở Thượng
Lào, ngăn chặn sự liên lạc của ta với nước ngoài, thực hiện việc vơ vét sức
người, sức của phục vụ các mưu đồ của chúng.
Để thống nhất lực lượng, thống nhất sự chỉ huy tác chiến, kịp thời đối
phó với âm mưu và thủ đoạn mới của thực dân Pháp, ngày 25/01/1948, Chính
phủ ra sắc lệnh 120/SL và 124/SL chính thức sáp nhập Khu 10 và Khu 14 thành
Liên khu 10. Đồng chí Bùi Quang Tạo làm Bí thư Liên khu ủy, đồng chí Bằng
Giang được chỉ định làm Liên khu trưởng, đồng chí Song Hào làm Chính ủy,
đồng chí Lê Trọng Tấn làm Liên khu phó, kiêm Trung đồn trưởng Trung đồn
148. Liên khu có nhiệm vụ giúp các tỉnh Bắc Lào là Sầm Nưa, Luông Pha
Băng, Huổi Sài, Xiêng Khoảng và thủ đô Viêng Chăn.
Để mở rộng khu tự do của ta dọc biên giới Lào, nhất là giữa Sơn La và
Thượng Lào, làm chỗ dựa và cơ sở đứng chân vững chắc cho bạn, ngày
14
20.5.1948, Bộ tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam quyết
định thành lập Ban xung phong Lào - Bắc và giao cho Liên khu 10 thi hành
quyết định này. Nhiệm vụ Ban xung phong Lào - Bắc là: xây dựng cơ sở cách
mạng ở vùng Bắc Lào, trực tiếp liên lạc với Ủy ban kháng chiến và Tỉnh ủy
Sơn La, với đội xung phong Trung Dũng để phối hợp hành động. Địa bàn đứng
chân của Ban xung phong là Sơn La, lấy Mộc Châu - Sơn La làm bàn đạp tiến
vào các vị trí Sốp San - Sốm Pín - Xiềng Khọ - Mường Hét đến Phơngxalỳ.
Ban chỉ huy chỉ định gồm có đồng chí Cay-xỏn Phơn-vi-hản - Trưởng ban, Thảo
Hạnh - Phó ban, Đơng Tùng - Chính trị viên. Sau một thời gian chuẩn bị, Ban
xung phong Lào - Bắc chọn A Má (Mộc Châu) làm điểm tập kết dừng chân. Từ
đây các tổ nhóm của ban xung phong tiến xâu vào những địa điểm trên đất Lào,
triển khai công tác vận động, tuyên truyền nhân dân đi theo cách mạng. Những
chiến sĩ ưu tú con em của Sơn La đã sống, chiến đấu hết mình, gắn bó với nhân
dân vùng Thượng Lào để xây dựng cơ sở chính trị, căn cứ kháng chiến và phát
triển lực lượng. Được sự giúp đỡ tận tình “đồng cam cộng khổ” cùng chống kẻ thù
chung, các lực lượng vũ trang cách mạng Lào lần lượt trở lại địa bàn bị địch
chiếm, tạo lập được chỗ đứng chân tại khu vực Xiềng Khọ, Bun La [40, tr.117].
Theo lệnh của Bộ tư lệnh Liên khu 10, cuối tháng 6- 1949, các đại đội độc
lập về tập trung bổ sung cho các đơn vị chủ lực. Bộ đội địa phương tỉnh, huyện
được hình thành và các tổ, đội dân quân tự vệ, du kích đã phối hợp chặt chẽ, càng
đánh càng mạnh, càng tỏ rõ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh chính nghĩa giải
phóng dân tộc. Bị thua đau, cuối năm 1949, thực dân Pháp tăng cường khủng bố
những cơ sở kháng chiến, củng cố lại những tuyến giao thông, nhất là đường 41
để xây dựng hành lang Tây Bắc - Thượng Lào bao vây Sơn La từ bốn phía, tăng
cường củng cố quân ngụy, phá hoại cơ sở kinh tế của ta. Tháng 7/1949, Pháp củng
cố các vị trí đóng quân ở Mường La, Mai Sơn, Thuận Châu, uy hiếp tuyến đường
Sơn La - Lai Châu. Đầu tháng 10/1949, Pháp điều quân từ Tuần Giáo xuống, từ
Mộc Châu lên, tập trung 1000 quân càn quét hai xã Mường Khiêng và Mường
Chanh. Lực lượng vũ trang nhân dân địa phương đã phối hợp với các đơn vị chủ
lực tập trung đánh vào tỉnh lỵ (ngày 07.10.1949), buộc địch phải rút khỏi Mường
15
Chanh, Chiềng Ma, Mường Bằng và một số đồn bốt lẻ khác. Để tạo nguồn cán bộ
lãnh đạo các phong trào và lực lượng vũ trang cách mạng Lào, cuối 1949 ta đã
thành lập trường Bắc Lào và tiến hành đào tạo cán bộ cho bạn. Khóa 1 đã đào tạo
được 100 cán bộ, số cán bộ này tỏa về các địa phương, là hạt nhân lãnh đạo và
điều hành các phong trào của cách mạng Lào [40, tr.121].
Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo Liên khu 10 tiến hành một loạt chiến dịch trong
tháng 11 năm 1949. Mở đầu là chiến dịch Sông Mã, nhằm phá vỡ tuyến Sông
Mã của địch, mở thơng biên giới Việt - Lào ở phía Bắc và đẩy mạnh xây dựng
căn cứ cho Chính phủ kháng chiến Lào. Ngày 02-11-1949, Trung đoàn 148
phối hợp với một đơn vị Lào đánh vị trí Xiềng Khọ (Lào), diệt gọn một đại đội
địch và bắt 35 tên. Ngày 03-11-1949, trên đà thắng lợi ta đã áp sát, bao vây
Sầm Tớ, tổ chức phát triển cơ sở chính trị vũ trang trong khu vưc này. Chiến
thắng Xiềng Khọ làm rung chuyển hệ thống phòng ngự của địch, buộc địch
phải rút khỏi 9 vị trí khác. Phịng tuyến Sơng Mã của chúng bị phá vỡ đoạn dài
gần 100 kilômét từ Mường Lầm đến Sốp Hao. Cơ sở hậu địch ở Bắc Lào được
mở rộng trên 2000 kilômét vuông với hơn 10 nghìn dân.
Năm 1949, du kích Sơn La đã cùng bộ đội địa phương vừa phối hợp với
bộ đội chủ lực, vừa độc lập chiến đấu trên 320 trận, diệt và làm bị thương 379
tên địch, trong đó có 63 tên Pháp, đập tan tham vọng của chúng tấn công và
tiêu diệt khu căn cứ kháng chiến. Khu căn cứ của ta khơng ngừng được củng cố
và phát triển, chính quyền cách mạng ở một số huyện được lập lại, phạm vi
kiểm soát của địch bị thu hẹp, kế hoạch khép kín biên giới của địch, bao vây
căn cứ địa Việt Bắc từ phía tây bị phá vỡ. Quân và dân Sơn La vừa chiến đấu
trên địa bàn của tỉnh, đồng thời phối hợp với lực lượng vũ trang Lào đẩy mạnh
tác chiến, vận dụng các hình thức chiến thuật, tập kích, phục kích, đánh du
kích, chống càn, thu nhiều thắng lợi. Dọc các huyện biên giới thuộc tỉnh Sầm
Nưa (Lào), Sơn La (Việt Nam) từ Sốp Hào đến Mường Hét phong trào cách
mạng ngày càng phát triển và lan rộng. Đầu năm 1950, Hội nghị toàn quốc lần
thứ ba của Đảng họp đề ra nhiệm vụ trọng tâm của năm 1950 là “hoàn thành
nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang phản công, tiến công”.
16
Năm 1950 Pháp ráo riết thực hiện âm mưu “dùng người Việt đánh người
Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, mở những cuộc càn quét khốc liệt,
nhằm bắt lính, cướp bóc lương thực, phá vỡ cơ sở chính trị, các khu du kích ở
vùng tạm chiếm, hành quân ra vùng tự do, phá mùa màng, nương rẫy, cơ sở
kinh tế của ta, củng cố phịng tuyến Sơng Đà, chiếm lại Than Uyên, Nghĩa Lộ,
Lào Cai, chia cắt Sơn La với chiến khu Việt Bắc và các tỉnh khác. Địch âm
mưu củng cố Sơn La làm hàng rào chắn giữ Thượng Lào.
Song song với việc đáp ứng các nhiệm vụ đòi hỏi trong tình hình mới ở
Sơn La, Đảng bộ cịn chỉ đạo quân và dân chi viện giúp đỡ vùng Thượng Lào.
Lúc này, Ban xung phong Lào - Bắc đã mở rộng được tổ chức, phát triển được
nhiều lực lượng. Liên khu 10 đã có hai đại đội thường xuyên hoạt động ở Bắc
Lào. Nhiều cán bộ chiến sĩ ở Sơn La đã tỉnh nguyện sang giúp bạn. Đầu năm
1951, ta và bạn chủ trương thành lập chiến khu Đ dọc biên giới hai nước từ La
Hán (Hồi Xuân, Thanh Hóa) tới Chiềng Khương (Sơng Mã, Sơn La). Cơ quan
đầu não kháng chiến của bạn có thời kỳ đặt tại bản Lao Khơ (nay thuộc xã
Phiêng Khồi, n Châu, Sơn La). Hầu hết các cán bộ lãnh đạo của Đảng và
Chính phủ kháng chiến Lào đều hoạt động ở chiến khu Đ. Giữa ta và bạn hình
thành một khu căn cứ liên hoàn vững chắc ở khu Tây Bắc và dọc tuyến biên
giới Việt - Lào. Mối tình hữu nghị anh em giữa Sơn La và Hủa Phăn càng thêm
keo sơn găn bó. Sơn La làm chỗ dựa vững chắc cho các căn cứ cách mạng của
bạn trong quá trình xây dựng và phát triển lực lượng. Sơn La lại hết mình chia
sẻ sức người, sức của giúp đỡ bạn đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến đấu chống
kẻ thù chung.
Năm 1952 chiến dịch Tây Bắc thắng lợi, với sự đóng góp của nhân dân
các dân tộc Sơn La đã thể hiện sự trưởng thành nhanh chóng về nhiều mặt của
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Sơn La, đặc biệt là sự lớn mạnh của lực
lượng vũ trang Sơn La cả về tổ chức, chất lượng trang bị vũ khí và nghệ thuật
tác chiến; là thắng lợi của tinh thân yêu nước của nhân dân các dân tộc Sơn La.
Trên mặt trận Bắc Lào, ta cũng đạt được nhiều thành tích đáng kể. Những căn
cứ đầu tiên của nước bạn Lào sát biên giới Sơn La được xây dựng.
17
Nhân dân Sơn La tuy mới được giải phóng, cuộc sống cịn gặp nhiều khó
khăn, gian khổ, thiếu thốn, song với tình nghĩa đồn kết keo sơn, thủy chung
trong sáng, Đảng bộ, quân và dân Sơn La đã hăng hái tham gia các hoạt động
phối hợp với chiến dịch đang diễn ra trên đất Lào. Đồng thời các dân tộc Sơn
La tiếp tục góp sức người, sức của và xương máu cùng nhân dân cả nước chi
viện cho chiến dịch Thượng Lào. Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào một lần
nữa khẳng định tinh thần đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung, tình hữu nghị
kề vai sát cánh của hai dân tộc Việt - Lào anh em. Trong chiến dịch Thượng
Lào, quân và dân Sơn La cùng nhân dân Tây Bắc đóng góp 6.300 tấn gạo, 200
tấn muối, 290 tấn thịt, huy động 62.500 lượt dân công cùng với 2.535.000 ngày
cơng. Sơn La có thời kỳ là địa bàn đứng chân hoạt động của chính phủ kháng
chiến Lào, là nơi tổ chức, xây dựng đội vũ trang tuyên truyền Bắc Lào. Từ đây,
đội vũ trang tuyên truyền, các đơn vị củ lực của ta đã tham gia phối hợp cùng
với quân và dân Lào gây dựng cơ sở chính trị vũ trang, sát cánh chiến đấu đánh
đuổi kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược, đặc biệt là trong chiến dịch
Thượng Lào, củng cố tinh hữu nghị giữa qn và dân hai nước. Sau những địn
tiến cơng liên tiếp của quân và dân ta trên chiến trường Tây Bắc và chiến dịch
Thượng Lào, thực dân Pháp và tay sai lâm vào thế bị động và lúng túng.
Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về lập lại hịa bình ở ba nước Đông
Dương được ký kết. Cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới với
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Nhiệm vụ của
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Sơn La không chỉ tập trung phát triển kinh tế - xã
hội, khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh mà còn phải tiếp tục huy động
sức người, sức của chi viện cho chiến trường miền Nam và tiếp tục đảm nhiệm
nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với nước bạn Lào.
Trong những năm 1955 - 1960, tình hình trật tự trị an trên địa bàn Sơn
La diễn biến phức tạp, lợi dụng cuộc sống khó khăn, trình độ giác ngộ của nhân
dân các dân tộc cịn hạn chế, các thế lực phản động đẩy mạnh hoạt động chống
phá như phao tin đồn nhảm, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
18
nước, kích động chia rẽ dân tộc. Ở những vùng xung yếu, chúng tung biệt kích,
gián điệp móc nối với bọn phản động bên trong, kích động gây bạo loạn, phá
rối trật tự trị an, gây hoang mang trong nhân dân, gây ảnh hưởng đến lao động,
sản xuất và xây dựng cuộc sống mới. Chỉ trong hai tháng là tháng 5 và tháng 6
- 1957, chúng gây ra các vụ “xưng vua, đón vua” trong đồng bào H’Mơng tại
Kiến Thiết và Chiềng Tương (Mộc Châu), vùng Mường Cai và Mường Lạn
(Sông Mã), trong đồng bào Khơ Mú ở chiềng Nơi (Mai Sơn). Việc “xưng vua,
đón vua” ở vùng cao đã lan từ Mộc Châu, Sông Mã, Mai Sơn sang các vùng Co
Tòng, Long Hẹ (Thuận Châu), Yên Châu, Phù Yên. Từ những hoạt động phá
hoạt gây “xưng vua, đón vua” bọn phản động ở các châu Thuận Châu, Mai
Sơn, Sông Mã đã tổ chức dụ dỗ dân di cư sang Lào. Trong vòng 4 ngày (từ
ngày 8 đến 11/6/1957) 500 đồng bào Mông ở châu Mai Sơn và Sông Mã đã
nhẹ dạ cả tin bọn xấu vươt biên sang Lào tìm vùng đất hứa, hy vọng có “vua
phù hộ”. Đặc biệt từ năm 1958 đến năm 1960, do những biến động chính trị ở
Lào, tình hình biên giới Việt - Lào trở nên căng thẳng. Dọc tuyến biên giới
đối diện với Sơn La, quân đội Vương quốc Lào đã cho 4 tiểu đồn chính quy
tràn ra biên giới dựng thành phịng tuyến Sơng Mã, hơn 2000 qn phỉ Vàng
Pao đóng giữ 68 vị trí lớn nhỏ, cùng với tổ chức phản đông người Thái lưu
vong ở Lào với cái gọi là “Liên bang Thái tự trị” ráo riết hoạt động phá hoại.
Bọn chúng thường xuyên có những hành động khiêu khích, cho máy bay xâm
phạm khơng phận, tung những tốn quân báo xâm nhập biên giới, tung biệt kích,
gián điệp vượt biên vào các bản làng thu thập tin tức tình báo, móc nối với bọn
phản động, tàn Phỉ bên trong âm mưu gây bạo loạn, phá rối trật tự trị an.
Trước tình hình đó, thơng qua các cuộc tun truyền vận động củng cố
vùng cao biên giới, giữ vững trật tự trị an, tuyệt đại đồng bào đã tin vào chủ
trương chính sách của Đảng và Chính phủ, nâng cao ý thức cảnh giác, nhận rõ
âm mưu thâm độc của kẻ thù, tăng cường đoàn kết xây dựng bản mường, xây
dựng cuộc sống mới. Để làm trong sạch địa bàn, công tác phân loại, tập trung
giáo dục cải tạo những đối tượng xấu đã được thưc hiện tôt. Công tác quốc
phòng an ninh được tăng ường và củng cố một bước. Ngày 10-4-1959 Khu
19
Công an nhân dân vũ trang Tây Bắc được thành lập, trực tiếp chỉ huy các đơn
vị Tiểu khu. Ở Sơn La có Tiểu khu 53 đóng tại Chiềng Ve (Mộc Châu) và Tiểu
khu 55 đóng tại Nà Nghịu (Sơng Mã) để chỉ huy các lực lượng Công an nhân dân
vũ trang trên địa bàn Sơn La. Dọc tuyến biên giới Sơn La - Lào thuộc các châu
Mộc Châu, Yên Châu, Sơng Mã và Mai Sơn đã được bố trí đồn biên phòng với
lực lượng mạnh. Do những biện pháp tích cực của Đảng, chính quyền các cấp và
sự cố gắng của toàn dân, cuối năm 1957 các vụ “xưng vu, đón vua” cơ bản đã
được giải quyết, an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội trong nội địa và an ninh
biên giới được giữa vững ổn định; mọi âm mưu phá hoại của bọn phản động bên
trong và bên ngoài đều bị phát hiện và ngăn chặn kịp thời.
Những năm 1959 - 1962 là giai đoạn khó khăn, gian khổ của cách mạng
Lào. Chính quyền Phái hữu thẳng tay đàn áp lực lượng cách mạng của Bạn.
Chúng tuyên bố “Sẽ truy kích lực lượng Pa thét Lào ngay trên đất Việt Nam”.
Ở các xã giáp Sơn La của tỉnh Sầm Nưa, nhiều cán bộ, bộ đội và nhân dân phải
chạy sang lánh nạn trước sự khủng bố gắt gao của địch. Các đồn biên phòng
tiểu khu 53, 55 đã chủ động phối hợp cùng với chính quyền các xã biên giới
vận động nhân dân nhường cơm xẻ áo giúp cán bộ và nhân dân bạn lúc khó
khăn. Có nơi cả bản nhân dân Lào chạy sang ta tạm trú như bản Lao Ly giáp xã
Mường Lạn, Đồn biên phòng và nhân dân Mường Lạn giúp đỡ tổ chức ổn định
và tạo điều kiện nơi ăn chốn ở và khu vực sản xuất.
Giữa năm 1960, do tinh thần cảnh giác của quần chúng, ta đã phát
hiện và phá tan chuyên án một tổ chức phản động liên kết với các tổ
chức phản cách mạng bên Lào dưới cái tên “Đảng Cầm Tơ”, ta tồn
bộ bọn này, tên đứng đầu là Cầm Văn Giót và 13 tên đồng bọn đã bị
đưa đi cải tạo lâu dài. Cũng tại Sông Mã, một tổ chức phản động khác
nhen nhóm hoạt động phá hoại gọi là “Thanh niên chống cộng”,
chúng móc nối với bọn ngươi Thái, H’Mông lưu vong, dụ dỗ một số
người nhẹ dạ di cư sang Lào, tìm cách cài cắm tay chân vào chính
quyền, đồn thể quần chúng chờ thời cơ gây rối, bạo loạn, bắt cóc và
mưu sát cán bộ. Khi phá vụ án này ta đã mở hội nghị quần chúng đấu
20
tranh phê phán và vạch mặt bọn phản động, tạo nên khí thế cảnh giác
cách mạng của quần chúng, trấn áp những kẻ xấu có tư tưởng phá
hoại sự bình yên cuộc sống của đồng bào các dân tộc biên giới Việt Lào [24, tr.56].
Đi đôi với công tác đảm bảo trật tự trị an trên địa bàn tình, nhân dân
Sơn La cũng làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào. Từ
đầu năm 1961, thực hiện nhiệm vụ của Khu giao, lực lượng công an
nhân dân vũ trang và các đồn biên phòng Sốp Cộp, Mường Lạn,
Chiềng Khương (Sơn La) đều tổ chức các đội công tác để phối hợp
chặt chẽ với lực lượng bạn củng cố và bải vệ biên giới, bảo vệ các
đồng chí lãnh đạo, các cơ quan, đơn vị Pa thét Lào; vận chuyển lương
thực, vũ khí giúp bạn. Tiểu đồn 428 bộ đội địa phương Sơn La sát
cánh cùng các đơn vị vũ trang của bạn chiến đấu và phục vụ chiến
đấu tại chiến trường Bắc Lào. Những đóng góp của quân và dân Sơn
La góp phần tích cực vào việc giải phóng khu vực biên giới Lào cuối
năm 1960, xây dựng, củng cố và bảo vệ vùng biên giới hịa bình, hữu
nghị Việt - Lào [40, tr.155]
Các đồn biên phòng đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho cán bộ, bộ đội Pa Thét
Lào đứng chân xây dựng lực lượng phục vụ cho chiến lược lâu dài để lấy lại
Sầm Nưa. Đầu năm 1960, thực hiện chỉ thị của cấp trên, đồn biên phòng ở 2
tiểu khu 53 và 55 đều tổ chức các tổ công tác ngoại biên giúp Bạn hoạt động ở
các huyện Mường Son, Xiềng Khọ, Bun Thong thuộc Sầm Nưa, dọc theo dải
đất Sông Mã đến sông Nậm Ét gồm có 5 xã với 61 bản. Lực lượng Cơng an
nhân dân vũ trang đã góp phần bảo vệ phong trào cách mạng nươc láng giềng,
tạo mối quan hệ đặc biệt, sâu sắc. Trong đợt tổ chức vượt ngục của lực lương
Pa Thét Lào, tiểu đội 12 do đồng chí Nguyễn Văn Bảo chỉ huy phối hợp với du
kích Bạn sang Mườ5ng Hiềm đón đồng chí Xu Pha Nu Vơng và đồn cán bộ
qua biên giới sang Việt Nam an tồn. Các chiến sĩ đồn biên phịng Pa Háng
vượt hiểm nguy, hoàn thành nhiệm vụ đoàn tiểu đoàn II Pa Thét Lào do đồng
chí Lao Tự chỉ huy hành quân từ Cánh Đồng Chum tới tập kết ở Mộc Châu.
21
Tháng 8-1960, Đại đội 35, tiểu khu 53 tổ chức vận tải vũ khí, đạn dược đi dài
ngày từ Mộc Châu, Hịa Bình lên cửa khẩu Na Mèo, Mường Lát - Thanh Hóa
giao cho các đơn vị tập kết ở bản Đạc an tồn. Khu vực biên phịng Sơn La còn
là bàn đạp xuất phát của lực lượng Bạn và ta cùng triển khai đội hình đánh
địch, mở rộng vùng giải phóng của Bạn. Tháng 9 năm 1960, lực lượng Công an
nhân dân dọc biên giới phối hợp cùng một số đơn vị vũ trang của bạn cùng các
đội công tác cơ động của Khu đã đồng loạt tiến hành đánh các vị trí đóng qn
của địch dọc biên giới từ Sốp Hào, Xiềng Khọ, Mường Son, Bun Thong, dải
hành lang biên giới được mở rộng. Đến tháng 10 - 1960, Sầm Nưa được giải
phóng, chính quyền cách mạng Lào được thiết lập trên toàn bộ địa bàn Sầm Nưa.
Nhiều cán bộ, chiến sĩ lực lượng Công an nhân dân vũ trang nhân dân Sơn La đã
thể hiện tinh thần chiến đấu qn mình, hết lịng vì nhiệm vụ quốc tế cao cả, để lại
trong nhân dân các dân tộc Lào tình cảm mến phục, tiêu biểu như gương chiến
đấu dũng cảm quên mình vì nhân dân, vì phong trào xây dựng cơ sở cách mạng
của Bạn của các chiến sĩ Đinh Thử, Văn Danh Thu, Lường Văn Sủng…
Sau khi quân phái hữu rút lui chúng gài lại Sầm Nưa hàng trăm tên phản
động, gián điệp hòng tiếp tục hoạt động chống lại chính quyền cách mạng Lào.
Đầu năm 1961, Bạn giải phóng căn cứ Pa Thí, là trung tâm căn cứ quan trọng
của bọn phỉ Vàng Pao ở Sầm Nưa. Theo yêu cầu của Bạn năm 1962, một số đội
công tác ngoại biên của công an nhân dân vũ trang Khu Tây Bắc vẫn ở lại giúp
Bạn về mặt an ninh, xác minh, sưu tra các đối tượng, xây dựng các phương án
quản lý các địa bàn. Tháng 2-1962, sau khi 3 phái ở Lào ký Hiệp định Viêng
Chăn, được Mỹ yểm trợ, lực lượng phỉ Vàng Pao quay lại chiếm đóng cứ điểm
Pa Thí, rồi tấn cơng ra chiếm đóng ở 25 vị trí thuộc 4 huyện: Xiềng Khọ,
Mường Son, Hua Mường, Tay Nưa của tỉnh Sầm Nưa, giáp biên giới với Việt
Nam. Chúng chiếm đến đâu lập chính quyền tay sai đến đó với âm mưu lập
một châu mường tự trị. Mọi hoạt động của Vàng Pao lúc này chủ yếu tập trung
vào hai mục tiêu là tấn cơng lấn chiếm vùng giải phóng của Bạn, uy hiếp gây
rối biên giới Việt Nam. Chúng tập trung thổ phỉ hóa quần chúng ở các bản dân
tộc H’Mơng, nhất là các vùng Mường Bóp, Lơ Cao, Pu Nhang, Pu Ta Cọ, Nặm
22
Lầm, Hua Mức, trong đó có nhiều vùng kề sát biên giới Việt Nam. Trước tình
hình phức tạp ở vùng giải phóng của Lào, Bạn tiếp tục yêu cầu các chiến sĩ
biên phòng của ta sang giúp đỡ củng cố và bảo vệ thành quả cách mạng ở các
xã giáp biên giới.
Công tác bảo vệ biên giới Việt - Lào những năm 1963 - 1964 diễn biến
phức tạp, địch tăng cường xâm nhập, phá hoại khu vực biên phòng làm cho
tình hình an ninh khu vực biên giới Sơn La - Sầm Nưa trở nên trầm trọng.
Đây là thời gian cách mạng cả nước đứng trước ngưỡng cửa của một thời kỳ
thử thách mới. Năm 1964, bị thất bại nặng nề trong chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt”, đế quốc Mỹ quyết định chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” ồ ạt đưa quân trực tiếp tham chiến ở miền Nam, chuẩn bị xúc tiến kế
hoạch tấn công đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Việc thực
hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội 1961 - 1965 ở
miền Bắc đang giành được những kết quả to lớn trên nhiều lĩnh vực, song
cũng đang đứng trước những thử thách khôn lường với những hành động phá
hoại của đế quốc Mỹ và tay sai. Trên địa bàn Sơn La từ khi chính phủ Phu Mi
(Lào) ngả theo Mỹ, cộng tác với Ngụy quyền Sài Gịn đẩy mạnh hoạt động
biệt kích, gián điệp, thu thập thơng tin tình báo chuẩn bị cho âm mưu chiến
tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc. Đế quốc Mỹ còn tập hợp các tổ
chức lưu vong phản động người Thái, H’Mông phục vụ cho âm mưu chiến
lược của chúng. Chúng trực tiếp tổ chức giúp đỡ bọn phỉ Vàng Pao, xây dựng
căn cứ Long Chẹng thành trung tâm phỉ để khống chế vùng Bắc Lào, tích cực
tập hợp lực lượng, có lúc lên tới 36 đại đội phân tán, quân số lên tới 20 ngàn
tên. Đồng thời Mỹ cịn xây dựng cứ điểm Pa Thí thành căn cứ ra-đa hiện đại
để hướng dẫn không quân Mỹ đánh phá vùng Bắc Lào và miền Bắc Việt Nam.
Hai cứ điểm Long Chẹng và Pa Thí của địch đối diện với khu vực Sông Mã,
tỉnh Sơn La.
Đồng thời với công tác trấn áp, tập trung cải tạo các phần tử phản cách
mạng, Ban Chỉ huy Công an nhân dân vũ trang Sơn La coi trọng chỉ đạo giải
quyết các chuyên án quan trọng. Vụ xảy ra ở 6 xã biên giới Sông Mã, chủ yếu
23
ở khu vực Sốp Cộp với trên 10 tên tham gia, gọi là tổ chức “Tha May”. Đây là
một tổ chức phản động do bạn tay sai cũ của địch tập hợp lại, có sự tiếp tay của
Tiểu đồn 24 Vương quốc Lào. Chúng tập hợp lực lượng, thu thập vũ khí,
chuẩn bị bạo loạn vũ trang, tập kích cán bộ và lực lượng Công an nhân dân vũ
trang ở khu vực, song chúng chưa kịp hành động đã bị ta bắt toàn bộ. Một vụ
khác xảy ra tại Xuân Nha do bọn phản động Thái lưu vong tổ chức, chúng móc
nối với tổ chức tình báo Vương quốc Lào từ năm 1959, đến tháng 6-1963 lực
lượng Công an vũ trang nhân dân tỉnh đã phối hợp với Đồn Xuân Nha triệt phá
tồn bộ nhóm phản động này.
Tháng 3-1963, Bộ Tư lệnh mở Hội nghị quân chính và Hội nghị bàn về
tuyến biên giới Việt - Lào, trong Hội nghị chủ trương nêu cao quyết tâm “đánh
thắng địch trong bất cứ tình huống nào” và u cầu tồn bộ lực lượng tập trung
cao độ cho hoạt động đấu tranh chống gián điệp biệt kích, phá tan các cuộc xâm
nhập, phá hoại của địch. Cuộc đấu tranh phòng chống gián điệp biệt kích trên
tuyến biên phịng Sơn La giành được thắng lợi to lớn, góp phần đập tan âm mưu
gây rối phá hoại hậu phương miền Bắc của địch. Cùng với nhiệm vụ trong nước,
nhiệm vụ giúp đỡ cách mạng Lào được đặc biệt coi trọng. Tháng 9 năm 1959,
Ban Chỉ huy Công an nhân dân vũ trang Trung ương ra Chỉ thị 52 và Mệnh lệnh
số 12/TM cho các tỉnh có biên giới chung với Lào, yêu cầu quán triệt trong toàn
lực lượng nhiệm vụ bảo vệ tuyệt đối an tồn biên giới quốc gia trong mọi tình
huống và làm tròn nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Lào. Chỉ thị nhấn mạnh:
“Cách mạng Lào có quan hệ khăng khít với cách mạng Việt Nam. Trách nhiệm
của mỗi cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân vũ trang là phải nâng cao tinh thần
quốc tế vô sản trong sáng, tinh thần giúp đỡ Bạn không điều kiện” [24, tr.86].
Cùng với nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, chi viện sức
người sức của cho cách mạng miền Nam, Sơn La luôn coi trọng nghĩa vụ quốc
tế đối với bạn Lào. Việt Nam - Lào nói chung, Sơn La và các tỉnh Bắc Lào nói
riêng, có quan hệ khăng khít cả về địa lý, lịch sử “núi liền một dải, sông chung
một nguồn”. Điều kiện khách quan đã làm cho điều kiện hai nước gắn liền với
nhau hơn, lợi ích và sự sống cịn của hai nước đòi hỏi hai dân tộc đời đời phải
24
gắn bó, nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau để bảo vệ độc lập xây dựng đời sống ấm
no, hạnh phúc lâu dài cho nhân dân mỗi nước. Quán triệt tinh thần ấy, trong
những năm 1966 - 1975, Sơn La tiếp tục huy động hàng triệu ngày công phục
vụ chiến đấu bên nước bạn Lào, chỉ riêng 4 tháng đầu năm 1968, Sơn La đã
vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí và lương thực, thực phẩm sang chiến trường
Bắc Lào với 45 vạn ngày công. Theo yêu cầu của bạn từ cuối năm 1965, Tiểu
đoàn 428 bộ đội địa phương cùng 6 đại đội công an vũ trang và dân quân Sơn
La phối hợp với lực lượng vũ trang của bạn chiến đấu giải phóng Mường Son,
Pha Bơng, Tịng Cọ… Ngày 01-02-1967, Sơn La thành lập Ban Miền Tây (cơ
quan chuyên làm công tác giúp bạn), tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác trên
nhiều lĩnh vực giữa Sơn La và tỉnh Hủa Phăn của Lào, góp phần thắt chặt quan
hệ đặc biệt thủy chung, trong sáng Việt Nam - Lào nói chung, Sơn La với các
tỉnh Bắc Lào nói riêng.
Trải qua chặng đường 21 năm (1955 - 1975), dưới sự lãnh đạo của Trung
ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh mà trực tiếp là khu ủy Khu tự
trị Tây bắc, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Sơn La đã quán triệt
sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, vận dụng vào hoàn
cảnh cụ thể của tỉnh vùng cao biên giới, đa dân tộc. Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc, Sơn La vững vàng vừa sản xuất, vừa chiến
đấu góp phần đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ
vững chắc quê hương, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong
nội địa và biên giới; đồng thời dốc sức người, sức của chi viện cho miền Nam
và Lào giành thắng lợi hoàn toàn.
Kể từ khi có Đảng cộng sản Đơng Dương ra đời, truyền thống đồn kết
chiến đấu gắn bó giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào đã trở thành mối
quan hệ hữu nghị đặc biệt thủy chung trong sáng, mẫu mực giữa hai Đảng và
nhân dân hai nước Việt - Lào. Trong mối quan hệ đặc biệt đó, Sơn La là hình ảnh
thu nhỏ của Tổ quốc Việt Nam, với 250 km đường biên giới Sơn La - Hủa Phăn
và Luông Phabăng (Lào), Đảng bộ, chính quyền các cấp và nhân dân các dân tộc
Sơn La ln chú trọng làm trịn nghĩa vụ quốc tế của mình, gắng sức củng cố xây