MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1
Chương 1: Đảng lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta
7
7
về dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.3. Các hình thức thực hiện dân chủ, điều kiện để dân chủ được thực
11
hiện và ý nghĩa của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở
26
Chương 2: Quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở
(1998 - 2010)
2.1. Đảng lãnh đạo thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế
2.2. Sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực chính trị
2.3. Sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa, xã hội
33
33
49
58
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm qua thực tiễn thực
hiện dân chủ ở cơ sở
3.1. Một số nhận xét
3.2. Kinh nghiệm
3.3. Một số khuyến nghị về phương hướng, giải pháp nâng cao chất
lượng thực hiện dân chủ ở cơ sở
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
75
75
80
86
97
99
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ là một phạm trù lịch sử phản ánh trình độ phát triển của một
xã hội và chịu sự chi phối của các điều kiện lịch sử của xã hội đó như trình độ
chính trị, trình độ kinh tế, trình độ dân trí… Dân chủ có tính phổ biến, nhưng
đồng thời cũng có tính đặc thù. Dân chủ vừa biểu hiện những giá trị chung
của nhân loại, vừa biểu hiện những giá trị của mỗi quốc gia, dân tộc khác
nhau, do hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau chi phối.
Dân chủ là ước mơ từ ngàn xưa của loài người, là mục đích và phương
châm hành động của các dân tộc mong muốn được giải phóng khỏi ách áp
bức, bất cơng. Mỗi bước tiến của dân chủ phải đổi bằng rất nhiều hy sinh, nỗ
lực của con người, nên dân chủ không phải là đặc ân ban phát. Dân chủ là yêu
cầu khách quan, là địi hỏi chính đáng của con người trong đời sống xã hội, là
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Cuộc sống của
con người càng nâng lên, trình độ trí tuệ càng phát triển thì xu hướng dân chủ
càng mạnh mẽ.
Dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là bản chất của chế
độ xã hội chủ nghĩa, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa
là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, để phát triển xã hội. Nền
dân chủ chúng ta đang hướng tới là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là dân chủ
của đại đa số nhân dân lao động gắn với công bằng xã hội, chống áp bức bất
công, được thực hiện trong thực tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính chị,
văn hóa - xã hội, được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm.
Nhận thức được tầm quan trọng to lớn của dân chủ, từ khi bước vào
công cuộc đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến vấn
đề này. Với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” (Đại hội
VI), với việc nhấn mạnh “cần phải xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở” (Đại hội VIII) và đặc biệt, việc Đảng ta bổ sung nội dung dân chủ vào
2
hệ mục tiêu của đổi mới trong Nghị quyết Đại hội IX, đều nhằm mục đích
nâng cao hơn nữa nhận thức về vị trí và tầm quan trọng của dân chủ, để thực
hành dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Để đạt mục tiêu đề ra, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách, quy chế nhằm phát huy dân chủ trong đời sống xã hội. Quá trình
thực hiện và phát huy dân chủ ở cơ sở đã tạo nên chuyển biến tích cực trong
nhận thức chính trị và hành động của đơng đảo tầng lớp nhân dân, đã và đang trở
thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ cơng cuộc đổi mới tồn diện ở nước ta.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở vẫn cịn nhiều hạn chế.
Tình trạng vi phạm dân chủ và quyền làm chủ của dân đã làm xuất hiện nhiều
“điểm nóng” về chính trị, xã hội và có xu hướng lan rộng, ngày càng phức
tạp, địi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có biện pháp xử lý đúng đắn, kịp thời
để giữ vững ổn định chính trị - xã hội, thúc đẩy đổi mới. Đặc biệt, trong thời
kỳ mở cửa và hội nhập quốc tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố,
nước ta đứng trước nhiều cơ hội phát triển, đồng thời cũng phải đối mặt với
những thách thức và nguy cơ trong phát triển. Dân chủ và thực hành dân chủ
cơ sở, do đó đang là vấn đề có tính bức xúc, cấp bách. Nếu khơng giải quyết
thành cơng vấn đề này thì khơng thể giữ vững ổn định chính trị - xã hội,
không thể thực hiện được những mục tiêu đổi mới đã vạch ra.
Ở nước ta, vào năm 1998 Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã ra chỉ thị về việc ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở, sau đó, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quy chế dân chủ ở cơ sở nơng thơn, đó là Quy chế dân chủ ở xã.
Đến năm 2002, tại Hội nghị Trung ương năm (khóa IX), Đảng ra Nghị
quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn, gọi chung là cấp xã.
Trải qua gần 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đến năm
2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có nghị quyết nâng Quy chế dân chủ ở
3
cơ sở thành Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu thực hiện dân chủ và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, đặc biệt ở nông thôn, làng xã.
Để vấn đề dân chủ ở cơ sở được thực hiện nghiêm túc, rộng khắp,
thường xuyên và trở thành nề nếp sinh hoạt hàng ngày của nhân dân, cần phải
tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, nhất là Đảng bộ cơ sở đối với
việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ. Đây là điểm mấu chốt quyết
định cho việc thực thi có hiệu quả dân chủ ở cơ sở. Xuất phát từ vị trí, vai trị,
tầm quan trọng về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ cơ sở, tác giả chọn vấn
đề “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở (1998 2010)” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ lịch sử chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân chủ là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học xã
hội. Ở nước ta, trong các văn kiện của Đảng, các tác phẩm của Hồ Chí Minh
đã nhiều lần đề cập đến vấn đề này.
Mặc dù quy chế dân chủ ở cơ sở mới được thực hiện từ năm 1998
nhưng đến nay đã có rất nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này
như: Đề tài khoa học về “Sự lãnh đạo của Đảng bộ xã đối với việc thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở - thực trạng và giải pháp” do tác giả Đinh Văn Tư Phó Trưởng ban Dân vận TW làm chủ nhiệm. “Quy chế thực hiện dân chủ ở
cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của PGS.TS Dương Xuân Ngọc,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. “Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
trong tình hình hiện nay, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do tác giả
Nguyễn Cúc (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. “Xây dựng và
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” của Đỗ Quang Tuấn (chủ biên), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. “Phát huy dân chủ ở xã, phường” do
PGS.TS Vũ Văn Hiền (chủ biên), “Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở” do TS Lương Gia Ban (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
4
Nội, 2003. “Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở
nước ta hiện nay” do TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ Văn Thông đồng chủ
biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.…
Các cơng trình nghiên cứu trên đều đề cập đến vấn đề xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở góp phần bổ sung lý luận về dân chủ ở cơ sở và
tổng kết những bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở, làm cho Quy chế dân chủ ở cơ sở ngày càng hồn thiện và áp dụng
có hiệu quả trong đời sống, góp phần xây dựng một nền dân chủ thực sự. Các
cơng trình đó từ những hướng tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau đã cố
gắng làm rõ bản chất, nội dung, tính chất và cơ chế thực hiện dân chủ.
Tuy nhiên, dân chủ ở cơ sở là đề tài rất rộng, rất phong phú, mỗi một
môn khoa học tập trung nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Từ góc độ
khoa học Lịch sử Đảng, đề tài này không những đề cập mặt lý luận của vấn đề
dân chủ ở cơ sở mà còn đi sâu tìm hiểu quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện dân
chủ ở cơ sở trong thời gian từ khi ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở đến
2010, cùng những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn ấy. Các công trình nghiên
cứu trên là cơ sở để tơi kế thừa và phát triển luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc lãnh
đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở từ 1998 đến 2010 và rút ra một số kinh nghiệm
về sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ trên.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích một số vấn đề lý luận về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa
và dân chủ ở cơ sở để làm sáng tỏ sự cần thiết phải thực hiện dân chủ ở cơ sở
trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích q trình Đảng lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở từ 1998
đến 2010.
5
- Đánh giá những kết quả bước đầu, bao gồm những thành cơng và hạn
chế trong q trình lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở
- Nêu một số khuyến nghị về phương hướng và giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng thực hiện dân chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
- Những chủ trương, biện pháp của Đảng để lãnh đạo thực hiện dân chủ
ở cơ sở.
- Kết quả việc thực hiện, kể cả thành công và hạn chế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Từ năm 1998 đến năm 2010.
- Nội dung: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ
sở là đề tài rất rộng, được thể hiện toàn diện trên nhiều lĩnh vực và có nhiều
cách tiếp cận, tuy nhiên trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Ở mỗi lĩnh vực, tác giả đi vào tìm hiểu
một số vấn đề cơ bản mà tác giả sẽ trình bày trong luận văn dưới góc độ Lịch
sử Đảng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; các văn kiện, các chủ trương, chính
sách của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo việc thực thi dân chủ ở cơ sở. Bên cạnh
đó, tác giả cũng kế thừa, chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số nhà
khoa học đã được công bố về vấn đề dân chủ cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng tổng hợp những nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú trọng sử
6
dụng phương pháp lịch sử và lơgic; phân tích và tổng hợp, kết hợp với
phương pháp so sánh và điều tra xã hội học để nghiên cứu và trình bày kết
quả nghiên cứu.
6. Cái mới của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
việc lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở.
- Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng trong
việc lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở và đưa ra một số khuyến nghị về
phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện dân chủ ở cơ
sở trong giai đoạn hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể cung cấp thêm những cơ sở
khoa học nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ ở cơ sở.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Vấn đề dân chủ ở cơ sở hiện nay ở nước ta, là một vấn đề chính trị xã hội nhạy cảm và bức xúc. Do vậy, việc nghiên cứu thực tiễn và bổ sung lý
luận về xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai
đoạn hiện nay là rất cần thiết.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy chuyên đề; đồng thời cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các cơ quan chức năng trong việc tiếp tục đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực
hiện dân chủ ở cơ sở, cho các đối tượng rộng rãi có quan tâm tới đề tài nghiên
cứu này.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
còn có phần nội dung được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
7
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ là khái niệm xuất hiện từ thời cổ đại. Theo chữ Hy Lạp là
Demos và Kratos, nghĩa là nhân dân và chính quyền, nhân dân làm chủ mọi
quyền lực xã hội. Đó là mơ ước từ xa xưa của nhân loại và được các nhà tư
tưởng tiến bộ nêu ra từ rất sớm trong lịch sử. Trong lịch sử, sự hình thành và
phát triển dân chủ gắn với sự xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nền
dân chủ, chế độ dân chủ chính là nhà nước và chế độ nhà nước tồn tại trong
một xã hội nhất định. Tuy vậy, không phải chế độ nhà nước nào cũng đồng
thời là chế độ dân chủ, nhưng bất cứ chế độ dân chủ nào cũng phải được biểu
hiện bằng các hình thức nhà nước tương ứng. Trải qua hàng ngàn năm, đến
thời đại chúng ta, dân chủ vẫn đang là đòi hỏi bức xúc của con người, là nhu
cầu và động lực phát triển xã hội. Qua mỗi thời đại, mỗi hình thái kinh tế - xã
hội, khái niệm dân chủ ngày càng được triển khai phong phú hơn cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu, liên quan đến nhận thức, hành vi của con người, của các
cộng đồng xã hội và hoạt động của nhà nước. Ở mỗi thời đại, dân chủ mang
những đặc trưng về hình thức, nội dung, bản chất của thời đại đó.
Dân chủ liên hệ mật thiết với bình đẳng, cơng bằng xã hội và tự do.
Chúng hợp thành một hệ thống chỉnh thể các thuộc tính mà sự phát triển xã
hội cần đạt tới. Đó cũng chính là những thước đo để đánh giá tiến bộ xã hội
mà một chế độ xã hội đạt được trong một thời đại lịch sử nào đó.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì:
Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên
việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận
8
nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào
tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất
định [60, tr.653].
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển
của đời sống con người. Trong lịch sử, loài người đã trải qua nhiều hình thức
dân chủ khác nhau nhưng nền dân chủ đầy đủ nhất, tiến bộ nhất là dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử,
nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp, dân chủ rộng rãi với nhân dân
lao động, hạn chế dân chủ với giai cấp bóc lột và bọn phản động, dân chủ phải
đi đơi với kỷ cương, kỷ luật, trách nhiệm của công dân trước pháp luật.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức thể hiện quyền tự do, bình
đẳng của cơng dân, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lực. Dân chủ xã
hội chủ nghĩa ghi nhận toàn bộ những quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận tự
do báo chí, hội họp, tự do đi lại, tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm về
thân thể và nhà ở, quyền được học hành, nghỉ ngơi. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
bảo đảm cho tất cả mọi công dân những khả năng tốt nhất để bày tỏ nguyện
vọng và trình bày những ý kiến của mình về các vấn đề của đời sống xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức chính trị của nhà nước xã
hội chủ nghĩa đồng thời nó là một chế độ, một thiết chế quyền lực của giai
cấp công nhân cầm quyền thực hiện lợi ích của mình và của tồn xã hội. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa khơng phải là sự thống trị của bộ phận dân cư này đối
với bộ phận dân cư khác mà là bảo đảm sự cơng bằng, bình đẳng cho mọi
cơng dân, chống lại áp bức bất công. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục
tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể
hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại
diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện
đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối chính sách của Đảng và pháp
9
luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân
khơng chỉ có quyền mà cịn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành
các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ được xây dựng và hình thành
trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mang bản chất của giai cấp công
nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản để thực hiện và đảm bảo quyền
làm chủ thực sự của đông đảo quần chúng nhân dân đối với xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa bảo đảm. Trong các lĩnh vực của dân chủ xã hội chủ nghĩa thì dân
chủ trong kinh tế có ý nghĩa cơ bản. Chỉ khi nào người lao động thực sự làm
chủ về kinh tế thì lúc ấy họ mới có dân chủ thực sự và mới trở thành lực
lượng quyết định tồn bộ q trình phát triển của xã hội.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền làm chủ và phát huy tính
tự giác và sáng tạo to lớn của quần chúng lao động trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ chủ nghĩa xã hội; đồng thời tạo điều kiện cho con người phát triển
toàn diện. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ vì con người với tư cách
cá nhân hay cộng đồng xã hội vì sự nghiệp giải phóng con người.
Như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa được hình thành dần dần và từng
bước được hoàn thiện cùng với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Khái niệm dân chủ ở cơ sở
Cơ sở là nơi sinh sống của các cộng đồng dân cư, là nơi diễn ra mọi
hoạt động của cộng đồng, từ thực hiện các quyền dân chủ đến phát triển kinh
tế, giữ gìn và phát huy truyền thống của cộng đồng, xây dựng cuộc sống văn
hóa, văn minh dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý trực tiếp của chính
quyền và sự tham gia rộng rãi của các đoàn thể nhân dân. Cơ sở là nơi trực
tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất.
Cơ sở không chỉ là xã, phường, thị trấn mà cịn là các cơ quan, trường
học, bênh viện, cơng, nơng trường, xí nghiệp. Cơ sở là nền tảng xã hội, là nơi
10
trực tiếp thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng là
nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của các chủ trương và chính sách ấy.
Cấp cơ sở là cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính nhà nước. Đó là
cấp xa Trung ương nhất, nhưng lại là cấp gần dân nhất. Trong quá trình thực
thi quyền lực nhà nước, chính quyền cấp cơ sở là cấp trực tiếp làm việc với
dân, trực tiếp chuyển tải những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
đến người dân. Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ quyền lực nhà
nước, quyền lực xã hội của mình trước hết và cơ bản là ở cơ sở, từ đó mới có
thể làm chủ ở phạm vi rộng lớn hơn. Xét theo nghĩa đó, dân chủ cơ sở mang
tính nền tảng đối với chế độ dân chủ.
Dân chủ ở cơ sở là nói tới sự làm chủ của nhân dân ở thôn, làng, xã
trong việc ban hành và thực hiện các quyết định quan trọng về chính trị, kinh
tế, xã hội trước hết trong phạm vi thôn, xã. Đối với chính quyền cấp cơ sở
(xã, phường) thì việc thực hiện dân chủ ở cơ sở có nghĩa là cán bộ xã, phường
phải nhận thức và hành động như là những “công bộc” của dân, tôn trọng ý
kiến của nhân dân, tạo điều kiện tối đa để tiếng nói của nhân dân được thể
hiện trong những quyết định quan trọng của chính quyền.
Dân chủ ở cơ sở là q trình đưa những giá trị dân chủ vào đời sống xã
hội một cách trực tiếp và rộng rãi nhất ở chính nơi mà nhân dân đang sinh
sống, làm việc hàng ngày.
Cũng có thể hiểu dân chủ ở cơ sở là quá trình hiện thực hóa cơ chế hoạt
động của hệ thống tổ chức quyền lực ở cơ sở sao cho nhân dân được bảo đảm
một cách trực tiếp và rộng rãi nhất những quyền được biết, được bàn, được
làm, được kiểm tra ở chính nơi họ đang sinh sống và làm việc hàng ngày.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là thực hiện các q trình dân chủ về chính
trị, kinh tế, văn hóa - xã hội một cách trực tiếp, rộng rãi và liên tục đối với
mọi người, mọi giới và mọi lứa tuổi. Dân chủ ở cơ sở được thực hiện thơng
qua các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở và sự hiểu biết cùng khả năng
11
thực hiện của mỗi người. Thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở sẽ phát huy quyền làm
chủ, sức sáng tạo của người dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn
của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân
trí, ổn định chính trị, tăng cường đồn kết, xây dựng các tổ chức đảng, chính
quyền và đồn thể ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và khắc phục tình
trạng suy thối, quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên, và các tệ
nạn xã hội, góp phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phát huy dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ góp phần
củng cố, kiện tồn tổ chức đảng, chính quyền, các đồn thể nhân dân ở cơ sở,
khơng chỉ là giải pháp để hạn chế sự tha hóa quyền lực, chống lại sự quan liêu,
tham nhũng trong bộ máy nhà nước mà nó cịn khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của
quần chúng lao động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của tồn thể nhân
dân trong q trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta
về dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng dân chủ là một phạm trù lịch sử có quá
trình hình thành và phát triển lâu dài. Từ việc nắm vững và phân tích thực tế
lịch sử đã diễn ra trong sự phát triển dân chủ của nhân loại, chủ nghĩa MácLênin đã khẳng định chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự thay thế lịch sử
đối với chế độ dân chủ tư sản, là nấc thang mới trên chặng đường phát triển
của xã hội loài người. Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Mác là sự quy
định của nhân dân, chủ quyền thuộc về nhân dân, chế độ dân chủ đó là chun
chính cách mạng của giai cấp vơ sản. Cịn Lênin cho rằng chun chính vơ
sản đó là chế độ dân chủ cho nhân dân, cho số đông đi đôi với sự trấn áp tất
yếu với thiểu số bóc lột. Với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân thực sự
được giải phóng, thực sự là người chủ xã hội và làm chủ mọi quyền lực trong
12
xã hội. Chỉ có trong chế độ dân chủ vơ sản, quyền làm chủ của nhân dân mới
được phát huy mạnh mẽ. Lênin khẳng định:
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhiều mặt của chế độ dân chủ nguyên
thủy tất nhiên sẽ sống lại, vì lần đầu tiên trong lịch sử những xã hội
văn minh, quần chúng nhân dân vươn lên tham gia một cách độc lập
không những vào việc bầu cử và tuyển cử, mà cả vào việc quản lý
hàng ngày nữa [39, tr.143].
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp cơng nhân thơng qua đảng của
nó đối với tồn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi
ích riêng cho giai cấp cơng nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi
ích cho tồn thể nhân dân, trong đó có giai cấp cơng nhân.
Chủ nghĩa Mác-Lênin nêu lên mối quan hệ giữa đấu tranh cho dân chủ
và đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội, đó là: Khơng thể có một chủ nghĩa xã hội
thắng lợi mà lại khơng thực hiện dân chủ hồn tồn, giai cấp vô sản cũng
không thể nào chuẩn bị để chiến thắng giai cấp tư sản nếu nó khơng tiến hành
một cuộc đấu tranh toàn diện triệt để và cách mạng để giành dân chủ. Đối với
các nước thuộc địa, quan điểm trên đây được Lênin luận giải rất sâu sắc. Theo
Lênin, trong các nước thuộc địa tồn tại đồng thời hai mâu thuẫn. Thứ nhất là
mâu thuẫn giữa nông dân với tầng lớp địa chủ phong kiến. Đây là tiền đề của
cuộc đấu tranh vì dân chủ trong phạm vi cuộc cách mạng tư sản. Thứ hai là
mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản. Đây là tiền đề cho cuộc đấu tranh vì chủ
nghĩa xã hội. Lênin cho rằng sự tác động giữa hai loại mâu thuẫn đó đã tạo ra
ở các nước thuộc địa một “bào thai” của thời đại lịch sử mới. Đó là cuộc cách
mạng dân chủ tư sản nhưng đã mang tính nhân dân, hơn thế nữa đã mang
“dấu hiệu vô sản”. Thắng lợi của cuộc cách mạng này, Lênin viết, tất yếu sẽ
dẫn tới “chuyên chính dân chủ cách mạng của giai cấp vô sản và nông dân”.
Trong khi cho rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể nào thực
hiện được nếu khơng có cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và cần phải kết hợp
13
hai cuộc đấu tranh đó với nhau, Lênin địi hỏi phải “bắt cái thứ nhất phục tùng
cái thứ hai. Tất cả khó khăn là ở đấy, tồn bộ thực chất là ở đấy”[41, tr.470].
Lênin khẳng định: không thể thực hiện được chủ nghĩa xã hội bằng
cách nào khác bằng cách thơng qua chun chính vơ sản, nền chun chính
này kết hợp việc dùng bạo lực để chống lại giai cấp tư sản, tức thiểu số trong
dân cư, với việc phát triển chế độ dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là với việc
làm cho toàn thể quần chúng nhân dân tham gia thực sự bình đẳng và thực sự
rộng rãi vào mọi công việc của nhà nước. Theo quan diểm của chủ nghĩa
Mác- Lênin, dân chủ xã hội chủ nghĩa gấp triệu lần dân chủ tư sản vì dân chủ
xã hội chủ nghĩa dựa trên những cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội vững chắc.
Thứ nhất, về kinh tế, dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất.
Thứ hai, trong chủ nghĩa xã hội mọi người lao động đều được tham gia
vào các công việc của nhà nước, họ là thành viên của một nhà nước duy nhất.
Thứ ba, lãnh đạo nhà nước và xã hội là đảng cộng sản - đội tiền phong
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết
định đối với thắng lợi của cuộc đấu tranh cho dân chủ xã hội chủ nghĩa. Lênin
nhấn mạnh khơng có một đảng sắt thép được tơi luyện trong đấu tranh, khơng
có một đảng được tín nhiệm của tất cả các phần tử trung thực trong giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thì khơng thể tiến hành thắng lợi cuộc đấu
tranh cho nền dân chủ chân chính của nhân dân.
Thứ tư, đối tượng cần phải chuyên chính của dân chủ xã hội chủ nghĩa
là thiểu số các lực lượng thù địch chống lại lợi ích của nhân dân lao động và cả
dân tộc. Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ trong khi chú trọng thực hành và phát huy
dân chủ của nhân dân cần kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu, hành động
đi ngược giá trị dân chủ chân chính. Theo các nhà kinh điển, dân chủ xã hội chủ
nghĩa không loại trừ đấu tranh giai cấp, chuyên chính nhất thiết có nghĩa là thủ
tiêu dân chủ đối với giai cấp bị chuyên chính. Lênin khẳng định:
14
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nhiều mặt của chế độ dân chủ nguyên
thủy tất nhiên sẽ sống lại vì lần đầu tiên trong lịch sử xã hội văn minh
quần chúng nhân dân vươn lên tham gia một cách độc lập không
những vào việc bầu cử và tuyển cử mà cả việc quản lý hàng ngày nữa.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, mọi người sẽ lần lượt quản lý và sẽ mau
quen với tình hình là khơng cần ai quản lý cả [39, tr.143].
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ trong dân chủ xã hội chủ nghĩa thì dân chủ
ở cơ sở có ý nghĩa đặc biệt. Bởi vì cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ
của nhân dân một cách rộng rãi, trực tiếp. Lênin vạch rõ: Hãy học tập việc
thực hiện chế độ dân chủ trong thực tiễn, từ cơ sở. Hãy phát động quần chúng
để mọi người đều thực sự tham gia trực tiếp vào mặt quản lý. Không phải chỉ
tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ là đủ, không phải
chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho những người đại diện nhân
dân trong những cơ quan đặc biệt là đủ. Cần phải xây dựng ngay chế độ dân
chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của quần chúng nhân dân vào sự
tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, dân chủ xã hội chủ nghĩa là
nền dân chủ thực sự, được thực hiện và phát triển trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Tuy vậy, dân chủ rộng rãi gắn bó chặt chẽ với ý thức tổ chức
kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao nhất của mọi công dân. Lênin viết:
“Chúng ta phải học tập kết hợp tinh thần dân chủ sục sôi, tràn trề, tựa như
nước lũ mùa xuân, của quần chúng lao động trong các cuộc mít tinh với một
kỷ luật sắt trong lao động, với sự phục tùng tuyệt đối trong lao động đối với ý
chí của một người duy nhất của nhà lãnh đạo xôviết” [40, tr.249]. Những quan
điểm trên đây của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa được Hồ
Chí Minh trân trọng kế thừa vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với điều
kiện Việt Nam.
15
1.2.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là một hình thái nhà nước, là một thiết chế
xã hội, thuộc bản chất nhà nước cách mạng. Tiêu chí đầu tiên để phân biệt nhà
nước Việt Nam được thành lập từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 với nhà
nước thuộc địa nửa phong kiến trước đó là dân chủ. Điều I của Hiến pháp
1946, do Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo và được Quốc hội khóa I kỳ
họp thứ nhất thơng qua ngày 09/11/1946 viết: Nước Việt Nam là một nước
dân chủ cộng hịa. Tồn bộ lời nói đầu của Hiến pháp 1946 gồm 235 từ trong
đó cụm từ dân chủ được nhắc đi nhắc lại tới 4 lần: Cuộc Cách mạng tháng
Tám đã lập nên nền dân chủ cộng hòa. Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai
đoạn hiện nay là kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Một trong những
nguyên tắc để xây dựng hiến pháp là bảo đảm các quyền tự do dân chủ, dưới
một chính thể dân chủ rộng rãi. Điều đó cho thấy, ngay từ bước đầu thành lập
nước, Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng tính dân chủ của nhà nước kiểu mới.
Từ đó trở đi, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định chế độ ta là chế độ dân chủ,
nước ta là một nước dân chủ. Với Hồ Chí Minh trong một nhà nước dân chủ,
một chế độ dân chủ, người dân được đặt ở một vị trí cao nhất, dân là chủ, dân
làm chủ, nhiệm vụ của chính quyền nhà nước dân chủ là phục vụ nhân dân,
việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng phải ra sức làm, việc gì có hại cho dân dù
nhỏ cũng phải ra sức tránh. Trong một số trường hợp Hồ Chí Minh chỉ rõ, dân
là chủ thì chính phủ là cơng bộc, là đầy tớ của nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: Từ chủ tịch nước đến giao thông viên nếu không làm được việc cho
dân thì dân khơng cần đến nữa. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Hễ chính phủ nào
có hại cho dân chúng thì dân chúng phải đạp đổ chính phủ ấy đi và gây lên
chính phủ khác” [44, tr.270]. Người nói tiếp, khi dân dùng đầy tớ làm việc
cho mình thì dân phải giúp đỡ chính phủ. Nếu chính phủ sai thì dân phải phê
bình, phê bình khơng có nghĩa là chửi bới vì nấu cơm cũng phải mất 15 phút
mới chín huống chi là sửa chữa cả một nước đã 80 năm nơ lệ, người tốt có,
16
người xấu có, một đám ruộng có lúa, lại có cỏ, muốn nhổ cỏ thì cũng vài ba
giờ mới xong. Hồ Chí Minh nhận thức rằng trong một nhà nước dân chủ, mọi
quyền hành lực lượng đều ở nơi dân, nhưng nhân dân phải sử dụng quyền lực
đó một cách đúng đắn với tinh thần trách nhiệm và ý thức cơng dân cao nhất.
Hồ Chí Minh cho rằng dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển xã hội. Với Hồ Chí Minh, dân chủ là một thiết chế chính trị, là sản
phẩm của tiến bộ xã hội, trong đó dân chủ xã hội chủ nghĩa là bước phát triển
mới về chất. Suốt đời mình Hồ Chí Minh phấn đấu cho một nước Việt Nam
hịa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Trong những năm kháng
chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh vạch rõ: “Đánh tan thực dân, giải phóng dân
tộc, tranh lại thống nhất và độc lập, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ
mới” [45, tr.15]. Mục tiêu này được Người khái quát lần cuối cùng trong Di
chúc: Điều mong muốn cuối cùng của tơi là: Tồn Đảng, tồn dân ta đồn kết
phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh. Thực hiện dân chủ sẽ phát huy mọi tiềm năng của nhân dân
phục vụ sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn
mạnh: Dân chủ, sáng kiến, hăng hái. Ba điều đó có quan hệ rất chặt chẽ với
nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ, quần chúng đề ra sáng kiến và hăng
hái thực hiện. Vì thế, Người luôn nhắc nhở phải thật sự tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân, tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh, ra
oai với nhân dân. Người đánh giá rất cao vai trò của dân chủ: “Dân chủ là của
quý báu nhất của nhân dân” [48, tr.279]. “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa
vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” [46, tr.249]. Con người được sống
tự do, được thực hiện quyền làm chủ của mình mới phát huy hết tài năng sáng
tạo. Một khi nhân dân là chủ, làm chủ mọi quyền lực xã hội sẽ khơi dậy được
sự sáng tạo của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Người đã xác
định rõ: “Nước ta là một nước dân chủ; bao nhiêu lợi ích đều vì dân; bao
nhiêu quyền hạn đều của dân; Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm
17
của dân...” [47, tr.698]. Bản chất tư tưởng dân chủ của Người là địa vị làm
chủ của người dân, là vai trị làm chủ của người dân. Có thể nói toàn bộ tư
tưởng chủ đạo về dân chủ của Hồ Chí Minh nằm trong chữ “dân”. Xuất phát
từ quan niệm lấy dân làm gốc, Người luôn cho rằng dân phải là chủ và làm
chủ. Từ “dân là chủ” thành “dân làm chủ” là một bước tiến về chất. Phải làm
cho người dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình
đúng lúc, đúng chỗ, dám nói, dám làm. Dân chủ phải được hiểu là quyền con
người, quyền được mưu cầu ấm no, hạnh phúc như nhau. Hồ Chí Minh cũng
khẳng định, nhân dân có quyền làm chủ nhưng phải có nghĩa vụ của người
làm chủ, việc nước là việc chung... Bất kỳ già trẻ, gái trai, giàu nghèo,... đều
phải gánh vác một phần. Như vậy theo quan niệm của Người, dân chủ là sự
thống nhất biện chứng giữa quyền lợi và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm.
1.2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tiếp thu những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến
việc đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Đảng và Nhà
nước ta luôn khẳng định: dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của cách mạng nước ta. Thực tiễn đã chứng minh rằng từ cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến sự nghiệp đổi mới ngày nay, mục tiêu nhất
quán của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo là vì nền dân chủ,
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa để khơi dậy, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng Chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là những khái niệm
quen thuộc trong đời sống chính trị, xã hội ở nước ta. Khái niệm đó được cụ
thể hóa bằng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã
được nhắc đến lần đầu tiên trong Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 28/11/1984 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa V) về tăng cường công tác quần chúng
18
của Đảng. Chỉ thị nêu rõ “phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động, thực hiện tốt khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” trong sản xuất, phân phối cũng như trong tất cả các công tác quan
hệ trực tiếp đến quần chúng”. Đến đại hội mở đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta
với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”
[25, tr.12] đã chỉ rõ:
Đối với những chủ trương có quan hệ trực tiếp tới đời sống nhân
dân trên phạm vi cả nước cũng như ở các địa phương và đơn vị cơ
sở, cấp ủy đảng hoặc cơ quan chính quyền phải trưng cầu ý kiến
nhân dân trước khi quyết định. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thực hiện chế độ nhân
dân lao động tự quản lý nhà nước của mình [25, tr.112].
Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong việc
phát huy dân chủ, tạo ra một thời kỳ mới của đất nước. Bài học số 1 của cách
mạng Việt Nam được Đại hội VI nêu lên là: “Trong tồn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động” [25, tr.29]. Đó là sự thể hiện cơ đọng
và đầy đủ nhất tư tưởng dân chủ của Đảng. Tiếp tục phát triển tư tưởng đó,
trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta khẳng định:
Thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nước ta
là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ là quy luật hình
thành, phát triển và tự hồn thiện của hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa; nó vừa là một mục tiêu vừa là một động lực của công cuộc
đổi mới xã hội ta [26, tr.125].
Đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII) ngày 18/6/1997, Đảng ta nhấn mạnh rằng lúc này để giữ vững và
phát huy được bản chất tốt đẹp của nhà nước ta phải phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê,
19
kiểm sốt nhà nước, khắc phục tình trạng suy thối, quan liêu, mất dân chủ
của nhân dân ở cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một
cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Quan điểm về phát huy dân chủ tiếp tục được
Đảng ta khẳng định trong các văn kiện Đại hội IX và X sau đó. Có thể nói,
quan điểm thực hiện dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động
được thể hiện nhất quán trong Cương lĩnh chính trị, trong các nghị quyết, văn
kiện của Đảng. Đó là nền tảng, là định hướng chính trị quan trọng, trên cơ sở
đó nhà nước cụ thể hóa, thể chế hóa thành những quy định của pháp luật và
thể hiện trong tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm đổi mới,
đặc biệt là sau “sự kiện Thái Bình” và một số “điểm nóng” ở nông thôn nước
ta đã cho thấy, vấn đề dân chủ trước tiên và trọng yếu lại xuất phát từ cơ sở.
Cả nước đã được giải phóng và thống nhất hơn hai mươi năm, công
cuộc đổi mới đã thực hiện hơn mười năm với những thắng lợi rất quan trọng, đã
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng lại chính trên mảnh đất kiên
cường cách mạng Thái Bình lại nổ ra phong trào đấu tranh của nông dân chống
lại bộ phận chính quyền địa phương tham nhũng, mất dân chủ, thối hóa.
Nơng dân Thái Bình đấu tranh địi dân chủ, công khai, công bằng về
phân chia, sử dụng ruộng đất, về thu, chi vốn quỹ hợp tác xã, ngân sách xã, về
thanh tốn chi phí xây dựng đường giao thơng, trường học, trạm xá... bắt đầu
nhen nhóm từ năm 1994, 1995, bùng ra vào tháng 10 năm 1996, lan rộng và
gay gắt từ tháng 5 năm 1997 đến tháng 12 năm 1997. Từ một xóm đến một xã
và lan ra cả huyện Quỳnh Phụ, sau đó lan ra các huyện khác của tỉnh.
Đến tháng 12 năm 1997, cả 8/8 huyện, thị của tỉnh có khiếu kiện tập
thể đơng người. Quỳnh Phụ 36/38 xã, Thái Thụy 46/48 xã, Đông
Hưng 41/46 xã, Tiền Hải 32/35 xã, Kiến Xương 31/40 xã, Hưng Hà
16/34 xã, Vũ Thư 29/31 xã, thị xã Thái Bình 2/13 xã, phường. Toàn
20
tỉnh Thái Bình có 233/285 xã phường (80%), trong đó có 57 xã
thuộc loại nghiêm trọng và rất nghiêm trọng; 130 xã khiếu kiện
phức tạp; 98 xã tuy có khiếu kiện, nhưng vẫn ổn định [34, tr.3].
Từ việc khiếu kiện u cầu chính quyền thơn, xã giải quyết, đến huyện,
tỉnh và trung ương; từ vài người đi khiếu kiện đến hàng chục, hàng trăm, hàng
nghìn người; từ đề đạt nguyện vọng yêu cầu giải quyết đến dùng áp lực đông
người buộc chính quyền làm theo ý mình; từ u cầu thanh tra Nhà nước giải
quyết đến thành lập thanh tra nhân dân tự giải quyết; từ tuân thủ pháp luật đến
vi phạm pháp luật, đập phá công sở, hành hung lực lượng công an, cán bộ
kiểm sát (xô xát giữa nhân dân với công an và cán bộ Viện kiểm sát ngày 9,
10, 11 tháng 5 năm 1997 tại thị trấn Quỳnh Phụ, bắt giữ 23 công an và cán bộ
tại xã Quỳnh Hoa từ ngày 12 đến 16 tháng 11 năm 1997); từ bột phát từng nơi
đến có sự phối hợp giữa các thôn, các xã; từ yêu cầu về lợi ích kinh tế có nơi
đã mang mầu sắc chính trị.
Có thể nói sự bùng nổ điểm nóng Thái Bình là hậu quả của tồn bộ hệ
thống mà cán bộ cơ sở là những người trực tiếp gánh chịu và điểm nóng Thái
Bình đã làm rung động tồn bộ hệ thống chính trị địa phương.
Nguyên nhân trực tiếp và để cho điểm nóng Thái Bình kéo dài, trầm
trọng thêm là phụ thuộc vào tình huống cụ thể và cách xử lý của lãnh đạo. Sự
khiếu kiện của nhân dân đã diễn ra hàng năm trước khi bùng nổ điểm nóng,
ngịi nổ đã cháy âm ỉ từ lâu. Nhưng người cầm quyền thì cứ bình chân như
vại, vẫn cứ khen nhau, phong tặng cho nhau danh hiệu Đảng bộ, Chi bộ trong
sạch vững mạnh. Điều đó cho thấy Đảng, chính quyền thực sự đã xa dân, đã
mất gốc (dân là gốc của thể chế chính trị - xã hội), do vậy thiếu nhậy cảm về
chính trị. Việc từ chối đóng góp, xin ra hợp tác xã, u cầu cơng khai dân chủ
của dân, Đảng và chính quyền cơ sở khơng tự xem xét lại những chủ trương,
chính sách của mình mà lại cho rằng nhân dân khơng chấp hành chính sách,
cần dùng biện pháp cưỡng chế. Sự chống đối của nhân dân ngày càng tăng,
21
đến khi bùng nổ ra biểu tình thì xử lý rất lúng túng. Cán bộ chủ chốt không đủ
bản lĩnh chính trị, khơng dám trực tiếp đối thoại với nhân dân, trả lời những
yêu sách của nhân dân trước đám đơng biểu tình, khơng xuống cơ sở để cùng
với chi bộ, Đảng bộ giải quyết, giáo dục. Từ đây cũng đặt ra những yêu cầu
cho công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo. Việc bắt người cầm đầu không đúng
lúc, đúng cách, thả ra cũng không đúng lúc, đúng cách như ở Quỳnh Mỹ, đã
làm cho tình hình phức tạp hơn. Lúc đầu muốn dùng lực lượng vũ trang đàn
áp, trên không cho phép, lại áp dụng biện pháp tuyên truyền vận động, như ở
Quỳnh Hoa, hơn 100 cán bộ vào ở nhà dân để tuyên truyền vận động, nhưng
lại khơng tìm cách phân hóa, cơ lập, bắt những người cầm đầu, quá khích,
những kẻ vi phạm pháp luật nên những người này tìm cách khống chế nhân
dân, cơ lập, đả kích, đe dọa cán bộ, do vậy tình hình Quỳnh Hoa phức tạp kéo
dài. Nếu sai thì có thể “van, lậy”, dân tha thứ, “chịu thua” dân thì cũng chẳng
sao. Nhưng dân là ai? dân đâu có phải là cả những kẻ quá khích, nhân cơ hội
trả thù cán bộ? Bản chất nhân dân không xấu nhưng trong khi đấu tranh cho
cái tốt, dân dễ bị cái xấu lôi cuốn.
Xuất phát từ điểm nóng Thái Bình, cũng trên cơ sở lý luận và nắm bắt
được yêu cầu thực tiễn, trải qua q trình tìm tịi thử nghiệm, ngày 18 tháng 2
năm 1998, Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khóa VIII) đã ra Chỉ thị số 30CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã có nhiều bước
chuyển biến mới, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, góp phần
phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Quan điểm chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là:
“Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng thể
của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Coi trọng cả ba mặt nói trên khơng vì nhấn mạnh một mặt mà coi nhẹ, hạ thấp
các mặt khác”. Để triển khai chỉ thị của Bộ Chính trị, ngày 11/5/1998 Chính
phủ ban hành Nghị định số 29-1998/NĐ-CP về quy chế thực hiện dân chủ ở
22
xã (áp dụng đối với cả phường và thị trấn). Khi đi vào cuộc sống, Quy chế
dân chủ đã tạo nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tác động trực tiếp, tích cực tới cuộc vận
động xây dựng chỉnh đốn Đảng, củng cố chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ
quốc và đoàn thể các cấp. Niềm tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền tăng
lên, trí tuệ và sáng kiến của quần chúng ở cơ sở được khơi dậy và phát huy.
Năm 2000, sau hai năm thực hiện Quy chế dân chủ, Bộ Chính trị (khóa
VIII) đã xem xét và cho ý kiến chỉ đạo. Bộ Chính trị khẳng định dân chủ vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng, việc ban hành Quy chế
là đúng đắn, được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Từ thực tế đó, Bộ Chính trị
quyết định mở rộng việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở tất cả các
loại hình cơ sở, kể cả các cơ quan Đảng, gắn việc thực hiện Quy chế với cuộc
vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cải cách hành chính.
Thực tế cho thấy, thực hành và phát huy dân chủ, trước hết là dân chủ
cơ sở đã và đang trở thành động lực to lớn thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, vững
bước tiến vào thế kỷ XXI. Trên diễn đàn Đại hội IX, người đứng đầu cơ quan
Dân vận của Đảng, đồng chí Trương Quang Được khẳng định: Quy chế dân chủ
là một động lực mới của cách mạng nước ta, “nhiều ý kiến cho rằng việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở chính là liều thuốc đặc trị có hiệu quả đối với căn
bệnh quan liêu, tham nhũng, cửa quyền ở một số cán bộ; từ đó làm cho mơi
trường xã hội trong sạch, lành mạnh và đoàn kết hơn” [28, tr.256-257].
Đến ngày 20 tháng 4 năm 2007, sau gần 10 năm thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn. Pháp lệnh này gồm 6 chương và 28 điều, quy định cụ
thể những nội dung cần được giải trình trước dân; những nội dung cần được dân
thảo luận và quyết định; những nội dung cần lấy ý kiến của dân trước khi được
chính quyền có thẩm quyền quyết định; những nội dung phải được dân giám sát;
trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, cơng chức xã, phường, thị trấn (gọi chung
23
là cấp xã), của cán bộ thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc (gọi chung là thơn), tổ dân
phố, khu phố, khối phố (gọi chung là tổ dân phố), của cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Thứ nhất, những nội dung quyền được biết của người dân quy định
trong Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. “Quyền được biết” là một trong
những quyền quan trọng của công dân được pháp luật quy định. Quyền được
biết của người dân thực chất là quyền được tiếp cận các thơng tin về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhà nước có nghĩa vụ tạo mọi điều kiện, phương tiện
cần thiết để người dân có thể hiểu biết về các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về hoạt động của các cơ quan, tổ chức
Nhà nước. Trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã quy
định những nội dung cụ thể cần được giải trình trước dân, bao gồm:
1. Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của cấp xã.
2. Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương
án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, cơng
trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương
án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải
quyết các công việc của nhân dân.
4. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo
chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.
5. Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xóa
đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát
triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.
6. Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa
giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.
7. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham
nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy
24
phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.
8. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn
đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy
ý kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh.
9. Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do
chính quyền cấp xã trực tiếp thu.
10. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các
cơng việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.
11. Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
Ngồi ra, Pháp lệnh còn quy định chi tiết phương pháp, thời điểm, thời
gian công bố thông tin và trách nhiệm tổ chức thực hiện các nội dung công khai.
Thứ hai, tại chương III của Pháp lệnh quy định những nội dung nhân
dân bàn và quyết định. “Quyền dân bàn” được hiểu là người dân có quyền bàn
bạc, thảo luận hoặc tham gia đóng góp ý kiến với chính quyền đối với một số
cơng việc mà chính quyền đang lên kế hoạch chuẩn bị triển khai. Tuy quyền
quyết định thuộc về chính quyền cơ sở song chính quyền có nghĩa vụ phải đưa
các dự thảo kế hoạch ra cho nhân dân đóng góp ý kiến và quyết định của chính
quyền cơ sở phải thể hiện được các ý kiến đóng góp, bàn bạc của người dân.
Quyền dân bàn có ý nghĩa vơ cùng thiết thực, là phương thức trực tiếp,
hữu hiệu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để
nhân dân có thể thực sự tham gia vào công việc của nhà nước và của xã hội.
Khi người dân đã được tham gia bàn bạc cùng chính quyền về các cơng việc
chung họ sẽ tích cực tham gia thực hiện, tránh được xích mích, khiếu kiện
tràn lan do thiếu hiểu biết và khơng nhất trí.
Pháp lệnh đã nêu lên nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp về
chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các cơng trình phúc lợi